BỘ VĂN HÓA-DU LỊCH VÀ THỂ THAO VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Chủ nhiệm đề tài: PHẠM TRUNG LƯƠNG Viện Nghiên cứu phát triển du lịch
7030 18/11/2008
HÀ NỘI - 2008
BÁO CÁO TỔNG HỢP
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 . Đặt vấn đề
Vùng núi phía Bắc bao gồm các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Tuyên Quang, Thái Nguyên Lạng Sơn, Phú Thọ, Bắc Giang và Quảng Ninh thuộc tiểu vùng du lịch Đông Bắc, tiểu vùng du lịch Tây Bắc và một phần tiểu vùng du lịch duyên hải Đông Bắc, nơi phân bố chủ yếu địa hình karst ở Việt Nam với nhiều hang động và các ngọn núi cao mà tiêu biểu là đỉnh Phan Xi Phăng cao 3.143m được mệnh danh là “mái nhà Đông Dương”. Đây cũng là lãnh thổ có địa hình chia cắt với hệ thống sông suối khá phát triển mà tiêu biểu là hệ thống sông Hồng – sông Thái Bình và sông Kỳ Cùng - Bằng Giang. Đây là những điều kiện và tiềm năng to lớn để phát triển loại hình du lịch thể thao - mao hiểm vốn đang rất được khách du lịch ưa chuộng. Minh chứng cho tính hấp dẫn của loại hình du lịch này là việc tổ chức thành công chương trình du lịch thể thao - mạo hiểm “Raid Gouloises” năm 2002 trên một lãnh thổ trải dài từ Lào Cai đến Hải Phòng. Mức độ hấp dẫn của các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở khu vực này sẽ được tăng lên khi du khách còn được khám phá những giá trị văn hoá bản địa đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số như Tày, Dao, H’Mông, v.v. sinh sống ở đây.
Mặc dù có tiềm năng lớn về du lịch thể thao - mạo hiểm, tuy nhiên thời gian qua loại hình du lịch này còn chưa phát triển, các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm chưa rõ nét, đơn điệu và thiếu hấp dẫn. Khách du lịch hiện nay đến với vùng núi phía Bắc chủ yếu là để tham quan, tìm hiểu các giá trị văn hoá của một số dân tộc thiểu số, tham quan cảnh quan ở một số vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên như Ba Bể, Hoàng Liên, v.v. Tiềm năng du lịch đặc sắc của khu vực này cho đến nay còn để ngỏ. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là cho đến nay chưa có được cơ sở khoa học (lý luận và thực tiễn) làm cơ sở cho việc đẩy mạnh sự phát triển các sản phẩm du lịch đặc sắc này.
1
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Nhằm đẩy mạnh sự phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc, góp phần tích cực khắc phục một trong những hạn chế cơ bản của du lịch Việt Nam và thực hiện chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, việc tiến hành nghiên cứu đề tài “Cơ sở học để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc” là rất cần thiết và mang tính cấp thiết. Kết quả nghiên cứu không chỉ có ý nghĩa lý luận mà sẽ còn có giá trị thực tiễn, góp phần đẩy mạnh sự phát triển loại hình du lịch đặc thù và hấp dẫn của vùng núi phía Bắc Việt Nam.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
1.2 Mục tiêu, nội dung, quan điểm, phạm vi và phương pháp nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu * Mục tiêu tổng quan: Góp phần làm phong phú và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam, thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam; gắn phát triển du lịch với xoá đói giảm nghèo vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi có tiềm năng du lịch song còn nhiều khó khăn.
* Mục tiêu cụ thể: Xác lập cơ sở khoa học (lý luận và thực tiễn) để phát triển sản phẩm du lịch mạo hiểm - thế mạnh đặc thù của vùng núi phía Bắc, góp phần nâng cao sức hấp dẫn du lịch của lãnh thổ.
1.2.2. Các nội dung nghiên cứu chính
(cid:131) Tổng quan những vấn đề lý luận về du lịch thể thao - mạo hiểm, về sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm, bao gồm cả việc xây dựng một số tiêu chí cơ bản của sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm.
(cid:131) Tổng quan kinh nghiệm về phát triển sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm (cid:131) Tiềm năng tài nguyên du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng trung du miền núi
phía Bắc
(cid:131) Đánh giá thực trạng phát triển sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm chủ yếu ở
vùng trung du miền núi phía Bắc
(cid:131) Xác định các nguyên nhân chủ yếu hạn chế sự phát triển của các sản phẩm du
lịch thể thao - mạo hiểm
(cid:131) Xác lập những định hướng chính phát triển các sản phẩm du lịch thể thao – mạo
hiểm chủ yếu ở vùng trung du miền núi phía Bắc
(cid:131) Kiến nghị một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch vùng núi phía Bắc để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển du lịch vùng du lịch Bắc Bộ nói riêng, du lịch Việt Nam nói chung.
* Quan điểm hệ thống lãnh thổ
2
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
1.2.3 Các quan điểm nghiên cứu chính Hoạt động phát triển nói chung, du lịch thể thao mạo hiểm nói riêng, ở bất kỳ cấp phân vùng lãnh thổ nào cũng không tách rời trong hệ thống lãnh thổ chung ở cấp cao hơn. Hơn nữa, do đặc tính của hoạt động du lịch là có tính liên vùng và xã hội hoá cao nên nghiên cứu các yếu tố liên quan đến hoạt động du lịch không thể tách rời khỏi
BÁO CÁO TỔNG HỢP
* Quan điểm tổng hợp
quan điểm hệ thống lãnh thổ. Quan điểm hệ thống còn đặc biệt có ý nghĩa trong quá trình nghiên cứu các yếu tố tài nguyên và môi trường do mối liên hệ liên vùng trong quản lý và đánh giá các tác động ảnh hưởng.
* Quan điểm môi trường - sinh thái
Quan điểm tổng hợp là quan điểm truyền thống của nghiên cứu tự nhiên nói chung và nghiên cứu về tài nguyên, môi trường nói riêng. Các vấn đề được xét dưới những góc độ khác nhau: - Nghiên cứu đồng bộ toàn diện về tiềm năng du lịch vùng núi phía Bắc nói chung, du lịch thể thao mạo hiểm nói riêng, các yếu tố kinh tế - xã hội, quy luật phân bố và biến động của chúng, những mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố hợp phần. - Sự kết hợp, phối hợp có quy luật, có hệ thống trên cơ sở phân tích đồng bộ và toàn diện các yếu tố hợp phần, phát hiện và xác định những đặc điểm đặc thù của vùng lãnh thổ nghiên cứu. - Nghiên cứu toàn diện mối quan hệ tương tác giữa phát triển du lịch nói chung, du lịch thể thao mạo hiểm nói riêng với sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung trong vùng lãnh thổ nghiên cứu. Du lịch là một ngành kinh tế, vì vậy trong hoạt động phát triển phải tính đến lợi ích và chi phí. Những lợi ích thu về trong hoạt động du lịch không chỉ có ý nghĩa kinh tế và văn hoá mà còn phải tính đến lợi ích về môi trường sinh thái. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với phát triển du lịch bởi sự tồn tại của du lịch phụ thuộc vào chất lượng của sản phẩm du lịch, trong đó điều gây cảm nhận rõ nhất cho du khách là tình trạng của các hệ sinh thái và môi trường. 1.2.4 Phạm vi nghiên cứu
(cid:131) Về lãnh thổ : Nghiên cứu được tiến hành trên lãnh thổ đất liền vùng trung du miền núi Bắc Bộ bao gồm các tiểu vùng du lịch Đông Bắc, tiểu vùng du lịch Tây Bắc và một phần tiểu vùng du lịch duyên hải Đông Bắc (địa bàn các địa phương : Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Lao Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Sơn La, Hòa Bình và Quảng Ninh ).
(cid:131) Về thời gian: các số liệu, tài liệu chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu là
những tư liệu đã công bố trong vòng 5 năm trở lại đây (2000 - 2005).
(cid:131) Đối tượng: tài nguyên du lịch, sản phẩm và điều kiện trực tiếp ảnh hưởng đến
3
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm
BÁO CÁO TỔNG HỢP
* Phương pháp phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống
1.2.5 Các phương pháp và quy trình nghiên cứu 1.2.5.1. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu Đây là phương pháp cơ bản được sử dụng phổ biến trong hầu hết các nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu về phát triển du lịch có quan hệ chặt chẽ tới các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, vì vậy phương pháp này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu của đề tài này. * Phương pháp điều tra thực địa
Công tác thực địa có mục đích cơ bản là kiểm tra chỉnh lý và bổ sung những tư liệu; đối chiếu và lên danh mục cụ thể từng đối tượng nghiên cứu; sơ bộ đánh giá các yếu tố cần thiết cho việc định hướng phát triển du lịch thể thao mạo hiểm ở những điểm được lựa chọn * Phương pháp thống kê
* Phương pháp chuyên gia
* Phương pháp sơ đồ, bản đồ và GIS
4
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu về định lượng trong mối quan hệ chặt chẽ về mặt định tính của các hiện tượng và quá trình, đối chiếu biến động tự nhiên, kinh tế - xã hội với quá trình phát triển du lịch. Phương pháp toán thống kê được vận dụng nghiên cứu trong đề tài này để xác định hiện trạng hoạt động du lịch thông qua các chỉ tiêu phát triển ngành cơ bản. Ngoài các phương pháp tự thân thì phương pháp chuyên gia cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Bản thân du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, do vậy muốn đảm bảo cho các đánh giá tổng hợp có cơ sở và mang tính hiệu quả đòi hỏi có sự tham gia của các chuyên gia về nhiều lĩnh vực liên quan. Đây là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu bất kỳ có liên quan đến tổ chức lãnh thổ nào. Bản đồ được sử dụng chủ yếu theo hướng chuyên ngành để phân tích đánh giá tiềm năng phát triển du lịch và điều kiện có liên quan. Ngoài mục đích minh hoạ về vị trí địa lý, phương pháp này còn giúp cho các nhận định, đánh giá trong quá trình nghiên cứu được thể hiện một cách tổng quát. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, phương pháp hệ thông tin địa lý (GIS) sẽ được sử dụng để đánh giá mức độ thuận lợi của hoạt động phát triển du lịch thể thao mạo hiểm đứng trên cơ sở tổng hợp các điều kiện và tài nguyên du lịch có liên quan.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Khái quát về Hệ thông tin địa lý - GIS:
Ngày nay, khái niệm về hệ thông tin địa lý (Geographic Information System - GIS) còn chưa được hoàn toàn thống nhất từ những góc độ nghiên cứu và ứng dụng khác nhau. Có thể nêu ra một số thí dụ:
(cid:131) GIS là một hệ thống thông tin bao gồm một số phụ hệ (subsystem) có khả năng đổi dữ liệu địa lý thành các thông tin có ích (Calkins and Tomlinson 1977; Marble 1984; Star and Estes 1990).
(cid:131) GIS là một hệ thống có chức năng xử lý các thông tin địa lý nhằm phục vụ quy hoạch, trợ giúp quyết định trong một lãnh vực chuyên môn nhất định. (Pavlidis 1982).
(cid:131) GIS là một hệ thống chứa hàng loạt chức năng phức tạp dựa vào khả năng máy tính và các bài toán xử lý thông tin không gian. (Tomlinson and Boy 1981). (cid:131) GIS là một hệ thống sử dụng cơ sở dữ liệu để trả lời các câu hỏi về bản chất địa
lý của các thực thể địa lý. (Goodchild 1985; Peuquet 1985).
(cid:131) GIS là một hệ thống cơ sở dữ liệu bằng máy tính để thu thập, lưu trữ, phân tích và hiển thị dữ liệu không gian. (National Centrer for Geographic Information and Analysis 1988).
(cid:131) GIS là một hệ thống bao gồm bốn khả năng xử lý dữ liệu là: 1) Nhập dữ liệu; 2) Quản lý dữ liệu (lưu trữ và truy xuất); 3) Hiệu chỉnh và phân tích dữ liệu; 4) Xuất dữ liệu. (Stan Aronoff 1993).
5
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Mặc dù còn có sự chưa thống nhất về “chữ nghĩa”, song đa số ý kiến đều cho rằng: “Hệ thông tin địa lý (GIS) là tập hợp phần cứng và phần mềm máy tính để lưu trữ, phân tích, xử lý và hiển thị các thông tin không gian (Spatial Data) cho mục đích nào đó”. GIS khác với hệ thống đồ hoạ máy tính đơn thuần. Hệ thống đồ hoạ máy tính không quan tâm nhiều tới thuộc tính không đồ hoạ, cái mà một thực thể nhận thấy được có thể có hoặc không, trong khi đó các thuộc tính này rất có ích trong việc phân tích dữ liệu cho một mục tiêu nghiên cứu cụ thể nào đó. Một hệ thống đồ hoạ tốt là cấu phần cơ bản quan trọng của GIS, tuy nhiên chỉ với hệ thống đó vẫn chưa đủ vì hệ thống này mới chỉ là một phần cơ sở tốt cho việc phát triển GIS. GIS cũng khác với hệ thống trợ giúp thiết kế bằng máy vi tính (CAD - Computer Aided Design) dùng để vẽ các đối tượng kỹ thuật. Sự khác nhau chủ yếu giữa GIS và CAD là dung lượng và tính đa dạng của GIS lớn hơn nhiều và cách thức phân tích dữ liệu của GIS là tự nhiên hơn.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Hệ GIS coi mô hình tiếp cận lãnh thổ như một loại các lớp bản đồ trùng phủ (Overlay) lên nhau mà mỗi lớp bản đồ riêng rẽ là một biến số. Thông tin thể hiện trên các bản đồ này có thể được tổ chức theo một trong hai cách : raster hoặc vector. Mô hình Raster sử dụng lưới điểm để thực hiện và lưu trữ thông tin, thể hiện trực tiếp cho phần bên trong của vùng và gián tiếp cho đường bao. Mô hình Vector thể hiện toàn bộ thụng tin thành điểm, đường hoặc vùng, thể hiện trực tiếp cho đường bao và gián tiếp cho phần bên trong của vùng.
Năng lực của một hệ GIS dù theo cấu trúc Raster hay Vector thể hiện ở các chức
năng xử lý và hiển thị các thông tin không gian của hệ ấy, bao gồm :
(cid:131) Truy nhập dữ liệu; (cid:131) Tạo và biến đổi các bản đồ; (cid:131) Tạo, chồng xếp, gộp các vùng; (cid:131) Các phép đo, biến đổi toán học; (cid:131) Chồng xếp (overlay) và gộp (combine) các vùng; (cid:131) Xử lý Raster; (cid:131) Phân tích không gian 3 chiều (3D analysis)
Các mô hình xử lý chủ yếu có thể được mô tả như sau :
+ Mô hình quản lý dữ liệu bản đồ nhiều cấp: Mụ hỡnh này nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý một số lượng lớn các đối tượng phân bố trên một phạm vi lónh thổ rộng mà mỗi đối tượng lại là một cơ sở dữ liệu - bản đồ hoàn chỉnh với nhiều lớp bản đồ cùng với các dữ liệu đi kèm.
+ Mô hình tạo bản đồ hệ thống các vùng (polygon) từ thuộc tính dữ liệu đã có, tạo bản đồ hệ thống các điểm (point) từ tập dữ liệu có gắn tọa độ quốc gia: mô hình này đáp ứng thuận tiện cho nhu cầu xây dựng bản đồ chủ đề vùng, điểm rất phổ biến trong công tác nghiên cứu, tổ chức lãnh thổ. Mô hình này được thực hiện rất thuận tiện nhờ kỹ thuật GIS.
+ Mô hình thống kê diện tích, chu vi cũng như khoảng cách của các đối tượng trên một hoặc nhiều lớp bản đồ: đây là một khâu cơ bản trong GIS, trong hệ này, việc thống kê diện tích, chu vi và khoảng cách được đề xuất theo 2 cách : thống kê qua việc phân tích đường bao và thống kê qua việc đếm số pixel trong cấu trúc raster.
6
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
+ Mô hình chồng xếp và xây dựng một bản đồ chủ đề mới từ các lớp bản đồ đã có theo qui tắc bảng tra xếp cấp (area cross tabulation) hoặc theo mô hình toán học (Model): Hệ GIS giải quyết bài toán hay thông qua mô hình chồng xếp raster (matrix template) và kỹ thuật phân tích lớp (class analysis).
BÁO CÁO TỔNG HỢP
+ Mô hình phân tích địa hình, tính độ dốc, mật độ chia cắt: Hệ GIS giải quyết bài toán này một cách tự động và đưa ra các bản đồ tương ứng. Trong ứng dụng GIS để giải quyết các bài toán quản lý, đánh giá tài nguyên, xác định không gian thuận lợi cho một mục đích nào đó, v.v., có nhiều phương pháp (thuật toán) khác nhau như phương pháp phân tích lớp (class analysis); phương pháp nội suy không gian (spatial interpolation); phương pháp mô hình hóa 3 chiều (3-dimension model); v.v.. Tuy nhiên phương pháp đơn giản song khá hiệu quả thường được ứng dụng rộng rãi nhất trong thực tế là phương pháp phân tích chồng xếp (Overlay Analysis) . Trong khuôn khổ phương pháp này, các số liệu không bị biến đổi mà chỉ phối hợp với nhau theo các phương pháp chồng xếp, tách chọn hoặc gộp nhóm. Công cụ toán học cơ bản được sử dụng nhiều nhất là đại số tập hợp (Boolean Algebra). Các phép toán cơ bản của đại số tập hợp là AND, OR, XOR NOT. Khi các số liệu thông tin địa lý đã được lưu trữ và có thể được truy nhập bằng các phương thức khác nhau, việc tái phân loại, ghép nhóm là những thao tác đầu tiên hay được thực hiện. Tư liệu được ghép nhóm theo các yêu cầu cho trước và sau đó được thể hiện trên màn hình.
Các thuật toán chồng xếp chủ yếu áp dụng cho cấu trúc dữ liệu raster. Tuy nhiên, cũng có thể áp dụng cho các bản đồ vector. Đương nhiên khi chồng xếp các bản đồ vectơ với nhau, rất nhiều các vùng đa giác được tạo thành. Có những vùng thực sự có ý nghĩa và có những vùng hoàn toàn xuất hiện do sự không nhất quán giữa các bản đồ chuyên đề tạo thành. Đương nhiên với kiến thức chuyên ngành người ta có thể hiệu đính hoặc loại bỏ hoặc gộp các vùng lại với nhau.
Kỹ thuật chồng xếp thường được đề xuất theo 2 cách : Qua bảng tra xếp cấp và
qua mô hình toán học.
+ Qua bảng tra xếp cấp, ví dụ từ bản đồ nham và bản đồ kiểu địa hình có thể đưa ra bản đồ dạng đất (Land Form) qua bảng tra: Loại nham + Kiểu địa hình => Dạng đất
+ Qua mô hình toán học, ví dụ như : XM=A*Dt1*Lt2*pt3*Tt4 trong đó XM là bản đồ tiềm năng xói mòn, “A“ là bản đồ nhóm đất, “D“ là bản đồ độ dốc, “L“ là bản đồ chiều dài sườn, “p” là bản đồ cường độ mưa và “T“ là bản đồ thời gian mưa. Các yếu tố ở từng bản đồ thành phần nêu trên đều thể hiện qua trị số, định lượng tương ứng cho từng điểm của bản đồ raster. Bản đồ thành quả có thể xây dựng theo hai cách :
7
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Từ bản đồ raster kết quả, trực tiếp đưa ra bản đồ chính thức; (cid:131) Từ bản đồ raster thống kê phối hợp với một bản đồ đơn vị tự nhiên cơ sở, tiến hành phân loại các đơn vị tự nhiên cơ sở. Bản đồ thành quả chính thức sẽ được tạo ra từ bản đồ phân loại các đơn vị tự nhiên cơ sở.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Quy trình nghiên cứu của đề tài được bao gồm các bước cơ bản sau:
Như vậy, việc nghiên cứu phân vùng lãnh thổ có thể đưa về việc phân loại các đơn vị lãnh thổ cơ sở. Và cũng do vậy, kỹ thuật phân loại lãnh thổ là một trong các phương pháp rất thường dùng. Trong trường hợp cụ thể của nghiên cứu này, phương pháp GIS được ứng dụng để xác định không gian thuận lợi phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc trên cơ sở mô hình „chồng ghép“ các bản đồ đánh giá các yếu tố thành phần chính bao gồm: địa hình (độ dốc, sự tập trung các đỉnh núi cao, các hang động); hệ thống thuỷ văn (các dòng sông, con suối và hồ nước) – kết hợp sự tập trung các làng/bản dân tộc nơi còn lưu giữ được những giá trị văn hóa truyền thống và các giá trị sinh học (các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên) – kết hợp các giá trị cảnh quan. 1.2.5.2 Quy trình nghiên cứu * Xác lập mục tiêu và nội dung nghiên cứu Đây là bước khởi đầu quan trọng đối với việc thực hiện đề tài. Các mục tiêu, nội dung cũng như giới hạn nghiên cứu của đề tài sẽ được điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực hiện trong những hoàn cảnh cụ thể căn cứ vào ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học và các chuyên gia trong và ngoài ngành .
* Thu thập tư liệu và tiến hành phân tích sơ bộ trong phòng
Các nội dung cần thu thập phân tích xử lý tư liệu bao gồm:
(cid:131) Về hiện trạng tiềm năng và điều kiện phát triển du lịch nói chung, phát triển du
lịch thể thao mạo hiểm nói riêng ở vùng núi phía Bắc;
(cid:131) Về hiện trạng phát triển du lịch nói chung, phát triển du lịch thể thao mạo hiểm, bao gồm lượng khách du lịch, doanh thu, đầu tư, lực lượng lao động... ở vùng núi phía Bắc;
(cid:131) Về các điều kiện có liên quan khác đến phát triển du lịch thể thao mạo hiểm như các vấn đề về kinh tế - xã hội, hệ thống hạ tầng cơ sở, hệ thống các chính sách có liên quan,...
(cid:131) Về hiện trạng công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên môi trường cho phát triển du lịch nói chung, trong đó có du lịch thể thao mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc. (cid:131) Tham khảo, lựa chọn các vấn đề cần quan tâm về phát triển du lịch thể thao
mạo hiểm.
* Thực địa nhằm bổ sung chỉnh lý các tư liệu Các số liệu, tư liệu sau khi được thu thập và phân tích sơ bộ được đối chiếu để
8
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
chỉnh lý và bổ sung bằng công tác thực địa .
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Dự thảo báo cáo của đề tài sẽ được hình thành trên cơ sở những kết quả nghiên
9
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
* Phân tích xử lý tư liệu Từ cơ sở dữ liệu, các tư liệu cần thiết sẽ được sử dụng để phân tích xử lý bằng các chuyên gia. Kết quả của quá trình này sẽ là những yếu tố cấu thành hợp phần làm cơ sở để xây dựng định hướng phát triển du lịch thể thao mạo hiểm trong mối quan hệ với phát triển du lịch nói chung và phát triển kinh tế - xã hội ở vùng núi phía Bắc. cứu ở giai đoạn này. * Xây dựng báo cáo cuối cùng Căn cứ vào kết quả hội thảo với những ý kiến đóng góp của các chuyên gia, báo cáo dự thảo sẽ được chỉnh sửa bổ sung và hoàn thiện để trở thành báo cáo cuối cùng chính thức của đề tài trình Hội đồng khoa học đánh giá nghiệm thu.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
PHẦN NỘI DUNG
Tổng quan những vấn đề lý luận về phát triển du lịch thể thao mạo hiểm
Những khái niệm cơ bản
Loại hình du lịch 1. 1.1. 1.1.1. Loại hình và sản phẩm du lịch Du lịch phát triển dựa vào việc khai thác các giá trị tài nguyên du lịch với việc
hình thành các loại hình du lịch Loại hình du lịch là các hình thức du lịch được tổ chức nhằm thoả mãn mục
đích đi du lịch của khách du lịch.
Hoạt động du lịch được thực hiện thông qua việc tổ chức các loại hình du lịch cụ thể. Các loại hình du lịch được hình thành và phát triển chủ yếu dựa vào đặc điểm tài nguyên du lịch. Ví dụ, du lịch nghỉ dưỡng chỉ có thể phát triển thuận lợi ở những nơi có khí hậu mát mẻ trong lành và cảnh quan đẹp; du lịch thăm quan không thể phát triển nếu không có những địa điểm có cảnh quan đẹp, những công trình kiến trúc-lịch sử-văn hoá; du lịch sinh thái sẽ chỉ phát triển ở những nơi tự nhiên còn tương đối hoang sơ, ít bị tác động của con người với các giá trị đa dạng sinh học cao; v.v.
Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã phân loại các loại hình du lịch chính theo các mục đích cơ bản của thị trường khách bao gồm: du lịch tham quan, du lịch nghỉ mát, du lịch chữa bệnh, du lịch vui chơi giải trí; du lịch thăm thân; du lịch công vụ; du lịch tín ngưỡng, v.v.. Tất cả những mục đích đi du lịch đều xuất phát từ ý thích cá nhân của khách du lịch (tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, ...) hoặc là nghĩa vụ mà khách du lịch có trách nhiệm thực hiện đối với xã hội hoặc với chính bản thân mình (công vụ, chữa bệnh,...). Nội dung phân loại được thể hiện trên Sơ đồ 1. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển của một loại hình du lịch nào đó
bao gồm :
10
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
- Điều kiện tự nhiên : đây là nhóm yếu tố khách quan có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của những loại hình du lịch dựa vào tự nhiên như du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao (ngoài trời), du lịch sinh thái, v.v. Những biến đổi về điều kiện tự nhiên, đặc biệt là điều kiện khí hậu, thuỷ văn trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng trong thời gian gần đây đã và đang có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của những loại hình du lịch này. Tuy nhiên ảnh hưởng của nhóm yếu tố này thường chỉ làm thay đổi phạm vi, mức độ, quy mô của những loại hình du lịch dựa vào tự nhiên mà không làm thay đổi bản chất của loại hình du lịch.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Sơ đồ 1 : Phân loại các loại hình du lịch chính
LOẠI HÌNH DU LỊCH
DU LỊCH THEO NGHĨA VỤ, TRÁCH NHIỆM
DU LỊCH THEO SỞ THÍCH, Ý MUỐN
Du lịch chữa bệnh
DL theo sở thích đặc biệt
DL theo ý muốn chung
Thương mại, công vụ
Du lịch sinh thái
Thăm quan
Hội nghị, hội thảo
Du lịch mạo hiểm
Nghỉ dưỡng
Du lịch thể thao
Tìm hiểu cộng đồng
Vui chơi giải trí
Du lịch lễ hội
Du lịch mua sắm
- Sự biến đổi (về số lượng và chất lượng) của tài nguyên du lịch : đây cũng là nhóm yếu tố khách quan (một cách tương đối) có ảnh hưởng đến sự phát triển của phần lớn các loại hình du lịch hiện nay. Ví dụ, sự mất đi của một loài sinh vật đặc hữu ở một khu bảo tồn thiên nhiên/vườn quốc gia nào đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của loại hình du lịch sinh thái ở khu vực đó nói riêng, ở quốc gia nơi có loài sinh vật đó nói chung. Tuy nhiên yếu tố ảnh hưởng này có thể được kiểm soát bởi pháp luật nhằm bảo tồn và phát triển tài nguyên. Ở Việt Nam, các văn bản luật về tài nguyên nói chung và các luật tài nguyên chuyên ngành nói riêng như Luật Bảo vệ rừng, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản, Luật Đất đai, Luật Di sản Văn hoá, v.v. đã và đang góp phần điều chỉnh các tác động đến tài nguyên thiên nhiên, di sản văn hoá nói chung, tài nguyên du lịch nói riêng.
Đứng từ góc độ du lịch, do phần lớn các dạng tài nguyên du lịch hiện đang được khai thác sử dụng cũng như được quy hoạch để đưa vào sử dụng để phát triển các loại hình du lịch đều được điều chỉnh bởi các luật chuyên ngành khác, vì vậy ngành du lịch không thể chủ động để quản lý, hạn chế sự ảnh hưởng của nhóm yếu tố này đến sự phát triển du lịch nói chung, phát triển các loại hình du lịch nói riêng. Đây là vấn đề cần được đặt ra giải quyết trong Luật Du lịch sẽ được ban hành trong thời gian tới đây.
11
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
- Sự biến đổi về chất lượng môi trường du lịch : Môi trường luôn song hành cùng sự phát triển du lịch và tất nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các loại hình du lịch. Nếu hiểu môi trường theo nghĩa rộng bao gồm cả tài nguyên tự nhiên, đa dạng sinh học thì vai trò của môi trường đối với hoạt động du lịch nói chung
BÁO CÁO TỔNG HỢP
và sự phát triển của các loại hình du lịch nói riêng, càng trở nên có ý nghĩa. Đây được xem là nhóm yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến sự phát triển của các loại hình du lịch. Cùng với sự phát triển về kinh tế – xã hội, chất lượng môi trường nói chung, môi trường du lịch nói riêng, có những biến đổi theo chiều hướng suy giảm chất lượng. Bản thân hoạt động phát triển du lịch cũng có những tác động tiêu cực đến chất lượng môi trường. Cơ chế tác động của các hoạt động phát triển trên đối với môi trường được thể hiện trên Sơ đồ 2.
Sự suy giảm chất lượng môi trường sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các loại hình du lịch, đặc biệt những loại hình du lịch dựa vào tự nhiên như du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tham quan, v.v. Như vậy để góp phần phát triển các loại hình du lịch cần có những điều chỉnh về hành vi (quản lý, hoạt động, sử dụng, v.v.) nhằm hạn chế các tác động tiêu cực đến môi trường.
Sơ đồ 2 : Cơ chế suy thoái môi trường dưới tác động của quá trình phát triển KT - XH
Các hoạt động phát triển KT-XH chính
Phát triển GTVT
Phát triển công nghiệp
Phát triển du lịch
Phát triển CSHT và ĐT
Khai thác tài nguyên khoáng sản
Các hoạt động phát triển khác
Gia tăng nước thải
Gia tăng khí thải, bụi, tiếng ồn
Gia tăng chất thải rắn
Thay đổi hình thức sử dụng đất
Thay đổi cấu trúc địa mạo
Mất thảm thực vật tự nhiên
Gia tăng xói mòn
Suy giảm đa dạng SH
Thiếu các giải pháp/biện pháp quản lý môi trường
Suy thoái
Gia tăng sự cố MT
Ô nhiễm MT nước
MT sinh
Thay đổi cảnh quan
Ô nhiễm và suy thoái MT đất
Ô nhiễm MT không khí
Ô nhiễm và suy thoái MT du lịch TN
12
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
BÁO CÁO TỔNG HỢP
- Điều kiện hạ tầng kỹ thuật : đối với phát triển hoạt động du lịch nói chung, phát triển các loại hình du lịch nói riêng, yếu tố hạ tầng kỹ thuật là yếu tố chủ quan có ý nghã rất quan trọng. Thực tế cho thấy một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam là hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống giao thông, các công trình đầu mối, chưa phát triển đáp ứng được yêu cầu tiếp cận đưa khách du lịch đến những khu vực có tiềm năng du lịch sinh thái điển hình ở vùng núi phía Bắc, vùng núi phía Tây miền Trung, hệ thống các đảo ven bờ, v.v. Đối với việc phát triển một số loại hình du lịch mới như du lịch hội nghị, hội thảo; du lịch mua sắm; v.v. cũng đòi hỏi cần có điều kiện hạ tầng đảm bảo.
- Công nghệ: đây là yếu tố chủ quan có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của những loại hình du lịch vui chơi giải trí hiện đại cần đến các thiết bị kỹ thuật có hàm lượng công nghệ cao. Đối với các nước đang phát triển việc ứng dụng công nghệ để phát triển loại hình du lịch vui chơi giải trí hiện đại và hấp dẫn thường gặp trở ngại chủ yếu là vốn đầu tư và khả năng chi trả của thị trường, đặc biệt là thị trường nội địa. Như vậy để giải quyết được vấn đề này đối với những nước còn nghèo như Việt Nam thì việc điều chỉnh chính sách phù hợp nhằm thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
- Chính sách : Đây là yếu tố chủ quan có tác động trực tiếp tạo môi trường thuận lợi (thu hút đầu tư, vốn, công nghệ, con người) cho phát triển du lịch nói chung và các loại hình du lịch nói riêng. Bên cạnh đó chính sách cũng sẽ có những tác tác động toàn diện lên nhóm các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan tương đối có tác động đến phát triển các loại hình du lịch như đã nêu trên. Ở đây có thể nêu nhiều ví dụ về vai trò của yếu tố chính sách đối với phát triển du lịch nói chung và các loại hình du lịch nói riêng. Ví dụ, du lịch sinh thái hiện là loại hình du lịch được ưu tiên trong Chiến lược phát triển du lịch ở Việt Nam bởi du lịch sinh thái không chỉ được xem là một loại hình du lịch hấp dẫn phù hợp với nhu cầu của các thị trường mà du lịch sinh thái còn được xem như một công cụ bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học. Tuy nhiên thực tế hiện nay cho thấy các nhà đầu tư vẫn còn chưa sẵn sàng để đầu tư phát triển loại hình du lịch này. Các lý do của tình trạng trên bao gồm :
- Theo nguyên tắc của loại hình du lịch sinh thái, một phần lợi ích kinh tế thu được trong hoạt động kinh doanh phải được “quay lại” để hỗ trợ cho hoạt động bảo tồn. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các nhà đầu tư.
- Việc đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên du lịch đòi hỏi có đầu tư lớn hơn và vì
vậy cũng sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các nhà đầu tư.
- Trong quá trình hoạt động, việc điều hành phải tuân thủ nguyên tắc “sức chứa”, tức lượng khách du lịch phải được quản lý sao cho không vượt quá khả năng chịu tải của hệ sinh thái ở những địa điểm diễn ra hoạt động du lịch. Điều này trái với mong muốn thông thường của nhà đầu tư trong hoạt động kinh doanh.
13
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
- Trong hoạt động kinh doanh, nhà đầu tư phải chăm lo đến lợi ích của cộng đồng bản địa, dành một phần vị trí trong dây truyền kinh doanh của mình tạo cơ hội
BÁO CÁO TỔNG HỢP
tham gia tích cực cho cộng đồng vào hoạt động du lịch. Điều này cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến lợi ích của nhà đầu tư trong giai đoạn đầu.
Tóm lại nếu không có một chính sách phù hợp điều chỉnh và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn thì du lịch sinh thái đích thực vẫn chưa phát triển được. Kinh nghiệm ở nhiều nước có hoạt động du lịch sinh thái phát triển cũng cho thấy những bài học tương tự. Điều này đòi hỏi cần có những chính sách cụ thể, phù hợp với đặc điểm của từng loại hình du lịch và điều kiện từng nơi, được thể hiện trong các quy định có tính pháp lý như luật, nghị định, quy chế, v.v. để tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình du lịch phát triển.
Bên cạnh những ảnh hưởng trực tiếp, các chính sách phù hợp cũng sẽ hạn chế được tác động tiêu cực của các yếu tố chủ quan khác đến sự phát triển của các loại hình du lịch. Trong nhiều trường hợp yếu tố chính sách còn quyết định sự ra đời hoặc mức độ phát triển của một loại hình du lịch nào đó, đặc biệt khi hoạt động của loại hình du lịch đó được xem là “nhạy cảm”. Ví dụ loại hình du lịch vui chơi giải trí cao cấp mang tính cờ bạc như casino, cá cược thể thao rất phát triển ở Mỹ và các nước phương Tây cũng như ở một số quốc gia phát triển khác, tuy nhiên loại hình du lịch này lại không được phát triển hoặc chỉ phát triển ở quy mô nhỏ hoặc có tính thử nghiệm ở một số nước, trong đó có Việt Nam. Ở đây cần có cơ chế quản lý, kiểm soát có hiệu quả những tác động tiêu cực có thể nảy sinh từ hoạt động du lịch đến môi trường, văn hoá xã hội hoặc an ninh quốc phòng. Ở Tây Ban Nha, nhờ có chính sách phù hợp nên loại hình “du lịch làng quê” phát triển nhanh chóng trong khoảng 10 năm trở lại đây, tạo được sức hấp dẫn riêng của du lịch Tây Ban Nha, đồng thời phát huy được hiệu quả xã hội của hoạt động du lịch.
Sản phẩm du lịch
Như vây việc điều chỉnh chỉ có thể tác động vào nhóm các yếu tố chủ quan, đặc biệt là yếu tố về chính sách, vì thông qua nhóm yếu tố này sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến điều chỉnh các yếu tố khách quan (đảm bảo tài nguyên, môi trường du lịch) nhằm tạo những điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch nói chung, các loại hình du lịch đặc thù, trong đó có du lịch TTMH nói riêng.
Khái niệm về sản phẩm du lịch đã được đưa ra trong Luật Du lịch (2005), theo đó “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch”
14
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Một số tài liệu khác cho rằng “Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm đặc biệt có tính dịch vụ cao và được tạo thành bởi nhiều yếu tố nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách” và như vậy sản phẩm du lịch chỉ bao gồm dịch vụ tổng thể của nhà cung cấp dựa vào các yếu tố thu hút du lịch khác như kết cấu hạ tầng du lịch, tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, lao động (con người) và các yếu tố “tiền” du lịch như
BÁO CÁO TỔNG HỢP
nghiên cứu thị trường du lịch, chiến lược kinh doanh du lịch, chiến lược marketing du lịch, xây dựng sản phẩm và cung cấp (bán) sản phẩm cho du khách để thỏa mãn nhu cầu của du khách
I : “i” core Lõi
J: DV bổ trợ
K: DV gia tăng
H: hour
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới WTO, “Sản phẩm du lịch là sự tổng hợp của 3 yếu tố cấu thành : (i) kết cấu hạ tầng du lịch; (ii) tài nguyên du lịch; và (iii) cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ, lao động và quản lý du lịch”. Thực tế cho thấy khái niệm này của WTO là “bao trùm” và thể hiện đầy đủ những gì chứa đựng trong một sản phẩm du lịch. Trong mối quan hệ với khách du lịch, sản phẩm du lịch có thể được thể hiện theo Sơ đồ 3 sau:
Thời gian du lịch
Nhu cầu về thời gian
Trong đó :
Sơ đồ 3 : Các lớp cấu thành sản phẩm du lịch hoàn hảo Giá trị sản phẩm du lịch
(i) : phần dịch vụ cốt lõi hay dịch vụ cơ bản (core service) của sản phẩm du lịch, điều mà du khách kỳ vọng nhất trong chuyến đi du lịch. Đây được xem là nhu cầu của khách đối với một tour du lịch;
15
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(j) : phần dịch vụ “trang sức” (jewelry) hay dịch vụ bổ trợ là cơ sở vật chất du lịch bao gồm hệ thống vui chơi giải trí, kiến trúc cảnh quan, quầy hàng bán hàng lưu niệm, v.v.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
(k) : phần dịch vụ có tính “sáng tạo” (know-how) có tính khác biệt, hấp dẫn làm tăng giá trị (feature value) của sản phẩm du lịch. Đây sẽ là yếu tố quan trọng để du khách, đặc biệt là khách du lịch “khó tính”, lựa chọn. Trước hết đó là tài nguyên du lịch, dịch vụ quảng cáo, quan hệ công chung PR, uy tín, thương hiệu, sự sang trọng, v.v.
(h) : khoảng thời gian (hour) nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của du khách. Đây là
khoảng thời gian phải cung cấp kịp thời , đúng lúc nhu cầu của khách.
Thông qua i, j, k, h là hoạt động sáng tạo, sự định vị thông minh, sự khác biệt và
đúng lúc mà du khách cần để tạo nên “đẳng cấp” sản phẩm :
(cid:131) sản phẩm du lịch rẻ tiền (đẳng cấp thấp) : khi Si >> Di
(cid:131) sản phẩm du lịch có chất lượng (đẳng cấp trung bình) : khi Sij = Dij
(cid:131) sản phẩm du lịch chất lượng cao, hợp “gu”, đúng lúc
(đẳng cấp cao) : khi Sijkh < Dijkh
Trong đó : S (supply) – Cung ; D (demand) – Cầu Những đặc điểm cơ bản của “sản phẩm du lịch” bao gồm :
(cid:131) Tính tổng hợp, đa dạng, nhiều cấp độ;
(cid:131) Tính không dự trữ, lưu kho được;
(cid:131) Tính không thể chuyển dịch, phân chia được
(cid:131) Tính đồng thời của hoạt động sản xuất và tiêu thụ;
(cid:131) Tính vô hình, dễ thay đổi, không đồng nhất;
(cid:131) Tính không chuyển giao quyền sở hữu;
(cid:131) Tính mới cho cả chủ thể (khách du lịch), khách thể (môi trường, cảnh quan, tài
nguyên) và môi giới du lịch (ngành kinh doanh du lịch)
Như vậy khi nghiên cứu “sản phẩm du lịch” ngoài việc chú trọng đến các yếu tố hình thành lên “sản phẩm”, cần thiết phải lưu ý đến những đặc điểm cơ bản của sản phẩm du lịch
16
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Giống như mọi “sản phẩm”, sản phẩm du lịch cũng có “vòng đời” của mình, bắt đầu từ việc tư duy nghiên cứu, đến xây dựng và phát triển và rồi sẽ suy thoái nếu thiếu sự đầu tư nâng cấp, tạo ra những hấp dẫn mới. Tính chất này của sản phẩm du lịch được thể hiện trên Sơ đồ 4
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Đầu tư làm “trẻ hóa” sản phẩm
Giai đoạn phát triển đình trệ
Giai đoạn phát triển
bão hòa
Dấu hiệu suy giảm
Giai đoạn phát triển hưng thịnh
Sơ đồ 4 : Vòng đời sản phẩm du lịch
) n ể i r t t á h p n ạ o đ i a i g c á c (
Giai đoạn phát triển tăng trưởng
Giai đoạn phát triển ban đầu (xây dựng)
h c ị l u d m ẩ h p n ả s a ủ c n ẫ d p ấ h ự s ề v n ế i b ổ h p h n í T
Thời gian
Khái niệm Đặc điểm về “vòng đời” sản phẩm du lịch cần được hết sức lưu ý trong hoạt động du lịch nói chung và hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng nhằm nâng cao sức hấp dẫn và tính cạnh tranh của sản phẩm du lịch. 1.1.2. Du lịch thể thao-mạo hiểm
17
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Khái niệm về du lịch thể thao đã được đưa ra dưới nhiều góc độ, tuy nhiên đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng du lịch thể thao là loại hình du lịch mà trong đó du khách sẽ được tham gia trực tiếp vào một số hình thức thể thao nhằm tăng cường sức khỏe kết hợp với thăm quan khu vực nơi diễn ra hoạt động du lịch thể thao. Các hình thức thể thao truyền thống gắn với loại hình du lịch này thường bao gồm: leo núi; thuyền (thuyền chèo, thuyền buồm); lướt ván; xe đạp, mô tô, ô tô; tàu lượn, v.v.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Sự khác nhau giữa thể thao thuần túy và du lịch thể thao thể hiện ở “tính chuyên nghiệp” của các cuộc đua trong thể thao. Trong du lịch thể thao, tính “tranh đua” không được đề ra như một mục tiêu của những người tham dự. Du khách tham dự loại hình du lịch này thường là những người yêu thích thể thao và mong muốn được phục hồi sức khỏe sau các chuyến du lịch đặc biệt này.
Theo Tổ chức “Quỹ Hoang dã” (Mỹ) du lịch mạo hiểm là hình thức du lịch bao gồm các hoạt động khám phá hoặc tới những vùng xa xôi hoang dã, nơi khách du lịch có thể được thỏa mãn bởi những điều không ngờ.
Theo Hiệp hội Thương mại Du lịch Mạo hiểm Toàn cầu (Mỹ) “du lịch mạo hiểm” là hoạt động du lịch bao gồm ít nhất 2 trong số 3 yếu tố thành phần sau : hoạt động/vận động “cơ bắp”, sự trải nghiệm/giao tiếp với thiên nhiên, và trao đổi/tiếp xúc với văn hóa bản địa.
Mặc dù còn có những ý kiến xung quanh khái niệm về du lịch mạo hiểm, tuy nhiên đa số ý kiến khá thống nhất ở khái niệm cho rằng du lịch mạo hiểm là loại hình du lịch ở những khu vực tự nhiên còn tương đối hoang sơ, nơi du khách sẽ được thỏa mãn nhu cầu khám phá những điều không ngờ tới cùng với những cảm xúc bị “đe dọa” bởi những hoạt động “mạo hiểm” mà trước đó họ có thể chưa hình dung được song đã tự nguyện chấp nhận tham gia. Du khách tham gia loại hình du lịch này thường là những người yêu thích khám phá và ưa cảm giác “mạnh”.
Phụ thuộc vào mức độ mạo hiểm, du lịch mạo hiểm có thể là rất mạo hiểm
(Extreme adventure tourism) hoặc ít mạo hiểm (Soft adventure tourism)
Du lịch rất mạo hiểm (hay du lịch “dữ dội” Shock) là hình thức du lịch đi tới những khu vực nguy hiểm (núi cao, các khu rừng nguyên sinh, hoang mạc, hang động, v.v.) hoặc tham gia vào các hoạt động nguy hiểm. Du lịch rất mạo hiểm thường có phần trùng hợp với thể thao mang tính mạo hiểm.
Khái niệm về du lịch thể thao - mạo hiểm (TTMH) được xem là sự kết hợp về khai niệm của 2 loại hình du lịch thể thao và du lịch mạo hiểm, ở đó “nội hàm” khái niệm về du lịch thể thao đóng vai trò chủ đạo. Mặc dù còn có những điểm chưa thống nhất trong thuật ngữ, tuy nhiên đa số các nhà nghiên cứu du lịch cho rằng “Du lịch TTMH là loại hình du lịch mang tính thể thao dựa vào việc khai thác các giá trị tự nhiên có kết hợp với văn hóa bản địa ở những khu vực còn tương đối hoang sơ, nhằm thỏa mãn nhu cầu tăng cường sức khỏe và và khám phá những điều không ngờ tới với những cảm giác mạo hiểm”. Du lịch TTMH có thể bao gồm :
18
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Du lịch leo núi
BÁO CÁO TỔNG HỢP
(cid:131) Du lịch khám phá các vùng hoang sơ (đi bộ hoặc kết hợp nhiều phương tiện như
xe đạp, mô tô, ô tô)
(cid:131) Du lịch thám hiểm hang động (cid:131) Du lịch vượt thác ghềnh (cid:131) Du lịch thả bè/mảng trôi sông (cid:131) Du lịch lặn biển (cid:131) Du lịch đua thuyền (cid:131) Du lịch lướt ván (cid:131) Du lịch tàu lượn (cid:131) v.v.
Du lịch vượt thác ghềnh trên sông Du lịch leo núi Du lịch leo vách núi Du lịch vượt rừng
Như vậy có thể nói các hình thức du lịch thể thao mạo hiểm là rất phong phú và
đa dạng, phụ thuộc vào đặc điểm tự nhiên nơi phát triển loại hình du lịch này.
19
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Với sự đa dạng trên về các hình thức du lịch, các sản phẩm du lịch TTMH cũng sẽ rất phong phú bởi ngoài sản phẩm “đơn” (trong cùng một hình thức du lịch) thì có thể xây dựng các sản phẩm “đa” hình thức trong cùng một tour (chương trình) du lịch cụ thể. Ví dụ, có thể kết hợp du lịch leo núi, du lịch đi bộ (trekking), du lịch vượt thác
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển sản phẩm du lịch TTMH ghềnh/thả bè, du lịch khám phá bằng xe đạp, v.v trong một tour du lịch tổng hợp để khám phá các giá trị tự nhiên, văn hóa bản địa một vùng đất hoang sơ nào đó.
Khác với các sản phẩm du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, v.v. nơi hạ tầng cơ sở, đặc biệt là hệ thống giao thông và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trò quan trọng, trong cấu thành sản phẩm du lịchTTMH, những yếu tố trên ít có ảnh hưởng. Trong nhiều trường hợp, sự khó khăn về hạ tầng (giao thông, điện, nước) và yếu kém về cơ sở vật chất kỹ thuật (khách sạn, nhà hàng) lại là những yếu tố góp phần làm gia tăng tính “mạo hiểm” của sản phẩm du lịch TTMH mà du khách sẽ được trải nghiệm.
Như vậy, đứng từ góc độ khái niệm về sản phẩm du lịch, có thể thấy các yếu tố
chủ yếu sẽ có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển các sản phẩm TTMH bao gồm :
(cid:131) Tài nguyên du lịch : được xem là yếu tố nền tảng tạo nên sản phẩm du lịch. Đối với các sản phẩm du lịch TTMH, tài nguyên du lịch tự nhiên, đặc biệt là địa hình (độ dốc, hệ thống hang động, v.v.); hệ thống sông, hồ; cảnh quan, các giá trị sinh thái, khí hậu và các điều kiện tự nhiên như thời tiết, tốc độ dòng chảy trên sông, v.v.có vai trò đặc biệt quan trọng. Các giá trị về văn hóa bản địa (sinh hoạt truyền thống của người dân địa phương, đặc biệt của các dân tộc ít người; kiến trúc làng bản; các nghề thủ công; ca nhạc, lễ hội truyền thống; v.v.) cũng góp phần tạo nên sự ảnh hưởng của tài nguyên du lịch đến việc hình thành các sản phẩm du lịch TTMH. Tuy nhiên vai trò của tài nguyên du lịch nhân văn không quyết định mà chỉ là yếu tố bổ trợ quan trọng.
(cid:131) Một số dịch vụ cơ bản bao gồm bảo hiểm, hướng dẫn, thiết bị và phương tiện, v.v. được xem là yếu tố góp phần tạo nên nội dung và tính hấp dẫn riêng của các sản phẩm du lịch TTMH. Tùy thuộc vào sản phẩm du lịch TTMH thuộc nhóm hình thức du lịch TTMH nào (TTMH trên vùng núi, TTMH trên vùng sông nước, TTMH trên vùng biển) mà mức độ cần thiết đối với các loại dịch vụ cơ bản sẽ có sự khác nhau. Ví đối với tour du lịch leo núi thì mức độ cần thiết của dịch vụ thiết bị định vị hay phương tiên vận chuyển sẽ thấp hơn so với du lịch tour du lịch khám phá tổng hợp với các hình thức di chuyển bằng đi bộ (trekking), xe đạp, mô tô, bè mảng, v.v.
20
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Lao động, chủ yếu là hướng dẫn viên và người “huấn luyện” viên, có vai trò quan trọng đối với việc hình thành một sản phẩm du lịch TTMH. Khác với những loại hình du lịch khác, du khách thường phải trải qua một “lớp” huấn luyện bắt buộc với mức độ khác nhau phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm có thể nảy sinh trong quá trình tham gia chương trình du lịch trước khi sử dụng sản phẩm du lịch theo nhu cầu. Điều này đòi hỏi cần có những người hướng dẫn viên và huấn luyện viên có trình độ kỹ năng để hạn chế xác xuất “rủi ro” vốn
BÁO CÁO TỔNG HỢP
cao hơn so với những loại hình du lịch khác có ảnh hưởng đến tính mạng và sức khỏe của khách du lịch.
(cid:131) Hoạt động quản lí liên quan đến việc tổ chức và thực hiện chương trình du lịch TTMH có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng sản phẩm cũng như sự đảm bảo an toàn cho du khách khi tham gia loại hình du lịch này. Điều này đòi hỏi một quy trình quản lí thích hợp với những nhà quản lí có nguyên tắc.
Các nguyên tắc cơ bản phát triển sản phẩm du lịch TTMH
Do tính đặc thù của du lịch TTMH có liên quan đến tính “mạo hiểm”, hay nói một cách khác là mức độ rủi ro ảnh hưởng đến tính mạng và sức khỏe của khách du lịch cao hơn so với các sản phẩm du lịch khác, ngoài những nguyên tắc cơ bản chung khi phát triển các sản phẩm du lịch như nguyên tắc cung – cầu; nguyên tắc hiệu quả; v.v., một số nguyên tắc có tính riêng biệt (đặc thù) cần được lưu í khi phát triển sản phẩm du lịch TTMH bao gồm :
(cid:131) Tăng cường các dịch vụ đảm bảo an toàn cho khách, theo đó ngoài các dịch vụ như “huấn luyện”, “hướng dẫn”, v.v., các dịch vụ hỗ trợ an toàn trong trường hợp khẩn cấp (như cấp cứu bằng đường hàng không, theo dõi định vị toàn cầu, v.v.) phải được đưa vào trong “gói” dịch vụ chung của sản phẩm du lịch TTMH.
(cid:131) Ngoài các giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên như “độ cao”, “sự hoang sơ”, v.v. mà du khách kỳ vọng sẽ khám phá và chinh phục được xem như một thành phần quan trọng của sản phẩm du lịch TTMH, cần chú trọng khai thác các giá trị văn hóa bản địa ở những khu vực được lựa chọn để phát triển sản phẩm du lịch TTMH như sinh hoạt truyền thống cộng đồng, kiến trúc làng bản, văn nghệ dân gian, lễ hội truyền thống nhằm bổ sung, tạo sự khác biệt và tăng tính hấp dẫn của sản phẩm.
Đây cần được xem là một nguyên tắc quan trọng không chỉ có ý nghĩa đối với việc phát triển sản phẩm du lịch mà còn có ý nghĩa bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa, tạo điều kiện để cộng đồng tham gia hoạt động du lịch và qua đó góp phần đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững.
21
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Do đặc điểm là các sản phẩm du lịch TTMH thường được phát triển ở những khu vực còn tương đối hoang sơ, vì vậy để giảm thiểu tác động của hoạt động du lịch đến môi trường sinh thái, sản phẩm du lịch TTMH cần được xây dựng trên nguyên tắc chỉ thỏa mãn nhu cầu của một nhóm nhỏ khách du lịch tại một thời điểm phù hợp với “sức chứa” của tài nguyên. Nguyên tắc này là rất quan trọng đối với việc phát triển các sản phẩm du lịch dựa vào tự nhiên ở những khu
BÁO CÁO TỔNG HỢP
vực còn tương đối hoang sơ, nhạy cảm với những tác động. Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch có nguyên tắc phát triển tương tự.
(cid:131) Đối với các tour du lịch TTMH tổng hợp (kết hợp một số hình thức du lịch TTMH trong một chương trình trọn gói), bên cạnh các điều kiện cơ bản để hình thành sản phẩm, các khu vực (không gian) hoặc “lát cắt” (tuyến) được lựa chọn cần chứa được nhiều nhất các giá trị tự nhiên (cảnh quan, sinh thái) và văn hóa bản địa. Đây là nguyên tắc quan trọng trong phát triển sản phẩm du lịch TTMH nhằm tạo được các sản phẩm hấp dẫn và có tính cạnh tranh cao, đáp ứng tốt nhất kỳ vọng của du khách.
Trên đây là một số nguyên tắc cơ bản có tính đặc thù cần phải tuân thủ trong quá
trình xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH.
Phát triển các sản phẩm du lịch TTMH vùng núi phía Bắc không nằm ngoài những
nguyên tắc trên.
1.2.
Đặc điểm tài nguyên du lịch được sử dụng để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm
Du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên một cách rõ rệt hay nói một
Tài nguyên được phân loại theo tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các nhân tố
Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung.
Khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn liền với khái niệm du lịch.
22
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
cách khác du lịch không thể phát triển nếu thiếu tài nguyên du lịch. Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng và thông tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ liên quan mà con người có thể sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình. tự nhiên, và tài nguyên nhân văn gắn liền với các nhân tố về con người và xã hội. “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch” (Luật Du lịch, 2005). Như vậy, tài nguyên du lịch được xem như tiền đề để phát triển du lịch. Thực tế cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch đang khai thác, tài nguyên du lịch
Mức độ khai thác tiềm năng tài nguyên du lịch phụ thuộc vào: Tài nguyên du lịch bao gồm các yếu tố liên quan đến các điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử - văn hoá, kinh tế - xã hội vốn có trong tự nhiên hoặc do con người tạo dựng nên. Các yếu tố này luôn luôn tồn tại và gắn liền với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội đặc thù của mỗi địa phương, mỗi quốc gia tạo nên những điểm đặc sắc cho mỗi địa phương, mỗi quốc gia đó. Khi các yếu tố này được phát hiện, được khai thác và sử dụng cho mục đích phát triển du lịch thì chúng sẽ trở thành tài nguyên du lịch. Cách đây hơn 30 năm khu rừng nguyên sinh Cúc Phương đã được phát hiện. Năm 1962 Chính phủ ra quyết định cho phép xây dựng thành vườn quốc gia và đến năm 1966, Cúc Phương đã chính thức trở thành vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Cũng từ thời điểm này khi tính đa dạng sinh học của vườn quốc gia được khai thác phục vụ mục đích du lịch, khu rừng nguyên sinh này trở thành một điểm tài nguyên du lịch đặc sắc, một điểm du lịch có sức hấp dẫn cao đối với khách du lịch trong nước và quốc tế. Tương tự như vậy, cũng chỉ mới cách đây hơn 5 năm, năm 1993, động Thiên Cung, một động đá vôi nguyên sơ, kỳ ảo ở vịnh Hạ Long được phát hiện, khai thá sử dụng để trở thành một điểm du lịch mới hấp dẫn đã làm phong phú và tăng thêm giá trị của tài nguyên du lịch của khu du lịch nổi tiếng này. chưa khai thác.
(cid:131) Khả năng nghiên cứu phát hiện và đánh giá các tiềm năng tài nguyên vốn còn
tiềm ẩn;
(cid:131) Yêu cầu phát triển các sản phẩm du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Các nhu cầu này ngày một lớn và đa dạng phụ thuộc vào mức sống và trình độ dân trí. Ví dụ, vào những năm 60, du lịch biển ở Việt Nam chủ yếu là tắm và nghỉ dưỡng biển thì ngày nay các sản phẩm du lịch biển đã đa dạng hơn bao gồm cả lặn biển, lướt ván, tham quan nghiên cứu các hệ sinh thái biển v.v... (cid:131) Trình độ phát triển khoa học công nghệ nhằm tạo ra các phương tiện để khai thác các tiềm năng tài nguyên. Ví dụ nếu như trước đây du lịch thám hiểm đáy biển chỉ là ước mơ thì ngày nay với các tàu ngầm chuyên dụng khách du lịch có thể thăm quan khám phá những điều kỳ diệu của đại dương một cách dễ dàng. Trong tương lai, với sự phát triển nhanh chóng về khoa học và công nghệ, du khách sẽ có cơ hội đi du lịch ở những hành tinh xa xôi ngoài trái đất.
23
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Như vậy cũng giống như các dạng tài nguyên khác, tài nguyên du lịch có phạm trù lịch sử và có xu hướng ngày càng được mở rộng. Sự mở rộng của tài nguyên du lịch thường tuỳ thuộc rất nhiều vào yêu cầu phát triển du lịch, vào những tiến bộ khoa học kỹ thuật, vào sự đầu tư, vào các sáng kiến và sở thích của con người. Bên cạnh những tài nguyên đã và đang được khai thác, nhiều tài nguyên du lịch còn tồn tại dưới dạng tiềm năng do:
BÁO CÁO TỔNG HỢP
(cid:131) Chưa được nghiên cứu điều tra và đánh giá đầy đủ. (cid:131) Chưa có nhu cầu khai thác do khả năng "cầu" còn thấp. (cid:131) Tính đặc sắc của tài nguyên thấp hoặc chưa đủ tiêu chuẩn cần thiết để khai thác
hình thành các sản phẩm du lịch. (cid:131) Các điều kiện để tiếp cận hoặc các phương tiện để khai thác hạn chế do đó chưa
có khả năng hoặc gặp nhiều khó khăn trong khai thác.
(cid:131) Chưa đủ khả năng đầu tư để khai thác.
- Tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc
Trong thực tế, ở Việt Nam, nhiều di tích lịch sử văn hoá, lịch sử cách mạng mặc dù đã được xếp hạng song chưa được khai thác phục vụ du lịch; nhiều khu rừng nguyên sinh với tính đa dạng sinh học cao, nhiều bãi biển đep ở miền Trung, nhiều lễ hội v.v... vẫn còn tồn tại ở dạng tiềm năng du lịch do chưa hội đủ các điều kiện để khai thác đưa vào sử dụng. Để có thể khai thác và sử dụng tốt nhất các tài nguyên du lịch việc tìm hiểu và nghiên cứu các đặc điểm tài nguyên du lịch là hết sức quan trọng. Tài nguyên du lịch có các đặc điểm chính sau đây: và độc đáo có sức hấp dẫn rất lớn đối với khách du lịch. Khác với nhiều loại tài nguyên khác, tài nguyên du lịch rất phong phú và đa dạng. Đặc điểm này của tài nguyên du lịch là cơ sở để tạo nên sự phong phú của các sản phẩm du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch.
24
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Ví dụ, đối với loại hình tham quan, nghiên cứu phục vụ cho mục đích nâng cao nhận thức của khách du lịch thì tài nguyên du lịch có thể là các lễ hội, những giá trị của sinh hoạt truyền thống của một vùng quê, các di tích lịch sử - văn hoá, các bản làng dân tộc ít người ở miền núi, các viện bảo tàng, các thành phố, các thác nước, hang động hay các cánh rừng nguyên sinh có tính đa dạng sinh học cao... Đối với loại hình du lịch nghỉ mát, chữa bệnh nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ thì tài nguyên du lịch cần khai thác lại là các bãi biển, các vùng núi cao khí hậu trong lành, có phong cảnh đẹp, các suối khoáng... Đặc biệt, nhiều tài nguyên du lịch đặc sắc và độc đáo có sức hấp dẫn rất lớn đối với khách du lịch. Ví dụ Kim tự tháp ở Ai Cập, Vạn lý Trường thành ở Trung Quốc, Thủ đô Pari của Pháp, vùng núi Anpơ ở Châu Âu, các vườn quốc gia ở Châu Phi, vùng biển Caribê ở Trung Mỹ... là những địa danh du lịch lý tưởng hàng năm thu hút hàng chục triệu khách du lịch. Ở Việt Nam, vịnh Hạ Long, các di tích cố đô Huế, vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ bàng, v.v. là những tài nguyên du lịch đặc sắc song càng trở nên hấp dẫn hơn đối với khách du lịch khi được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên và di sản văn hoá thế giới. Chắc chắn đây sẽ là những địa danh thu hút ngày càng đông khách du lịch tới thăm.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
- Tài nguyên du lịch là những tài nguyên không chỉ có giá trị hữu hình mà còn
- Tài nguyên du lịch thường dễ khai thác.
25
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Nếu chỉ đơn thuần tính toán dưới góc độ kinh tế thì hiệu quả thu được từ việc khai thác các tài nguyên du lịch là rất to lớn, có khi vượt trội hơn rất nhiều lần so với việc khai thác các tài nguyên khác. có những giá trị vô hình. Đây có thể được xem là một trong những đặc điểm quan trọng của tài nguyên du lịch khác với những loại tài nguyên khác. Trong thực tế, tài nguyên du lịch là phương tiện vật chất trực tiếp tham gia vào việc hình thành các sản phẩm du lịch. Đây chính là những giá trị hữu hình của tài nguyên du lịch. Ví dụ nghỉ dưỡng biển là sản phẩm du lịch biển điển hình quan trọng được hình thành trên cơ sở sự tồn tại hữu hình của các bãi cát biển, nước biển với những đặc điểm tự nhiên cụ thể. Tuy nhiên nếu chỉ hiểu ở khía cạnh vật chất này của tài nguyên du lịch thì chưa đầy đủ bởi không phải bãi biển vào cũng được khai thác phát triển thành điểm du lịch. Nguyên nhân của thực trạng trên ngoài yếu tố hạn chế của các điều kiện để khai thác thì quan trọng hơn cả là do sự hạn chế về "giá trị vô hình" của tài nguyên. Giá trị vô hình này của tài nguyên du lịch được khách du lịch cảm nhận thông qua những cảm xúc tâm lý; làm thoả mãn nhu cầu tinh thần (thẩm mỹ, văn hoá) - một nhu cầu đặc biệt của khách du lịch. Giá trị vô hình của tài nguyên du lịch nhiều khi còn được thể hiện thông qua những thông tin (nghe kể lại, qua báo chí, truyền hình, quảng cáo...) mà khách du lịch cảm nhận được, ngưỡng mộ và mong muốn được đến tận nơi để thưởng thức. Ở Trung Quốc có câu "Bất đáo Trường thành phi hảo hán" để nói về Vạn lý Trường thành, ở Việt Nam có "Nam thiên Đệ nhất Động" ca ngợi vẻ đẹp động Hương Tích hoặc các di sản, kỳ quan thế giới đều là những giá trị vô hình đã làm tăng thêm giá trị của tài nguyên du lịch lên rất nhiều. Hầu hết các tài nguyên du lịch được khai hác để phục vụ du lịch là các tài nguyên vốn đã sẵn có trong tự nhiên do tạo hoá sinh ra hoặc do con người tạo dựng nên và thường dễ khai thác. Trên thực tế một cánh rừng nguyên sinh, một thác nước, một bãi biển, một hồ nước (tự nhiên hoặc nhân tạo) đều có thể trở thành một điểm du lịch. Đây là những tài nguyên vô giá cả về nghĩa đen và nghĩa bóng. Con người khó lòng có thể tạo nên các tài nguyên du lịch bởi vô cùng tốn kém và dù có mô phỏng lại được thì cũng không thể lột tả hết được sức sáng tạo phi thường của tạo hoá và vì thế sẽ giảm đi rất nhiều về giá trị và độ hấp dẫn. Với tất cả những gì đã sẵn có của tài nguyên du lịch, chỉ cần đầu tư không lớn nhằm tôn tạo, để vừa tôn thêm vẻ đẹp và giá trị của tài nguyên, vừa tạo ra những điều kiện thuận lợi để khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên này. - Tài nguyên du lịch có thời gian khai thác khác nhau.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
- Tài nguyên du lịch được khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch.
26
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Trong số các tài nguyên du lịch, có những tài nguyên có khả năng khai thác quanh năm, có những tài nguyên lệ thuộc nhiều vào thời gian khai thác và cũng có những tài nguyên ít lệ thuộc vào thời gian hơn. Sự lệ thuộc này chủ yếu dựa theo quy luật diễn biến của khí hậu. Đối với các tài nguyên du lịch biển, thời gian khai thác thích hợp nhất là vào thời kỳ có khí hậu ấm áp trong năm. Điều này giải thích vì sao du lịch biển thường chỉ tổ chức vào mùa hè ở khu vực phía Bắc. ở khu vực từ Đà Nẵng trở vào, nơi ít chịu ảnh hưởng của không khí lạnh, hoạt động du lịch biển có thể tổ chức quanh năm. Ngược lại tài nguyên du lịch vùng núi ôn đới thường được khai thác vào mùa đông phục vụ khách du lịch nghỉ đông, trượt tuyết và chơi các môn thể thao mùa đông. Đối với các lễ hội, bên cạnh các tập quán là các nghi lễ tôn giáo cũng đã được ấn định vào các thời kỳ khác nhau trong năm và vì thế các hoạt động du lịch lệ thuộc vào thời gian diễn ra các lễ hội đó. ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta, mùa xuân là mùa của lễ hội với các lễ hội nổi tiếng như hội Lim, hội Gióng, hội Chùa Hương, hội Đền Hùng... Đối với nhiều loại hình du lịch, thời kỳ mùa khô, ít mưa, có tiết trời ấm áp và có thời tiết tốt là thời kỳ thuận lợi cho hoạt động du lịch. Tài nguyên du lịch có thời gian khai thác khác nhau đã quyết định tính chất mùa vụ của hoạt động du lịch. Các địa phương, những người quản lý, điều hành và tổ chức các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch và cả các khách du lịch nữa đều phải quan tâm đến tính chất này để có các biện pháp chủ động điều tiết thích hợp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong công việc của mình. Các tài nguyên du lịch thường được khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm. Các sản phẩm du lịch này được khách du lịch đến tận nơi để thưởng thức. Đây cũng là đặc điểm mà tài nguyên du lịch khác với một số tài nguyên khác. Đối với nhiều loại tài nguyên khác, sau khi khai thác có thể được vận chuyển đi nơi khác để được chế biến thành sản phẩm rồi được đưa đến tận nơi người tiêu thụ. Chính vì khách du lịch phải đến tận các điểm du lịch, nơi có các tài nguyên du lịch và thưởng thức các sản phẩm du lịch nên muốn khai thác các tài nguyên này điều đầu tiên cần quan tâm là phải chuẩn bị tốt các cơ sở hạ tầng, các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và vận chuyển khách du lịch. Đây cũng là một lợi thế của các điểm du lịch có nguồn tài nguyên du lịch đặc sắc để Nhà nước quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng và thu hút các nguồn vốn đầu tư nhằm thu hút và phục vụ khách du lịch đến các địa phương đó. Đồng thời cũng đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp nhằm tạo những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Thực tế cho thấy những điểm du lịch có vị trí địa lý thuận lợi, thuận tiện đường giao thông và có các cơ sở dịch vụ du lịch tốt thì hoạt động du lịch ở đó sẽ đạt được hiệu quả cao. Ngược lại có những điểm du lịch có nguồn tài nguyên du lịch rất đặc sắc như bãi biển Trà Cổ (Quảng Ninh), thị trấn Sa Pa, cao nguyên Bắc Hà (Lào Cai), động Phong Nha (Quảng
BÁO CÁO TỔNG HỢP
- Tài nguyên du lịch có thể sử dụng được nhiều lần.
Bình) nhưng vì ở vị trí quá xa xôi, cách trở đường đi lối lại và phương tiện giao thông gặp nhiều khó khăn nên đã ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng thu hút khách du lịch. Nếu được đầu tư tốt hơn về cơ sở hạ tầng và phương tiện vận chuyển khách, chắc chắn chẳng bao lâu nữa các điểm du lịch này sẽ trở nên sầm uất. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng của tài nguyên du lịch khác với nhiều tài nguyên khác không có khả năng tái tạo chỉ sử dụng được một lần và ngày càng cạn kiệt. Các tài nguyên du lịch được xếp vào loại tài nguyên có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài. Vấn đề chính là phải nắm được quy luật của tự nhiên, lường trước được sự thử thách khắc nghiệt của thời gian và những biến động, đổi thay do con người gây nên để có những định hướng lâu dài và các biện pháp cụ thể để khai thác sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên này, đảm bảo cho nguồn tài nguyên được khai thác dưới mức chịu đựng của nó, không ngừng được bảo vệ, tôn tạo và hoàn thiện hơn để đáp ứng các nhu cầu phát triển du lịch. Đây cũng là lẽ sống còn của mỗi điểm du lịch, mỗi khu du lịch nhằm thực hiện phương hướng chiến lược phát triển du lịch bền vững. Chỉ có phát triển du lịch bền vững mới đảm bảo để nguồn tài nguyên du lịch ít bị tổn hại, để mỗi điểm du lịch, mỗi khu du lịch ngày càng trở nên hấp dẫn hơn, không ngừng thoả mãn các nhu cầu phát triển du lịch hiện tại, mà còn sẵn sàng để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trong tương lai. Những tài nguyên du lịch chủ yếu ở vùng núi thường được sử dụng để phát triển các sản phẩm du lịch TTMH bao gồm :
27
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
- Địa hình : trong đó chủ yếu khai thác đặc điểm về độ cao, độ dốc do cấu trúc địa hình tạo nên. Độ dốc càng lớn thì tính thể thao và tính mạo hiểm của sản phẩm du lịch tạo ra cũng sẽ càng lớn. Hiện nay, các tours du lịch thể thao mạo hiểm (đi bộ hoặc bằng phương tiện như xe đạp, xe máy, ô tô, tàu lượn) ở vùng núi thường được thiết kế ở những khu vực có độ dốc lớn nhằm khai thác tính “mạo hiểm” ẩn chứa trong dạng tài nguyên này .
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Ngoài ra, một dạng tài nguyên du lịch địa hình khác thường được khai thác để xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH là hệ thống các “hang động” bởi tính thể thao và mạo hiểm cao chứa đựng trong chúng. Những hang động càng sâu, càng phức tạp (được cấu tạo hỗn hợp giữa 2 tính chất thủy động và động khô) thì càng được quan tâm khai thác để phát triển các sản phẩm du lịch TTMH. Tất nhiên các giá trị cảnh quan, thẩm mỹ của hang động cũng sẽ đóng vai trò quan trọng, tuy nhiên sẽ là thứ yếu nếu tài nguyên địa hình này được khai thác cho mục đích du lịch TTMH.
Một dạng tài nguyên du lịch địa hình khác hiện cũng thường được khai thác cho
mục đích du lịch TTMH là dạng địa hình savan (sa mạc hoặc bán hoang mạc).
- Hệ thống sông, suối và hồ : trong đó đặc điểm về dòng chảy và địa hình của lòng sông/suối thường được khai thác khi phát triển các sản phẩm du lịch TTMH như vượt thác ghềnh, thả mảng/bè trôi sông, v.v. Như vậy các sông có độ dốc càng lớn thì càng dễ được lựa chọn khi phát triển các sản phẩm du lịch TTMH.
Ngoài đặc điểm cơ bản này, các giá trị cảnh quan dọc theo các sông suối hoặc cảnh quan các hồ trên hệ thống các sông suối sẽ là yếu tố tài nguyên quan trọng bổ trợ tạo nên tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch TTMH được xây dựng.
28
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
- Các giá trị cảnh quan, hệ sinh thái, đặc biệt là các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên là dạng tài nguyên du lịch bổ trợ quan trọng sẽ được xem xét đến khi xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Thực tế cho thấy các tours du lịch TTMH ở vùng núi thường được thiết kế đi qua các khu vực có cảnh quan đẹp, hấp dẫn hay những vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên có các giá trị đa dạng sinh học cao. Những giá trị tài nguyên này sẽ góp phần không nhỏ tạo nên tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch TTMH được xây dựng.
- Các giá trị văn hóa bản địa : mà tiêu biểu là các bản/làng các dân tộc ít người, nơi còn bảo tồn được những giá trị về sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt sản xuất truyền thống; về kiến trúc quần cư, kiến trúc công trình (nhà, công trình tín ngưỡng; v.v. ).
Những giá trị văn hóa này của cộng đồng được xem là dạng tài nguyên du lịch bổ trợ quan trọng khi xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi. Kinh nghiệm phát triển du lịch TTMH vùng núi ở các nước như Trung Quốc, Nêpan, v.v. cho thấy dạng tài nguyên du lịch đã rất được chú trọng khi xây dựng các sản phẩm TTMH như chinh phục các đỉnh núi, tours xuyên rừng, vượt thác, v.v.
29
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Đứng từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn kinh nghiệm phát triển du lịch TTMH vùng núi ở nhiều nước trên thế giới cho thấy mức độ quan trọng các dạng tài nguyên du lịch chủ yếu trên đối với phát triển các sản phẩm du lịch TTMH có khác nhau, cụ thể (theo thứ tự về mức độ quan trọng):
BÁO CÁO TỔNG HỢP
(cid:131) Địa hình (đỉnh cao, độ dốc, hang động ); (cid:131) Hệ thống sông, suối và hồ; (cid:131) Các giá trị cảnh quan, hệ sinh thái; và cuối cùng là (cid:131) Các giá trị văn hóa bản địa.
Việc xác định mức độ quan trọng của các dạng tài nguyên đối với phát triển sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi là rất có ý nghĩa, đặc biệt trong nghiên cứu phân vùng mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH ở một vùng núi nào đó.
Đặc điểm của các tài nguyên du lịch chủ yếu được sử dụng để phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi cũng không nằm ngoài những đặc điểm chung của tài nguyên du lịch như đã nêu. Tuy nhiên có thể thấy một đặc điểm chung của những tài nguyên này là sự phân bố của chúng thường ở những nơi còn tương đối hoang sơ, còn ít bị ảnh hưởng tác động của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy các địa điểm được lựa chọn để phát triển hoạt động du lịch TTMH thường là những vùng rừng nguyên sinh, núi cao, hải đảo, hoang mạc, v.v. nơi còn chứa đựng nhiều bí ẩn của tự nhiên với những mối nguy hiểm mà khách du lịch TTMH sẽ được khám phá và phải vượt qua. Đó cũng chính là “cầu” của khách du lịch mà các sản phẩm du lịch TTMH phải thỏa mãn được trên cơ sở khai thác các giá trị tài nguyên đặc thù như đã đề cập.
Các điều kiện/ tiêu chí xây dựng sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm
1.3. 1.3.1. Các điều kiện cơ bản hình thành sản phẩm du lịch thể thao mạo hiểm Căn cứ vào khái niệm về sản phẩm du lịch, những yếu tố cơ bản tham gia vào
thành phần một sản phẩm du lịch TTMH bao gồm :
(i) Kết cấu hạ tầng du lịch
Kết cấu hạ tầng du lịch bao gồm hệ thống giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước và xử lý chất thải từ hoạt động du lịch. Đây là yếu tố rất quan trọng trong phát triển du lịch, trong đó có du lịch TTMH.
30
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Đối với một số hình thức du lịch thể thao như đua xe ô tô, đua mô tô, đua xe đạp, đua thuyền, v.v. yếu tố hạ tầng, đặc biệt là đường đua, bến thuyền, v.v. vẫn có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên đối với phần lớn các hình thức du lịch TTMH, ba gồm cả đua ô tô (qua sa mac, qua các vùng hoang sơ, v.v.); đua xe đạp địa hình; đua mô tô trên cát, trên địa hình tự nhiên; v.v. hạ tầng du lịch không đóng vai trò quan trọng như trong trường hợp phát triển các loại hình du lịch khác. Và nhìn chung, du lịch thể thao mạo hiểm không yêu cầu kết cấu hạ tầng du lịch ở những tiêu chuẩn cao như đối với những loại hình du lịch khác như du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thăm quan, du lịch MICE, v.v. Đây là điều dễ hiểu bởi sự khó khăn/hạn chế đối với điều kiện trong giao thông, sự “thiếu thốn” về điện, nước được xem như một phần không thể thiếu để
BÁO CÁO TỔNG HỢP
“kiểm chứng” bản lĩnh của du khách tham gia loại hình du lịch này. Nói một cách khác sự phát triển loại hình và các sản phẩm du lịch TTMH không cần những điều kiện về hạ tầng du lịch hoàn hảo. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là điều kiện hạ tầng du lịch để tiếp cận “căn cứ” (base), nơi xuất phát các tour du lịch TTMH không cần phát triển.
(ii) Tài nguyên du lịch
Tính chất quan trọng của tiêu chí này thể hiện cụ thể trên các mặt sau đây:
- Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố cơ bản để hình thành các sản
- Tài nguyên du lịch là một cơ sở quan trọng để phát triển các loại hình du lịch.
31
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Với tư cách là một loại hình du lịch, việc xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể luôn dựa trên sự khai thác các giá trị tài nguyên du lịch nói chung và có tính đặc thù nói riêng như đã đề cập ở phần trên. Nói một cách khác tiêu chí cơ bản và quan trọng để xây dựng sản phẩm du lịch TTMH chính là tài nguyên du lịch. phẩm du lịch nói chung, sản phẩm du lịch TTMH nói riêng. Như đã đề cập ở nội dung khái niệm, sản phẩm du lịch được tạo bởi nhiều yếu tố, song trước hết phải kể đến tài nguyên du lịch, trong đó bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của khách du lịch, các sản phẩm du lịch không thể đơn điệu, nghèo nàn, kém hấp dẫn dễ gây nhàm chán, mà cần phải phong phú, đa dạng, đặc sắc và mới mẻ. Chính sự phong phú và đa dạng của tài nguyên du lịch đã góp phần tạo nên sự phong phú và đa dạng của sản phẩm du lịch. Tài nguyên du lịch càng đặc sắc, độc đáo thì giá trị của sản phẩm du lịch và độ hấp dẫn khách du lịch càng tăng. Có thể nói chất lượng của tài nguyên du lịch sẽ là yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng sản phẩm du lịch hiệu quả của hoạt động du lịch. Trong quá trình phát triển du lịch, để không ngừng đáp ứng các yêu cầu và thoả mãn các mục đích của khách du lịch, các loại hình du lịch mới cũng không ngừng xuất hiện và phát triển. Các loại hình, sản phẩm du lịch đều được xây dựng phát triển dựa trên cơ sở khai thác tài nguyên du lịch. Và chính sự xuất hiện của các loại hình du lịch đã làm cho nhiều yếu tố của điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên trở thành tài nguyên du lịch. Không có những hang động ngầm bí ẩn, những đỉnh núi cao hiểm trở, những cánh rừng nguyên sinh âm u, hoang vắng thì không thể xuất hiện loại hình du lịch TTMH. Không có những bãi san hô và thế giới sinh vật thuỷ sinh muôn màu muôn vẻ ngập chìm dưới làn nước trong xanh thì không thể có loại hình du lịch lặn, khám phá thế giới hải dương đầy bí ẩn. Không có những bãi biển cát trắng trải dài với làn nước biển trong xanh thì không thể có được du lịch tắm và nghỉ dưỡng biển, v.v.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
- Tài nguyên du lịch là một bộ phận cấu thành quan trọng của tổ chức lãnh thổ
du lịch. Trong phạm vi một lãnh thổ cụ thể, mọi hoạt động du lịch đều phản ánh một tổ chức không gian du lịch nhất định. Hệ thống lãnh thổ du lịch thể hiện mối quan hệ về mặt không gian của các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau cấu tạo nên nó. Các yếu tố đó là khách du lịch, tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đội ngũ cán bộ công nhân viên và tổ chức điều hành, quản lý du lịch. Hệ thống lãnh thổ du lịch có nhiều cấp phân vị khác nhau từ điểm du lịch tới trung tâm du lịch, tiểu vùng du lịch, á vùng và vùng du lịch. Dù ở cấp phân vị nào thì tài nguyên du lịch cũng đều đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lãnh thổ du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch, tạo điều kiện để có thể khai thác một cách có hiệu quả nhất các tiềm năng của nó. Do đặc điểm phân bố của tài nguyên du lịch, trong tổ chức lãnh thổ du lịch đã hình thành nên các điểm du lịch, các cụm du lịch, các trung tâm du lịch và các tuyến du lịch. Từ các tuyến điểm du lịch này trong quá trình khai thác sẽ được lựa chọn, sắp xếp thành các tour du lịch tức là các sản phẩm du lịch cụ thể cung cấp cho khách du lịch. Tổ chức lãnh thổ du lịch hợp lý sẽ góp phần tạo nên hiệu quả cao trong việc khai thác các tài nguyên du lịch nói riêng cũng như trong mọi hoạt động du lịch nói chung, trong đó có hoạt động du lịch TTMH.
(iii) Cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ, lao động du lịch và hoạt động quản lý
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm các cơ sở lưu trú, vui chơi giải trí, dịch vụ bổ sung nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách. Đây được xem là thành phần quan trọng trong cấu thành sản phẩm du lịch và du lịch TTMH nói riêng. Tuy nhiên tỷ trọng này trong thành phần các sản phẩm du lịch thuộc các loại hình du lịch khác nhau sẽ khác nhau. Ví dụ : hệ thống khách sạn, đặc biệt là các khách sạn cao cấp sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng chất lượng cao, các sản phẩm du lịch MICE, v.v. tuy nhiên loại cơ sở vật chất kỹ thuật này lại là không cần thiết khi phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn thiên nhiên hoặc du lịch làng quê. Đối với việc phát triển các sản phẩm du lịch TTMH, hệ thống cơ sở lưu trú, đặc biệt tại các khu trung tâm, nơi xuất phát của các tour du lịch TTMH là rất cần thiết. Tuy nhiên do đặc điểm thị trường, nhu cầu lưu trú ở các khách sạn cao cấp là rất hạn chế nếu không nói là không có. Vì vậy vấn đề này sẽ không được đặt ra như một yêu cầu/điều kiện cần thiết để phát triển sản phẩm du lịch TTMH, đặc biệt ở vùng núi. Tuy nhiên tùy thuộc vào thời gian của tour du lịch TTMH, các cơ sở lưu trú sẽ được bố trí trên tuyến và chủ yếu sẽ sử dụng nhà dân cho mục đích này.
32
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Ngoài các dịch vụ truyền thống có trong bất cứ sản phẩm du lịch nào như dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, v.v. một số dịch vụ đặc thù chủ yếu cần được đưa vào cấu thành sản phẩm du lịch TTMH bao gồm :
BÁO CÁO TỔNG HỢP
(cid:131) Dịch vụ huấn luyện : nhằm trang bị cho du khách những kiến thức/kỹ năng cơ bản để có thể làm chủ kỹ thuật, thiết bị, phương tiện được sử dụng trong quá trình tham gia vào các hoạt động du lịch TTMH.
(cid:131) Dịch vụ hướng dẫn : dịch vụ này thường sẽ đặc biệt hơn so với dịch vụ hướng dẫn ở những loại hình du lịch truyền thống như du lịch thăm quan, du lịch văn hóa, v.v. Trong trường hợp này người hướng dẫn viên không chỉ đơn thuần được trang bị tốt những kiến thức về tự nhiên, văn hóa bản địa ở những khu vực được lựa chọn để phát triển sản phẩm du lịch TTMH, để đáp ứng yêu cầu tìm hiểu của du khách mà họ còn cần đáp ứng nhu cầu trợ giúp kỹ thuật, cứu trợ trong các trường hợp khẩn cấp trong quá trình thực hiện tour du lịch TTMH. (cid:131) Dịch vụ ứng cứu : du lịch TTMH luôn chứa đựng những bất trắc trong quá trình thực hiện các hoạt động thể thao, khám phá và thám hiểm. Trong nhiều trường hợp, du khách có thể cần sự hỗ trợ ứng cứu kịp thời để đảm bảo sự an toàn cho bản thân và các thành viên khác trong đoàn. Điều này đòi hỏi cần có dịch vụ hỗ trợ ứng cứu với các phương tiện tìm kiếm, cấp cứu hiện đại.
(cid:131) Dịch vụ bảo hiểm : do tính đặc thù của du lịch TTMH là luôn phải đối mặt với những rủi ro, bất trắc có thể nảy sinh ngoài ý muốn. Kết quả của tình trạng này có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ, thậm chí tính mạng của khách du lịch, chính vì vậy dịch vụ bảo hiểm là một dịch vụ rất quan trọng không thể thiếu trong cấu thành sản phẩm du lịch TTMH.
33
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Đối với hoạt động phát triển du lịch TTMH, người hướng dẫn viên (trong nhiều trường hợp thực hiện cả vai trò huấn luyện viên) được xem là yếu tố quan trọng có ý nghĩa đặc biệt. Những thị trường chính của sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm 1.4. Kết quả nghiên cứu tổng quan về đặc điểm một số thị trường khách chủ yếu của du lịch Việt Nam cho thấy du lịch TTMH hiện đang là mối quan tâm của du khách đến từ các thị trường Tây Âu bao gồm Đức, Hà Lan (Bảng 1)
BÁO CÁO TỔNG HỢP
-
, i ơ h c
Loại hình du lịch
o a h t
n â h t
i u v
I
ể h t
h c ị l
h c ị l
Một số thị trường du lịch
r u o t y t i
E C M h c ị l u D
n a u q m ă h t h c ị l u D
, i ạ m g n ơ ư h t h c ị l u D
u D
m ể i h o ạ m
u D
i á h t h n i s h c ị l u D
ụ v g n ô c
h c ị l , a ó h n ă v h c ị l u D
g n ỡ ư d ỉ h g n h c ị l u D
í r t i ả i g
i ộ h ễ l h c ị l u D
ử s
m ắ s a u m h c ị l u D
C
m ă h t h c ị l u D
n ể i b h c ị l u D
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ λ λ
λ λ λ
λ λ λ
λ λ λ
Tây Âu
λ
λ
λ
λ
λ λ λ λ
λ λ λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ λ λ
λ
Châu Á – TBD
λ λ
λ
λ λ λ λ λ λ λ
λ
λ
λ
λ λ λ λ λ λ
λ λ
λ
λ
λ λ λ λ
λ λ λ λ λ
λ
Bắc Mỹ
λ
λ
λ
λ
λ λ λ λ λ λ λ λ
Ph¸p Anh §øc Thôy Sü Hµ Lan §an M¹ch NhËt §µi Loan Trung Quèc Úc ASEAN (*) Hµn Quèc Mü Canada
λ λ λ λ λ λ λ λ
λ λ λ λ
λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ
λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ
λ λ λ λ λ
λ λ
λ λ
λ
Chó thÝch
λ Rất quan tâm λ Quan tâm λ
Ít quan tâm
Nguồn : “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng TDMNBB đến năm 2020” có bổ sung
B¶ng 1 : Sự quan tâm của khách du lịch từ một số thị trường đến những loại hình du lịch chủ yếu
Nhóm khách du lịch trẻ (độ tuổi từ 22-35) có mối quan tâm lớn hơn so với
Phần lớn khách du lịch quan tâm đến loại hình du lịch TTMH là đàn ông
34
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Từ nghiên cứu tổng quan trên cho thấy thị trường tiềm năng đối với du lịch TTMH ở Việt Nam chủ yếu sẽ là thị trường Tây Âu (Đức, Hà Lan, Anh), Úc và Bắc Mỹ. Ở khu vực Châu Á, khách du lịch Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có những quan tâm nhất định đến loại hình du lịch đầy tiềm năng này ở Việt Nam nói chung và khu vực miền núi phía Bắc nói riêng. nhóm có độ tuổi cao hoặc ít tuổi hơn đối với loại hình du lịch TTMH. (chiếm tới tới 87,6%)
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Tổng quan kinh nghiệm về phát triển du lịch thể thao - mạo hiểm
Nhìn nhận về vai trò của du lịch thể thao - mạo hiểm
Ở các nước có hoạt động du lịch phát triển, du lịch TTMH hiện đang thu hút
35
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
2. 2.1. được sự quan tâm của du khách, đặc biệt là khách du lịch ở lứa tuổi trẻ. Ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Canada, Úc, New Zealand, Thái Lan, v.v. du lịch TTMH đã và đang là loại hình du lịch có ý nghĩa quan trọng, thu hút khách du lịch. Theo điều tra của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), nếu như năm 1993, tỷ lệ khách du lịch từ các nước Tây Âu và Mỹ quan tâm tới loại hình du lịch khám phá, trong đó có du lịch TTMH đến các khu vực tự nhiên hoang dã mới chiếm tỷ lệ khoảng 10,0% thì đến năm 2003, tỷ lệ này đã lên đến 59,5%. Tỷ lệ khách du lịch Châu Á đến các điểm du lịch tự nhiên hoang dã trong năm 2003 chiếm khoảng 10% tổng số khách, trong khi đó tỷ lệ này đến các điểm du lịch vui chơi giải trí mới chiếm gần 3%. Như vậy có thể thấy du lịch đến các khu vực tự nhiên, trong đó có du lịch TTMH, ngày càng thu hút được sự quan tâm của khách du lịch trên phạm vi toàn cầu. Đây cũng là lý do tại sao du lịch tự nhiên nói chung và du lịch TTMH nói riêng, đã và đang là ưu tiên trong chiến lược/kế hoạch phát triển du lịch của nhiều quốc gia trên thế giới. Là một đất nước có trên ¾ diện tích tự nhiên là đồi núi; trên 50.000 Km2 là địa hình đá vôi (karst) với hàng trăm hang động, trong đó có những hang động dài hàng km; hơn 3.200 km đường bờ biển với gần 3.000 đảo ven bờ nơi còn bảo tồn được nhiều hệ sinh thái biển, đặc biệt là hệ sinh thái san hô; hệ thống các rừng đặc dụng phong phú với 30 vườn quốc gia, gần 50 khu bảo tồn thiên nhiên nơi còn bảo tồn được khá nguyên vẹn nhiều giá trị sinh thái trong đó có nhiều loài sinh vật quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ; Việt Nam được xem là điểm đến hấp dẫn với nhiều tiềm năng du lịch TTMH. Cùng với sự phát triển du lịch, việc khai thác các giá trị tài nguyên du lịch đa dạng và phong phú ở Việt Nam đã và đang được thực hiện một cách có hiệu quả trên cơ sở hệ thống quy hoạch phát triển du lịch từ cấp toàn quốc đến cấp vùng, trung tâm du lịch; đến các địa phương và khu, điểm du lịch. Tuy nhiên cho đến nay tiềm năng về du lịch TTMH vẫn chưa được khai thác để phát triển loại hình du lịch hấp dẫn này tương xứng. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, tuy nhiên điều đó cũng góp phần làm sức hấp dẫn của du lịch Việt Nam chưa được như mong muốn.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Thái Lan
Như vậy việc đẩy mạnh phát triển du lịch TTMH sẽ đóng vai trò quan trọng đối với phát triển du lịch nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Điều này thể hiện ở một số khía cạnh sau : - Phát triển du lịch TTMH sẽ góp phần làm đa dạng hóa các sản phẩm du lịch và qua đó sẽ làm tăng hơn sức hấp dẫn, sức cạnh tranh của du lịch Việt Nam - một trong những điểm yếu hiện nay của du lịch Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập. Điều này càng trở nên quan trọng khi nhu cầu đối với loại hình du lịch TTMH hiện đang tăng nhanh ở nhiều nước phát triển như Anh, Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Mỹ, Canađa, Úc, v.v. Khách du lịch TTMH thường là khách có khả năng chi trả cao, lưu trú dài ngày để được tận hưởng trọn vẹn các sản phẩm du lịch TTMMH vốn rất hấp dẫn với những khám phá thiên nhiên hoang dã và văn hóa bản địa cùng các cảm xúc “chinh phục mạo hiểm”. Chính vì vậy, đứng từ góc độ kinh tế, phát triển du lịch TTMH sẽ góp phần tích cực làm tăng thu nhập du lịch, góp phần đưa du lịch VIệt Nam lên vị trí tương xứng là ngành kinh tế mũi nhọn của Đất nước như Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã xác định. - Là loại hình du lịch khám phá thiên nhiên hoang dã, du lịch TTMH thường được tổ chức ở những vùng sâu, vùng xa, nơi đời sống của cộng đồng còn nhiều khó khăn, vì vậy việc phát triển du lịch TTMH sẽ góp phần tích cực vào phát triển cộng đồng thông qua việc tạo cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho người dân địa phương khi tham gia các hoạt động dịch vụ vốn rất phong phú mà du lịch nói chung, du lịch TTMH nói riêng tạo ra. 2.2. Kinh nghiệm quốc tế
* Vai trò của du lịch nói chung, du lịch TTMH nói riêng, đối với Thái Lan
36
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Ngành du lịch Thái Lan đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế và là một phần không thể tách rời cuộc sống của người dân Thái Lan. Phần lớn người dân Thái Lan đều tin rằng phát triển du lịch sẽ góp phần tích cực đảm bảo cho chất lượng cuộc sống và sự phồn thịnh của họ trong tương lai, tạo thêm nhiều việc làm, đồng thời tài nguyên thiên nhiên của đất nước ít bị tổn hại hơn trong quá trình khai thác so với nhiều ngành kinh tế khác, đặc biệt là công nghiệp. Vì vậy phát triển du lịch, đặc biệt là những loại hình du lịch khám phá, thân thiện với môi trường như du lịch sinh thái, du lịch TTMH, sẽ là nhân tố tích cực cho phát triển bền vững.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Nhiệm vụ phát triển du lịch bền vững thông qua việc đẩy nhanh sự phát triển
37
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Du lịch Thái Lan ngày càng phát triển mạnh, lượng khách quốc tế năm 2006 đạt trên 10 triệu lượt đã góp phần nâng cao nhận thức và sự trân trọng đối với các giá trị văn hoá và thiên nhiên của đất nước. Giá trị này của du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch TTMH, được xem là còn vượt xa những kết quả về kinh tế mà du lịch đem lại. Bên cạnh đó, du lịch, đặc biệt là các loại hình du lịch khám phá, TTMH, du lịch sinh thái và những loại hình du lịch thân thiện với thiên nhiên, cũng là động lực quan trọng có những đóng góp tích cực cho bảo vệ/bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên du lịch. Thông qua du lịch TTMH đến các vùng sâu, vùng xa, du khách sẽ có dịp khám phá và nâng cao hiểu biết của mình về các giá trị tự nhiên, văn hóa bản địa và từ đó nâng cao được ý thức với những trách nhiệm, đóng góp cụ thể cho bảo tồn và phát triển bền vững. của những loại hình du lịch thân thiện với môi trường của TAT trong thế kỷ 21 Du lịch là "thúc đẩy việc bảo tồn và phục hồi các nguồn tài nguyên về du lịch, văn hoá, nghệ thuật và môi trường bằng cách chuyển hướng ưu tiên sang những loại hình du lịch khám phá, TTMH có chất lượng, nhằm mục đích không chỉ tăng lượng khách du lịch mà còn đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững trong một thời gian dài đồng thời duy trì bản sắc và di sản của đất nước" (trích Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 1997-2003). Như vậy Thái Lan tập trung vào 2 hướng ưu tiên chính là bảo vệ, bảo tồn các nguồn tài nguyên và tài sản du lịch phục vụ phát triển bền vững lâu dài thông qua ưu tiên phát triển các loại hình du lịch thân thiện với môi trường như du lịch sinh thái, du lịch TTMH và để xây dựng một điểm đến hấp dẫn, được thế giới công nhận nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của nền văn hoá Thái. Đây là chiến lược phát triển du lịch lâu dài, bền vững của Thái Lan trong mối quan hệ với những loại hình du lịch ưu tiên, trong đó có du lịch khám phá, TTMH. Trong hướng ưu tiên thứ nhất thì Thái Lan coi việc khám phá những vùng đất mới lạ với những cảm xúc đặc biệt (cảm xúc “mạo hiểm”) song hành cùng việc nâng cao trách nhiệm bảo tồn các giá trị tài nguyên tự nhiên, văn hóa bản địa, trong đó người Thái là trọng tâm sẽ là yếu tố nền tảng cho mọi kế hoạch phát triển hay xúc tiến du lịch. Chỉ khi nào những cảnh đẹp vốn có của môi trường thiên nhiên và sự hùng vĩ của văn hoá được người dân bản địa đánh giá một cách đầy đủ nhất qua những hoạt động của những loại hình du lịch thân thiện với tự nhiên, trong đó có du lịch TTMH, với tình thương yêu và nâng niu nhất thì lúc đó niềm tự hào, nhận thức công dân và trách nhiệm đối với cộng đồng mới được thức tỉnh. Khi đó, ý thức trách nhiệm và quyết tâm bảo vệ, duy trì các của cải của đất nước sẽ xuất hiện ở mỗi người dân cũng như khách du lịch.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Trong hướng ưu tiên thứ hai thì mục tiêu dài hạn là phát triển một hình ảnh riêng, đặc thù, không có sự pha trộn giữa những phẩm chất truyền thống, lôi cuốn của người Thái với các chuẩn mực đã được thừa nhận trên thế giới. Để làm được điều này, Thái Lan xác định phải tập trung vào 3 hướng gồm phát triển các điểm, địa danh du lịch chất lượng; nâng cao chất lượng dịch vụ và nâng cao chất lượng về môi trường trong đó các lĩnh vực cần quan tâm là:
(cid:131) Bảo tồn các cảnh quan thiên nhiên trên toàn đất nước cho sự phát triển lâu dài của những loại hình du lịch thân thiện với tự nhiên, du lịch khám phá như du lịch sinh thái, du lịch TTMH, v.v.;
(cid:131) Bảo tồn văn hoá và truyền thống Thái, đặc biệt là văn hóa bản địa nơi có những tiềm năng tài nguyên du lịch tự nhiên đặc sắc nhằm kết hợp hài hòa những giá trị này, góp phần tạo nên như những sản phẩm du lịch có chất lượng cao, có sức cạnh tranh. Những loại hình/sản phẩm du lịch khám phá tự nhiên, du lịch TTMH rất có triển vọng/tiềm năng phát triển với cách tiếp cận này. Song đồng thời việc đẩy mạnh phát triển những loại hình du lịch này cũng sẽ góp phần tích cực cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững chung của đất nước;
(cid:131) Hướng tới môi trường không bị ô nhiễm, những khu vực hoang sơ còn ít chịu tác động bởi các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Điều này đặt ra nhằm đảm bảo rằng chất lượng của các sản phẩm du lịch được tạo ra là thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của du khách về tự nhiên và môi trường;
(cid:131) Đảm bảo an toàn, an ninh, đặc biệt đối với những loại hình du lịch được tổ chức ở những khu vực còn tương đối hoang sơ, vùng sâu, vùng xa như du lịch sinh thái, du lịch TTMH. đứng ở góc độ này, du lịch TTMH sẽ có được những hành lang về pháp lý và kỹ thuật với sự hỗ trợ của các trung tâm cứu trợ có tính quốc gia để tiến hành các hoạt động ứng cứu trong trường hợp xảy ra sự cố đối với du khách trong quá trình thực hiện các tour du lịch đến những vùng hoang sơ, nơi các điều kiện đảm bảo an toàn của du lịch còn hạn chế;
(cid:131) Đạt tiêu chuẩn dịch vụ quốc tế là lĩnh vực có được sự quan tâm đặc biệt bởi đây là yếu tố quan trọng nhằm nâng cao tính cạnh trạng của các sản phẩm du lịch Thái Lan. Tiêu chuẩn quốc tế được quan tâm nâng cao không chỉ đối với những sản phẩm/loại hình du lịch truyền thống như tham quan, nghỉ dưỡng được tổ chức ở những trung tâm đô thị, vùng nghỉ dưỡng biển mà còn đối với những sản phẩm/loại hình du lịch được tổ chức ở vùng sâu, vùng xa nơi điều kiện dịch vụ còn nhiều khó khăn như du lịch sinh thái, du lịch khám phá, du lịch TTMH; (cid:131) Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch trọng điểm với quan điểm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu bằng các thiết bị tiên tiến. Lãnh vực này được chú trọng đặc biệt đối với những loại hình du lịch đòi hỏi có những áp dụng kỹ thật như du lịch TTMH, du lịch khám phá bằng các phương tiện như tàu lượn, tàu ngầm, v.v.;
38
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Đảm bảo người dân địa phương luôn sẵn sàng và mong muốn được cung cấp những dịch vụ tốt nhất, xứng đáng với vai trò của "Người chủ nhà hoàn hảo".
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Điều này rất quan trọng, nhất là đối với những loại hình du lịch được tổ chức trong điều kiện xa các trung tâm dân cư lớn nơi trình độ giao tiếp và văn hóa của người đân là tương đối cao. Đứng từ góc độ này việc nâng cao nhận thức và tạo điều kiện để cộng đồng vùng sâu, vùng xa nơi có tiềm năng và điều kiện phát triển du lịch khám phá, TTMH sẽ có ý nghĩa quan trọng;
(cid:131) Thiết lập các hệ thống thông tin có sự liên kết nhằm cung cấp đầy đủ và trung thực nhất những thông tin mà du khách cần có. Điều này không chỉ giúp du khách hình dung được đầy đủ những gì mình mong muốn qua chuyến du lịch, mà còn góp phần tạo cho du khách sự chuẩn bị tâm lý đầy đủ cho những chuyến đi du lịch khám phá, TTMH đầy thú vị song cũng không ít những khó khăn, thử thách chờ đợi ở phía trước;
(cid:131) Có mạng lưới thông tin viễn thông toàn cầu tại những nơi diễn ra hoạt động du lịch. Điều này là hết sức quan trọng đối với phát triển du lịch khám phá, du lịch TTMH bởi trong quá trình thực hiện các chuyến du lịch này, nhiều yếu tố bất trắc ngoài mong muốn có thể xảy ra và những thông tin này cần được thông báo đầy đủ, nhanh chóng nhất đến những địa chỉ có trách nhiệm xử lý, đưa ra các quyết định để hỗ trợ tốt nhất cho du khách vượt qua được những tình huống bất lợi;
(cid:131) Nâng mức sống toàn dân và đảm bảo rằng lợi nhuận thu được từ phát triển du lịch mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho đại bộ phận dân chúng, đặc biệt là các cộng đồng dân cư ở nông thôn, người dân sông ở vùng sâu, vùng sâu Thái Lan, nơi có tiềm năng phát triển du lịch. Điều này rất có ý nghĩa không chỉ đối với sự phát triển của những loại hình du lịch như du lịch TTMH, du lịch sinh thái, trong đó cộng đồng địa phương có vai trò quan trọng, mà còn có đóng góp tích cực cho phát triển du lịch bền vững ở Thái Lan.
39
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Ở Thái Lan, du lịch - cả nội địa và quốc tế - đóng góp rất lớn cho xã hội, văn hoá và phát triển cộng đồng, giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo tồn môi trường và các di sản quý báu của đất nước. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội Thái Lan giai đoạn 1997-2003 đã tin tưởng giao cho Cơ quan Du lịch Thái Lan (TAT) dưới góc độ quốc gia, trọng trách nâng cao vai trò của du lịch đối với phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân, tạo ảnh hưởng tích cực cho sự phát triển về mặt xã hội của các gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. ở cấp độ địa phương, TAT đặc biệt hỗ trợ các cộng đồng bản địa trong việc duy trì sức hấp dẫn của các điểm tham quan du lịch, sự thành công của các tours du lịch khám phá, du lịch TTMH ở những khu vực hoang sơ. Bên cạnh các thành phố lớn, các khu du lịch nổi tiếng thì để phát triển du lịch bền vững đòi hỏi phải có những hỗ trợ mang tính chuyên nghiệp ở nhiều địa phương khác. Chính vì vậy, TAT đã xây dựng các quy hoạch tổng thể và hỗ trợ về kỹ thuật, trong một số trường hợp còn hỗ trợ về tài chính nhằm giúp các địa phương, đặc biệt những địa phương vùng sâu, vùng xa phát triển du lịch trên cơ sở khai thác các giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa như loại hình du lịch TTMH, du lịch khám phá, du lịch sinh thái, v.v. Ngoài ra, TAT còn đảm bảo các cơ quan nhà nước, các viện nghiên cứu và các tổ chức khác
BÁO CÁO TỔNG HỢP
cùng tích cực tham gia vào mọi khía cạnh của việc quy hoạch, điều phối và triển khai các chiến lược phát triển du lịch quốc gia. Thái Lan đã có nhiều sáng kiến và triển khai những chương trình phát triển du lịch bền vững trong đó khuyến khích các loại hình thân thiện với tự nhiên. Một trong số đó là Chương trình khám phá Thái Lan. Từ năm 1998, nhiều dự án chọn lọc tập trung vào phát triển du lịch khám phá, TTMH, cải tạo các nguồn tài nguyên du lịch và đào tạo nguồn nhân lực đã được triển khai. Tại các điểm du lịch trên toàn đất nước, chương trình này giúp tạo nhiều việc làm và cơ hội cho cộng đồng và đóng góp vào việc khôi phục các nguồn tài nguyên du lịch đã bị suy thoái sau chiến dịch “ Bất ngờ Thái Lan” Amazing Thailand 1998-1999. Ngân sách của chương trình tập trung vào việc khôi phục, bảo tồn và phát triển các công viên và di tích lịch sử, công viên quốc gia và công viên biển, các nguồn tài nguyên du lịch địa phương, đào tạo về xúc tiến du lịch... TAT còn phối hợp với Cục bảo tồn rừng và các cơ quan liên quan ở địa phương triển khai 13 dự án giáo dục đào tạo và nâng cao nhận thức cho lãnh đạo và cộng đồng địa phương vùng sâu, vùng xa về giá trị của các di sản thiên nhiên và văn hoá cũng như lối sống của họ. Các dự án này còn nhằm hỗ trợ các cộng đồng bảo vệ các hệ sinh thái nguyên sơ, một số lại tập trung vào duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống. Bên cạnh đó, TAT nhận thức được rằng thế hệ thiếu niên ngày nay là nguồn nhân lực trong tương lai của Thái Lan, là nguồn động lực chủ đạo để đạt được sự phát triển bền vững.
Australia
Thập kỷ vừa qua, du lịch nổi lên là ngành kinh tế quan trọng nhất với nguồn thu trên 60 tỉ đô la Australia, tạo việc làm cho trên 1 triệu người. Là một đất nước có diện tích hoang mạc rộng lớn và một diện tích dải san hô lớn nhất thế giới với chiều dài trên 2.000 km, Chính phủ Australia xác định phát triển du lịch nói chung, đặc biệt là du lịch khám phá, du lịch TTMH, là ưu tiên quốc gia và các nguồn lợi thu được từ du lịch cần được phân bổ cho mọi khu vực, vùng nông thôn của Australia.
Để thực hiện định hướng chiến lược này, Chính phủ Australia đã có những chính sách khuyến khích các công ty du lịch xây dựng các chương trình (tours) du lịch trên cơ sở khai thác các giá trị tự nhiên hoang dã để phát triển loại hình du lịch TTMH với sự hỗ trợ của nhà nước về các phương tiện (cấp cứu bằng trực thăng, thông tin liên lạc, định vị vị trí, v.v.) nhằm đảm bảo an toàn cho khách trong quá trình thực hiện các chuyến du lịch đến các vùng hoang mạc xa xôi hoặc khám phá thế giới ngầm của đại dương nơi có các dải san hô rộng lớn.
40
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Chính sách phát triển du lịch Australia cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường, bản sắc văn hoá địa phương và coi đó là những nguồn hấp dẫn chính của điểm du lịch tự nhiên nói chung, điểm du lịch TTMH nói riêng. Điều này xuất phát từ nhận thức là chính các giá
BÁO CÁO TỔNG HỢP
trị tự nhiên hoang sơ và văn hóa cộng động bản địa là những giá trị mà du khách muốn được khám phá trên các tuyến hành trình TTMH hoặc tại các điểm diễn ra các hoạt động du lịch TTMH, khám phá. Các hành trình này có thể là những hành trình xuyên qua các khu rừng nguyên sinh; các vùng hoang mạc đầy cát và nắng; các vùng núi cao nơi có tuyết phủ vào mùa đông; dọc theo các sông nơi có nhiều ghềnh thác; các vùng nước khu vực ven bờ, quanh các đảo thuộc dải san hô ngầm hoặc có sự kết hợp các đặc điểm tự nhiên trên trong một hành trình TTMH có tính tổng hợp. Bên cạnh các dự án bảo tồn của các tổ chức phi chính phủ (NGO), Chính phủ Australia cũng có những dự án hỗ trợ cho nỗ lực này. Bên cạnh ý nghĩa về bảo tồn đa dạng sinh học và môi trường các dự án này có đóng góp đáng kể đối với việc đảm bảo sự hấp dẫn, chất lượng của các sản phẩm du lịch tự nhiên, khám phá và du lịch TTMH tới những vùng thiên nhiên hoang sơ của Australia.
Với chính sách trên, Chính phủ Australia không chỉ hỗ trợ cho du lịch TTMH phát triển với tư cách như một loại hình đặc thù, hấp dẫn của Australia mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển du lịch bền vững. Để hỗ trợ chiến lược này Chính phủ Australia còn thiết lập các mối liên kết và mạng lưới hoạt động mang tính chiến lược giữa các ngành và Chính phủ; cung cấp thông tin, phát triển công tác đào tạo và giáo dục nhận thức trong ngành du lịch và các cơ quan khác thuộc Chính phủ. Hàng chục triệu đô la đã được đầu tư vào hàng trăm dự án phát triển du lịch khám phá tự nhiên, du lịch cộng đồng để hỗ trợ cho phát triển du lịch bền vững, tập trung vào công tác đào tạo cán bộ quản lý, các chiến lược quản lý năng lượng và chất thải, bảo vệ các hệ sinh thái nhạy cảm, giáo dục nhận thức cho người đi du lịch, thiết kế và xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường sử dụng các chất liệu và công nghệ tiên tiến... Kinh nghiệm từ những kết quả đạt được của những dự án trên cho thấy cần phải tập trung vào các lĩnh vực sau:
(cid:131) Giám sát chặt chẽ và hạn chế tác động của khách du lịch đối với các nguồn tài nguyên du lịch đặc biệt trong các mùa cao điểm tại những nơi có các hệ sinh thái nhạy cảm, dễ bị tổn thương dưới tác động của con người. Thông qua việc kiểm soát số lượng khách đến điểm du lịch, nghiên cứu những biển đổi gây ra do khách du lịch tác động đến mọi trạng thái của điểm du lịch sẽ giúp xác định chính xác sức chứa của điểm du lịch. Điều này rất quan trọng khi tổ chức các hoạt động du lịch khám phá, du lịch TTMH tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên; trên các đảo hoặc các khu vực có hệ sinh thái san hô phát triển. Việc kiểm soát sức chứa cũng có ý nghĩa đối với việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống bản địa của các bộ tộc ít người trong hoạt động phát triển du lịch khám phá, TTMH ở những vùng xa xôi.
41
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Tiến hành các khoá đào tạo cho cán bộ quản lý, điều hành hoạt động du lịch, cung cấp các tài liệu phục vụ công tác tự nghiên cứu, tổ chức các cuộc trao đổi, tham vấn trực tiếp giữa các nhà tổ chức tours với cộng đồng, và các đối tác có liên quan cùng tham gia vào phát triển du lịch nhằm tìm ra các phương án, các giải pháp thích hợp nhất để phát triển du lịch khám phá, du lịch TTMH được
BÁO CÁO TỔNG HỢP
hấp dẫn, an toàn, đồng thời chia sẻ một cách công bằng những lợi ích cho phát triển lâu dài .
(cid:131) Cần có sự tham gia tích cực của cộng đồng bản địa vào quá trình phát triển hoạt động du lịch TTMH. Điều này xuất phát từ thực tế là ở Australia, người dân bản địa là những người sở hữu truyền thống các giá trị tài nguyên du lịch; là những người rất có kinh nghiệm trong việc vượt qua những “cản trở” của tự nhiên trên các hành trình khám phá; là những người có khả năng “định vị” tốt nhất vị trí trên các tuyến hành trình trong một không gian rộng lớn, hoang sơ mà trong nhiều trường hợp sẽ gặp nhiều khó khăn để “thoát ra”; là những người có nhiều kinh nghiệm trong xử lý các tình huống tai nạn hoặc bị thú hoãng dã tấn công; v.v. Sự tham gia tích cực của cộng đồng sẽ giúp cho các chuyến du lịch khám phá, du lịch TTMH đạt được kết quả tốt nhất, thỏa mãn được những kỳ vọng, thậm chí “ngoài tưởng tượng” của du khách. Hơn thế nữa, sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch khám phá, du lịch TTMH còn tạo cơ hội để cộng đồng có thêm việc làm, tăng thu nhập và qua đó du lịch sẽ có được sự đảm bảo tốt hơn cho phát triển lâu dài, bền vững.
Tổng hợp kinh nghiệm từ các nước khác trong khu vực
Chính sách du lịch của các nước trong khu vực tuy có những nét khác nhau, nhưng có thể thấy có những nét chung nhất định thể hiện ở hướng ưu tiên phát triển đối với những loại hình du lịch thân thiện với môi trường và văn hóa bản địa, trong đó có du lịch TTMH và đề cao vai trò mà những người tham gia, đặc biệt là cộng đồng địa phương, vào hoạt động du lịch cần phải được chú trọng nhằm hướng tới du lịch bền vững.
Những người hoạch định chính sách cho phát triển du lịch TTMH ở những vùng tự nhiên, vùng núi cao nơi có các hệ sinh thái nhạy cảm như các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, cần phải có những thông tin tin cậy và số liệu chính xác và cập nhật để đánh giá sự tương tác lâu dài và phức tạp giữa du lịch nói chung, du lịch TTMH nói riêng và các ngành kinh tế khác; giữa hoạt động du lịch khám phá, du lịch TTMH với hoạt động khai thác bảo tồn các giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa. Mặt khác, để phát triển hoạt động du lịch, trong đó có du lịch TTMH ở những vùng tự nhiên hoang sơ Cơ quan du lịch quốc gia cần hoạch định các chinh sách phù hợp trình Chính phủ ban hành để đảm bảo việc có được đầy đủ các nguồn lực cần thiết hỗ trợ cho sự phát triển những loại hình du lịch thân thiện với môi trường, trong đó có du lịch TTMH. Chính sách du lịch và hoạt động của cơ quan du lịch quốc gia cần nhấn mạnh vào sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các vấn đề liên quan đến phát triển du lịch bền vững như phát triển nguồn nhân lực, ảnh hưởng kinh tế của du lịch, quản lý môi trường, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và khả năng hợp tác trong khu vực hoặc tiểu vùng.
42
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Vấn đề quy hoạch chứa đựng cả yếu tố chính sách và vận hành, gắn liền với quá trình Chính phủ quyết định các mục tiêu, phương tiện giải quyết các mục tiêu đó cũng
BÁO CÁO TỔNG HỢP
như thứ tự ưu tiên thực hiện. Yếu tố về chính sách bao gồm các mục tiêu tổng thể mang tính dài hạn, các mục tiêu và phương hướng cho phát triển du lịch TTMH hướng tới sự bền vững. Yếu tố vận hành gồm các chiến lược và quy trình cần triển khai nhằm thực hiện chính sách. Trong khâu này cũng cần có những thông tin chính xác và cập nhật để vạch rõ các mối liên hệ giữa phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là kinh tế địa phương, cụ thể hơn nữa là kinh tế của cộng đồng và hoạt động phát triển du lịch, đặc biệt là những loại hình du lịch được tổ chức trực tiếp trên địa bàn. Việc xây dựng quy hoạch tổng thể về kinh tế vùng/địa phương và phối hợp quy hoạch du lịch là cách tiếp cận đúng đắn để phát triển du lịch TTMH ở vùng sâu, vùng xa một cách bền vững, bởi vì mọi vấn đề cần được xem xét một cách toàn diện trong đó phải tính đến yếu tố xã hội, văn hoá, kinh tế và môi trường. Quy hoạch tổng thể và phối hợp quy hoạch du lịch cho thấy ngành du lịch là một phần quan trọng trong nền kinh tế và quá trình quy hoạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện quy hoạch chung trong đó bao gồm cả nội dung về bảo tồn cho phát triển bền vững.
Quản lý phát triển du lịch nói chung, cho phát triển du lịch TTMH nói riêng trên quan điểm phát triển bền vững bao gồm công tác chỉ đạo, điều phối và kiểm soát nhằm gắn kết các nguồn lực dành cho xây dựng và thực hiện các chính sách du lịch về TTMH không chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở quy mô vùng và địa phương. Việc điều phối cần kết hợp với những người tham gia vào hoạt động du lịch từ trung ương đến địa phương nhằm đưa ra thứ tự ưu tiên và tạo sự thống nhất trong hành động. Việc kiểm soát gồm thiết lập các cơ chế, luật lệ đảm bảo sự phối hợp liên ngành trong thực tế tổ chức hoạt động du lịch và đẩy mạnh sự tham gia rộng rãi và phân chia lợi nhuận để phát triển du lịch được bền vững. Điều này rất quan trọng đối với tổ chức các hoạt động phát triển du lịch TTMH ở vùng sâu, vùng xa. Việc quản lý sẽ có hiệu quả hơn nếu có sự hỗ trợ của các thông tin có hệ thống, chính xác. Những thông tin này cũng có vai trò nâng cao nhận thức về các cơ hội và lợi ích có thể có từ việc phối hợp và cùng gánh vác giữa các quốc gia trong khu vực hoặc tiểu vùng.
43
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Tại nhiều địa bàn, khu vực tư nhân được coi là bộ phận chính tham gia vào các hoạt động du lịch vì họ chịu trách nhiệm trong việc cung cấp dịch vụ cho khách du lịch. Điều này càng trở nên quan trọng đối với các hoạt động du lịch ở những địa bàn còn hoang sơ, nơi vai trò của khối tư nhân được đề cao. Một trong những vấn đề quan trọng nhất là làm thế nào để thu hút nhiều sự tham gia của khu vực tư nhân và thúc đẩy sự hợp tác giữa khu vực nhà nước với thành phần kinh tế này. Các vấn đề khác có liên quan đến hai khu vực này là việc tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi, có những khuyến khích trong đầu tư, có cơ sở pháp lý chặt chẽ và tăng cường năng lực cho các cán bộ nhà nước trong việc xây dựng các dự án, sắp xếp thứ tự ưu tiên và đàm thoại với khu vực tư nhân. Kinh nghiệm về phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch khám phá và TTMH ở những khu vực như vậy tại các nước như Malaysia, Thailand, v.v. trong những năm qua đã chứng minh điều này.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Trên cơ sở nhằm tăng cường năng lực quốc gia và thúc đẩy hợp tác khu vực trong phát triển các loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa bản địa trên quan điểm bền vững, các lĩnh vực mà các nước hiện đang quan tâm bao gồm:
(cid:131) Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch, đặc biệt là hướng dẫn viên cho các
loại hình du lịch có tính đặc thù như du lịch sinh thái, du lịch TTMH;
(cid:131) Tác động của du lịch, đặc biệt là các loại hình du lịch thân thiện với môi trường, trong đó có du lịch TTMH đối với phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển cộng đồng vùng sâu, vùng xa, nơi còn nhiều khó khăn;
(cid:131) Quản lý tác động của hoạt động phát triển du lịch tới tính toàn vẹn của các hệ sinh thái, của văn hóa bản địa cho phát triển bền vững;
(cid:131) Phát triển cơ sở hạ tầng và đầu tư vào du lịch nhằm khai thác có hiệu quả các giá trị tự nhiên, văn hóa truyền thống phục vụ cho phát triển du lịch một cách lâu dài và bền vững. Điều này có ý nghĩa quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng sâu, vùng xa nơi còn nhiều khó khăn những có tiềm năng lớn đối với các loại hình du lịch sinh thái, du lịch TTMH, v.v.;
(cid:131) Để có thể phát triển được du lịch ở những khu vực xa xôi, nhạy cảm về môi trường và an ninh, cần có những chính sách và biện pháp nhằm tạo điều kiện để khách du lịch tiếp cận được với những khu vực có tiềm năng, tuy nhiên đảm bảo được những hoạt động du lịch ở đây ít có tác động ảnh hưởng đến tự nhiên và an ninh quốc gia;
(cid:131) Trong thực tế phát triển, du lịch sinh thái, du lịch TTMH có thể được tổ chức ở những khu vực giáp ranh giữa các quốc gia, vì vậy để có thể xây dựng và đưa vào thực tế hoạt động của các chương trình (tours) du lịch TTMH hấp dẫn cần có sự phối hợp phát triển du lịch trong vùng và tiểu vùng. Kinh nghiệm trong nước
2.3.
44
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Mặc dù Việt Nam được đánh giá là đất nước có nhiều tiềm năng phát triển du lịch TTMH, tuy nhiên du lịch TTMH ở Việt Nam hiện được xem là loại hình du lịch còn mới cả về lý luận và thực tiễn. Điều này thể hiện rõ ràng qua việc điều tra tổng quan việc xây dựng và chào bán các sản phẩm du lịch của phần lớn các Công ty lữ hành lớn, có uy tín ở Việt Nam như Công ty du lịch Vietnamtourism tại Hà Nội, Đà Nẵng (VITOUR), tại TP. Hồ Chí Minh; Tổng Công ty du lịch SaigonTourist; Công ty du lịch Bến Thành; v.v. Tỷ lệ các chương trình (tours) du lịch có tính khám phá, TTMH chiếm tỷ lệ rất thấp (khoảng 3-5%). Hiện nay các công ty du lịch lữ hành ở Việt Nam mới chú trọng xây dựng và chào bán các sản phẩm du lịch thuộc các nhóm du lịch tham quan (danh thắng, các di sản thế giới, các di tích lịch sử, văn hóa, v.v.); du lịch nghỉ dưỡng (tại các khu du lịch ven biển, các khu vực có nước khoáng nóng, v.v.); du lịch lễ hội; du lịch làng nghề; v.v.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Cho đến nay, sản phẩm du lịch TTMH đầu tiên được xem là khá hoàn hảo đạt tiêu chuẩn của những sản phẩm du lịch cấp quốc gia ở Việt Nam là chương trình (tour) du lịch “Raid Gouloise” được Công ty Du lịch Vietnamtourism tại Hà Nội tổ chức năm 2002 trên một lãnh thổ khá lớn, trải dài trên lãnh thổ 9 tỉnh vùng núi Đông Bắc Việt Nam từ Lào Cai đến Quảng Ninh. Chương trình này thu hút một lượng khách du lịch quốc tế trên 500 khách từ 17 quốc gia trên thế giới tham gia trong thời gian 14 ngày.
Trong thực tế, ngoài các công ty du lịch lữ hành lớn có tên tuổi như Tổng Công ty du lịch SaigonTourist; Công ty du lịch Vietnamtourism; Công ty lữ hành Fiditourist; v.v. nhiều công ty du lịch lữ hành có quy mô nhỏ ở Việt Nam như Công ty du lịch Topas Travel; Handspan Travel; Bufalo; Marco Polo; Exotisimo; Công ty du lịch “Offroad”; Công ty Du lịch Hồng Bàng (Youth Action Tour); Công ty Du lịch Dã ngoại Lửa Việt; Công ty du lịch Vietwings (Đôi cánh Việt); Công ty du lịch Lĩnh Nam; Công ty du lịch Hồng Bàng, Công ty du lịch Tre Xanh; v.v. cũng đã quan tâm và xây dựng được một số sản phẩm du lịch (tours) TTMH và bước đầu thu hút được sự quan tâm của khách du lịch quốc tế đi tự do và khách du lịch nội địa, đặc biệt là giới trẻ.
Trong những năm gần đây, một số chương trình du lịch khám phá vùng ven biển bằng hoạt động thể thao thuyền buồm cũng đã được tổ chức. Điển hình là năm 2004 và 2006, Tổng Công ty Saigontourist đã phối hợp với Câu lạc bộ thuyền buồm Hồng Kông và hãng Goodman Marine International tổ chức 2 cuộc đua thuyền buồm từ Hồng Kông đến Nha Trang (Khánh Hòa) với sự tham gia của trên 200 khách ở mỗi cuộc đua.
Kinh nghiệm thực tế từ hoạt động tổ chức một số chương trình (tours) du lịch
TTMH ở Việt Nam thời gian qua cho thấy những vấn đề chủ yếu sau :
45
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Việt Nam nói chung, đặc biệt là các vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và vùng ven biển, có nhiều tiềm năng và điều kiện tự nhiên để phát triển du lịch TTMH với nhiều sản phẩm hấp dẫn. Phát triển du lịch TTMH sẽ góp phần tích cực vào đa dạng hóa sản phẩm du lịch; phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù nhằm tăng tính hấp dẫn, cạnh tranh của du lịch Việt Nam. Bên cạnh đó việc đẩy mạnh phát triển du lịch TTMH ở vùng núi còn góp phần tích cực vào phát triển cộng đồng, tăng sự tôn trọng của du khách đối với các giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa hướng tới sự phát triển bền vững.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
(cid:131) Du lịch TTMH là loại hình du lịch hấp dẫn song cũng đòi hỏi ở nhà tổ chức (các công ty lữ hành) kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp cao. Yêu cầu này xuất phát từ thực tế bởi các sản phẩm du lịch TTMH bao gồm cả các dịch vụ có tính kỹ thuật và dịch vụ công nghệ cao (cứu hộ, định vị, các thiết bị leo núi, các phương tiện vượt thác ghềnh, v.v.). Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp du lịch Việt Nam còn phải tự hoàn thiện để đáp ứng được yêu cầu tổ chức và phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở Việt Nam. Thực tế cho thấy ngay những công ty du lịch lữ hành lớn như Saigontourist, Vietnamtourism tại Hà Nội cũng không thể tự đứng ra tổ chức tours du lịch TTMH để chào bán khách du lịch quốc tế mà phải phối hợp với những công ty nước ngoài có kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp cao. Chương trình (tour) du lịch “Raid Gouloise” năm 2002 được xem là một minh chứng cụ thể, điển hình cho vấn đề này.
(cid:131) Mặc dù nhu cầu về du lịch TTMH trên thế giới là khá cao và Việt Nam được đánh giá là điểm đến du lịch TTMH hấp dẫn có nhiều tiềm năng, tuy nhiên để xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH phù hợp với nhu cầu cụ thể của thị trường, cần thiết phải có thông tin về vấn đề này. Các doanh nghiệp du lịch Việt Nam hiện còn thiếu nhiều thông tin làm cơ sở cho việc phát triển các sản phẩm du lịch TTMH phù hợp.
(cid:131) Hướng dẫn viên (trong nhiều trường hợp là huấn luyện viên) chuyên nghiệp là yếu tố rất quan trọng không thể thiếu trong “cấu thành” một sản phẩm du lịch TTMH. Hiện ở Việt Nam những hướng dẫn viên có tính chuyên nghiệp như vậy còn rất hạn chế nếu không nói là chưa có. Vì vậy để có thể phát triển được du lịch TTMH, vấn đề đào tạo để trong một thời gian ngắn có được đội ngũ hướng dẫn viên/huấn luyện viện du lịch TTMH đáp ứng nhu cầu phát triển loại hình du lịch đặc thù này là rất quan trọng;
(cid:131) Để có thể phát triển được du lịch TTMH nói chung và các sản phẩm du lịch TTMH nói riêng, rất cần các điều tra nghiên cứu có tính khoa học. Thời gian qua, một số doanh nghiệp lữ hành Việt Nam đã rất cố gắng trong việc phát triển các sản phẩm du lịch TTMH, tuy nhiên những sản phẩm này đều dựa trên kinh nghiệm, thiếu cơ sở khoa học vững chắc, vì vậy tính bền vững và hấp dẫn của những sản phẩm được tạo ra chưa cao.
46
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Một kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển du lịch TTMH ở Việt Nam thời gian qua cho thấy để có thể phát triển được loại hình du lịch đặc thù này, rất cần có được chính sách và môi trường pháp lý phù hợp ở cấp vĩ mô. Kinh nghiệm từ việc tổ chức Chương trình (tour) du lịch “Raid Gouloise” năm 2002 cho thấy doanh nghiệp đã phải mất rất nhiều công sức và thời gian để có được giấy phép tổ chức từ Chính phủ. Nếu cách tổ chức và xây dựng sản phẩm du lịch TTMH có khả năng thu hút khách quốc tế vẫn tiếp tục như vậy thì Việt Nam không thể
BÁO CÁO TỔNG HỢP
có được những sản phẩm du lịch TTMH tầm cỡ, hấp dẫn và có sức cạnh tranh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân tại sao thời gian qua một số sản phẩm du lịch TTMH được tạo ra mới ở quy mô rất nhỏ, trên địa bàn hạn chế và chưa có được những sản phẩm đạt quy mô ở cấp quốc gia và có sức cạnh trang trong khu vực như Chương trình (tour) du lịch “Raid Gouloises” năm 2002; (cid:131) Các sản phẩm du lịch TTMH thường được xây dựng phát triển ở những khu vực còn tương đối hoang sơ, kém phát triển, nơi cộng đồng còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên thực tế phát triển các sản phẩm du lịch TTMH cho thấy dù bất kể ở quy mô nào, trong “cấu thành” sản phẩm du lịch TTMH rất cần các yếu tố bản địa cả về tài nguyên và dịch vụ của cộng đồng. Điều này sẽ làm tăng hơn tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch TTMH.
Những kinh nghiệm trên đây, bao gồm cả kinh nghiệm quốc tế và trong nước, được rút ra từ thực tiễn phát triển du lịch TTMH sẽ được xem như một yếu tố quan trọng của cơ sở thực tiễn, bên cạnh những cơ sở lý luận, tạo nên cơ sở khoa học để xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở Việt Nam nói chung, ở vùng núi phía Bắc nói riêng. 3. Tiềm năng tài nguyên du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc
Hiệp hội Du lịch khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (PATA) vừa công bố kết quả “Khảo sát những dự định du lịch Châu Á - 2007” trên cơ sở phỏng vấn trên 5.000 khách du lịch quốc tế từ 10 thị trường trọng điểm trên toàn thế giới, theo đó 31% số người được phỏng vấn cho biết Việt Nam có thể là điểm đến tiếp theo trong vòng 2 năm tới, tăng so với con số 24% từ cuộc khảo sát năm 2006.
Kết quả khảo sát về những lý do chính để khách du lịch chọn Việt Nam là điểm đến cho thấy co 5 lý do chính bao gồm : giá hàng hóa và dịch vụ thấp (49%); phong cảnh thiên nhiên hấp dẫn (44%); sự khác biệt và các giá trị văn hóa truyền thống (41%); du lịch mạo hiểm đến những vùng thiên nhiên (38%); và con người Việt Nam thân thiện (35%).
Như vậy có thể khẳng định Việt Nam nói chung và vùng núi phía Bắc nói riêng
47
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
có nhiều tiềm năng về du lịch TTMH có giá trị được du khách đánh giá cao. Vùng núi phía Bắc được hình thành trong quá trình vận động kiến tạo cách đây hàng triệu năm với địa hình đá vôi (karst) là chủ yếu. Phần lớn diện tích địa hình núi đá vôi (karst) của Việt Nam (trên 50.000 Km2) đều tập trung ở khu vực này. Với địa
BÁO CÁO TỔNG HỢP
hình chia cắt hiểm trở cùng hệ thống thủy văn nhiều thác ghềnh, các hệ sinh thái nhiệt đới phát triển theo các đai cao khác nhau, vùng núi phía Bắc được xem là khu vực tập trung nhiều nhất các giá trị tài nguyên du lịch và các điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch TTMH. 3.1. Các dạng địa hình
48
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Địa hình là một thành phần quan trọng của tự nhiên, là nơi diễn ra mọi hoạt động của con người. Đối với hoạt động du lịch, các dạng địa hình tạo nền cho phong cảnh, một số kiểu địa hình đặc biệt và các di tích tự nhiên có giá trị phục vụ cho nhiều loại hình du lịch. Phần lớn diện tích vùng núi phía Bắc là đồi núi (chiếm gần 94%) và khoảng 6% diện tích còn lại là vùng cao nguyên có địa hình tương đối bằng phẳng và một số dải đồng bằng hẹp nằm xen kẽ. Vùng có một đơn vị sơn văn - kiến trúc hoàn chỉnh, có lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp với chiều dài từ Bắc xuống Nam gần 800 km, chỗ rộng nhất ở phía Bắc, từ Tây sang Đông trên 600km, còn ở phía Nam thu hẹp lại chỉ còn khoảng 80km. Kiến trúc Himalaya sau khi vượt qua vùng Assam đã chuyển đột ngột sang hướng kinh tuyến, tạo ra hệ thống các dãy núi kéo dài về phía Tây Nam của kiến trúc núi rìa địa dương phía Đông lục địa Châu Á với hướng chủ yếu là Tây Bắc - Đông Nam, hoặc Đông Bắc - Tây Nam thể hiện khá rõ ở vùng núi Đông Bắc. Bình đồ sơn văn của vùng núi phía Bắc cũng thể hiện thành những hệ thống lớn, ranh giới khá rõ ràng. Ở vùng này có thể phân biệt 3 hệ thống núi chính có hướng bị khống chế bởi các nhân tố cứng là địa khối Inđôxini và khối vòm sông Chảy, đồng thời ảnh hưởng của hướng cấu trúc Alpit ở phía Tây - hệ thống núi Đông Bắc Việt Nam; hệ thống núi Việt - Lào. Đặc biệt ở các khu vực núi trung bình và núi thấp Đông Bắc các núi có dạng cánh cung với hướng Đông Bắc-Tây Nam như cánh cung sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, v.v... có khuynh hướng chụm lại ở dãy núi Tam Đảo như ôm lấy rìa Đông Nam của vòm sông Chảy, độ cao thống trị từ 600-1.000m, cao dần về phía Tây Bắc, có nhiều đỉnh đạt tới 1.500- 2400m. Các đỉnh cao nhất là Tây Côn Lĩnh (2.419m), Puthaca (2.274m), Kiều Liên (2403m). Các dãy núi Tây Bắc đều có hướng Tây Bắc - Đông Nam, ở đây phổ biến là các dãy núi trung bình và núi cao (Fansipan 3.142m, Pusilung 3.076m, Puluông 2.893m, Phuxpan 2.079m, Pusan 2.218m, Phu Hoạt 2.452m v.v...) và rất nhiều đỉnh cao 1.800 - 2.000m, nằm chủ yếu trên dãy núi khổng lồ thuộc các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, với chiều dài 180 km, được cấu tạo chủ yếu bởi các thành tạo macma nổi Crêta và Palêôgen và giữa chúng là các bồn địa. Độ cao các dãy núi thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, có xen kẽ những bồn địa nổi tiếng như Than Uyên, Nghĩa Đô, Quang Huy. Các cao nguyên đá vôi nối tiếp nhau : Xà Phìn, Xìn Chải, Sơn La, Mộc Châu cũng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Địa hình Tây Bắc chia cắt mạnh, quá trình bóc
BÁO CÁO TỔNG HỢP
mòn, rửa trôi, trượt lở đất đá xẩy ra thường xuyên, tạo ra địa hình có những nét độc đáo, đường phân thủy có dạng răng cưa, nhọn, dạng tai mèo, độ dốc trên 300. Phía Tây, trên biên giới Việt - Lào nổi lên dải Trường Sơn như một bức tường thành có 2 sườn không đối xứng rõ rệt: Đông Trường Sơn dốc đứng, Tây Trường Sơn thoải dần và chuyển xuống thung lũng sông Mê Kông, qua các bậc núi và cao nguyên. Ở khu vực phía Nam của vùng núi phía Bắc, dãy Trường Sơn chỉ thể hiện từ thượng nguồn sông Cả và chạy dài về phía Nam. Mạng lưới sông suối ở đây dày đặc, hẹp, dốc, khi mưa lớn thường gây lũ lụt. Độ cao chủ yếu 500-800m, ở một số khu vực có nhiều đỉnh núi nhô lên 2.000m. Chính ở các khu vực miền núi hiểm trở này còn sót lại ở các cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh được phát triển thành các vườn quốc gia và các khu bảo tồn tự nhiên nổi tiếng như Hoàng Liên, Mường Nhé, Ba Bể,
Ở vùng núi phía Bắc, địa hình đồi có diện tích rất lớn và thường được phân
49
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Ở khu vực Đông Bắc, trừ dãy núi Con Voi có hướng Tây Bắc - Đông Nam, các dãy núi có hướng vòng cung chiếm ưu thế, quy tụ về Tam Đảo. Có nhiều vùng đá vôi dốc đứng bị chia cắt mạnh, tạo nên những cảnh quan kỳ thú như ở Quản Bạ, Đồng Văn, Ba Bể, Bắc Sơn, Chi Lăng, v.v. thành hai nhóm : - Nhóm các đồi thấp viền quanh chân các khối núi chuyển tiếp từ miền núi xuống đồng bằng tam giác châu chạy dài từ Bắc Giang có độ cao dao động từ 25 - 300m. - Nhóm các đồi trong các bồn địa giữa núi và thung lũng sông tạo nên các dải chuyển tiếp, nối liền với địa hình miền núi bao quanh, phổ biến trong các bồn địa Cao Bằng, Thất Khê, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Nghĩa Lộ, Điện Biên, Than Uyên ... Một nhóm địa hình karst gần 30.000 km2 là các đồi sót và các khối núi đá vôi khổng lồ phân bố rộng khắp ở vùng núi phía Bắc. Lớn nhất là khối núi đá vôi Bắc Sơn và hàng nghìn núi sót như những hòn đảo trên cạn ở khu vực phía Nam; các dải núi đá vôi kéo dài từ Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình và Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang tạo là nơi có hệ thống hang động có thể khai thác để phát triển du lịch nhiều loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch thể thao-mạo hiểm. Ngoài ra ở vùng núi phía Bắc còn có các cao nguyên đá vôi như Mộc Châu, Đồng Văn, thỉnh thoảng lộ ra các bãi karst với các phong cảnh độc đáo và hấp dẫn. 3.2. Hệ thống hang động Các hang động ở nước ta chủ yếu là các hang động nằm trong các vùng núi đá vôi có kiểu địa hình karst rất phát triển. Vùng núi đá vôi ở Việt Nam có diện tích khá lớn, tới 50 - 60 nghìn km2 chiếm gần 15% diện tích cả nước. Vùng núi đá vôi này chủ
BÁO CÁO TỔNG HỢP
50
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
yếu tập trung ở phía Bắc từ Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn ở biên giới Việt - Trung, các cao nguyên đá vôi ở Tây Bắc, vùng núi đá vôi Hoà Bình - Thanh Hoá cho đến vùng núi đá vôi Quảng Bình. Ở miền Nam, núi đá vôi chỉ có ở khu vực xung quanh thị xã Hà Tiên và một số đảo nằm rải rác ở vịnh Thái Lan (Kiên Giang). Các công trình điều tra, nghiên cứu hang động ở Việt Nam cho thấy hiện đã phát hiện được khoảng 200 hang động, trong đó phần lớn, tới gần 90%, là các hang ngắn và trung bình (có độ dài dưới 100m) và chỉ có trên 10% số hang có độ dài trên 100m. Trong số các hang dài nhất ở nước ta được phát hiện cho đến nay phần lớn tập trung ở Quảng Bình như hang Vòm tới 27km (chưa kết thúc), động Phong Nha 8,5km, hang Tối 5,5km. Ở Lạng Sơn có hang Cả - hang Bè cũng dài hơn 3,3km. Các hang động ở Việt Nam thường nằm ở chân núi và cả ở lưng chừng núi. Nhiều hang có cửa rộng tới 110m và trần cao nhất tới 120m như hang Dơi ở Lạng Sơn. Đặc biệt rất nhiều hang động ở nước ta có những mạch sông suối ngầm chảy xuyên qua vùng núi đá vôi và thông với hệ thống sông suối bên ngoài. Nhiều hang động ở Việt Nam có vẻ đẹp lộng lẫy, tráng lệ và rất kỳ ảo, có sức hấp dẫn đặc biệt với khách du lịch. Bên cạnh những vẻ đẹp tự nhiên do tạo hoá sinh ra, các hang động còn chứa đựng những di tích khảo cổ học, những di tích lịch sử - văn hoá rất đặc sắc của dân tộc nên càng trở nên có giá trị để phát triển du lịch. Hang động là một dạng tài nguyên du lịch tự nhiên đặc sắc ở địa hình karst thuộc vùng núi đá vôi. Trong số hàng chục hang động đã được phát hiện ở vùng núi phía Bắc có rất nhiều hang đẹp, rộng có khả năng khai thác phục vụ mục đích du lịch. Kết quả nghiên cứu hang động vùng núi phía Bắc của Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội) cho thấy các hang động ở khu vực miền núi phía Bắc phân bố trên các độ cao khác nhau đối với các vùng khác nhau : ở vùng Tây Bắc, các hang động thường phân bố ở các độ cao – 5m ; 30m ; 60m ; và 100m, còn ở vùng Đông Bắc là 4-5m ;10m ; 18-20m ; và 35-40m. Ở vùng núi phía Bắc có nhiều hang động ngoài giá trị tự nhiên còn gắn với các sự tích truyền thuyết như hang Đầu Gỗ, động Tam Thanh, v.v. hoặc gắn với các di tích lịch sử như hang Pác Bó (Cao Bằng) gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các hang động ở vùng núi phía Bắc rất đa dạng, ở các bậc độ cao khác nhau và có độ dài khác nhau, có hang dài hàng nghìn mét như hang Cải Bè (Lạng Sơn) dài tới 3.342m; trên các trần hang, vòm hang là một thế giới kỳ ảo những măng đá, vú đá, cột đá với những dáng hình thiên tạo vô cùng sinh động và đẹp mắt, khi phản chiếu ánh sáng rất lộng lẫy, khi gõ vào phát ra các âm thanh như tiếng nhạc cụ trong một không
BÁO CÁO TỔNG HỢP
gian tĩnh mịch, hư ảo. Đó là một dạng tài nguyên du lịch rất đặc trưng ở vùng núi phía Bắc. 3.3. Hệ thống sông suối, thác gềnh Vùng núi phía Bắc có mạng lưới sông suối khá dày đặc với các sông lớn có diện tích lưu vực trên 1.000km2 như : sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Thương, sông Mã. Các sông này có tiềm năng rất lớn về cung cấp nước, làm thủy lợi, là đường giao thông thủy và nguồn cung cấp thủy sản. Đồng thời đây là dạng tài nguyên du lịch TTMH rất quan trọng có thể được khai thác để phục vụ mục đích du lịch. Những dòng sông chính trong vùng được xem là có ý nghĩa đặc biệt để phát triển du lịch, nhất là du lịch TTMH bao gồm : 4. Sông Hồng: bắt nguồn từ Trung Quốc chảy về Lào Cai - Yên Bái - Việt Trì -Hà Nội - Hải Dương - Hưng Yên - Nam Hà - ra biển, dài 1.126 km (trên lãnh thổ Việt Nam là 510km); độ dốc trung bình 30,5%.
5. Sông Lô: bắt nguồn từ Hà Giang chảy qua Tuyên Quang về Việt Trì, tiếp nối với
sông Hồng, dài 469 km; độ dốc trung bình 19,7%.
6. Sông Cầu: bắt nguồn từ Cao Bằng qua Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, nối với
sông Thái Bình, dài 288 km; độ dốc trung bình 16,0%.
7. Sông Đà: bắt nguồn từ Lào chảy về Lai Châu - Sơn La - Hòa Bình, tiếp nối với sông Hồng tại Việt Trì, dài 1.013 km; độ dốc trung bình 36,8%.
8. Sông Thương: bắt nguồn từ Lạng Sơn qua Bắc Giang - Hải Dương nối tiếp với
sông Thái Bình, dài 164 km; độ dốc trung bình 9,4%.
51
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
9. Sông Mã, dài 538 km; độ dốc trung bình 17,6%. Ở vùng núi phía Bắc, mùa lũ thường kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10, ở Trường Sơn thường từ tháng 9 đến tháng 11, thỉnh thỏang tháng 12 vẫn còn gặp lũ. Mùa cạn kéo dài từ 7 - 8 tháng. Tuy mùa lũ ngắn hơn mùa cạn, song lượng dòng chảy mùa lũ chiếm 60 - 90% lượng dòng chảy năm. Ở vùng núi phía Bắc còn có một diện tích rất lớn các hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo. Đáng chú ý là các hồ chứa nước lớn có nhiều cảnh quan đẹp, khí hậu tốt có thể khai thác phục vụ du lịch như các hồ Thác Bà (Yên Bái), Hòa Bình (Hòa Bình), Núi Cốc (Thái Nguyên), v.v., đặc biệt trong vùng có hồ tự nhiên Ba Bể (Bắc Kạn) trong VQG Ba Bể với nhiều giá trị về cảnh quan, đa dạng sinh học đã được cộng nhận là Di sản ASEAN và đang hoàn tất hồ sơ trình UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. Tài nguyên nước ngầm ở vùng núi phía Bắc cũng khá phong phú. Tổng trữ lượng nước ngầm ở phức hệ chứa nước khe nứt, độ sâu trên 100m, lưu lượng thấp chỉ khoảng 12m3/ngày, còn ở các nơi tầng chứa nước là cát kết, bột kết, có lưu lượng rất cao, thường từ 12.000m3 - 70.000m3/ngày.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Sông, hồ, suối nước nóng, nước khoáng là những tài nguyên du lịch rất phong phú ở vùng núi phía Bắc thường được khai thác phục vụ mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, thể dục thể thao và chữa bệnh. Tài nguyên nước khoáng, nước nóng ở vùng núi phía Bắc khá phong phú và đa dạng về thành phần hóa học, kể cả các nguyên tố vi lượng, tổng độ khoáng hóa, nhiệt độ cũng như khả năng sử dụng làm nước uống, chữa bệnh và phục vụ du lịch. Có nhiều nguồn nước khoáng có chất lượng cao đã được sử dụng đóng chai làm nước uống và chữa bệnh như Kim Bôi (Hòa Bình), Mỹ Lâm (Tuyên Quang)... Tại đây các cơ quan y tế hoặc công đoàn đã xây dựng các nhà an dưỡng và chữa bệnh phục vụ cho cả khách du lịch. Sử dụng nguồn nước khoáng để chữa bệnh bằng các hình thức uống, ngâm và tắm có thể chữa khỏi được nhiều bệnh như các bệnh ngoài da, thấp khớp mãn tính, đường ruột, thần kinh toạ, sỏi đường tiết niệu... Một số nguồn nước khoáng có nhiệt độ khá cao như Bản Bon (Yên Bái) - 450C; Mơ Đá (Kim Bôi) Hòa Bình - 350C; v.v. rất có tác dụng đối với du lịch chữa bệnh vào thời kỳ mùa đông.
3.4. Hệ thống các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên Các nhân tố địa hình, khí hậu và đất đai đã ảnh hưởng và quyết định đến sự phân bố thực vật và động vật rừng, đặc biệt là sự hình thành các khu sinh trưởng khác nhau của nhiều loại cây và nhiều chủng loại động vật. Vùng núi phía Bắc là nơi hội tụ của 3 luồng thực vật rừng tiêu biểu: 4. Luồng thực vật Vân Nam - Hymalaya, 5. Luồng thực vật Bắc Bộ - Nam Trung Hoa, 6. Luồng thực vật ấn Độ - Malaixia Do đó giới thực vật ở đây rất phong phú với hàng trăm họ, gần 500 chi và trên 800 loài. Hệ thực vật bao gồm thực vật nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới. ở vùng núi phía Bắc có nhiều kiểu rừng tiêu biểu như:
(cid:131) Kiểu rừng thường xanh á nhiệt đới núi cao, (cid:131) Kiểu rừng thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình, (cid:131) Kiểu rừng thường xanh mưa ẩm, nhiệt đới núi thấp, (cid:131) Kiểu phụ rừng tre nứa v.v...
Có nhiều loài gỗ quí mọc thành quần thụ như lim xanh, táu mật, sến, các loại
52
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
quí hiếm như Pơmu, Lát hoa, Giổi xương v.v... Đặc điểm các loại rừng giàu và rừng trung bình không đáng kể, chủ yếu là rừng nghèo, rừng phục hồi, rừng hỗn giao và một ít rừng tre nứa, rừng trồng, còn chủ yếu là
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Thiên nhiên đặc sắc vùng núi phía Bắc đã tạo nên nhiều khu vực khá tập trung
- Khu vực duyên hải Đông Bắc với Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long,
53
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
đất trồng đồi núi trọc do bị khai thác và tàn phá nặng nề. Cũng vì thế mà các loài động vật tự nhiên cũng ngày càng ít đi. Nhiều loài đang đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Các giá trị sinh thái đa dạng sinh học có thể khai thác để xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH tập trung chủ yếu ở các vườn quốc gia, khu BTTN vốn rất phong phú ở vùng núi phía Bắc với 49 khu bảo tồn tự nhiên (bằng 46% cả nước); 5 vườn quốc gia (bằng 19% cả nước) và 20 khu rừng văn hóa - lịch sử - môi trường (bằng 61% cả nước). Phần lớn các rừng đặc dụng có giá trị phục vụ du lịch cao, có điều kiện thuận lợi hơn để khai thác phục vụ du lịch và nằm trên các tuyến du lịch ở vùng núi phía Bắc đều đã thu hút được khách du lịch, trong đó có nhiều khu đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng như Ba Bể, Đền Hùng, Pác Bó, v.v. Bốn vườn quốc gia trong lãnh thổ vùng núi phía Bắc là VQG Ba Bể (Bắc Kạn), VQG Hoàng Liên (Lào Cai), VQG Xuân Sơn (Phú Thọ), VQG Bái Tử Long và rừng quốc gia Đền Hùng (Phú Thọ) là những nơi bảo tồn được nhiều diện tích rừng nguyên sinh với nhiều loại thực, động vật nhiệt đới điển hình. Đây là nơi lưu giữ tốt nhất nguồn gen động thực vật, bảo tồn sinh thái và đa dạng sinh học. Vì thế chúng có ý nghĩa rất lớn về khoa học, về kinh tế và giáo dục. Nếu biết kết hợp tốt các hoạt động du lịch, trong đó có du lịch TTMH, chắc chắn chỉ làm tăng thêm giá trị và hiệu quả nhiều mặt của các vườn quốc gia quý giá này. Các khu bảo tồn tự nhiên, các khu rừng văn hóa - lịch sử - môi trường như Núi Cốc (Thái Nguyên), Cấm Sơn (Bắc Giang), hồ Sông Đà (Hòa Bình-Sơn La), Bắc Sơn (Lạng Sơn), Pác Bó (Cao Bằng), Thác Bà (Yên Bái), Tân Trào (Tuyên Quang), v.v. đều nằm trong các khu vực được quy hoạch để phục vụ mục đích du lịch cần sớm có sự kết hợp để đạt hiệu quả cao trong việc bảo vệ, khai thác sử dụng. 3.5. Các giá trị tài nguyên du lịch bổ trợ (văn hoá bản địa, cảnh quan tự nhiên) các cảnh quan có giá trị hấp dẫn du lịch, tiêu biểu là các khu vực sau: - Khu vực Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn : là vùng núi đá vôi trùng điệp ở biên giới phía Bắc, có nhiều thắng cảnh đặc sắc như các hang động, thác nước, vườn quốc gia, hồ tự nhiên trên núi. Các thắng cảnh nổi tiếng ở khu vực này là hồ Ba Bể, thác Bản Giốc, động Tam Thanh, ải Chi Lăng. - Khu vực miền núi Tây Bắc : với dãy núi Lào Cai, Yên Bái và các cao nguyên đá vôi Sơn La - Mộc Châu, là khu vực núi non hiểm trở nhất ở nước ta. Cảnh sắc thiên nhiên ở đây về mùa Đông đã pha trộn và có dáng dấp của vùng ôn đới, đôi khi có tuyết rơi, cây lá kim chiếm ưu thế, nhiều hoa quả, cây thuốc của vùng xứ lạnh, với các thắng cảnh nổi tiếng như thị trấn Sa Pa, thác Bạc, cầu Mây, Sơn La, Mộc Châu. nơi giá trị cảnh quan đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Lễ hội và văn hóa dân gian cũng có ý nghĩa quan trọng trong phát triển du lịch
Có hai đặc trưng quan trọng của lễ hội vùng núi phía Bắc, đó là :
54
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Vùng núi phía Bắc là nơi cư trú của 32 dân tộc, trong đó có những dân tộc có số dân lớn như Tày, Thái. Nếu xếp theo ngôn ngữ, các dân tộc ở vùng du lịch Bắc Bộ chủ yếu thuộc hai ngữ hệ lớn: 1) Ngữ hệ Nam á và 2) Ngữ hệ Hán Tạng. Có thể coi sông Hồng là đường phân ranh tương đối giữa một bên là các dân tộc nhóm Tày, Nùng, Tạng, Miến là chủ yếu, với một bên là Mường-Thái và các dân tộc nói ngôn ngữ Mon- Khơme là chính. Trước đây Mon-Khơme được coi là một ngữ hệ, nay đa số các nhà khoa học đã xếp nó thành một nhóm trong ngữ hệ Nam Á (theo Khổng Diễn trong Dân số và dân số tộc người - NXBKHXH năm 1995, tr.49). Trên lãnh thổ vùng núi phía Bắc đều có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Đáng chú ý là có một số nhóm dân tộc có số dân lớn như: dân tộc Tày (1.075.994 người), dân tộc Thái (1.021.981 người), dân tộc Mường (890.148 người) và dân tộc Nùng (650.939 người) ; các dân tộc Hơ Mông (Mèo) và Dao có số dân xấp xỉ nhau, khoảng 500.000 người. Các dân tộc có số dân đông cũng là những dân tộc có nền lịch sử văn hóa lâu đời. Bộ phận dân tộc Tày, Nùng cổ xưa (Âu Việt) đã hòa hợp với dân Lạc Việt để tạo lập nên nước Âu Lạc. Có thể nói tổ tiên của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc chính là tổ tiên chung xa xưa của cả dân tộc đã khai phá, mở mang, tạo lập nên đất nước ngày nay. Hiện nay các dân tộc miền núi phía Bắc vẫn còn giữ được nhiều nét sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc sắc, những phong tục tập quán cổ độc đáo. Cùng với nền văn hóa Việt nói chung, nền văn hóa các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc đã tạo nên kho tàng văn hóa vô giá, là sản phẩm du lịch độc đáo thu hút khác du lịch. nói chng và du lịch TTMH nói riêng. * Lễ hội: cũng như di tích lịch sử văn hóa, vùng núi phía Bắc là nơi có nhiều hoạt động lễ hội trong năm. Tuỳ vào nội dung hoạt động có thể phân ra các loại hình lễ hội lịch sử, lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội dân gian. - Lễ hội vùng núi phía Bắc đã phản ánh khá sinh động lịch sử dân tộc. Đến với các lễ hội này ta có thể hình dung được quá khứ hào hùng của dân tộc trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, tiêu biểu là lễ hội Đền Hùng (Phú Thọ). - Lễ hội vùng vùng núi phía Bắc mang tính khái quát cao, phản ánh khá đầy đủ đời sống tâm linh, tư tưởng triết học và bản sắc văn hóa Việt Nam. Đây chính là một trong những điểm chủ yếu hấp dẫn du khách đến với vùng núi phía Bắc.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Bảng 2 : Một số lễ hội quan trọng (theo âm lịch) Tuy nhiên, dưới góc độ du lịch TTMH cần thiết phải nghiên cứu chọn lọc, có kế hoạch khôi phục hay phát triển một số hình thức lễ hội có giá trị góp phần làm tăng giá trị và tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch TTMH (Bảng2 ). Địa điểm Nội dung TT Tên lễ hội Thời gian 1 Chung Tết Nguyên Đán
Tháng Giêng từ mồng1 đến mồng 5
2 Hội Đền Hùng 3 Hội Than Tháng 3 mồng 10 Từ 10/3 đến 5/4 Tết năm mới, lễ hội lớn nhất của cộng đồng người Việt. Đây là ngày lễ hướng về cội nguồn, gia đình đoàn tụ, tưởng nhớ tổ tiên, mừng một năm mới an khang thịnh vượng. Trong dịp này khắp nơi tổ chức các trò chơi dân gian. Lễ giỗ tổ Vua Hùng, có rước truyền thống hát xoan Rước thần Cao Lỗ, có đua thuyền trên sông Lục Đầu
4 Hội Hoa Ban Có các trò vui, hát giao duyên trên thuyền. Phong Châu, Phú Thọ Gia Lương, Bắc Giang. Nơi hội nghị Bình Than Sơn La - Lai Châu
Vào mùa hoa ban nở Mùa Xuân 5 Hội Cồng chiêng dân tộc Mường 6 Hội Chá Mùa Xuân
15/3 chiêng dân tộc Thái 7 Hội đền Tả Phủ Các bản làng dân tộc Mường - Hòa Bình Các bản làng dân tộc Mường - Hòa Bình Phố Kỳ Lừa, Lạng Sơn
Nguồn: Từ điển lễ hội Việt Nam (Bùi Thiết) * Ca múa nhạc: đối với phát triển du lịch, ca múa nhạc dân tộc cũng là một loại hình sản phẩm du lịch đang được chú ý phát triển. Tiêu biểu là hội hát Then, hát Sli ở các dân tộc miền núi phía Bắc. Vùng núi phía Bắc cũng nổi tiếng về các điệu múa dân gian mà tiêu biểu là các điệu múa khèn, múa xoè, múa chiêng rất đặc sắc của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc.
Thờ Tả đô đốc Hán quận công Thân Công Tài, người khai mở phố và chợ Kỳ Lừa vào thế kỷ 17. Có trò thi cướp đầu pháo.
Nhìn chung ca múa nhạc dân tộc thường gắn với lễ hội truyền thống và các di
55
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
tích lịch sử văn hóa. Tất cả đã gắn bó với nhau tạo nên sắc thái văn hóa.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
* Ẩm thực: Nói đến văn hóa không thể không nhắc đến ẩm thực, một nét văn hoá đã được nâng lên thành nghệ thuật. Vùng núi phía Bắc từ lâu đã nổi tiếng với nhiều món ăn như vịt, lợn quay Lạng Sơn, rượu Mẫu Sơn (Lạng Sơn), rượu cần vùng núi Tây Bắc. 3.6. Các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến hoạt động du lịch nói chung, du
lịch TTMH nói riêng
Khí hậu, thời tiết
Vùng núi phía Bắc là lãnh thổ có đặc điểm khí hậu và thời tiết đa dạng, có phần
độc đáo và nhiều biến động nhất ở Việt Nam.
56
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Tuy nằm ở vùng nhiệt đới nhưng vùng núi phía Bắc chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa tạo nên mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều với hướng gió chủ yếu là gió Đông Nam và đặc biệt là có một mùa đông lạnh, ít mưa với hướng gió chính là hướng Bắc và Đông Bắc. Đặc điểm này đã tạo tính mùa vụ của hoạt động du lịch ở vùng núi phía Bắc. Mặt khác, do đặc điểm địa hình chia cắt, khí hậu vùng núi phía Bắc có sự phân hóa khá rõ rệt và có nhiều biến động với những diễn biến thời tiết phức tạp. Khu vực vùng núi phía Bắc có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 210C đến 230C ; lượng mưa trung bình từ 1.700-2.000mm, mùa mưa thường từ tháng 4 đến tháng 9. ở các vùng núi cao có nhiệt độ thấp hơn: Sa Pa (ở độ cao 1.570m) có nhiệt độ trung bình hàng năm là 15,20C, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất (tháng 1) là 8,50C, tháng cao nhất (tháng 7) là 19,80C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối có năm đã xuống tới -3,20C (ngày 14-12-1975). Khu vực này ít chịu ảnh hưởng của bão nhưng có nhiều loại gió địa phương gây trở ngại cho hoạt động du lịch như gió Tây khô nóng (gió Lào), gió Than Uyên, gió Ô Quy Hồ. Khu vực trung du chuyển tiếp từ vùng núi phía Bắc xuống đồng bằng Bắc Bộ có khí hậu ấm áp hơn, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 230C - 240C, lượng mưa trung bình từ 1.600 - 1.900mm và mùa mưa thường từ tháng 5 đến tháng 10. Các tháng cuối năm và đầu năm thời tiết đẹp, trời ấm áp, khô ráo, dễ chịu rất thích hợp với các hoạt động lễ hội, du lịch. Việc sử dụng giản đồ tương quan giữa nhiệt độ và độ ẩm tuyệt đối trung bình để tính khả năng thích ứng của con người với khí hậu cho hoạt động du lịch cho thấy điều kiện thời tiết, khí hậu thích hợp nhất với con người Việt Nam là có nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 15oC đến 23oC và độ ẩm từ 14mb đến 21mb. Theo căn cứ trên, vùng núi phía Bắc là lãnh thổ trong một năm trung bình có khoảng 5 tháng rất thuận lợi cho sức khỏe con người và hoạt động du lịch, 2-3 tháng có điều kiện thuận lợi và khoảng 4-5 tháng ít thuận lợi (Bảng 3), tuy nhiên trong các tháng ít thuận lợi (thường là các tháng có thời tiết oi bức, nóng nực) một số địa điểm ở vùng núi cao như Sapa,
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Mẫu Sơn, Mộc Châu, ... nơi có khí hậu mát mẻ hơn lại thuận lợi cho hoạt động du lịch, đặc biệt là du lịch nghỉ dưỡng.
Các tiểu vùng Tây Bắc Đông Bắc
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Rất thích hợp
Thích hợp
Ít thích hợp
Bảng 3 : Mức độ thuận lợi của khí hậu đối với hoạt động du lịch ở vùng núi phía Bắc
Ghi chú: Vùng núi phía Bắc là vùng chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa Đông Bắc, trung bình mỗi có 20-25 đợt gió mùa Đông Bắc. Ảnh hưởng này có sự giảm dần từ Bắc xuống Nam. Ngoài ra vùng núi phía Bắc cũng là vùng chịu ảnh hưởng của bão, tập trung từ tháng 6 đến tháng 9, đặc biệt là ở khu vực duyên hải Đông Bắc. Những ngày bị ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và bão thời tiết chuyển xấu, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động du lịch. Tuy nhiên nhìn chung đặc điểm khí hậu, thời tiết của vùng núi phía Bắc là thuận lợi cho các hoạt động du lịch. Chính đặc điểm này đã tạo nên sự đa dạng về các giá trị tự nhiên, cảnh quan lãnh thổ, làm tăng tính hấp dẫn du lịch của vùng. Cần biết phát huy những thuận lợi về đặc điểm khí hậu, thời tiết để phát triển nhiều loại hình du lịch, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, vừa phát huy vừa khắc phục được tính mùa vụ của hoạt động du lịch ở vùng này. Sự an toàn và bất trắc của môi trường tự nhiên có tính chất quy luật, đặc biệt đối với vùng núi phía Bắc, một vùng có diện tích không lớn song có địa hình chia cắt mạnh. Ở lãnh thổ này bão lũ, gió mùa Đông Bắc thường xảy ra hàng năm nhưng thường không gây tác hại lớn. Những năm gần đây hiện tượng động đất có xảy ra ở một số nơi trong vùng như Lai Châu, Điện Biên và đã gây ra một số thiệt hại về nhà cửa, công trình xây dựng. Đây là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu, dự báo để giảm thiểu những tác động đến dân sinh, kinh tế cũng như ảnh hưởng đến hoạt động du lịch. Các trở ngại cho hoạt động du lịch thường xảy ra vào mùa mưa và những ngày có thời tiết xấu như bão, gió mùa Đông Bắc. Ở một số nơi có thể gây ách tắc giao
57
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Sự an toàn và bất trắc của môi trường tự nhiên
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Những biến đổi bất thường của đặc điểm khí hậu, thời tiết cũng thường gây nên
58
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
thông như úng lụt, lở đất. Cũng cần chú ý đề phòng các ổ dịch bệnh tự nhiên, sinh vật độc hại (ruồi, muỗi, rắn, thú dữ, thức ăn lạ...) đối với khách du lịch. những khó khăn đột xuất cho khách du lịch và các hoạt động du lịch. Vùng núi và cao nguyên chiếm diện tích chủ yếu của lãnh thổ vùng núi phía Bắc vì vậy có vai trò hết sức to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội vùng nói chung đối với phát triển du lịch nói riêng. Môi trường du lịch vùng lãnh thổ này có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với lớp phủ thực vật vì đó vừa là "áo giáp" bảo vệ khỏi các hiện tượng trượt lở, vừa điều hòa lượng nước ngầm, hạn chế lũ lụt và đặc biệt rừng còn là môi trường để bảo tồn và phát triển các loài động vật quí hiếm - đối tượng có sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách. Do nhiều nguyên nhân, rừng nhiệt đới ở vùng núi vùng núi phía Bắc trải qua hơn 50 năm (từ 1943) đã bị thu hẹp tới hơn 2/3 diện tích (theo Morant năm 1943 diện tích rừng chiếm khoảng 60% toàn lãnh thổ khu vực). Kèm theo tốc độ tàn phá rừng là sự nghèo kiệt của thảm thực vật, sự huỷ hoại hàng loạt ổ sinh thái tự nhiên của các loài động vật hoang dại. Số lượng cá thể và số lượng loài động vật hoang dại có ý nghĩa du lịch trở nên ít ỏi, nhiều loài đã bị tuyệt chủng và một số loài đang có nguy cơ bị diệt vong. Việc chặt phá rừng không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sự bảo tồn và phát triển của nhiều hệ sinh thái mà còn làm mất đi sự hấp dẫn của các cảnh quan tự nhiên vốn rất có giá trị trong các hoạt động du lịch. Có thể nói tuyến du lịch Tây Bắc: Hà Nội - Yên Bái - Lào Cai - Sa Pa - Lai Châu - Điện Biên - Sơn La - Mộc Châu - Hoà Bình - Hà Nội chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn rất nhiều nếu như các cảnh quan, đặc biệt là rừng, được phục hồi. Hiện nay tuyến du lịch này vẫn còn thu hút được sự quan tâm của khách bởi tính đặc sắc của các lễ hội, phong tục và những nét sinh hoạt truyền thống của đồng bào dân tộc Thái, H' Mông, Dao v.v... Nếu như có sự đầu tư để bảo vệ và phục hồi lại cảnh quan môi trường, chắc chắn các tuyến du lịch tới vùng núi vùng núi phía Bắc sẽ có sức hấp dẫn đặc biệt không chỉ đối với khách du lịch quốc tế, mà còn đối với cả khách du lịch nội địa. Hiện tượng xói mòn đất, lũ lụt gia tăng một cách đáng kể ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động du lịch, đặc biệt là việc vận chuyển khách theo đường bộ, cũng là hậu quả của việc chặt phá rừng ở vùng núi phía Bắc trong những năm qua. Việc huỷ hoại môi trường đã góp phần làm gia tăng đáng kể quá trình xuống cấp của hệ thống đường giao thông vùng núi vùng núi phía Bắc vốn dĩ đã rất lạc hậu do nhiều năm ít được đầu tư nâng cấp. Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý khách khi đến với
BÁO CÁO TỔNG HỢP
vùng núi trong những điều kiện như vậy, tạo môi trường kém thuận lợi cho hoạt động phát triển du lịch ở khu vực này. Một trong những vấn đề đáng lo ngại về môi trường tác động đến hoạt động du lịch là nguy cơ trượt lở đất, đá do những chấn động để lại trong quá trình khai thác vật liệu xây dựng. Trong thực tế cho đến nay chưa có trường hợp đáng tiếc nào xảy ra do sự suy giảm môi trường địa chất địa mạo bởi nguyên nhân trên. Tuy nhiên nếu không có các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ cảnh quan và phòng chống nguy cơ cho hoạt động khai thác vật liệu xây dựng rất phổ biến, thậm chí cả ở những khu vực có tiềm năng du lịch hang động, du lịch thể thao núi v.v..., thì yếu tố môi trường này sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển du lịch ở vùng núi vùng núi phía Bắc. 4. Đánh giá thực trạng phát triển sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm chủ yếu
ở vùng núi phía Bắc
Kết quả điều tra khảo sát và phân tích các tư liệu, thông tin về du lịch TTMH ở
4.1 . Thực trạng phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm chính Mặc dù là một lãnh thổ có tiềm năng du lịch, đặc biệt là du lịch khám phá, du lịch TTMH, tuy nhiên thời gian qua hoạt động phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc còn nhiều hạn chế. vùng núi phía Bắc cho thấy :
Về lãnh thổ : Cho đến nay ở vùng núi phía Bắc, hoạt động phát triển du lịch TTMH mới được
tổ chức ở một số khu vực chủ yếu sau :
59
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
4. Vùng núi Phan Xi Phăng (Sa Pa, Lào Cai) : đây là khu vực có địa hình núi cao với đỉnh núi Phan Xi Phăng cao 3.142m được mệnh danh là “nóc nhà” Đông Dương. Chinh phục địa hình núi cao được xem là “đích” của các hành trình du lịch TTMH ở khu vực này. Ngoài ra, các giá trị sinh thái của hệ sinh thái núi cao, đặc biệt là các giá trị đa dạng sinh học ở vườn quốc gia Hoàng Liên với nhiều loài sinh vật quý hiếm như Pơmu, Lãnh sam, Thiết sam, Thông đỏ, Đỗ quyên, v.v.; các giá trị văn hóa ở một số bản dân tộc như bản Hồ, bản Tả Phìn, bản Cát Cát, bản Xín Chải là “thành phần” không thể thiếu trong các sản phẩm du lịch TTMH ở khu vực này. Hiện nay, phần lớn các công ty du lịch lữ hành có sản phẩm du lịch TTMH đều chọn khu vực này để khai thác.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
5. Vùng núi Tây Côn Lĩnh (từ địa phận Hoàng Su Phì đến cửa khẩu Thanh Thủy), Hà Giang : đây là vùng núi còn tương đối hoang sơ và hệ thống giao thông rất khó khăn, đặc biệt đối với những hành trình khám phá, TTMH có sử dụng phương tiện cơ giới như xe gắn máy, xe ô tô. Các giá trị chủ yếu được khai thác ở khu vực này để phát triển các sản phẩm du lịch TTMH là độ dốc địa hình núi cao với độ cao của đỉnh Tây Côn Lĩnh tới 2.419m, cảnh quan và sinh hoạt truyền thống của một số bản dân tộc H’Mông.
6. Khu vực Mèo Vạc – Đồng Văn: Đồng Văn là huyện vùng cao biên giới tỉnh Hà Giang. Độ cao khu vực này so với mực nước biển khoảng 1.000m. Đây được xem là khu vực địa đầu phía Bắc Tổ quốc với điểm cực Bắc của Việt Nam là Lũng Cú. Địa hình ở Đồng Văn là một “cánh đồng” karst (cao nguyên đá tai mèo) rất điển hình với cảnh quan hấp dẫn. Đến Đồng Văn, du khách có cơ hội đến thăm Dinh họ Vương (Vương Chí Sinh) ở xã Xà Phìn, cách huyện lỵ Đồng Văn khoảng 24 Km. Đây là một công trình kiến trúc đẹp và rất độc đáo của cao nguyên đá, được công nhận là di tích văn hóa cấp quốc gia từ năm 1993.
Đường đến Đồng Văn Lũng Cú – điểm cự Bắc
Văn hóa bản địa được xem là khá điển hình ở khu vực này là chợ Khau Vai, huyện Mèo Vạc. Chợ là nơi tìm lại bạn tình xưa để tâm sự - một nét văn hóa rất độc đáo của người H’Mông. Trước năm 1992, chợ họp mỗi năm một lần vào ngày 27 tháng 3 âm lịch, còn sau năm 1992, chợ họp 5 ngày một lần.
7. Khu vực Mù Căng Chải hay Tà Sì Láng (Yên Bái) : với những giá trị chủ yếu về cảnh quan và văn hóa bản địa, đặc biệt là lễ hội của đồng bào H’Mông, Tày. Những giá trị này hiện đang được một số công ty du lịch như Topas Travel; Bufalo; Marco Polo; Exotisimo; Hồng Bàng (Youth Action Tour) khai thác để xây dựng một số sản phẩm du lịch đi bộ dã ngoại (tracking - soft adventure).
60
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
8. Khu vực Na Hang – Ba Bể : đây là khu bảo tồn thiên nhiên trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang gắn với vườn quốc gia Ba Bể - Di sản thiên nhiên ASEAN trên địa bàn tỉnh
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Bắc Kạn, nơi có nhiều giá trị cảnh quan, điển hình là thác Mơ (Na Hang), hồ Ba Bể - hồ tự nhiên trên địa hình núi karst và các giá trị sinh thái điển hình của rừng nhiệt đới trên núi đá vôi được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Tới đây khi hồ thủy điện Na Hang được hình thành ổn định thì khu vực này sẽ có thêm được những giá trị sinh thái và cảnh quan hồ. Đây là những giá trị tự nhiên mà bước đầu đã được các công ty du lịch khai thác để phát triển một số sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc.
9. Khu vực thượng nguồn sông Đà : trên địa bàn các huyện Mường La, Quỳnh Nhai (Sơn La) và các huyện Tam Đường, Sìn Hồ (Lai Châu). Đây là khu vực có địa hình chia cắt tạo nên những cảnh quan hùng vĩ, tôn lên sự hiểm trở của sông Đà. Đây là nơi có nhiều hang động, điển hình là hang động Tiên Sơn (Tam Đường) với 49 khoang còn tương đối hoang sơ. Đây cũng là khu vực tập trung nhiều bản dân tộc Thái, nơi còn lưu giữ được nhiều giá trị sinh hoạt văn hóa truyền thống.
10. Khu vực Đà Bắc - Mai Châu - Tân Lạc (Hòa Bình) : nơi có hồ Hòa Bình khu bảo tồn thiên nhiên Phù Luông, nhiều hang động mà điển hình là hang Bụt, hang Muối, và các bản dân tộc Mường (bản Cun), dân tộc Thái (bản Lác), dân tộc H’Mông (bản Xà Lĩnh ). Thời gian gần đây nhiều công ty du lịch đã xây dựng các chương trình đi bộ dã ngoại (tracking) khám phá thiên nhiên khu bảo tồn Phù Luông và tìm hiểu các giá trị văn hóa các dân tộc ở khu vực này.
11. Khu vực các dạng địa hình phễu karst (tùng, áng) trong khu vực quần thể đảo thuộc di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Các giá trị chủ yếu được khai thác để phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở khu vực này là cảnh quan và cấu trúc địa hình đặc thù của địa hình tùng, áng rất đặc biệt. Ngoài ra, các giá trị sinh thái, đặc biệt là đa dạng sinh học (trên đảo đá và dưới nước trong các tùng, áng) cũng bước đầu được các doanh nghiệp khai thác nhằm tạo ra các giá trị đặc thù của các sản phẩm du lịch TTMH ở khu vực này.
Về sản phẩm du lịch :
Các sản phẩm du lịch TTMH chủ yếu được xây dựng trên cơ sở khai thác các
giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa vùng núi phía Bắc thời gian qua bao gồm :
61
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Các tuyến đi bộ dã ngoại (tracking) : đây là sản phẩm chủ yếu được nhiều công ty du lịch lữ hành xây dựng và chào bán khách du lịch. Các chương trình (tours) du lịch TTMH này thường có thời gian không dài, trung bình khoảng 5 ngày 4
BÁO CÁO TỔNG HỢP
đêm với trọng tâm là khám phá cảnh quan còn tương đối nguyên sơ ở các vùng núi cao, vườn quốc gia hoặc khu bảo tồn thiên nhiên; tìm hiểu các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc tiêu biểu ở vùng núi phía Bắc như dân tộc Thái, Mường, H’Mông, Dao, Tày tại các bản được lựa chọn trên tuyến dã ngoại.
Sở dĩ các công ty tập trung chủ yếu xây dựng các sản phẩm du lịch dã ngoại bởi “nội hàm” của loại sản phẩm này là khá đơn giản, ít phải đầu tư về tài chính, kinh nghiệm và các phương tiện vận chuyển, thiết bị đảm bảo an toàn, v.v. như đối với việc phát triển những sản phẩm du lịch TTMH khác. Đây có lẽ là ưu điểm chủ yếu của loại sản phẩm này và cũng vì điểm đó mà được các công ty lựa chọn để xây dựng.
Hơn thế nữa tính “rủi ro” trong quá trình kinh doanh những sản phẩm này không cao và giá thành những sản phẩm du lịch TTMH này hiện khá phù hợp với khả năng thanh toán của thị trường với những đối tượng khách quốc tế là “Tây ba lô” (backpacking) và khách du lịch nội địa. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy, đến 95,6% các hướng dẫn viên được sử dụng hướng dẫn đối với các tours du lịch dã ngoại ở Hòa Bình, Sơn La, Bắc Kạn, v.v. thiếu kiến thức về xử lý tình huống nảy sinh có khả năng ảnh hưởng đến sự an toàn của du khách. Đây là vấn đề rất cần lưu ý khi phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc ngay cả đối với những sản phẩm đơn gian như du lịch dã ngoại.
62
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Các chương trình (tours) khám phá vùng núi phía Bắc bằng xe mô tô/xe đạp: những chương trình này chủ yếu được tổ chức ở khu vực vùng núi Tây Bắc trên địa bàn các địa phương Hòa Bình, Điện Biên, Lai Châu, Lao Cai, và Hà Giang. Về bản chất (nội hàm) của loại sản phẩm du lịch TTMH này cũng không có sự khác biệt nhiều so với các sản phẩm du lịch tracking. Điểm khác biệt của loại sản phẩm này so với các sản phẩm du lịch tracking là cự ly thường dài hơn, thời
BÁO CÁO TỔNG HỢP
gian tours cũng vì vậy dài hơn; tính phức tạp trong tổ chức có cao hơn và kèm theo đó là khả năng “rủi ro” cũng cao hơn. Hơn thế nữa các sản phẩm du lịch TTMH này đòi hỏi cần có đầu tư cao hơn, ít nhất là đầu tư về phương tiện.
Tuy nhiên đứng về góc độ nào đó thì việc xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH loại này cũng khá đơn giản phù hợp với khả năng của phần lớn các doanh nghiệp du lịch lữ hành Việt Nam tại thời điểm này. Chính vì vậy các sản phẩm du lịch TTMH này hiện cũng khá phổ biến chỉ đứng sau du lịch tracking. Kết quả điều tra một số công ty du lịch lữ hành có tổ chức hình thức du lịch TTMH này ở vùng núi phía Bắc như công ty Bufalo; Marco Polo; Exotisimo; Công ty du lịch “Offroad”, thì dịch vụ hướng dẫn khách sử dụng phương tiện (đặc biệt là xe mô tô) còn chưa được tốt ; dịch vụ « cứu hộ » trong trường hợp phương tiện bị hỏng giữa đường, vì vậy ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm du lịch dưới hình thức các tours du lịch khám phá. Đây cũng là vấn đề cần được hoàn thiện đối với các sản phẩm du lịch TTMH loại này ở vùng núi phía Bắc.
63
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Du lịch leo núi : bao gồm hai dạng chủ yếu là leo vách núi (rock climbing) và chinh phục các đỉnh núi (mountain climbing). Cho đến nay ở vùng núi phía Bắc du lịch chinh phục các đỉnh núi vẫn là sản phẩm du lịch TTMH chính được xây dựng. Các chương trình (tours) du lịch này hiện chủ yếu mới được các công ty du lịch lữ hành xây dựng ở vùng núi Phan Xi Phăng (Sa Pa – Lào Cai) và hiện đang rất thu hút được sự quan tâm của du khách quốc tế và nội địa cũng như của các nhà thể thao chuyên nghiệp khi đến vùng núi phía Bắc.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Đối với những sản phẩm du lịch TTMH loại này, dịch vụ huấn luyện hiện còn hạn chế. Các Hướng dẫn viên thường kiêm luôn vai trò ‘huấn luyện viên’ vì vậy chất lượng đối với dịch vụ này hiện chưa cao và đây được xem là nguyên nhân chính trong một số trường hợp xảy ra ‘sự cố’ trên hành trình chinh phục đỉnh Phan Xi Phăng.
(cid:131) Du lịch chèo thuyền : đây là loại sản phẩm du lịch TTMH tương đối phổ biến
và rất được ưa chuộng trên thế giới.
Loại sản phẩm du lịch này gồm 2 loại phổ biến là chèo thuyền chuyên dụng (bằng nhựa tổng hợp hoặc cao su đặc biệt) hoặc thả bè (được ghép bằng tre/luồng hoặc cây gỗ) vượt thác ghềnh (rafting) và chèo thuyền
để khám phá thiên nhiên (kayaking/canyoning). Mặc dù ở vùng núi phía Bắc có nhiều con sông lớn như sông Đà , sông Hồng, v.v. có điều kiện để tổ chức loại hình du lịch TTMH với nhiều sản phẩm hấp dẫn, tuy nhiên cho đến nay sản phẩm này lần đầu tiên mới được Công ty Vietnamtourism tại Hà Nội xây dựng trong khuôn khổ Tour du lịch thể thao - mạo hiểm “Raid Gouloises” năm 2002. Hiện nay sản phẩm du lịch TTMH này còn giới hạn chủ yếu ở khu vực vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Nguyên chủ yếu của tình trạng này là để phát triển loại sản phẩm du lịch TTMH hiểm này đòi hỏi phải đầu tư mua sắm các loại thuyền đặc dụng và cần có huấn luyện viên để hướng dẫn cho khách trước khi sử dụng sản phẩm nay. Hơn thế nữa, du khách khi tham gia loại hình du lịch này cần có bảo hiểm bởi khả năng rủi ro. Do vậy chi phí chung cho việc xây dựng sản phẩm tương đối cao và hiện là chưa phù hợp với các doanh nghiệp lữ hành hiện nay ở Việt Nam.
Như vậy có thể thấy “bức tranh” hiện trạng các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc là khá “nghèo nàn” mặc dù tiềm năng và điều kiện để xây dựng loại sản phẩm này là khá phong phú và thuận lợi. 4.2.
64
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Thực trạng thu hút khách đối với những sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm hiện có của vùng
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy thời gian qua, các sản phẩm du lịch TTMH được xây dựng ở vùng núi phía Bắc như đã đề cập ở trên mới thu hút được sự quan tâm của một số thị trường sau :
Khách du lịch quốc tế : chủ yếu là những du khách đến từ các nước Tây Âu (chiếm tới 86,2% lượng khách được điều tra) bao gồm Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Pháp; khách từ các nước Úc và Bắc Mỹ chiếm có 9,1% và còn lại là từ các thị trường khác.
Khách du lịch quốc tế tham gia các hoạt động du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc phần lớn có độ tuổi từ 25- 35 tuổi (chiếm tới 76,8% lượng khách được điều tra); và từ 36 - 45 tuổi (chiếm 20,1% lượng khách được điều tra)
Một điều đáng lưu ý là khách du lịch từ thị trường châu Á còn rất ít quan tâm (hoặc có thể chưa được biết đến) các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc. Chỉ có một lượng nhỏ khách du lịch từ Nhật Bản và Hàn Quốc tham gia vào tours du lịch chinh phục đỉnh Phan Xi Phăng và đi dã ngoại trên cao nguyên Đồng Văn.
Khách du lịch nội địa : chủ yếu là từ Hà Nội (chiếm tới 79,2% lượng khách được điều tra) và TP. Hồ Chí Minh (chiếm 17,6% lượng khách được điều tra); trong đó có tới 80,6% khách du lịch có độ tuổi từ 20 – 35 tuổi; 12,6% ở độ tuổi từ 36- 45.
Những sản phẩm mà khách du lịch nội địa quan tâm nhiều là chinh phục núi Phan Xi Phăng, các tuyến du lịch dã ngoại ở các khu bảo tồn tự nhiên hoặc vườn quốc gia; một số tours du lịch bằng xe máy trên các tuyến đường từ Lào Cai sang Hà Giang; 4.3.
Những thuận lợi, khó khăn cơ bản trong phát triển sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc
Qua nghiên cứu thực trạng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi
phía Bắc có thể thấy một số thuận lợi và khó khăn cơ bản bao gồm :
Thuận lợi :
65
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Du lịch TTMH là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa bản địa có ý nghĩa giáo dục môi trường và góp phần cho nỗ lực bảo tồn, vì vậy được khuyến khích phát triển ở Việt Nam nói chung và ở vùng núi phía bắc nói riêng. Hơn thế nữa phát triển du lịch TTMH sẽ góp phần tích cực vào đa dạng hóa các sản phẩm du lịch Việt Nam, góp phần nâng cao tính hấp dẫn và cạnh tranh của du
BÁO CÁO TỔNG HỢP
lịch Việt Nam. Điều này đã được khẳng định trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam;
(cid:131) Vùng núi phía Bắc là một lãnh thổ mà ở đó trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế, đời sống của cộng đồng người dân, đặc biệt là cộng đồng các dân tộc ít người còn nhiều khó khăn. Vì vậy phát triển du lịch, đặc biệt là những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch TTMH, gắn với xóa đói giảm nghèo là hướng tiếp cận được nhà nước khuyến khích phát triển ở vùng núi phía Bắc;
(cid:131) Vùng núi phía Bắc là lãnh thổ có tiềm năng du lịch TTMH khá phong phú và đa dạng; các điều kiện để tổ chức xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở đây là khá thuận lợi. Đặc biệt phát triển du lịch nói chung, du lịch TTMH nói riêng được chính quyền và người dân địa phương ủng hộ vì sự phát triển du lịch tạo được nhiều cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập của cộng đồng; (cid:131) Nhu cầu đối với các sản phẩm du lịch tự nhiên gắn với văn hóa bản địa nói
chung, du lịch TTMH nói riêng ngày càng cao
Khó khăn :
(cid:131) Hiện chưa có chính sách và chiến lược riêng cho phát triển loại hình du lịch TTMH ở Việt Nam, vì vậy việc phát triển du lịch TTMH ở Việt Nam nói chung và ở vùng núi phía Bắc nói riêng sẽ không được thuận lợi đứng từ góc độ chính sách cụ thể;
66
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Mặc dù vùng núi phía Bắc, bao gồm tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc; tiểu vùng du lịch miền núi Đông Bắc và một phần tiểu vùng du lịch duyên hải Đông Bắc đã có định hướng phát triển du lịch chung cho lãnh thổ trong khuôn khổ Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tuy nhiên quy hoạch chuyên đề về du lịch TTMH cho lãnh thổ này cho đến nay chưa được thực hiện. Đây là khó khăn về pháp lý và định hướng chiến lược để xây dựng các sản phẩm TTMH cụ thể; (cid:131) Vùng núi phía Bắc có địa hình chia cắt lại nằm trên 2 đứt gãy địa chất lớn, vì vậy thường chịu ảnh hưởng của các tai biến môi trường như động đất, trượt lở, lũ quét. Đây sẽ là những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động phát triển du lịch nói chung, du lịch TTMH nói riêng ở vùng lãnh thổ này. Khó khăn này càng trở nên lớn trong bối cảnh diện tích rừng ở vùng này vẫn bị suy giam do tác động của con người.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
5. Một số nguyên nhân chủ yếu hạn chế sự phát triển của các sản phẩm du lịch
thể thao - mạo hiểm
Qua phân tích tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch TTMH nói chung và việc xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc có thể thấy một số nguyên nhân chủ quan và khách quan chủ yếu bao gồm :
Các nguyên nhân chủ quan
5.1 .
(cid:131) Mặc dù là loại hình du lịch được khuyến khích phát triển, nhất là trong bối cảnh phát triển ở một lãnh thổ nơi cuộc sống của cộng đồng còn nhiều khó khăn, tuy nhiên cho đến nay chiến lược/quy hoạch/kế hoạch cụ thể cho việc phát triển những sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc chưa được cụ thể hóa ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trách nhiệm này chủ yếu thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương trong vùng. (cid:131) Các công ty lữ hành hiện còn rất thiếu kinh nghiêm trong tổ chức phát triển loại hình du lịch TTMH, đặc biệt là xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể. Một trong những khó khăn của vấn đề này là trong cấu thành “dịch vụ” của sản phẩm du lịch TTMH có nhiều loại dịch vụ khác với những dịch vụ như đối với những sản phẩm du lịch thông thường khác. Ví dụ như dịch vụ thông tin liên lạc, dịch vụ cứu hộ, dịch vụ huấn luyện các kỹ thuật cơ bản; v.v.
(cid:131) Các nhà đầu tư, cụ thể là các công ty lữ hành, chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh riêng đối với những sản phẩm du lịch TTMH; chưa mạnh dạn chủ động điều tra khảo sát thị trường và đầu tư xây dựng các sản phẩm TTMH; (cid:131) Du lịch TTMH đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, tuy nhiên cho đến nay đội ngũ
cán bộ, lao động có trình độ trong lĩnh vực này còn rất hạn chế.
Các nguyên nhân khách quan
5.2 .
(cid:131) Thiếu sự phối hợp giữa các ngành có liên quan (du lịch, biên phòng, an ninh, thông tin liên lạc); giữa ngành với chính quyền các địa phương trong vùng trong việc tổ chức xây dựng và thực hiện các chương trình (tours) du lịch TTMH trên địa bàn;
67
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Chưa có quy định cụ thể ở Việt Nam đối với hoạt động cứu hộ trong hoạt động du lịch nói chung và đặc biệt là hoạt động du lịch TTMH. Điều này làm các nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn khi đưa ra quyết định xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể ở vùng núi phía Bắc, đặc biệt đối với những sản phẩm, mặc dù rất
BÁO CÁO TỔNG HỢP
hấp dẫn, những có độ rủi ro cao (đứng từ góc độ an toàn) như du lịch vượt thác ghềnh, du lịch leo vách núi, du lịch tàu lượn, v.v.
6. Xác lập những định hướng chính phát triển các sản phẩm du lịch thể thao –
mạo hiểm chủ yếu ở vùng núi phía Bắc
Không gian/khu vực thuận lợi để phát triển du lịch TTMH
6.1.
6.1.1 Ứng dụng GIS trong xác định không gian thuận lợi phát triển du lịch
TTMH
Không gian thuận lợi phát triển du lịch: được hiểu là khu vực tập trung nhiều tài nguyên du lịch đặc sắc với những điều kiện thuận lợi cho hoạt động phát triển hoạt động du lịch. Tuy nhiên điều đó không nhất thiết được hiểu là phải có mặt bằng hoặc cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển bởi đối với một số loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm, du lịch thể thao leo núi... không đòi hỏi phải có những điều kiện này, thậm chí việc phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại sẽ có những tác động không thuận chiều đến sự phát triển của chúng.
Chính vì vậy, việc xác định không gian thuận lợi phát triển du lịch thường chỉ căn cứ đến đặc điểm phân bố không gian tài nguyên du lịch, trong đó chú trọng hơn tới những tài nguyên đặc sắc có tính đặc thù của lãnh thổ nghiên cứu. Ngoài ra để xác định không gian này cũng cần lưu ý đến những khả năng tai biến tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động phát triển du lịch như trượt lở đất đá do các quá trình ngoại sinh, động đất do các hoạt động kiến tạo.v.v...
Đối với du lịch TTMH, không gian thuận lợi cho phát triển đứng từ góc độ tài
nguyên chủ yếu dựa trên những yếu tố thành phần sau :
- Địa hình : Là thành phần có ý nghĩa đặc biệt, trong đó yếu tố độ dốc có vai trò quan trọng nhất, làm nền tảng cho hoạt động du lịch TTMH. Trong thực tế, các hoạt động/hình thức du lịch TTMH thường được tổ chức ở những nơi có địa hình chia cắt với độ dốc khá cao. Vai trò này của địa hình không chỉ đúng khi lựa chọn những khu vực đồi núi cho phát triển du lịch TTMH mà còn đúng cả trong trường hợp khi lựa chọn các dòng sông, bởi chỉ những dòng sông/suối chảy trên địa hình chia cắt mới có thể có những thác, ghềnh nơi khách du lịch sẽ có được cảm giác “mạo hiểm” khi “du ngoạn” vượt qua chúng.
68
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Bên cạnh yếu tố “độ dốc” còn có những yếu tố “phụ” song cũng rất quan trọng cần được tính đến trong quá trình xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch
BÁO CÁO TỔNG HỢP
TTMH, bao gồm sự hiện diện của các “đỉnh cao” và của các “hang động”. Trong thực tế, nhiều đỉnh núi cao, hang động sâu là mục tiêu chinh phục của du khách ưu thích loại hình du lịch TTMH.
Bản đồ đánh giá thành phần được xây dựng có tính đến những yếu tố phụ bằng
việc xác định mật độ các “đỉnh cao” hoặc “hang động” trên phạm vi lãnh thổ nghiên.
- Hệ thống thủy văn (sông, suối, hồ): Đây là thành phần quan trọng thứ hai cần được xem xét khi xác định không gian cho phát triển du lịch TTMH. Cùng với những cảm giác “mạo hiểm”, du khách sẽ có được khi tham gia hoạt động du lịch TTMH. Trong trường hợp này, hệ thống thủy văn, đặc biệt là hệ thống sông, không chỉ được sử dụng với tư cách là một dạng tài nguyên tạo ra môi trường thể thao cũng như cảm giác mạo hiểm khi du khách vượt thác/ghềnh trên các dòng sông/suối như đã phân tích ở trên, mà trong quá trình di chuyển dọc các dòng sông/suối hoặc trên các hồ nước lớn, du khách còn được cảm nhận các giá trị cảnh quan tự nhiên ở những khu vực mà dòng sông/suối chảy qua. Đây cũng sẽ là những khám phá mà du khách trông đợi trong các chuyến (tours) du lịch TTMH ở vùng núi.
Đối với yếu tố thành phần thủy văn, độ dốc và địa hình lòng sông có ý nghĩa quan trọng bởi đây là những yếu tố tạo tốc độ dòng chảy và những “chướng ngại” tự nhiên tạo ra cảm giác “mạo hiểm” cũng như tính thể thao trên dọc hành trình du lịch. Chính vì vậy, khi đánh giá và lựa chọn các dòng sông/suối hoặc các hồ nước với tư cách là tài nguyên du lịch để xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể cần chú ý tới những yếu tố này.
Cấu trúc cơ sở dữ liệu được sử dụng trong GIS
- Giá trị cảnh quan, sinh học và văn hóa bản địa: Các giá trị về cảnh quan, sinh học (chủ yếu là sự hiện diện của thảm rừng với các giá trị đa dạng sinh học), và văn hóa bản địa được xem là những hấp dẫn đặc biệt đối với du khách khi tham gia hoạt động du lịch TTMH để khám phá một miền đất mới. Chính vì vậy khi xây dựng các chương trình (tours) du lịch TTMH, những yếu tố này luôn được quan tâm xác định và đưa vào “cấu thành” sản phẩm.
69
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Với những phân tích về vai trò của các yếu tố thành phần trong phát triển du lịch TTMH; để phục vụ cho việc ứng dụng công nghệ GIS nhằm đánh giá và xác định không gian thuận lợi phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc làm cơ sở xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể, các thông tin bản đồ được số hoá cũng như các thông tin thuộc tính chủ yếu cần được đưa vào cơ sở dữ liệu bao gồm :
BÁO CÁO TỔNG HỢP
- Các lớp thông tin về bản đồ nền:
(cid:131) Lớp ranh giới hành chính cấp tỉnh; (cid:131) Lớp hệ thống giao thông chính (quốc lộ, tỉnh lộ, đường sắt, ...);
- Các lớp thông tin về các bản đồ yếu tố thành phần chính:
(cid:131) Lớp thông tin chính của bản đồ thành phần địa hình được sử dụng trong đánh giá sẽ là độ dốc với mô hình tính tự động với các cấp độ dốc được đưa ra. Trên nền thông tin chính này, có bổ sung các thông tin về các “đỉnh cao” và “hang động” thông qua mật độ các “đỉnh cao” và “hang động”;
(cid:131) Lớp thông tin chính của bản đồ hệ thống thủy văn được sử dụng trong đánh giá sẽ là hệ thống sông, suối, và hồ trên đó có bổ sung thông tin về độ dốc lòng sông, sự hiện diện của thác, ghềnh dọc các sông, suối chính; và sự hiện diện và phân bố của các làng/bản dân tộc (nơi còn bảo tồn, lưu giữ được các giá trị văn hóa truyền thống chủ yếu như sinh hoạt truyền thống, nghề truyền thống, kiến trúc truyền thống, lễ hội truyền thống) thông qua mật độ tập trung các bản/làng; các giá trị cảnh quan đặc biệt (hồ nước, thác, v.v.) ;
(cid:131) Các lớp thông tin chính của bản đồ lớp phủ thực vật – giá trị đa dạng sinh học (trong đó các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên có vai trò đặc biệt) và cảnh quan đẹp, hấp dẫn (thác nước, đèo, v.v.);
Các cấp độ đánh giá :
Dựa trên phân tích về ý nghĩa, vai trò và mức độ quan trọng của các yếu tố thành phần cũng như các yếu tố cụ thể trong từng thành phần đối với phát triển du lịch TTMH nói chung và các sản phẩm du lịch TTMH nói riêng, cấp độ đánh giá đối với các yếu tố thành phần cũng như nhứng yếu tố cụ thể được xác định như sau :
- Thành phần về địa hình : là thành phần quan trọng nhất đứng từ góc độ tài nguyên để phát triển du lịch TTMH vì vậy sẽ có Hệ số 3 trong thang điểm đánh giá chung đối với các thành phần chủ yếu tham gia vào phát triển du lịch TTMH.
70
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Dựa trên cấp “độ dốc” và các yếu tố phụ là sự hiện diện của các “đỉnh cao” và “hang động”, điểm đánh giá mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH đối với thành phần “địa hình” được xác định như sau (Bảng 4):
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Bảng 4 : Đánh giá mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH từ góc độ địa hình
Tiêu chí đánh giá
Mức độ đánh giá
Tiêu chí phụ
Tiêu chí chính
Hệ số đánh giá
Điểm đánh giá
(đỉnh cao và hang động)
(độ dốc)
Không có sự hiện diện Không thuận lợi 1 3
Rất ít có sự hiện diện Ít thuận lợi 2 3
Có sự hiện diện Thuận lợi 3 3
Núi đá vôi Dưới 8o Từ 8o – 25o. Trên 25o Có nhiều sự hiện diện Rất thuận lợi 4 3
(Ghi chú : về mặt lý thuyết tiêu chí đánh giá cần được xây dựng dưới dang ma trận đa chiều, trong đó các yếu tố phụ phải gắn với từng lớp yếu tố chính ở tất cả các mức độ hiện diện khác nhau. Tuy nhiên đây là một bài toán mô hình khá phức tạp và sẽ chỉ thuận lợi khi áp dụng cho một lãnh thổ nhỏ cần có những đánh giá chi tiết. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, bước đầu để có đánh giá tổng thể trên phạm vi toàn lãnh thổ vùng núi phía Bắc với sự “phân dị” tương đối rõ giữa các không gian có mức độ thuận lợi khác nhau, việc đưa yếu tố phụ (mật độ các đỉnh cao và hang động) tạm dừng ở mức độ được đưa ra trong Bảng)
- Thành phần về thủy văn, các giá trị văn hóa bản địa và cảnh quan đặc biệt: là thành phần có mức độ quan trọng thứ hai đứng từ góc độ tài nguyên để phát triển du lịch TTMH vì vậy sẽ có Hệ số 2 trong thang điểm đánh giá chung đối với các thành phần chủ yếu tham gia vào phát triển du lịch TTMH.
Dựa trên cấp “độ dốc” của các dòng sông/suối và các yếu tố phụ là sự hiện diện của các “thác/ghềnh”, “hồ nước” và “cảnh quan”, và đặc biệt là sự hiện diện của các bản/làng dân tộc nơi còn lưu giữ/bảo tồn được các giá trị văn hóa truyền thống (sinh hoạt truyền thống, nghề truyền thống, kiến trúc truyền thống, lễ hội truyền thống), điểm đánh giá mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH đối với thành phần “thủy văn” được xác định như sau (Bảng 5):
Bảng 5 : Đánh giá mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH từ góc độ thủy văn, các giá trị văn hóa bản địa và cảnh quan đặc biệt
Tiêu chí đánh giá
Mức độ đánh giá
Hệ số đánh giá
Điểm đánh giá
Tiêu chí phụ ( thác/ghềnh, hồ nước và cảnh quan)
Tiêu chí chính (độ dốc các sông/suối lớn)
Không có sự hiện diện Không thuận lợi
Ít thuận lợi Thuận lợi
Có sự hiện diện Có nhiều sự hiện diện Rất thuận lợi 2 2 2 2 1 2 3 4
71
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Dưới 10% Từ 10% đến 20% Rất ít có sự hiện diện Từ 21.đến 30%. Trên 30%. (Ghi chú : đối với việc xem xét các yếu tố phụ như trong Bảng trên cũng giống như trong trường hợp đối với Địa hình)
BÁO CÁO TỔNG HỢP
- Thành phần về lớp phủ thực vật – đa dạng sinh học và cảnh quan: là thành phần có mức độ quan trọng thứ ba đứng từ góc độ tài nguyên để phát triển du lịch TTMH vì vậy sẽ có Hệ số 1 trong thang điểm đánh giá chung đối với các thành phần chủ yếu tham gia vào phát triển du lịch TTMH.
Dựa trên sự hiện diện của thảm thực vật trong đó đặc biệt là rừng đặc dụng (các vườn quốc gia/khu bảo tồn thiên nhiên - nơi tập trung nhiều giá trị đa dạng sinh học và cảnh quan); các và các yếu tố phụ là sự hiện diện của các “cảnh quan”, “hồ nước” và “cảnh quan”, điểm đánh giá mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH đối với thành phần “thủy văn” được xác định như sau (Bảng 6):
Bảng 6 : Đánh giá mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH từ góc độ lớp phủ thực vật – đa dạng sinh học và cảnh quan
Tiêu chí đánh giá
Mức độ đánh giá
Hệ số đánh giá
Điểm đánh giá
Tiêu chí phụ (cảnh quan)
Không thuận lợi 1 1
Tiêu chí chính (Thảm rừng, VQG/khu BTTN) Thảm cây bụi trên núi đá
1 2 Ít thuận lợi
Thuận lợi 1 3
Không có sự hiện diện của cảnh quan đẹp Rất ít có sự hiện diện của cảnh quan đẹp Có sự hiện diện cảnh quan đẹp Có sự hiện diện nhiều cảnh quan đẹp
Rừng tre, đất trống - cây bụi Rừng rụng lá, rừng hỗ giao Rừng đặc dụng (rừng kín thường xanh, rừng lá kim) (Ghi chú : đối với việc xem xét các yếu tố phụ như trong Bảng trên cũng giống như trong trường hợp đối với Địa hình)
Rất thuận lợi 4 1
Do các tiêu chí đánh giá được đề xuất còn mang nhiều tính định tính, vì vậy
Phương pháp đánh giá :
phương pháp đánh giá cho điểm chủ yếu là phương pháp chuyên gia.
Việc đánh giá xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH vùng núi phía Bắc được tiến hành trên cơ sở ứng dụng hệ thông tin địa (GIS) bằng phương pháp „chồng xếp“ (Overlay) các bản đồ thành phần.
72
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Các bản đồ thành phần được xây dựng bằng phương pháp chuyên gia trên cơ sở phân tích các bản đồ địa hình vùng núi phía Bắc, bản đồ hiện trạng rừng vùng núi phía
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Bắc, và bản đồ hệ thống thủy văn vùng núi phía Bắc (Phụ lục). Kết quả của nghiên cứu này sẽ là các bản đồ thành phần sau :
(cid:131) Bản đồ mức độ thuận lợi tổ chức du lịch TTMH từ góc độ địa hình – độ dốc (Bản đồ 1)
(cid:131) Bản đồ mức độ thuận lợi tổ chức du lịch TTMH từ góc độ thủy văn, giá trị văn hóa bản địa và giá trị cảnh quan đặc biệt (Bản đồ 2); và
(cid:131) Bản đồ mức độ thuận lợi tổ chức du lịch TTMH từ góc độ thảm thực vât – đa
dạng sinh học và cảnh quan (Bản đồ 3) Bản đồ kết quả đánh giá tổng hợp mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH vùng núi phía Bắc sẽ thể hiển những không gian với các mức độ (4 cấp) thuận lợi khác nhau cho phát triển du lịch TTMH được xây dựng bằng phương pháp như đã nêu được đưa ra trên Bản đồ 4. 6.1.2 Kết quả đánh giá xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc
Trên cơ sở phương pháp đánh giá cho điểm như đã nêu, mức độ thuận lợi của
từng không gian sẽ có số điểm tổng hợp tương ứng là (Bảng 7) :
Bảng 7 : Điểm đánh giá tổng hợp mức độ thuận lợi
cho phát triển du lịch TTMH phía Bắc
Mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH
Không thuận lợi Ít thuận lợi Thuận lợi Rất thuận lợi Điểm tổng hợp < 6 điểm 6 – 12 điểm 13 – 18 điểm > 18 điểm
Kết quả đánh giá tổng hợp xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch
TTMH ở vùng núi phía Bắc được đưa ra trên Bản đồ 4.
73
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Ở mức độ tổng quan chung, kết quả trên cho thấy những không gian thuận lợi nhất đối với phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc phân bố chủ yếu ở khu vực Tây Bắc trên địa phận các địa phương Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang và và giảm dần theo hướng Đông Nam xuống các địa phương Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Phú Thọ, Bắc Giang và Quảng Ninh.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
6.2. Định hướng các sản phẩm du lịch TTMH
Trên cơ sở kết quả đánh giá xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH và những đánh giá về tiềm năng, điều kiện phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc, có thể đưa ra một số định hướng chủ yếu đối với xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cho vùng lãnh thổ này bao gồm :
6.2.1. Nhóm sản phẩm du lịch dã ngoại (Tracking)
Đây là nhóm các sản phẩm du lịch thuộc loại du lịch TTMH “nhẹ” (Soft Adventure) khá phổ biến hiện nay và có thể xây dựng ở các không gian có mức độ thuận lợi từ “Ít thuận lợi” cho đến “Rất thuận lợi”. Nói một cách khác loại sản phẩm du lịch TTMH này dễ được xây dựng phát triển ở hầu hết những nơi nào mà cảnh quan tự nhiên còn tương đối nguyên vẹn và thêm vào đó là sự hiện diện của một số làng bản dân tộc nơi còn lưu giữ được phần nào những giá trị văn hóa truyền thống mà du khách có thể khám phá.
Các dịch vụ cần thiết trong cấu thành sản phẩm du lịch dã ngoại không đòi hỏi
quá “khắt khe”. Các dịch vụ chủ yếu bao gồm :
(cid:131) Dịch vụ lưu trú : có thể sử dụng lều chuyên dụng (sử dụng để cắm trại) hoặc lưu
trú tại nhà dân trên tuyến dã ngoại;
(cid:131) Dịch vụ ăn uống : sử dụng dịch vụ địa phương, do cộng đồng cung cấp. Tuy nhiên cần chắc chắn rằng thức ăn (ưu tiên các món ăn địa phương) và nước uống đảm bảo vệ sinh;
(cid:131) Dịch vụ hướng dẫn : không đòi hỏi quá cao, vì vậy với kỹ năng của hướng dẫn viên hiện nay hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu của dịch vụ này. Trong nhiều trường hợp có thể sử dụng hướng dẫn viên là người địa phương để tăng thêm tính hấp dẫn đối với khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế;
(cid:131) Dịch vụ cứu hộ : chỉ cần một số phương tiên, thuốc sơ cứu đơn giản, không cần các phương tiên cứu hộ khẩn cấp hiện đại (máy bay trực thăng, ô tô cấp cứu chuyên dụng) bởi có thể sử dụng các tuyến y tế địa phương trên tuyên dã ngoại; (cid:131) Dịch vụ thông tin liên lạc : các tuyến du lịch dã ngoại thường được thiết kế theo các tuyên đường mòn ở những khu vực có khả năng liên lac bằng di động hoặc phương tiện thông tin liên lạc công cộng;
(cid:131) Dịch vụ bảo hiểm : đây là dịch vụ rất cần thiết, bắt buộc được đưa vào cấu thành sản phẩm du lịch TTMH. Tuy nhiên đối với sản phẩm du lịch dã ngoại dịch vụ này là không quá cao.
74
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Ngoài các dịch vụ trên, cộng đồng địa phương có thể cung cấp cho du khách các dịch vụ như biểu diễn văn nghệ truyền thống; trình diễn hoạt động sản xuất và bán các hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống; v.v. Tuy nhiên đây là những dịch vụ bổ sung không nằm trong cấu thành “cứng” của sản phẩm du lịch dã ngoại.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Xét từ những yêu cầu đối với sản phẩm, hầu hết các địa phương thuộc lãnh thổ vùng núi phía Bắc đều có thể xây dựng các sản phẩm du lịch dã ngoại và thời gian để tổ chức hoạt động du lịch dã ngoại ở vùng lãnh thổ này có thể là quanh năm.
6.2.2. Nhóm sản phẩm du lịch khám phá vùng núi phía Bắc bằng xe mô tô/xe đạp
Về cơ bản nội dung của sản phẩm du lịch khám phá bằng các phương tiện xe đạp/xe mô tô ở vùng núi phía Bắc không khác nhiều so với nội dung sản phẩm du lịch dã ngoại. Những điểm khác chủ yếu giữa sản phẩm du lịch khám phá bằng xe đạp/xe mô tô và du lịch dã ngoại bao gồm : (i) Chiều dài hành trình du lịch lớn hơn; (ii) Di chuyển chủ yếu bằng phương tiện thay vì đi bộ; (iii) Khả năng xảy ra bất trắc trên tuyến hành trình do hỏng phương tiện hoặc tai nạn giao thông là lớn hơn; (iv) Có thể sử dụng dịch vụ lưu trú ở một số trung tâm du lịch/đô thị trên tuyến hành trình như TP. Hòa Bình (Hòa Bình); TX. Mộc Châu, TP. Sơn La (Sơn La); TP. Điện Biên (Điện Biên); v.v.. Với những khác biệt này (dù không lớn), một số dịch vụ cơ bản trong cấu thành sản phẩm du lịch khám phá bằng xe đạp/xe mô tô cần được thực hiện với yêu cầu cao hơn : (i) Dịch vụ lưu trú; (ii) Dịch vụ hướng dẫn; (iii) Dịch vụ cứu hộ; (iv) Dịch vụ bảo hiểm; và (v) Dịch vụ bảo hiểm. Ngoài ra trong cấu thành sản phẩm du lịch khám phá sẽ còn có thêm dịch vụ thuê phương tiện di chuyển (xe đạp, xe mô tô), trong đó bao gồm cả bảo hành kỹ thuật đối với phương tiện trong quá trình sử dụng trên tuyến hành trình.
Khám phá các giá trị văn hóa bản địa trên tuyến hành trình du lịch đều có thể xây dựng và phát triển những sản phẩm du lịch mang tính đặc thù địa phương. Ví dụ : tuyến du lịch khám phá bằng xe đạp từ TP. Hòa Bình - Mai Châu (Hòa Bình - Xà Lĩnh - Hang Kia - bản Vặn - bản Vạn Mai - bản Poom Coọng); v.v tuyến du lịch khám phá bằng xe mô tô từ TX. Bắc Giang - khu BTTN Tây Yên Tử, tuyến Song Khủa - Đà Bắc (Hòa Bình); tuyến đường mòn Xuân Nha (Sơn La); tuyến
75
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Do yêu cầu đối với loại sản phẩm TTMH này cũng không quá cao, trong đó các tài nguyên du lịch chủ yếu là các giá trị cảnh quan, sinh thái dọc tuyến hành trình và có bổ sung những giá trị nhân văn (chủ yếu tại các làng bản dân tộc, các phiên chợ, các lễ hội được tổ chức trong thời gian thực hiện chuyến hành trình), vì vậy hầu hết các địa phương trong vùng núi phía Bắc
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Du Già - Mậu Duệ hay đường xuyên Tây Côn Lĩnh I và Tây Côn Lĩnh II (Hà Giang); v.v. Một điều cần lưu ý là tùy thuộc vào trạng thái đường giao thông để quyết định loại phương tiện nào được sử dụng. Trong một số trường hợp có thể kết hợp cả 2 loại phương tiện này cùng một số phương tiện vận chuyển truyền thống của địa phương (xe bò, xe ngựa, xe trâu, thuyền, v.v.) để tăng thêm sức hấp dẫn của sản phẩm du lịch được tạo ra, đặc biệt đối với khách du lịch quốc tế.
76
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Về nguyên lý, các sản phẩm du lịch TTMH thuộc nhóm này có thể được xây dựng vào bất kỳ thời điểm nào trong năm, tuy nhiên trong thời gian mùa mưa, việc đi lại bằng phương tiện xe cơ giới gặp nhiều khó khăn (trong nhiều trường hợp là nguy hiểm do trượt lở đất đá, lũ quét, v.v.), vì vậy khoảng thời gian thuận lợi để tổ chức hoạt động du lịch TTMH bằng xe đạp/xe mô tô là vào khoảng thời gian các mùa Thu – Đông – Xuân (từ tháng 9 đến tháng 5 năm sau). Tuy nhiên tính “mạo hiểm” sẽ được tăng lên nhiều khi hoạt động du lịch này được tổ chức vào mùa mưa. Đây là vấn đề cần được đặt ra để các nhà xây dựng tours du lịch khám phá bằng xe đạp/xe mô tô cân nhắc để phù hợp với yêu cầu của khách, đồng thời giảm thiểu được rủi ro trong quá trình thực hiện. 6.2.3 Nhóm sản phẩm du lịch leo núi (rock climbing and moutain climbing) Các sản phẩm du lịch leo núi (moutain climbing) với mục tiêu chinh phục đỉnh cao có thể tổ chức ở những khu vực có đỉnh núi cao trên 1.000m so với mặt nước biển. Như vậy ở vùng núi phía Bắc sẽ có tới hàng chục ngọn núi có độ cao từ trên 1.000 m - 3.143m như Phan Xi Phăng (3.143m), Pusilung (3.076m), Puluông (2.893m), Phu Hoạt (2.452m), Tây Côn Lĩnh (2.419m), Kiều Liên (2.403m), Puthaca (2.274m), Pusan (2.218m), Phuxpan (2.079m), v.v. có thể được khai thác để xây dựng các sản phẩm du lịch leo núi. Tuy nhiên những đỉnh núi cao chủ yếu của vùng phân bố trên dãy Hoàng Liên Sơn, cánh cung Ngân Sơn thuộc các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Cao Bằng, v.v. So với các sản phẩm du lịch TTMH thuộc 2 nhóm trên, các sản phẩm du lịch TTMH thuộc nhóm leo núi được xây dựng công phu hơn. Tùy thuộc vào độ cao cần chinh phục mà yêu cầu đối với các dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ cứu hộ, dịch vụ thông tin liên lạc, cần được chú trọng. Ngoài những dịch vụ cơ bản như đối với các sản phẩm du lịch TTMH thuộc nhóm sản phẩm du lịch dã ngoại và du lịch khám phá bằng xe đạp/xe mô tô, một số dịch vụ khác cần được cơ cấu trong cấu thành sản phẩm du lịch leo núi bao gồm :
BÁO CÁO TỔNG HỢP
(cid:131) Dịch vụ mang vác và dẫn đường : đây là loại dịch vụ cần thiết, đặc biệt đối với đối tượng khách du lịch là phụ nữ và người có tuổi, sức khỏe hạn chế. Dịch vụ này thường được cộng đồng người dân địa phương cung cấp;
(cid:131) Dịch vụ huấn luyện : đây cũng là loại dịch vụ cần thiết, đặc biệt trong trường hợp phải chinh phục những ngọn núi có đỉnh cao lớn và hiểm trở. Dịch vụ này cung cấp cho du khách những kỹ năng đi núi cơ bản; kỹ năng xử lý một số tình huống tai biến nảy sinh trong quá trình leo núi như lở đất, lũ quét, v.v.; kỹ năng tự cứu hộ trong trường hợp bị côn trùng, rắn, v.v. tấn công; v.v.
Trong nhóm các sản phẩm du lịch leo núi, các sản phẩm leo vách núi (Rock climbing) thuộc loại sản phẩm “cực kỳ nguy hiểm” (Extreme tourism or Shock tourism), mang tính thể thao cao vì vậy khách du lịch tham gia hoạt động du lịch này thường là các vận động viên chuyên nghiệp hoặc những người ưa thích mạo hiểm và đã được huấn luyện kỹ. Hiện nay các sản phẩm du lịch này còn chưa phát triển nhiều ở Việt Nam nói chung và vùng núi phía Bắc nói riêng.
Việc xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch leo vách núi ở vùng núi phía Bắc rất thuận lợi ở các khu vực có địa hình núi đá vôi, tiêu biểu là ở khu vực Na Hang (Tuyên Quang) – Ba Bể (Bắc Kạn); lưu vực sông Chảy trên địa bàn huyện Lục Yên, Lục Bình (Yên Bái); cao nguyên đá vôi Đồng Văn (Hà Giang), vùng đảo đá trong vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); v.v.
Đối với các sản phẩm du lịch leo vách núi, ngoài các dịch vụ cơ bản như sản phẩm du lịch leo núi, dịch vụ huấn luyện, dịch vụ cứu hộ và dịch vụ bảo hiểm là những dịch vụ rất quan trọng cần được thực hiện một cách chuyên nghiệp.Chính vì vậy cho đến nay, các Công ty du lịch lữ hành Việt Nam chưa xây dựng được một sản phẩm du lịch TTMH nào thuộc nhóm các sản phẩm này. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều tiềm năng to lớn về du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc còn chưa được khai thác.
77
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Các sản phẩm du lịch leo núi ở vùng núi phía Bắc được tổ chức thuận lợi vào mùa thu và đông (khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau) khi thời tiết khô ráo và không nóng. Đây là điều kiện thời tiết phù hợp cho hoạt động này.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
6.2.4. Nhóm các sản phẩm du lịch chèo thuyền/thả bè
Chèo
thác ghềnh thuyền vượt (Rafting) hoặc thả bè/mảng dọc theo các dòng sông/suối để khám phá các giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa vùng lưu vực sông/suối là những sản phẩm du lịch TTMH thu hút được sự quan tâm rất lớn của khách du lịch và có nhiều điều kiện để phát triển ở vùng núi phía Bắc. Những dòng sông có độ dốc khá cao với địa hình khá phức tạp có thể được khai thác
để phát triển những sản phẩm du lịch TTMH loại này bao gồm : sông Đà, sông Hồng, sông Thao và sông Lô. Trên các dòng sông này, các đoạn sông ở khu vực phía Bắc nơi có địa hình chia cắt sẽ phù hợp hơn để tổ chức xây dựng các sản phẩm du lịch cụ thể. Ngoài các dòng sông/suối, các hồ lớn ở vùng núi phía Bắc như hồ Hòa Bình (Hòa Bình), hồ Thác Bà (Yên Bái), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), hồ Núi Cốc (Thái Nguyên), vịnh Hạ Long, đặc biệt là trong các tùng, áng (Quảng Ninh); và trong tương lai gần là các hồ Sơn La (Sơn La), hồ Na Hang (Tuyên Quang) cũng sẽ là những tiềm năng đặc sắc để phát triển các sản phẩm du lịch khám phá bằng thuyền chèo (Kayaking), vốn khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
Các dịch vụ chủ yếu trong cấu thành các sản phẩm du lịch TTMH loại này cũng tương tự như đối với trường hợp du lịch khám phá bằng xe đạp/xe mô tô. Trong trường hợp này thay vì phương tiện xe đạp/xe mô tô sẽ là các xuồng bằng nhựa tổng hợp hoặc bằng cao su chuyên dụng được sản xuất riêng cho mục đích này. Đây sẽ một trong khó khăn đói với các doanh nghiệp du lịch có kế hoạch xây dựng phát triển những sản phẩm du lịch TTMH loại này.
Bên cạnh sản phẩm du lịch TTMH vượt thác ghềnh dọc theo các dòng sông, hoặc du lịch khám phá bằng thuyền chèo, một loại sản sản du lịch nữa thuộc nhóm sản phẩm này có thể phát triển thuận lợi ở vùng núi phía Bắc là du lịch thả mảng/bè dọc theo các dòng sông như đã nêu ở trên.
78
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Đối với những sản phẩm du lịch này, các phương tiện vận chuyển đơn giản hơn và chủ yếu là sử dụng các nguyên liệu địa phương như tre/nứa hoặc cây gỗ để kết nối thành mảng/bè. Tuy nhiên việc điều khiển những bè mảng này đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Vì vậy du khách tham gia loại hình du lịch này cần được huấn luyện khá bài bản trước khi tiến hành hoạt động khám phá dọc các dòng sông. Trong nhiều trường hợp người điều khiển phương tiện sẽ là người địa phương có kinh nghiệm sông nước. Một số chương trình du lịch thả mảng cụ thể có thể tổ chức dọc suối Sia ( Mai Châu – Hòa Bình); suối Lao Chải (Túng Sán – Hà Giang); v.v.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Thời gian phù hợp để tổ chức xây dựng các sản phẩm du lịch chèo thuyền/thả bè ở vùng núi phía Bắc là vào thời kỳ mùa mưa (từ tháng 6- tháng 8) bởi lúc này tốc độ dòng chảy của các con sông chính trong vùng sẽ tăng lên và tính “mạo hiểm” trên các dòng sông/suối thậm trí trong khu vực các lòng hồ lớn của vùng cũng sẽ tăng lên, thỏa mãn được những kỳ vọng khám phá và chinh phục của du khách. 6.2.5. Nhóm các sản phẩm du lịch dù lượn
Cao nguyên Mộc Châu Những khu vực có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển các sản phẩm du lịch TTMH loại này ở vùng núi phía Bắc là những cao nguyên chính của vùng bao gồm cao nguyên Mộc Châu, cao nguyên Sơn La (Sơn La); vùng lòng chảo Điện Biên Phủ (Điện Biên); cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang); v.v.
Những sản phẩm du lịch TTMH này thường được xây dựng phát triển ở những khu vực lòng chảo với địa hình núi cao bao quanh, nơi có cảnh quan đẹp, hấp dẫn. Điều kiện này đảm bảo cho du khách không chỉ được trải nghiệm những cảm xúc “mạo hiểm” mà còn được khám phá, cảm nhận những giá trị cảnh quan nơi họ thụ hưởng những sản phẩm du lịch này.
Các dịch vụ chủ yếu cần được đưa vào cấu thành sản phẩm loại này cũng tương tự như đối với các loại sản phẩm du lịch thuộc nhóm các sản phẩm du lịch chèo thuyền/thả mảng.
Các du khách tham gia du lịch dù lượn đều phải trải qua tập huấn để đảm bảo về khả năng điều khiển phương tiện dù và có kỹ năng xử lý những tình huống bất lợi nảy sinh trong quá trình bay lượn trên không. Điều này đòi hỏi dịch vụ huấn luyện phải được chú trọng trong quá trình xây dựng sản phẩm du lịch này.
Ngoài ra, phương tiện dù lượn (có thể có động cơ hoặc không có động cơ) là
những phương tiện chuyên dụng cần được mua để trang bị cho khách du lịch.
79
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Một vấn đề cần lưu ý trong quá trình xây dựng các sản phẩm du lịch dù lượn ở vùng núi phía Bắc là việc đảm bảo không có các hành vi vi phạm an ninh quốc gia bởi đây là khu vực gần biên giới. Điều này đòi hỏi cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công ty du lịch lữ hành và các cơ quan an ninh, quốc phòng trong việc xây dựng phương án và các sản phẩm du lịch dù lượn cụ thể ở vùng núi phía Bắc.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Thời gian thuận lợi để tổ chức loại hình du lịch này ở vùng núi phía Bắc là vào
mùa thu (khoảng từ tháng 8 - tháng 10) khi thời tiết thuận lợi và tầm quan sát tốt. 6.2.6. Nhóm các sản phẩm du lịch thám hiểm hang động
Với tiềm năng hang động phong phú, vùng núi phía Bắc là nơi thuận lợi để tổ chức phát triển các sản phẩm du lịch thám hiểm hang động. Ở các mức độ khác nhau, hầu hết các địa phương trong vùng đều có hang động, tuy nhiên những hang, động sâu với cấu trúc phức tạp thường được chọn để xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH thám hiểm.
Đứng từ góc độ này một số các hang động như động Puông, động Ba Cửa, động Thẩm Kít, động Nà Phòong (Bắc Kạn); động Nam Sơn, động Hoa Tiên (Hòa Bình); hang Phượng Hoàng (Thái Nguyên); hang Thẩm Tét Toòng (Sơn La); hang động Tiên Sơn (Lai Châu); v.v. Phần lớn những hang này đều có chiều sâu hàng trăm mét và có cấu trúc khá phức tạp, vì vậy ngoài việc cảm nhận giá trị cảnh quan địa chất, du khách sẽ có được cảm xúc “mạo hiểm” khi đi sâu, thám hiểm toàn bộ chiều sâu của các hang.
Cũng giống như một số loại sản phẩm du lịch TTMH trên, khách du lịch thám hiểm hang động cần được trải qua một lớp huấn luyện ngắn về các kỹ năng đi trong hang động, xử lý những tình huống có thể nảy sinh trong quá trình khám phá hang động. Điều này đòi hỏi các nhà tổ chức phải có huấn luyện viên chuyên nghiệp trong lĩnh vực này. Như vậy bên cạnh những dịch vụ cơ bản, dịch vụ về huấn luyện, dịch vụ về cứu hộ cũng được đặt ra như những dịch vụ quan trọng nhất cần được đưa vào cấu thành sản phẩm du lịch thám hiểm hang động hấp dẫn này.
Du lịch thám hiểm hang động có thể được tổ chức quanh năm ở vùng núi phía phía Bắc, tuy nhiên thời gian thuận lợi để tổ chức hoạt động du lịch này là vào mùa thu và mùa đông (từ khoảng tháng 10 – tháng 4 năm sau) khi thời tiết tương đối khô ráo, những rủi ro về sạt lở trần hang, ngập hang do lũ được hạn chế hơn. 6.2.7. Nhóm sản phẩm du lịch lặn biển
80
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Đối với vùng núi phía Bắc thì du lịch lặn biển hình như không phải là sản phẩm du lịch phù hợp. Tuy nhiên do đặc điểm lãnh thổ, khi vùng núi phía Bắc bao gồm cả Quảng Ninh – nơi có di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, sản phẩm du lịch lặn biển cũng phải được nhìn nhận như một sản phẩm du lịch TTMH của vùng.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Sản phẩm này được xây dựng dựa trên hoạt động khám phá các giá trị sinh thái dưới biển, trong đó hệ sinh thái san hô, cỏ biển được xem là quan trọng hơn cả. Ngoài ra ở những vùng biển có các dạng địa chất đá vôi (karst) như ở vịnh Hạ Long thì du khách sẽ còn có cơ hội khám phá các giá trị địa chất ngầm sâu trong lòng biển như cấu trúc đặc biệt “tùng”, “áng” (thực chất là cấu trúc phễu karst) với các hang động ngầm.
Du lịch lặn biển thường đòi hỏi kỹ năng lặn với trang bị lặn chuyên dụng, vì vậy mọi khách du lịch khi tham gia hoạt động du lịch này đều phải qua lớp huấn luyên ngắn để đảm bảo là du khách có khả năng sử dụng được các thiết bị lặn cũng như xử lý được những tình huống đột xuất nảy sinh trong quá trình lặn dưới biển. Thời gian thuận lợi để tổ chức du lịch lặn biển là vào mùa hè (khoảng từ tháng 6 – tháng 9) khi thời tiết ấm áp. 6.2.8. Các sản phẩm du lịch TTMH tổng hợp (các chương trình/tours du lịch TTMH
tổng hợp)
Các sản phẩm du lịch thuộc nhóm này thực chất là sự kết hợp của nhiều sản phẩm du lịch TTMH chuyên đề khác nhau trong một chương trình (tours) tổng hợp trên một hành trình trải dài qua nhiều “lát cắt” địa hình với những cảnh quan khác nhau từ vùng núi cao đến vùng cao nguyên, vùng đồi chuyển tiếp và tới vùng biển. Như vậy việc xây dựng những sản phẩm du lịch TTMH này đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao bởi trong cấu thành sản phẩm (chương trình) phải bao quát được nhiều vấn đề về kỹ thuật, nhiều dịch vụ đảm bảo an toàn cho khách trong khi phải thỏa mãn được nhiều nhất nhu cầu khám phá với những cảm xúc “mạo hiểm” mà du khách kỳ vọng. Với cấu trúc địa hình chia cắt mạnh và sự phân dị tương đối rõ các vùng cảnh quan và sự đa dạng trong văn hóa bản địa gắn với từng khu vực cụ thể, vùng núi phía Bắc là lãnh thổ có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng các sản phẩm mang tính tổng hợp trong một chương trình du lịch TTMH cụ thể. Việc tổ chức thành công tour du lịch TTMH “Raid Gouloises” năm 2002 trên một lãnh thổ trải dài từ Lào Cai đến Quảng Ninh là minh chứng cụ thể về khả năng xây dựng loại sản phẩm du lịch TTMH này ở vùng núi phía Bắc.
Một số “lát cắt” có thể được tham khảo để xây dựng các sản phẩm du lịch
TTMH có tính tổng hợp ở vùng núi phía Bắc bao gồm :
81
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Hòa Bình (dã ngoại) – Mộc Châu (dù lượn, khám phá giá trị văn hóa) – Sơn La (hang động) – Điện Biên (khám phá các giá trị sinh thái khu BTTN) – Lai Châu
BÁO CÁO TỔNG HỢP
(dã ngoại) – xuôi sông Đà qua hồ Sơn La (chèo thuyền/thả mảng) về hồ Hòa Bình (chèo thuyền vượt thác ghềnh, khám phá hang động);
(cid:131) Điện Biên (khám phá các giá trị sinh thái khu BTTN) – Lai Châu – Lào Cai (leo núi) – xuôi sông Hồng về hồ Thác Bà (chèo thuyền vượt thác ghềnh, khám phá hang động) – Tuyên Quang (khám phá các giá trị sinh thái ở khu bảo tồn) – Bắc Giang (chèo thuyền);
(cid:131) Hòa Bình (dã ngoại) - Sơn La (hang động) – Lào Cai (leo núi)– Yên Bái (khám phá các giá trị văn hóa bản địa) – Phú Thọ (dã ngoại, chèo thuyền) - Hòa Bình (chèo thuyền, thám hiểm hang động);
(cid:131) Lào Cai (leo núi) – Đồng Văn (khám phá các giá trị tự nhiên, cảnh quan, leo núi) - Cao Bằng (thám hiểm hang động)– Lạng Sơn (khám phá các giá trị văn hóa, thám hiểm hang động) – vịnh Hạ Long (khám phá các giá trị cảnh quan, chèo thuyền, lặn biển);
(cid:131) Thái Nguyên (thám hiểm hang động)– Tuyên Quang (khám hiểm văn hóa) - Bắc Kạn (khám phá các giá trị cảnh quan, leo núi, chèo thuyền) – Cao Bằng (thám hiểm hang động) – Lạng Sơn (khám phá các giá trị cảnh quan) – Quảng Ninh (chèo thuyền, lặn biển, các giá trị cảnh quan); Tuy nhiên để có thể xây dựng được những sản phẩm du lịch TTMH có tính tổng hợp này, rất cần sự hướng dẫn của những tổ chức lữ hành chuyên nghiệp, đồng thời cần có được phối hợp chặt chẽ giữa ngành du lịch ví các ngành có liên quan, đặc biệt là quân đội, an ninh trong việc đảm bảo an ninh an toàn cho khách du lịch với khả năng ứng cứu nhanh bằng các phương tiện, công nghệ hiện đại.
6.3. Định hướng thị trường
Tổng hợp kết quả nghiên cứu một số tài liệu có liên quan cho thấy có sự khác
) g n i b m
g n ổ t ) s r u o t (
nhau giữa các thị trường đối với những sản phẩm du lịch TTMH khác nhau (Bảng 8) B¶ng 8 : Định hướng thị trường du lịch TTMH vùng núi phía Bắc
Sản phẩm du lịch TTMH Định hướng một số thị trường quốc tế chủ yếu
) g n i b m
i ạ o g n ã d h c ị l u D
n ể i b n ặ l h c ị l u D
n ề y u h t o è h c h c ị l u D
è b / g n ả m ả h t h c ị l u D
m ể i h m á h t h c ị l u D
i l c n i a t u o m
á h p m á h k h c ị l u D
i ú n o e l h c ị l u D
h n ì r t g n ơ ư h C c á C
k c o r ( i ú n o e l h c ị l u D
ù d o a h t ể h t h c ị l u D
p ợ h
(
n ợ ư l
g n ộ đ g n a h
i l c
λ
λ
λ
λ λ
λ λ λ
λ λ
H M T T λ λ λ
λ
λ
λ
λ
Châu Âu
λ
λ
p ạ đ e x , ô t ô m e x g n ằ b λ λ λ λ λ
λ λ λ λ
λ
λ λ λ λ λ
λ
λ λ λ λ λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
Ph¸p Anh §øc Bỉ Hµ Lan §an M¹ch
λ λ λ λ λ λ
λ λ λ λ λ λ
82
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
BÁO CÁO TỔNG HỢP
) g n i b m
g n ổ t ) s r u o t (
Sản phẩm du lịch TTMH Định hướng một số thị trường quốc tế chủ yếu
) g n i b m
i ạ o g n ã d h c ị l u D
n ể i b n ặ l h c ị l u D
n ề y u h t o è h c h c ị l u D
è b / g n ả m ả h t h c ị l u D
m ể i h m á h t h c ị l u D
i l c n i a t u o m
á h p m á h k h c ị l u D
h n ì r t g n ơ ư h C c á C
i ú n o e l h c ị l u D
ù d o a h t ể h t h c ị l u D
k c o r ( i ú n o e l h c ị l u D
H M T T
p ợ h
p ạ đ e x , ô t ô m e x g n ằ b
(
g n ộ đ g n a h
n ợ ư l
i l c
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
-
- -
λ
λ
λ
λ
Châu Á - TBD
λ - - λ
λ
λ
- - λ
- - λ
λ
λ
λ
λ
λ
- - - λ -
- λ -
λ
λ
λ
λ
Bắc Mỹ
λ λ λ λ λ
NhËt §µi Loan Trung Quèc Úc ASEAN (*) Hµn Quèc Mü Canada
λ λ λ
λ λ
λ λ λ λ λ λ
λ λ λ
λ λ λ
λ λ
λ λ
λ λ
λ λ λ λ λ
Chó thÝch
λ Rất quan tâm λ Quan tâm
λ
Ít quan tâm
Khách du lịch quốc tế ở lứa tuổi từ 25 - 35 thường có sự quan tâm nhiều hơn
83
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Trong số các sản phẩm du lịch TTMH có thể xây dựng ở vùng núi phía Bắc, du lịch dã ngoại là loại sản phẩm chiếm được sự quan tâm của khách du lịch từ phần lớn các thị trường; tiếp đến là du lịch khám phá bằng phương tiện xe đạp hoặc xe mô tô và du lịch leo núi (chinh phục các đỉnh cao). Các sản phẩm du lịch thám hiểm hang động; du lịch thả mảng/bè theo các dòng dòng sông hiện chưa có được sự quan tâm đáng kể của khách du lịch từ hầu hết các thị trường. Trong số các thị trường trọng điểm được nghiên cứu, thị trường Tây Âu, Úc và Bắc Mỹ vẫn là những thị trường có sự quan tâm đáng kể đến hầu hết các sản phẩm du lịch TTMH có khả năng phát triển ở vùng núi phía Bắc. Trong các nước từ thị trường Châu Á, khách du lịch Nhật Bản và Hàn Quốc là có sự quan tâm hơn cả đến các sản phẩm du lịch TTMH, nhất là sản phẩm du lịch dã ngoại, du lịch khám phá bằng xe đạp, xe mô tô, và du lịch lặn biển. đến các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc. Đối với khách du lịch nội địa, sự quan tâm đến các sản phẩm du lịch TTMH ngày một tăng, đặc biệt trong lứa tuổi từ 20 - 35. Các thị trường du lịch nội địa chính hiện nay đối với các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc vẫn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Nguyên nhân chính của tình trạng TP. Hồ Chí Minh là thị trường nội địa quan trọng thứ 2 sau Hà Nội được cho là khoảng cách. Đây là yếu tố ảnh
BÁO CÁO TỔNG HỢP
hưởng đáng kể đến giá thành của cùng một loại sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc được các công ty lữ hành chào bán tại TP. Hồ Chí Minh nói riêng và ở khu vực phía Nam nói chung. 7. Một số giải pháp chủ yếu nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc
Để có thể khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc, đẩy mạnh việc xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH, góp phần tích cực vào phát triển du lịch và kinh tế - xã hội vùng lãnh thổ, một số nhóm các giải pháp chủ yếu sau cần được xem xét thực hiện bao gồm : 7.1 . Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách
Du lịch TTMH là một loại hình du lịch đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, thường được tổ chức ở vùng sâu, vùng xa, nơi thiên nhiên còn tương đối hoang sơ, đời sống cộng đồng còn nhiều khó khăn, vì vậy để có thể khuyến khích phát triển du lịch TTMH nói chung, các sản phẩm du lịch TTMH nói riêng ở Việt Nam, trong đó có vùng núi phía Bắc, một số chính sách quan trọng cần xem xét xây dựng và ban hành bao gồm :
(cid:131) Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch TTMH trên cơ sở giảm thuế nhập khẩu đối với các phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ đặc thù; thuế thu nhập doanh nghiệp do phải hoạt động ở vùng sâu, vùng xa;
(cid:131) Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài có kinh nghiệm được đầu tư với số vốn không hạn chế, liên doanh với các doanh nghiệp du lịch trong nước nhằm nhanh chóng có được sự chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH;
(cid:131) Chính sách khuyến khích cộng đồng đại phương tham gia tích cực vòa hoạt động du lịch TTMH thông qua việc cung cấp các dịch vụ mà cộng đồng có thể đảm nhiệm như cung cấp thực phẩm, mang vác và hướng dẫn, đón khách ngủ tại nhà, v.v. theo đó giảm thuế thu nhập đối với những dịch vụ đó, đồng thời có chính sách hỗ trợ hoạt động đào tạo, nâng cao kỹ năng tham gia của công đồng đối với việc cung cấp dịch vụ du lịch;
84
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với những dịch vụ công như hướng dẫn thực hiện thủ tục cấp phép đến những khu vực “nhạy cảm” về an ninh quốc gia song hấp dẫn đối với các hoạt động du lịch TTMH, hỗ trợ về ứng cứu khi xảy ra sự cố, hỗ trợ về đảm bảo an ninh, an toàn cho khách;
BÁO CÁO TỔNG HỢP
(cid:131) Chính sách tín dụng ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp có kế hoạch khả thi xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc. Điều này thể hiện sự quan tâm của nhà nước không chỉ đối với việc phát triển kinh tế ở vùng sâu, vùng xa nơi còn nhiều khó khăn mà còn là thể hiện cụ thể để cộng đồng có được cơ hội có thêm việc làm và tăng thu nhập thông qua cơ hội cung cấp các dịch liên quan khi du lịch TTMH phát triển trên địa bàn mình. Điều này là phù hợp với chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc.
Nhóm giải pháp về quy hoạch
7.2.
Nhóm giải pháp về đầu tư xây dựng sản phẩm
Trên cơ sở chiến lược và hệ thống các quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam ở quy mô toàn quốc và vùng du lịch Bắc Bộ; quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Trung du miền núi Bắc Bộ cũng như các nghiên cứu, quy hoạch chuyên ngành có liên quan khác cần nhanh chóng xây dựng chiến lược và quy hoạch cụ thể đối với phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc. Căn cứ vào quy hoạch này, các doanh nghiệp lữ hành sẽ xây dựng riêng cho cho mình những chiến lược riêng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH phù hợp với năng lực cũng như đặc điểm riêng của doanh nghiệp. Trong quá trình lập chiến lươc/quy hoạch phát triển du lịch TTMH riêng, các doanh nghiệp cần phối hợp và có sự tư vấn với các cơ quan nghiên cứu/quy hoạch chuyên ngành để đảm bảo chiến lược/quy hoạch của mình phù hợp với quy hoạch chung phát triển du lịch ở vùng núi phía Bắc để có được sự hỗ trợ phù hợp từ phía nhà nước việc tổ chức xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể. 7.3.
85
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Để đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc có hiệu quả, cần thiết phải có sự hướng dẫn, hỗ trợ thông tin đối với các doanh nghiệp/các nhà đầu tư từ phía các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương cũng như các địa phương trong vùng. Những hướng dẫn này là cần thiết để các doanh nghiệp du lịch có thể có được các thông tin đầy đủ nhất từ các chính sách hiện hành liên quan đến đầu tư phát triển sản phẩm du lịch nói chung, sản phẩm du lịch TTMH nói riêng; những thông tin liên quan đến những tiềm năng cụ thể trong vùng có thể khai thác xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH;
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Nhóm giải pháp về tuyên truyền quảng bá
Du lịch TTMH khác với nhiều loại hình du lịch khác là nhu cầu đất để xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật không lớn. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, để hoạt động đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch TTMH có hiệu quả, chính quyền địa phương trong vùng cần có những quan tâm và tạo điều kiện thỏa đáng để các nhà đầu tư có được quỹ đất phù hợp cũng như có được quyền quản lý những tài nguyên có liên quan (ví dụ một cái hang, một quả đồi, v.v.) trong khuôn khổ của pháp luật. Một nội dung cụ thể khác của giải pháp này cần có những cam kết thỏa đáng để các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở một lãnh thổ còn nhiều khó khăn như vùng núi phía Bắc. Cam kết này từ phía các nhà quản lý có thể việc đầu tư xây dựng những hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, v.v.), tạo tiền đề cho phát triển các sản phẩm du lịch cụ thể. 7.4.
Để thông tin về các sản phẩm du lịch TTMH vùng núi phía Bắc đến được với
du khách hoạt động tuyên truyền quản bá có vai trò rất quan trọng.
Đứng từ góc độ này, nhà nước phải có trách nhiệm hỗ trợ ngành du lịch nói chung, du lịch vùng núi phía Bắc nói riêng có được hình ảnh trên các thị trường trọng điểm đã xác định. Ngoài ra Nhà nước cũng cần quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp du lịch có được thông tin về đặc điểm những thị trường có nhu cầu đối với các sản phẩm du lịch TTMH cũng như thiết lập những quan hệ cần thiết thông qua các kênh ngoại giao, thương mại chính thức của Chính phủ.
Về phần mình, các doanh nghiệp cũng phải có sự quan tâm và đầu tư thỏa đáng cho việc quảng bá các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể của doanh nghiệp mình đến với du khách. Việc xây dựng hình thức quảng bá (trang WEB riêng, Internet, tờ rơi, tập gấp, v.v.) sản phẩm cần có sự tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn để sao cho thông tin đến được với khách hàng nhanh và đầy đủ nhất đồng thời phù hợp với đặc điểm tiếp nhận thông tin của từng thị trường.
86
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Một vấn đề cần lưu ý là hoạt động tuyên truyền quản bá phải đứng trên quan điểm bền vững, nói một cách khác là các thông tin đến với du khách phải hết sức trung thực, đầy đủ, tránh có những thông tin không đúng với bản chất của sản phẩm du lịch được chào bán.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Nhóm giải pháp về đào tạo phát triển nguồn nhân lực
7.5.
Nhóm giải pháp về nghiên cứu, chuyển giao công nghệ
Du lịch TTMH là loại hình du lịch đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, vì vậy để có thể xây dựng được những sản phẩm du lịch TTMH đảm bảo chất lượng, hấp dẫn và phù hợp với yêu cầu của du khách, cần thiết phải có được đội ngũ cán bộ, từ nghiên cứu đến quản lý cũng như người lao động trong từng vị trí cụ thể đáp ứng được yêu cầu về tính chuyên nghiệp đó. Điều này đòi hỏi đội ngũ phải được đào tạo bài bản. Đứng từ góc độ này, ngoài sự hỗ trợ của nhà nước về cơ chế chính sách đào tạo, các doanh nghiệp phải chủ động xây dựng chiến lược/kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực một cách hợp lý. Do đặc thù của du lịch TTMH, hướng dẫn viên du lịch TTMH và người huấn luyện viên là những đối tượng cần được quan tâm đào tạo có bài bản nhất. Ngoài ra những lao động trong lĩnh vực bảo hiểm, cứu hộ là những lao động rất đặc thù trong hoạt động du lịch TTMH cũng cần được đào tạo nhằm đáp ứng được yêu cầu của loại hình du lịch này. 7.6.
Cũng xuất phát từ đặc điểm mang tính đặc thù của du lịch TTMH, sự phát triển của loại hình du lịch này đòi hỏi phải có những ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt đối với các phương tiện và trang thiết bị chuyên dụng. Trước mắt, khi quy mô của loại hình du lịch TTMH chưa phát triển lớn ở Việt Nam thì các doanh nghiệp phải nhập khẩu những phương tiện và trang thiết bị chuyên dụng này, tuy nhiên trong tương lai, khi loại hình du lịch này phát triển mạnh ở Việt Nam, cần thiết phải tiến hành các nghiên cứu và ứng dụng chuyển giao công nghệ để du lịch Việt nam nói chung, các doanh nghiệp du lịch Việt nam nói riêng có thể chủ động trong việc trang bị những phương tiện và trang thiết bị chuyên dụng.
87
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Đứng từ góc độ này, ngay từ bây giờ cần phải có được sự quan tâm thỏa đáng từ phía các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cũng như các doanh nghiệp du lịch đối với công tác nghiên cứu và ứng dụng chuyển giao công nghệ trong hoạt động phát triển du lịch TTMH – một hướng phát triển đầy triển vọng ở Việt nam nói chung và ở vùng núi phía Bắc nói riêng.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
PHẦN KẾT LUẬN
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu thu được, có thể rút ra một số kết luận cơ
bản sau : 1. Du lịch TTMH là một loại hình du lịch đặc thù đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao đang rất phát triển trong khu vực và trên thế giới. Kinh nghiệm phát triển du lịch TTMH ở một số nước trên thế giới, đặc biệt ở Thái Lan đã được đề cập. Đây là cơ sở kinh nghiệm thực tiễn có giá trị cho các định hướng phát triển du lịch TTMH ở Việt Nam, trong đó có vùng núi phía Bắc.
Sự phát triển của loại hình du lịch này với những sản phẩm du lịch TTMH cụ thể không chỉ góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch, làm tăng tính hấp dẫn du lịch của lãnh thổ mà còn có những đóng góp cụ thể vào bảo tồn các giá trị tự nhiên, văn hóa bản địa thông qua việc mở mang hiểu biết và sự tôn trọng của du khách khi tham gia loại hình du lịch này. Bên cạnh đó, việc phát triển du lịch TTMH ở vùng sâu, vùng xa còn có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội ở những khu vực còn khó khăn, góp phần tạo cơ hội cho công đồng vốn còn nghèo ở những khu vực này có thêm được việc làm và tăng thu nhập.
Vùng núi phía Bắc là lãnh thổ có nhiều tiềm năng du lịch TTMH. Đặc điểm địa 2. hình núi cao, chia cắt; hệ thống thủy văn (sông, suối, các hồ chứa) phát triển; các giá trị sinh thái, đặc biệt là các giá trị đa dạng sinh học thể hiện tập trung ở hệ thống các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên; các giá trị văn hóa bản địa thể hiện qua các sinh hoạt truyền thống, các nghề truyên thống, các kiến trúc truyền thống, các lễ hội sinh hoạt văn hóa truyền thống của cộng đồng 32 dân tộc anh em sống trên lãnh thổ này là những tài nguyên chủ yếu để có thể khai thác xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể như du lịch dã ngoại, du lịch khám phá bằng xe đap/xe máy, du lịch leo núi, du lịch dù lượn, du lịch vượt thác ghềnh, du lịch thám hiểm hang động, v.v.
88
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Hiện nay du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc còn chưa phát triển, các sản phẩm 3. du lịch TTMH ở lãnh thổ này còn nghèo nàn, mới chỉ giới hạn ở những sản phẩm tương đối đơn giản như du lịch dã ngoại, du lịch khám phá thiên nhiên bằng xe đạp/xe máy. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là cho đến nay chưa có một chiến lược/quy hoạch cụ thể nào làm cơ sở cho việc xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở lãnh thổ này. Những sản phẩm trên mới chỉ mang tính tự phát và dựa trên kinh nghiệm chủ quan, vì thế chưa thật sự hấp dẫn thu hút được khách du lịch.
BÁO CÁO TỔNG HỢP
Bên cạnh đó năng lực để xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH của các doanh nghiệp du lịch còn hạn chế, đặc biệt liên quan đến tính chuyên nghiệp của sản phẩm.
4. Để tạo cơ sở cho việc xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc, đề tài đã áp dụng công nghệ hệ thông tin địa lý GIS để phân tích tổng hợp các yếu tố tài nguyên chủ yếu là địa hình (độ dốc), đặc điểm thủy văn (hệ thống sông/suối, hồ chứa) cùng các giá trị văn hóa bản địa, giá trị sinh học (đa dạng sinh học tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên) cùng các giá trị cảnh quan để xây dựng và đưa ra bản đồ đánh giá tổng hợp mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc. Đây là lần đầu tiên một bản đồ về tổng hợp tiềm năng du lịch TTMH được xây dựng ở Việt Nam và là cơ sở rất quan trọng cho phát triển du lịch TTMH nói chung và xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH nói riêng ở vùngnúi phía Bắc.
Trên cơ sở những phân tích về lý luận; kinh nghiệm thực tiễn phát triển du lịch 5. TTMH của một số nước trên thế giới; đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch TTMH nói chung, xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc nói riêng, đề tài đã đề xuất nội dung xây dựng phát triển một số nhóm sản phẩm du lịch TTMH cụ thể phù hợp với đặc điểm đặc thù ở vùng núi phía Bắc và kèm theo đó là một số giải pháp thực hiện cụ thể. Đây được xem là đóng góp thực tiễn của đề tài đối với việc phát triển một loại hình du lịch còn mới những đầy tiềm năng phát triển ở Việt Nam nói chung, ở vùng núi phía Bắc nói riêng.
Kiến nghị : kết quả nghiên cứu đạt được của đề tài là những kết quả đầu tiên có tính hệ thống theo hướng nghiên cứu còn rất mới này. Những kết quả này được xem là cơ sở khoa học bước đầu cho phát triển du lịch TTMH nói chung và phát triển các sản phẩm du lịch TTMH nói riêng. Tuy nhiên trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài, nhiều vần đề như ứng dụng GIS xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH; xây dựng các tuyến (chương trình) du lịch TTMH tổng hợp; v.v. mới được giải quyết ở mức chung và có tính định hướng. Để khả năng ứng dụng của các kết quả nghiên cứu này được cao hơn, trên cơ sở những kết quả đạt được của đề tài, cần thiết phải tiếp tục những nghiên cứu chi tiết hơn, đi vào giải quyết từng vấn đề cụ; xây dựng những sản phẩm du lịch TTMH cụ thể.
89
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
------------* -----------
BÁO CÁO TÓM TẮT
MỞ ĐẦU
1.1 . Đặt vấn đề
Vùng núi phía Bắc bao gồm các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Tuyên Quang, Thái Nguyên Lạng Sơn, Phú Thọ, Bắc Giang và Quảng Ninh, là lãnh thổ có địa hình núi cao, chia cắt với đỉnh cao nhất Đông Dương là Phan Xi Phăng (3.143m) và hệ thống sông suối phát triển mà tiêu biểu là hệ thống sông Hồng – sông Thái Bình và sông Kỳ Cùng - Bằng Giang. Đây là những điều kiện và tiềm năng to lớn để phát triển loại hình du lịch thể thao - mao hiểm. Tuy nhiên những tiềm nănh to lớn này chưa được khai thác tương xứng.
Nhằm đẩy mạnh sự phát triển sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc, góp phần tích cực thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, việc thực hiện đề tài “Cơ sở học để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc” là rất cần thiết.
1.2 Mục tiêu, nội dung, phạm vi và phương pháp nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu * Mục tiêu tổng quan: Góp phần làm phong phú và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam, thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam; gắn phát triển du lịch với xoá đói giảm nghèo vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi có tiềm năng du lịch song còn nhiều khó khăn.
* Mục tiêu cụ thể: Xác lập cơ sở khoa học (lý luận và thực tiễn) để phát triển sản phẩm du lịch mạo hiểm (TTMH) - thế mạnh đặc thù của vùng núi phía Bắc, góp phần nâng cao sức hấp dẫn du lịch của lãnh thổ.
1.2.2. Các nội dung nghiên cứu chính
(cid:131) Tổng quan những vấn đề lý luận về du lịch TTMH, bao gồm cả việc xây dựng
những tiêu chí cơ bản của sản phẩm du lịch TTMH.
(cid:131) Tổng quan kinh nghiệm về phát triển sản phẩm du lịch TTMH (cid:131) Tiềm năng tài nguyên du lịch TTMH ở vùng trung du miền núi phía Bắc (cid:131) Đánh giá thực trạng phát triển sản phẩm du lịch TTMH chủ yếu ở vùng trung
du miền núi phía Bắc
1
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Xác định các nguyên nhân hạn chế sự phát triển các sản phẩm du lịch TTMH
BÁO CÁO TÓM TẮT
(cid:131) Xác lập những định hướng chính phát triển các sản phẩm du lịch TTMH chủ
yếu ở vùng trung du miền núi phía Bắc
(cid:131) Kiến nghị một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch vùng núi phía Bắc để phát triển các sản phẩm du lịch TTMH, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển du lịch vùng du lịch Bắc Bộ nói riêng, du lịch Việt Nam nói chung.
1.2.4 Phạm vi nghiên cứu
(cid:131) Về lãnh thổ : các địa phương : Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Lao Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Sơn La, Hòa Bình và Quảng Ninh.
(cid:131) Về thời gian: các số liệu, tài liệu đã công bố trong vòng 5 năm (2000 - 2005). (cid:131) Đối tượng: các yếu tố liên quan đến sản phẩm du lịch TTMH
1.2.5 Các phương pháp và quy trình nghiên cứu
* Phương pháp phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống * Phương pháp điều tra thực địa * Phương pháp thống kê * Phương pháp chuyên gia * Phương pháp sơ đồ, bản đồ và GIS
Quy trình nghiên cứu của đề tài được bao gồm các bước cơ bản sau:
* Xác lập mục tiêu và nội dung nghiên cứu * Thu thập tư liệu và tiến hành phân tích sơ bộ trong phòng * Thực địa nhằm bổ sung chỉnh lý các tư liệu * Phân tích xử lý tư liệu * Xây dựng báo cáo cuối cùng
2
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Trong trường hợp cụ thể của nghiên cứu này, phương pháp GIS được ứng dụng để xác định không gian thuận lợi phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc trên cơ sở mô hình „chồng ghép“ các bản đồ đánh giá các yếu tố thành phần chính bao gồm: địa hình (độ dốc, sự tập trung các đỉnh núi cao, các hang động); hệ thống thuỷ văn (các dòng sông, con suối và hồ nước) – kết hợp sự tập trung các làng/bản dân tộc nơi còn lưu giữ được những giá trị văn hóa truyền thống và các giá trị sinh học (các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên) – kết hợp các giá trị cảnh quan.
BÁO CÁO TÓM TẮT
PHẦN NỘI DUNG
Tổng quan những vấn đề lý luận về phát triển du lịch thể thao mạo hiểm
Những khái niệm cơ bản
Loại hình du lịch 1. 1.1. 1.1.1. Loại hình và sản phẩm du lịch Du lịch phát triển dựa vào việc khai thác các giá trị tài nguyên du lịch với việc
hình thành các loại hình du lịch Loại hình du lịch là các hình thức du lịch được tổ chức nhằm thoả mãn mục
đích đi du lịch của khách du lịch.
Sản phẩm du lịch Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã phân loại các loại hình du lịch chính theo các mục đích cơ bản của thị trường khách bao gồm: du lịch tham quan, du lịch nghỉ mát, du lịch chữa bệnh, du lịch vui chơi giải trí; du lịch thăm thân; du lịch công vụ; du lịch tín ngưỡng, v.v.. Tất cả những mục đích đi du lịch đều xuất phát từ ý thích cá nhân của khách du lịch (tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, ...) hoặc là nghĩa vụ mà khách du lịch có trách nhiệm thực hiện đối với xã hội hoặc với chính bản thân mình (công vụ, chữa bệnh,...).
Khái niệm về sản phẩm du lịch đã được đưa ra trong Luật Du lịch (2005), theo đó “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch”
Một số tài liệu khác cho rằng “Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm đặc biệt có tính dịch vụ cao và được tạo thành bởi nhiều yếu tố nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách” và như vậy sản phẩm du lịch chỉ bao gồm dịch vụ tổng thể của nhà cung cấp dựa vào các yếu tố thu hút du lịch khác như kết cấu hạ tầng du lịch, tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, lao động (con người) và các yếu tố “tiền” du lịch như nghiên cứu thị trường du lịch, chiến lược kinh doanh du lịch, chiến lược marketing du lịch, xây dựng sản phẩm và cung cấp (bán) sản phẩm cho du khách để thỏa mãn nhu cầu của du khách
3
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới WTO, “Sản phẩm du lịch là sự tổng hợp của 3 yếu tố cấu thành : (i) kết cấu hạ tầng du lịch; (ii) tài nguyên du lịch; và (iii) cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ, lao động và quản lý du lịch”. Thực tế cho thấy khái niệm này
BÁO CÁO TÓM TẮT
của WTO là “bao trùm” và thể hiện đầy đủ những gì chứa đựng trong một sản phẩm du lịch.
Những đặc điểm cơ bản của “sản phẩm du lịch” bao gồm :
(cid:131) Tính tổng hợp, đa dạng, nhiều cấp độ;
(cid:131) Tính không dự trữ, lưu kho được;
(cid:131) Tính không thể chuyển dịch, phân chia được
(cid:131) Tính đồng thời của hoạt động sản xuất và tiêu thụ;
(cid:131) Tính vô hình, dễ thay đổi, không đồng nhất;
(cid:131) Tính không chuyển giao quyền sở hữu;
(cid:131) Tính mới cho cả chủ thể (khách du lịch), khách thể (môi trường, cảnh quan, tài
nguyên) và môi giới du lịch (ngành kinh doanh du lịch)
Như vậy khi nghiên cứu “sản phẩm du lịch” ngoài việc chú trọng đến các yếu tố hình thành lên “sản phẩm”, cần thiết phải lưu ý đến những đặc điểm cơ bản của sản phẩm du lịch
Khái niệm
1.1.2. Du lịch thể thao-mạo hiểm
Khái niệm về du lịch thể thao đã được đưa ra dưới nhiều góc độ, tuy nhiên đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng du lịch thể thao là loại hình du lịch mà trong đó du khách sẽ được tham gia trực tiếp vào một số hình thức thể thao nhằm tăng cường sức khỏe kết hợp với thăm quan, khám phá khu vực nơi diễn ra hoạt động du lịch thể thao. Các hình thức thể thao truyền thống gắn với loại hình du lịch này thường bao gồm: leo núi; thuyền (thuyền chèo, thuyền buồm); lướt ván; xe đạp, mô tô, ô tô; tàu lượn, v.v.
Theo Tổ chức “Quỹ Hoang dã” (Mỹ) du lịch mạo hiểm là hình thức du lịch bao gồm các hoạt động khám phá hoặc tới những vùng xa xôi hoang dã, nơi khách du lịch có thể được thỏa mãn bởi những điều không ngờ.
4
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Mặc dù còn có những ý kiến xung quanh khái niệm về du lịch mạo hiểm, tuy nhiên đa số ý kiến khá thống nhất ở khái niệm cho rằng du lịch mạo hiểm là loại hình du lịch ở những khu vực tự nhiên còn tương đối hoang sơ, nơi du khách sẽ được thỏa mãn nhu cầu khám phá những điều không ngờ tới cùng với những cảm xúc bị “đe dọa” bởi những hoạt động “mạo hiểm” mà trước đó họ có thể chưa hình dung được song đã tự nguyện chấp nhận tham gia. Du khách tham gia loại hình du lịch này thường là những người yêu thích khám phá và ưa cảm giác “mạnh”.
BÁO CÁO TÓM TẮT
Phụ thuộc vào mức độ mạo hiểm, du lịch mạo hiểm có thể là rất mạo hiểm
(Extreme adventure tourism) hoặc ít mạo hiểm (Soft adventure tourism)
Khái niệm về du lịch thể thao - mạo hiểm (TTMH) được xem là sự kết hợp về khai niệm của 2 loại hình du lịch thể thao và du lịch mạo hiểm, ở đó “nội hàm” khái niệm về du lịch thể thao đóng vai trò chủ đạo. Mặc dù còn có những điểm chưa thống nhất trong thuật ngữ, tuy nhiên đa số các nhà nghiên cứu du lịch cho rằng “Du lịch TTMH là loại hình du lịch mang tính thể thao dựa vào việc khai thác các giá trị tự nhiên có kết hợp với văn hóa bản địa ở những khu vực còn tương đối hoang sơ, nhằm thỏa mãn nhu cầu tăng cường sức khỏe và và khám phá những điều không ngờ tới với những cảm giác mạo hiểm”. Du lịch TTMH có thể bao gồm :
Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển sản phẩm du lịch TTMH
(cid:131) Du lịch leo núi (cid:131) Du lịch khám phá các vùng hoang sơ (đi bộ hoặc kết hợp phương tiện) (cid:131) Du lịch thám hiểm hang động (cid:131) Du lịch vượt thác ghềnh (cid:131) Du lịch thả bè/mảng trôi sông (cid:131) Du lịch lặn biển (cid:131) Du lịch lướt ván (cid:131) Du lịch tàu lượn (cid:131) v.v. Các sản phẩm du lịch TTMH có thể bao gồm : sản phẩm “đơn” (trong cùng một hình thức du lịch)và sản phẩm “đa” hình thức trong cùng một tour (chương trình) du lịch cụ thể. Ví dụ, có thể kết hợp du lịch leo núi, du lịch đi bộ (trekking), du lịch vượt thác ghềnh/thả bè, du lịch khám phá bằng xe đạp, v.v trong một tour du lịch tổng hợp để khám phá các giá trị tự nhiên, văn hóa bản địa một vùng đất hoang sơ nào đó.
Như vậy, đứng từ góc độ khái niệm về sản phẩm du lịch, có thể thấy các yếu tố
chủ yếu sẽ có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển các sản phẩm TTMH bao gồm :
5
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Tài nguyên du lịch : đối với các sản phẩm du lịch TTMH, tài nguyên du lịch tự nhiên, đặc biệt là địa hình (độ dốc, hệ thống hang động, v.v.); hệ thống sông, hồ; cảnh quan, các giá trị sinh thái, khí hậu và các điều kiện tự nhiên như thời tiết, tốc độ dòng chảy trên sông, v.v.có vai trò đặc biệt quan trọng. Các giá trị về văn hóa bản địa (sinh hoạt truyền thống của cộng đồng; kiến trúc làng bản; các nghề thủ công; ca nhạc, lễ hội truyền thống; v.v.) đóng vai trò yếu tố bổ trợ. (cid:131) Một số dịch vụ cơ bản bao gồm bảo hiểm, hướng dẫn, thiết bị và phương tiện, v.v. được xem là yếu tố góp phần tạo nên nội dung và tính hấp dẫn riêng của các sản phẩm du lịch TTMH. Tùy thuộc vào sản phẩm du lịch TTMH, mức độ cần thiết đối với các loại dịch vụ cơ bản sẽ có sự khác nhau.
BÁO CÁO TÓM TẮT
(cid:131) Lao động, chủ yếu là hướng dẫn viên và người “huấn luyện” viên, có vai trò
quan trọng đối với việc hình thành một sản phẩm du lịch TTMH.
(cid:131) Hoạt động quản lí liên quan đến chất lượng sản phẩm, sự an toàn cho du khách khi tham gia loại hình du lịch này. Điều này đòi hỏi quy trình quản lí thích hợp với những nhà quản lí có nguyên tắc.
Các nguyên tắc cơ bản phát triển sản phẩm du lịch TTMH
(cid:131) Đảm bảo an toàn cho khách, theo đó ngoài các dịch vụ như “huấn luyện”,
“hướng dẫn”, v.v., các dịch vụ hỗ trợ an toàn phải được chú trọng.
(cid:131) Chú trọng khai thác các giá trị văn hóa bản địa để phát triển sản phẩm du lịch
TTMH nhằm tạo sự khác biệt và tăng tính hấp dẫn của sản phẩm.
(cid:131) Tổ chức hoạt động phù hợp với “sức chứa” của tài nguyên. Nguyên tắc này là rất quan trọng đối với việc phát triển các sản phẩm du lịch dựa vào tự nhiên ở những khu vực còn tương đối hoang sơ, nhạy cảm với những tác động. Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch có nguyên tắc phát triển tương tự. (cid:131) Lựa chọn “lát cắt” (tuyến) du lịch TTMH chứa nhiều nhất các giá trị tự nhiên
(cảnh quan, sinh thái) và văn hóa bản địa.
1.2.
Đặc điểm tài nguyên du lịch được sử dụng để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm
(cid:131) Tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc và
độc đáo có sức hấp dẫn rất lớn đối với khách du lịch. (cid:131) Tài nguyên du lịch là những tài nguyên không chỉ có giá trị hữu hình mà còn có
những giá trị vô hình.
(cid:131) Tài nguyên du lịch thường dễ khai thác. (cid:131) Tài nguyên du lịch có thời gian khai thác khác nhau. (cid:131) Tài nguyên du lịch được khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch. (cid:131) Tài nguyên du lịch có thể sử dụng được nhiều lần.
Các dạng tài nguyên du lịch chủ yếu ở vùng núi thường được sử dụng để phát
triển các sản phẩm du lịch TTMH bao gồm :
- Địa hình : trong đó chủ yếu khai thác đặc điểm về độ cao, độ dốc do cấu trúc địa hình tạo nên. Ngoài ra, hệ thống hang động, địa hình savan (sa mạc hoặc bán hoang mạc) cũng thường được sử dụng.
6
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
- Hệ thống sông, suối và hồ : trong đó đặc điểm về dòng chảy và địa hình của lòng sông/suối thường được khai thác khi phát triển các sản phẩm du lịch TTMH như vượt thác ghềnh, thả mảng/bè trôi sông, v.v.
BÁO CÁO TÓM TẮT
- Các giá trị cảnh quan, hệ sinh thái, đặc biệt là các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên là dạng tài nguyên du lịch bổ trợ quan trọng sẽ được xem xét đến khi xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH.
- Các giá trị văn hóa bản địa : mà tiêu biểu là các bản/làng các dân tộc ít người, nơi còn bảo tồn được những giá trị về sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt sản xuất truyền thống; về kiến trúc quần cư, kiến trúc công trình (nhà, công trình tín ngưỡng; v.v. ).
Đứng từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn kinh nghiệm phát triển du lịch TTMH vùng núi ở nhiều nước trên thế giới cho thấy mức độ quan trọng các dạng tài nguyên du lịch chủ yếu trên đối với phát triển các sản phẩm du lịch TTMH có khác nhau, cụ thể (theo thứ tự về mức độ quan trọng):
(cid:131) Địa hình (đỉnh cao, độ dốc, hang động ); (cid:131) Hệ thống sông, suối và hồ; (cid:131) Các giá trị cảnh quan, hệ sinh thái; và cuối cùng là (cid:131) Các giá trị văn hóa bản địa.
Các điều kiện/ tiêu chí xây dựng sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm
1.3. 1.3.1. Các điều kiện cơ bản hình thành sản phẩm du lịch thể thao mạo hiểm
(cid:131) Kết cấu hạ tầng du lịch (cid:131) Tài nguyên du lịch (cid:131) Cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ, lao động du lịch và hoạt động quản lý
7
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Ngoài các dịch vụ truyền thống có trong bất cứ sản phẩm du lịch nào như dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, v.v. một số dịch vụ đặc thù chủ yếu cần được đưa vào cấu thành sản phẩm du lịch TTMH bao gồm : dịch vụ huấn luyện, dịch vụ hướng dẫn, dịch vụ ứng cứu, dịch vụ bảo hiểm. Đối với hoạt động phát triển du lịch TTMH, người hướng dẫn viên (trong nhiều trường hợp thực hiện cả vai trò huấn luyện viên) được xem là yếu tố quan trọng có ý nghĩa đặc biệt. Những thị trường chính của sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm 1.4. Kết quả nghiên cứu tổng quan về đặc điểm một số thị trường khách chủ yếu của du lịch Việt Nam cho thấy du lịch TTMH hiện đang là mối quan tâm của du khách đến từ các thị trường Tây Âu bao gồm Đức, Hà Lan (Bảng 1)
BÁO CÁO TÓM TẮT
-
, i ơ h c
Loại hình du lịch
o a h t
n â h t
i u v
I
ể h t
h c ị l
h c ị l
Một số thị trường du lịch
r u o t y t i
, i ạ m g n ơ ư h t h c ị l u D
ụ v g n ô c
h c ị l , a ó h n ă v h c ị l u D
u D
E C M h c ị l u D
n a u q m ă h t h c ị l u D
u D
m ể i h o ạ m
i á h t h n i s h c ị l u D
g n ỡ ư d ỉ h g n h c ị l u D
i ộ h ễ l h c ị l u D
ử s
í r t i ả i g
n ể i b h c ị l u D
C
m ă h t h c ị l u D
m ắ s a u m h c ị l u D
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ λ λ
λ λ λ
λ λ λ
λ λ λ
Tây Âu
λ
λ
λ
λ
λ λ λ λ
λ λ λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ λ λ
λ
Châu Á – TBD
λ λ
λ
λ λ λ λ λ λ λ
λ
λ
λ
λ λ λ λ λ λ
λ λ
λ
λ
λ λ λ λ
λ λ λ λ λ
λ
Bắc Mỹ
λ
λ
λ
λ
λ λ λ λ λ λ λ λ
λ λ λ λ λ λ λ λ
λ λ λ λ
λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ
Ph¸p Anh §øc Thôy Sü Hµ Lan §an M¹ch NhËt §µi Loan Trung Quèc Úc ASEAN (*) Hµn Quèc Mü Canada
λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ λ
λ λ λ λ λ
λ λ
λ λ
λ
Chó thÝch
λ Rất quan tâm λ Quan tâm λ
Ít quan tâm
Nguồn : “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng TDMNBB đến năm 2020” có bổ sung
B¶ng 1 : Sự quan tâm của khách du lịch từ một số thị trường đến những loại hình du lịch chủ yếu
Tổng quan kinh nghiệm về phát triển du lịch thể thao - mạo hiểm
Từ nghiên cứu tổng quan trên cho thấy thị trường tiềm năng đối với du lịch TTMH ở Việt Nam chủ yếu sẽ là thị trường Tây Âu (Đức, Hà Lan, Anh), Úc và Bắc Mỹ. Ở khu vực Châu Á, khách du lịch Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có những quan tâm nhất định đến loại hình du lịch đầy tiềm năng này. Nhóm khách du lịch trẻ (độ tuổi từ 22-35) có mối quan tâm lớn hơn so với nhóm có độ tuổi cao hoặc ít tuổi hơn đối với loại hình du lịch TTMH. Phần lớn khách du lịch quan tâm đến loại hình du lịch TTMH là đàn ông (chiếm tới tới 87,6%) 2. - Kinh nghiệm quốc tế : Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát triển du lịch TTMH tại Thái Lan, Úc và một số quốc gia trong khu vực, những kinh nghiệm quốc tế chủ yếu được rút ra bao gồm :
8
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Đảm bảo an toàn, an ninh, đặc biệt đối với những loại hình du lịch được tổ chức ở những khu vực còn tương đối hoang sơ, vùng sâu, vùng xa như du lịch sinh
BÁO CÁO TÓM TẮT
thái, du lịch TTMH. đứng ở góc độ này, du lịch TTMH sẽ có được những hành lang về pháp lý và kỹ thuật với sự hỗ trợ của các trung tâm cứu trợ có tính quốc gia để tiến hành các hoạt động ứng cứu trong trường hợp xảy ra sự cố đối với du khách trong quá trình thực hiện các tour du lịch đến những vùng hoang sơ, nơi các điều kiện đảm bảo an toàn của du lịch còn hạn chế;
(cid:131) Đảm bảo người dân địa phương luôn sẵn sàng cung cấp những dịch vụ tốt nhất, xứng đáng với vai trò của "Người chủ nhà hoàn hảo". Điều này rất quan trọng, nhất là đối với những loại hình du lịch được tổ chức trong điều kiện xa các trung tâm dân cư lớn nơi trình độ giao tiếp và văn hóa của người đân là tương đối cao. Đứng từ góc độ này việc nâng cao nhận thức và tạo điều kiện để cộng đồng vùng sâu, vùng xa nơi có tiềm năng và điều kiện phát triển du lịch khám phá, TTMH sẽ có ý nghĩa quan trọng;
(cid:131) Có mạng lưới thông tin viễn thông toàn cầu tại những nơi diễn ra hoạt động du lịch khám phá, du lịch TTMH bởi trong quá trình thực hiện các chuyến du lịch này, nhiều yếu tố bất trắc ngoài mong muốn có thể xảy ra và những thông tin này cần được thông báo đầy đủ, nhanh chóng nhất đến những địa chỉ có trách nhiệm xử lý, đưa ra các quyết định để hỗ trợ tốt nhất cho du khách vượt qua những tình huống bất lợi;
(cid:131) Giám sát chặt chẽ và hạn chế tác động của khách du lịch đối với các nguồn tài nguyên du lịch thông qua sức chứa của điểm du lịch. Điều này rất quan trọng khi tổ chức các hoạt động du lịch khám phá, du lịch TTMH tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên; trên các đảo hoặc các khu vực có hệ sinh thái san hô phát triển. Việc kiểm soát sức chứa cũng có ý nghĩa đối với việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống bản địa của các bộ tộc ít người trong hoạt động phát triển du lịch khám phá, TTMH ở những vùng xa xôi.
(cid:131) Tiến hành các khoá đào tạo đặc biệt cho cán bộ quản lý, điều hành hoạt động du
lịch TTMH, để phát triển du lịch TTMH được hấp dẫn, an toàn.
(cid:131) Cần có sự tham gia tích cực của cộng đồng bản địa vào quá trình phát triển hoạt động du lịch TTMH. Điều này xuất phát từ thực tế là ở Australia, người dân bản địa là những người sở hữu truyền thống các giá trị tài nguyên du lịch. Sự tham gia tích cực của cộng đồng sẽ giúp cho các chuyến du lịch khám phá, du lịch TTMH đạt được kết quả tốt nhất, thỏa mãn được những kỳ vọng, thậm chí “ngoài tưởng tượng” của du khách.
(cid:131) Để có thể phát triển được du lịch ở những khu vực xa xôi, nhạy cảm về môi trường và an ninh, cần có những chính sách và biện pháp nhằm tạo điều kiện để khách du lịch tiếp cận được với những khu vực có tiềm năng, tuy nhiên đảm bảo được những hoạt động du lịch ở đây ít có tác động ảnh hưởng đến tự nhiên và an ninh quốc gia;
9
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Trong thực tế phát triển, du lịch sinh thái, du lịch TTMH có thể được tổ chức ở những khu vực giáp ranh giữa các quốc gia, vì vậy để có thể xây dựng và đưa vào thực tế hoạt động của các chương trình (tours) du lịch TTMH hấp dẫn cần có sự phối hợp phát triển du lịch trong vùng và tiểu vùng.
BÁO CÁO TÓM TẮT
- Kinh nghiệm trong nước : Kinh nghiệm thực tế từ hoạt động tổ chức một số chương trình (tours) du lịch TTMH ở Việt Nam thời gian qua cho thấy những vấn đề chủ yếu sau :
(cid:131) Du lịch TTMH là loại hình du lịch hấp dẫn song cũng đòi hỏi ở nhà tổ chức (các công ty lữ hành) kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp cao. Yêu cầu này xuất phát từ thực tế bởi các sản phẩm du lịch TTMH bao gồm cả các dịch vụ có tính kỹ thuật và dịch vụ công nghệ cao (cứu hộ, định vị, các thiết bị leo núi, các phương tiện vượt thác ghềnh, v.v.). Chương trình (tour) du lịch “Raid Gouloise” năm 2002 được xem là một minh chứng cụ thể cho vấn đề này. (cid:131) Hướng dẫn viên (trong nhiều trường hợp là huấn luyện viên) chuyên nghiệp là yếu tố rất quan trọng không thể thiếu trong “cấu thành” một sản phẩm du lịch TTMH. Vì vậy để có thể phát triển được du lịch TTMH, vấn đề đào tạo để trong một thời gian ngắn có được đội ngũ hướng dẫn viên/huấn luyện viện du lịch TTMH đáp ứng nhu cầu phát triển loại hình du lịch này là rất quan trọng; (cid:131) Để có thể phát triển được du lịch TTMH nói chung và các sản phẩm du lịch
TTMH nói riêng, rất cần các điều tra nghiên cứu có tính khoa học.
(cid:131) Một kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển du lịch TTMH ở Việt Nam thời gian qua cho thấy để có thể phát triển được loại hình du lịch đặc thù này, rất cần có được chính sách và môi trường pháp lý phù hợp ở cấp vĩ mô;
(cid:131) Trong “cấu thành” sản phẩm du lịch TTMH rất cần các yếu tố bản địa cả về tài nguyên và dịch vụ của cộng đồng. Điều này sẽ làm tăng hơn tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch TTMH. Những kinh nghiệm trên đây, bao gồm cả kinh nghiệm quốc tế và trong nước, được rút ra từ thực tiễn phát triển du lịch TTMH sẽ được xem như một yếu tố quan trọng của cơ sở thực tiễn, bên cạnh những cơ sở lý luận, tạo nên cơ sở khoa học để xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở Việt Nam và vùng núi phía Bắc nói riêng. 3. Tiềm năng tài nguyên du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc 3.1. Các dạng địa hình
10
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Phần lớn diện tích vùng núi phía Bắc là đồi núi (chiếm gần 94%) và khoảng 6% diện tích còn lại là vùng cao nguyên có địa hình tương đối bằng phẳng và một số dải đồng bằng hẹp nằm xen kẽ. Ở vùng núi phía Bắc các dãy núi Tây Bắc đều có hướng Tây Bắc - Đông Nam, ở đây phổ biến là các dãy núi trung bình và núi cao (Fansipan 3.142m, Pusilung 3.076m, Puluông 2.893m, Phuxpan 2.079m, Pusan 2.218m, Phu Hoạt 2.452m v.v...) và rất nhiều đỉnh cao 1.800 - 2.000m, nằm chủ yếu trên dãy núi khổng lồ thuộc các tỉnh Lào Cai, Yên Bái. Mạng lưới sông suối ở đây dày đặc, hẹp,
BÁO CÁO TÓM TẮT
dốc, khi mưa lớn thường gây lũ lụt. Độ cao chủ yếu 500-800m, ở một số khu vực có nhiều đỉnh núi nhô lên 2.000m. Chính ở các khu vực miền núi hiểm trở này còn sót lại ở các cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh được phát triển thành các vườn quốc gia và các khu bảo tồn tự nhiên nổi tiếng như Hoàng Liên, Mường Nhé, Ba Bể,v.v.
11
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Ở khu vực Đông Bắc, trừ dãy núi Con Voi có hướng Tây Bắc - Đông Nam, các dãy núi có hướng vòng cung chiếm ưu thế, quy tụ về Tam Đảo. Có nhiều vùng đá vôi dốc đứng bị chia cắt mạnh, tạo nên những cảnh quan kỳ thú như ở Quản Bạ, Đồng Văn, Ba Bể, Bắc Sơn, Chi Lăng, v.v. Một nhóm địa hình karst gần 30.000 km2 là các đồi sót và các khối núi đá vôi khổng lồ phân bố rộng khắp ở vùng núi phía Bắc. Lớn nhất là khối núi đá vôi Bắc Sơn và hàng nghìn núi sót như những hòn đảo trên cạn ở khu vực phía Nam; các dải núi đá vôi kéo dài từ Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình và Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang tạo là nơi có hệ thống hang động có thể khai thác để phát triển du lịch nhiều loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch thể thao-mạo hiểm. Ngoài ra ở vùng núi phía Bắc còn có các cao nguyên đá vôi như Mộc Châu, Đồng Văn, thỉnh thoảng lộ ra các bãi karst với các phong cảnh độc đáo và hấp dẫn. 3.2. Hệ thống hang động Các hang động ở Việt Nam chủ yếu là các hang động nằm trong các vùng núi đá vôi có kiểu địa hình karst rất phát triển. Các công trình điều tra, nghiên cứu hang động ở Việt Nam cho thấy hiện đã phát hiện được khoảng 200 hang động, trong đó phần lớn, tới gần 90%, là các hang ngắn và trung bình (có độ dài dưới 100m) và chỉ có trên 10% số hang dài trên 100m. Ở Lạng Sơn có hang Cả - hang Bè dài hơn 3,3km. Kết quả nghiên cứu hang động vùng núi phía Bắc của Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy các hang động ở khu vực này phân bố trên các độ cao khác nhau đối với các vùng khác nhau : ở vùng Tây Bắc, các hang động thường phân bố ở các độ cao – 5m ;30m ;60m ; và 100m, còn ở vùng Đông Bắc là 4-5m ;10m ;18-20m ; và 35-40m. Ở vùng núi phía Bắc có nhiều hang động ngoài giá trị tự nhiên còn gắn với các sự tích truyền thuyết như hang Đầu Gỗ, động Tam Thanh, v.v. hoặc gắn với các di tích lịch sử như hang Pác Bó (Cao Bằng). Các hang động ở vùng núi phía Bắc rất đa dạng, ở các bậc độ cao khác nhau và có độ dài khác nhau. Đó là một dạng tài nguyên du lịch rất đặc trưng ở vùng núi phía Bắc. 3.3. Hệ thống sông suối, thác gềnh Vùng núi phía Bắc có mạng lưới sông suối khá dày đặc với các sông lớn có diện tích lưu vực trên 1.000km2 như : sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Thương, sông Mã. Các sông có tiềm năng lớn về tài nguyên du lịch TTMH bao gồm :
BÁO CÁO TÓM TẮT
(cid:131) Sông Hồng: bắt nguồn từ Trung Quốc chảy về Lào Cai - Yên Bái - Việt Trì -Hà Nội - Hải Dương - Hưng Yên - Nam Hà - ra biển, dài 1.126 km (trên lãnh thổ Việt Nam là 510km); độ dốc trung bình 30,5%.
(cid:131) Sông Lô: bắt nguồn từ Hà Giang chảy qua Tuyên Quang về Việt Trì, tiếp nối với sông Hồng, dài 469 km; độ dốc trung bình 19,7%.
(cid:131) Sông Đà: bắt nguồn từ Lào chảy về Lai Châu - Sơn La - Hòa Bình, tiếp nối với
sông Hồng tại Việt Trì, dài 1.013 km; độ dốc trung bình 36,8%.
Thiên nhiên đặc sắc vùng núi phía Bắc đã tạo nên nhiều khu vực khá tập trung
12
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Sông Mã, dài 538 km; độ dốc trung bình 17,6%. Ở vùng núi phía Bắc còn có một diện tích rất lớn các hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo. Đáng chú ý là các hồ chứa nước lớn có nhiều cảnh quan đẹp, khí hậu tốt có thể khai thác phục vụ du lịch như các hồ Thác Bà (Yên Bái), Hòa Bình (Hòa Bình), Núi Cốc (Thái Nguyên), v.v., đặc biệt trong vùng có hồ tự nhiên Ba Bể (Bắc Kạn) trong VQG Ba Bể với nhiều giá trị về cảnh quan, đa dạng sinh học đã được cộng nhận là Di sản ASEAN và đang hoàn tất hồ sơ trình UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. 3.4. Hệ thống các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên Các giá trị sinh thái đa dạng sinh học có thể khai thác để xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH tập trung chủ yếu ở các vườn quốc gia, khu BTTN vốn rất phong phú ở vùng núi phía Bắc với 49 khu bảo tồn tự nhiên (bằng 46% cả nước); 5 vườn quốc gia (bằng 19% cả nước) và 20 khu rừng văn hóa - lịch sử - môi trường (bằng 61% cả nước). Bốn vườn quốc gia trong lãnh thổ vùng núi phía Bắc là VQG Ba Bể (Bắc Kạn), VQG Hoàng Liên (Lào Cai), VQG Xuân Sơn (Phú Thọ), VQG Bái Tử Long và rừng quốc gia Đền Hùng (Phú Thọ) là những nơi bảo tồn được nhiều diện tích rừng nguyên sinh với nhiều loại thực, động vật nhiệt đới điển hình. Các khu bảo tồn tự nhiên, các khu rừng VH-LS-MTnhư Núi Cốc (Thái Nguyên), Cấm Sơn (Bắc Giang), hồ Sông Đà (Hòa Bình-Sơn La), Bắc Sơn (Lạng Sơn), Pác Bó (Cao Bằng), Thác Bà (Yên Bái), Tân Trào (Tuyên Quang), v.v. đều có giá trị du lịch cần sớm có sự kết hợp để đạt hiệu quả cao trong việc bảo vệ, khai thác sử dụng. 3.5. Các giá trị tài nguyên du lịch bổ trợ (văn hoá bản địa, cảnh quan tự nhiên) các cảnh quan có giá trị hấp dẫn du lịch, tiêu biểu là các khu vực sau: - Khu vực Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn : là vùng núi đá vôi trùng điệp ở biên giới phía Bắc, có nhiều thắng cảnh đặc sắc như các hang động, thác nước, vườn quốc gia, hồ tự nhiên trên núi. Các thắng cảnh nổi tiếng ở khu vực này là hồ Ba Bể, thác Bản Giốc, động Tam Thanh, ải Chi Lăng. - Khu vực miền núi Tây Bắc : với dãy núi Lào Cai, Yên Bái và các cao nguyên đá vôi Sơn La - Mộc Châu, là khu vực núi non hiểm trở nhất ở nước ta. Cảnh sắc thiên
BÁO CÁO TÓM TẮT
- Khu vực duyên hải Đông Bắc với Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long,
nhiên ở đây về mùa Đông đã pha trộn và có dáng dấp của vùng ôn đới, đôi khi có tuyết rơi, cây lá kim chiếm ưu thế, nhiều hoa quả, cây thuốc của vùng xứ lạnh, với các thắng cảnh nổi tiếng như thị trấn Sa Pa, thác Bạc, cầu Mây, Sơn La, Mộc Châu. nơi giá trị cảnh quan đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới Vùng núi phía Bắc là nơi cư trú của 32 dân tộc, trong đó có những dân tộc có số dân lớn như Tày, Thái, Mường, Nùng H’Mông và Dao. Hiện nay các dân tộc miền núi phía Bắc vẫn còn giữ được nhiều nét sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc sắc, những phong tục tập quán cổ độc đáo. Cùng với nền văn hóa Việt nói chung, nền văn hóa các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc đã tạo nên kho tàng văn hóa vô giá, là sản phẩm du lịch độc đáo thu hút khác du lịch. 3.6. Các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến hoạt động du lịch nói chung, du
lịch TTMH nói riêng
Khí hậu, thời tiết : Vùng núi phía Bắc là lãnh thổ có đặc điểm khí hậu và thời
13
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
tiết đa dạng, có phần độc đáo và nhiều biến động nhất ở Việt Nam. Khu vực vùng núi phía Bắc có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 210C đến 230C ; lượng mưa trung bình từ 1.700-2.000mm, mùa mưa thường từ tháng 4 đến tháng 9. ở các vùng núi cao có nhiệt độ thấp hơn: Sa Pa (ở độ cao 1.570m) có nhiệt độ trung bình hàng năm là 15,20C, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất (tháng 1) là 8,50C, tháng cao nhất (tháng 7) là 19,80C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối có năm đã xuống tới -3,20C (ngày 14-12-1975). Khu vực này ít chịu ảnh hưởng của bão nhưng có nhiều loại gió địa phương gây trở ngại cho hoạt động du lịch như gió Tây khô nóng (gió Lào), gió Than Uyên, gió Ô Quy Hồ. Vùng núi phía Bắc là vùng chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa Đông Bắc, trung bình mỗi có 20-25 đợt gió mùa Đông Bắc. Ảnh hưởng này có sự giảm dần từ Bắc xuống Nam. Tuy nhiên nhìn chung đặc điểm khí hậu, thời tiết của vùng núi phía Bắc là thuận lợi cho các hoạt động du lịch. Chính đặc điểm này đã tạo nên sự đa dạng về các giá trị tự nhiên, cảnh quan lãnh thổ, làm tăng tính hấp dẫn du lịch của vùng. Cần biết phát huy những thuận lợi về đặc điểm khí hậu, thời tiết để phát triển nhiều loại hình du lịch, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, vừa phát huy vừa khắc phục được tính mùa vụ của hoạt động du lịch ở vùng này. Sự an toàn và bất trắc của môi trường tự nhiên : sự an toàn và bất trắc của môi trường tự nhiên có tính chất quy luật, đặc biệt đối với vùng núi phía Bắc, một vùng có diện tích không lớn song có địa hình chia cắt mạnh. Ở lãnh thổ này bão lũ, gió mùa Đông Bắc thường xảy ra hàng năm nhưng thường không gây tác hại lớn. Những năm gần đây hiện tượng động đất có xảy ra ở
BÁO CÁO TÓM TẮT
một số nơi trong vùng như Lai Châu, Điện Biên và đã gây ra một số thiệt hại về nhà cửa, công trình xây dựng. Đây là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu, dự báo để giảm thiểu những tác động đến dân sinh, kinh tế cũng như ảnh hưởng đến hoạt động du lịch. Các trở ngại cho hoạt động du lịch thường xảy ra vào mùa mưa và những ngày có thời tiết xấu như bão, gió mùa Đông Bắc. Ở một số nơi có thể gây ách tắc giao thông như úng lụt, lở đất. Cũng cần chú ý đề phòng các ổ dịch bệnh tự nhiên, sinh vật độc hại (ruồi, muỗi, rắn, thú dữ, thức ăn lạ...) đối với khách du lịch. Một trong những vấn đề đáng lo ngại về môi trường tác động đến hoạt động du lịch nói chung, du lịch TTMH nói riêng là nguy cơ trượt lở đất, đá do những chấn động để lại trong quá trình khai thác vật liệu xây dựng ở vùng núi phía Bắc. 4. Đánh giá thực trạng phát triển sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm chủ yếu
ở vùng núi phía Bắc
4.1 . Thực trạng phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm chính
Về lãnh thổ : Cho đến nay ở vùng núi phía Bắc, hoạt động phát triển du lịch
TTMH mới được tổ chức ở một số khu vực chủ yếu sau :
14
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
- Vùng núi Phan Xi Phăng (Sa Pa, Lào Cai) : đây là khu vực có địa hình núi cao với đỉnh núi Phan Xi Phăng cao 3.143m được mệnh danh là “nóc nhà” Đông Dương. Chinh phục địa hình núi cao được xem là “đích” của các hành trình du lịch TTMH ở khu vực này. Hiện nay, phần lớn các công ty du lịch lữ hành có sản phẩm du lịch TTMH đều chọn khu vực này để khai thác. - Vùng núi Tây Côn Lĩnh (từ địa phận Hoàng Su Phì đến cửa khẩu Thanh Thủy), Hà Giang : đây là vùng núi còn tương đối hoang sơ. Các giá trị chủ yếu được khai thác ở khu vực này để phát triển các sản phẩm du lịch TTMH là độ dốc địa hình núi cao với độ cao của đỉnh Tây Côn Lĩnh tới 2.419m, cảnh quan và sinh hoạt truyền thống của một số bản dân tộc H’Mông. - Khu vực Mèo Vạc – Đồng Văn: Đồng Văn là huyện vùng cao biên giới tỉnh Hà Giang. với dạng địa hình “cánh đồng” karst (cao nguyên đá tai mèo) rất điển hình với cảnh quan hấp dẫn. - Khu vực Mù Căng Chải hay Tà Sì Láng (Yên Bái) : với những giá trị chủ yếu về cảnh quan và văn hóa bản địa, đặc biệt là lễ hội của đồng bào H’Mông, Tày. Những giá trị này hiện đang được một số công ty du lịch như Topas Travel; Bufalo; Marco Polo; Exotisimo; Hồng Bàng (Youth Action Tour) khai thác để xây dựng một số sản phẩm du lịch đi bộ dã ngoại (tracking - soft adventure). Khu vực Na Hang – Ba Bể : đây là khu bảo tồn thiên nhiên trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang gắn với vườn quốc gia Ba Bể - Di sản thiên nhiên ASEAN trên địa bàn
BÁO CÁO TÓM TẮT
tỉnh Bắc Kạn, nơi có nhiều giá trị cảnh quan, điển hình là thác Mơ (Na Hang), hồ Ba Bể - hồ tự nhiên trên địa hình núi karst và các giá trị sinh thái điển hình của rừng nhiệt đới trên núi đá vôi được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Đây là những giá trị tự nhiên mà bước đầu đã được các công ty du lịch khai thác để phát triển một số sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc.
- Khu vực thượng nguồn sông Đà : trên địa bàn các huyện Mường La, Quỳnh Nhai (Sơn La) và các huyện Tam Đường, Sìn Hồ (Lai Châu). Đây là khu vực có địa hình chia cắt tạo nên những cảnh quan hùng vĩ, tôn lên sự hiểm trở của sông Đà. Đây là nơi có nhiều hang động, điển hình là hang động Tiên Sơn (Tam Đường) với 49 khoang còn tương đối hoang sơ. Đây cũng là khu vực tập trung nhiều bản dân tộc Thái, nơi còn lưu giữ được nhiều giá trị sinh hoạt văn hóa truyền thống. - Khu vực Đà Bắc - Mai Châu - Tân Lạc (Hòa Bình) : nơi có hồ Hòa Bình khu bảo tồn thiên nhiên Phù Luông, nhiều hang động mà điển hình là hang Bụt, hang Muối, và các bản dân tộc Mường (bản Cun), dân tộc Thái (bản Lác), dân tộc H’Mông (bản Xà Lĩnh ). Thời gian gần đây nhiều công ty du lịch đã xây dựng các chương trình đi bộ dã ngoại (tracking) khám phá thiên nhiên khu bảo tồn Phù Luông và tìm hiểu các giá trị văn hóa các dân tộc ở khu vực này. - Khu vực các dạng địa hình phễu karst (tùng, áng) trong khu vực quần thể đảo thuộc di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Các giá trị chủ yếu được khai thác để phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở khu vực này là cảnh quan và cấu trúc địa hình đặc thù của địa hình tùng, áng rất đặc biệt. Ngoài ra, các giá trị sinh thái, đặc biệt là đa dạng sinh học (trên đảo đá và dưới nước trong các tùng, áng) cũng bước đầu được các doanh nghiệp khai thác nhằm tạo ra các giá trị đặc thù của các sản phẩm du lịch TTMH ở khu vực này.
15
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Về sản phẩm du lịch : Các sản phẩm du lịch TTMH chủ yếu được xây dựng trên cơ sở khai thác các giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa vùng núi phía Bắc thời gian qua bao gồm : - Các tuyến đi bộ dã ngoại (tracking) : đây là sản phẩm chủ yếu được nhiều công ty du lịch lữ hành xây dựng và chào bán khách du lịch. Các chương trình (tours) du lịch TTMH này thường có thời gian không dài, trung bình khoảng 5 ngày 4 đêm với trọng tâm là khám phá cảnh quan còn tương đối nguyên sơ ở các vùng núi cao, vườn quốc gia hoặc khu bảo tồn thiên nhiên; tìm hiểu các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc tiêu biểu ở vùng núi phía Bắc như dân tộc Thái, Mường, H’Mông, Dao, Tày tại các bản được lựa chọn trên tuyến dã ngoại. - Các chương trình (tours) khám phá vùng núi phía Bắc bằng xe mô tô/xe đạp: những chương trình này chủ yếu được tổ chức ở khu vực vùng núi Tây Bắc trên địa
BÁO CÁO TÓM TẮT
bàn các địa phương Hòa Bình, Điện Biên, Lai Châu, Lao Cai, và Hà Giang. Về bản chất (nội hàm) của loại sản phẩm du lịch TTMH này cũng không có sự khác biệt nhiều so với các sản phẩm du lịch tracking. Điểm khác biệt của loại sản phẩm này so với các sản phẩm du lịch tracking là cự ly thường dài hơn, thời gian tours cũng vì vậy dài hơn; tính phức tạp trong tổ chức có cao hơn và kèm theo đó là khả năng “rủi ro” cũng cao hơn. Hơn thế nữa các sản phẩm du lịch TTMH này đòi hỏi cần có đầu tư cao hơn, ít nhất là đầu tư về phương tiện. - Du lịch leo núi : bao gồm hai dạng chủ yếu là leo vách núi (rock climbing) và chinh phục các đỉnh núi (mountain climbing). Cho đến nay ở vùng núi phía Bắc du lịch chinh phục các đỉnh núi vẫn là sản phẩm du lịch TTMH chính được xây dựng. Các chương trình (tours) du lịch này hiện chủ yếu mới được các công ty du lịch lữ hành xây dựng ở vùng núi Phan Xi Phăng (Sa Pa – Lào Cai) và hiện đang rất thu hút được sự quan tâm của du khách quốc tế và nội địa cũng như của các nhà thể thao chuyên nghiệp khi đến vùng núi phía Bắc. - Du lịch chèo thuyền : đây là loại sản phẩm du lịch TTMH tương đối phổ biến và rất được ưa chuộng trên thế giới. Loại sản phẩm du lịch này gồm 2 loại phổ biến là chèo thuyền chuyên dụng (bằng nhựa tổng hợp hoặc cao su đặc biệt) hoặc thả bè (được ghép bằng tre/luồng hoặc cây gỗ) vượt thác ghềnh (rafting) và chèo thuyền để khám phá thiên nhiên (kayaking/canyoning). Hiện nay sản phẩm du lịch TTMH này còn giới hạn chủ yếu ở khu vực vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Nguyên chủ yếu của tình trạng này là để phát triển loại sản phẩm du lịch TTMH hiểm này đòi hỏi phải đầu tư mua sắm các loại thuyền đặc dụng và cần có huấn luyện viên để hướng dẫn cho khách trước khi sử dụng sản phẩm nay. Hơn thế nữa, du khách khi tham gia loại hình du lịch này cần có bảo hiểm bởi khả năng rủi ro. Do vậy chi phí chung cho việc xây dựng sản phẩm tương đối cao và hiện là chưa phù hợp với các doanh nghiệp lữ hành hiện nay ở Việt Nam. 4.2.
Thực trạng thu hút khách đối với những sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm hiện có của vùng Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy các sản phẩm du lịch TTMH được xây dựng ở
vùng núi phía Bắc hiện mới thu hút được sự quan tâm của một số thị trường sau :
16
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Khách du lịch quốc tế : chủ yếu là những du khách đến từ các nước Tây Âu (chiếm tới 86,2% lượng khách được điều tra) bao gồm Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Pháp; khách từ các nước Úc và Bắc Mỹ chiếm có 9,1% và còn lại là từ các thị trường khác.
BÁO CÁO TÓM TẮT
Một điều đáng lưu ý là khách du lịch từ thị trường châu Á còn rất ít quan tâm (hoặc có thể chưa được biết đến) các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc. Chỉ có một lượng nhỏ khách du lịch từ Nhật Bản và Hàn Quốc tham gia vào tours du lịch chinh phục đỉnh Phan Xi Phăng và đi dã ngoại trên cao nguyên Đồng Văn.
Khách du lịch nội địa : chủ yếu là từ Hà Nội (chiếm tới 79,2% lượng khách được điều tra) và TP. Hồ Chí Minh (chiếm 17,6% lượng khách được điều tra); trong đó có tới 80,6% khách du lịch có độ tuổi từ 20 – 35 tuổi; 12,6% ở độ tuổi từ 36- 45.
Những sản phẩm mà khách du lịch nội địa quan tâm nhiều là chinh phục núi Phan Xi Phăng, các tuyến du lịch dã ngoại ở các khu bảo tồn tự nhiên hoặc vườn quốc gia; một số tours du lịch bằng xe máy trên các tuyến đường từ Lào Cai sang Hà Giang; 4.3.
Những thuận lợi, khó khăn cơ bản trong phát triển sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc
Qua nghiên cứu thực trạng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi
phía Bắc có thể thấy một số thuận lợi và khó khăn cơ bản bao gồm :
Thuận lợi :
(cid:131) Du lịch TTMH là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa bản địa có ý nghĩa giáo dục môi trường và góp phần cho nỗ lực bảo tồn, vì vậy được khuyến khích phát triển ở Việt Nam nói chung và ở vùng núi phía bắc nói riêng. Hơn thế nữa phát triển du lịch TTMH sẽ góp phần tích cực vào đa dạng hóa các sản phẩm du lịch Việt Nam, góp phần nâng cao tính hấp dẫn và cạnh tranh của du lịch Việt Nam.;
(cid:131) Vùng núi phía Bắc là một lãnh thổ mà ở đó trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế, đời sống của cộng đồng người dân, đặc biệt là cộng đồng các dân tộc ít người còn nhiều khó khăn. Vì vậy phát triển du lịch, đặc biệt là những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch TTMH gắn với xóa đói giảm nghèo là hướng tiếp cận được khuyến khích phát triển ở vùng núi phía Bắc; (cid:131) Vùng núi phía Bắc là lãnh thổ có tiềm năng du lịch TTMH khá phong phú và đa dạng; các điều kiện để tổ chức xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở đây là khá thuận lợi. Đặc biệt phát triển du lịch nói chung, du lịch TTMH nói riêng được chính quyền và người dân địa phương ủng hộ vì sự phát triển du lịch tạo được nhiều cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập của cộng đồng; (cid:131) Nhu cầu đối với các sản phẩm du lịch tự nhiên gắn với văn hóa bản địa nói
17
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
chung, du lịch TTMH nói riêng ngày càng cao
BÁO CÁO TÓM TẮT
Khó khăn :
(cid:131) Hiện chưa có chính sách và chiến lược riêng cho phát triển loại hình du lịch TTMH ở Việt Nam, vì vậy việc phát triển du lịch TTMH ở Việt Nam nói chung và ở vùng núi phía Bắc nói riêng sẽ không được thuận lợi đứng từ góc độ chính sách cụ thể;
(cid:131) Mặc dù vùng núi phía Bắc, bao gồm tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc; tiểu vùng du lịch miền núi Đông Bắc và một phần tiểu vùng du lịch duyên hải Đông Bắc đã có định hướng phát triển du lịch chung cho lãnh thổ trong khuôn khổ Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tuy nhiên quy hoạch chuyên đề về du lịch TTMH cho lãnh thổ này cho đến nay chưa được thực hiện. Đây là khó khăn về pháp lý và định hướng chiến lược để xây dựng các sản phẩm TTMH cụ thể; (cid:131) Vùng núi phía Bắc có địa hình chia cắt lại nằm trên 2 đứt gãy địa chất lớn, vì vậy thường chịu ảnh hưởng của các tai biến môi trường như động đất, trượt lở, lũ quét. Đây sẽ là những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động phát triển du lịch nói chung, du lịch TTMH nói riêng ở vùng lãnh thổ này. Khó khăn này càng trở nên lớn trong bối cảnh diện tích rừng ở vùng này vẫn bị suy giam do tác động của con người.
5. Một số nguyên nhân chủ yếu hạn chế sự phát triển của các sản phẩm du lịch
thể thao - mạo hiểm
Qua phân tích tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch TTMH nói chung và việc xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc có thể thấy một số nguyên nhân chủ quan và khách quan chủ yếu bao gồm :
Các nguyên nhân chủ quan 5.1 .
18
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Mặc dù là loại hình du lịch được khuyến khích phát triển, nhất là trong bối cảnh phát triển ở một lãnh thổ nơi cuộc sống của cộng đồng còn nhiều khó khăn, tuy nhiên cho đến nay chiến lược/quy hoạch/kế hoạch cụ thể cho việc phát triển những sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc chưa được cụ thể hóa ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trách nhiệm này chủ yếu thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương trong vùng. (cid:131) Các công ty lữ hành hiện còn rất thiếu kinh nghiêm trong tổ chức phát triển loại hình du lịch TTMH, đặc biệt là xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể. Một trong những khó khăn của vấn đề này là trong cấu thành “dịch vụ” của sản phẩm du lịch TTMH có nhiều loại dịch vụ khác với những dịch vụ như đối với
BÁO CÁO TÓM TẮT
những sản phẩm du lịch thông thường khác. Ví dụ như dịch vụ thông tin liên lạc, dịch vụ cứu hộ, dịch vụ huấn luyện các kỹ thuật cơ bản; v.v.
(cid:131) Các nhà đầu tư, cụ thể là các công ty lữ hành, chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh riêng đối với những sản phẩm du lịch TTMH; chưa mạnh dạn chủ động điều tra khảo sát thị trường và đầu tư xây dựng các sản phẩm TTMH; (cid:131) Du lịch TTMH đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, tuy nhiên cho đến nay đội ngũ
cán bộ, lao động có trình độ trong lĩnh vực này còn rất hạn chế.
5.2 . Các nguyên nhân khách quan
(cid:131) Thiếu sự phối hợp giữa các ngành có liên quan (du lịch, biên phòng, an ninh, thông tin liên lạc); giữa ngành với chính quyền các địa phương trong vùng trong việc tổ chức xây dựng và thực hiện các chương trình (tours) du lịch TTMH trên địa bàn;
(cid:131) Chưa có quy định cụ thể ở Việt Nam đối với hoạt động cứu hộ trong hoạt động du lịch nói chung và đặc biệt là hoạt động du lịch TTMH. Điều này làm các nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn khi đưa ra quyết định xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể ở vùng núi phía Bắc, đặc biệt đối với những sản phẩm, mặc dù rất hấp dẫn, những có độ rủi ro cao (đứng từ góc độ an toàn) như du lịch vượt thác ghềnh, du lịch leo vách núi, du lịch tàu lượn, v.v.
6. Xác lập những định hướng chính phát triển các sản phẩm du lịch thể thao –
mạo hiểm chủ yếu ở vùng núi phía Bắc
Không gian/khu vực thuận lợi để phát triển du lịch TTMH
6.1.
6.1.1 Ứng dụng GIS xác định không gian thuận lợi phát triển du lịch TTMH
- Các lớp thông tin về các bản đồ yếu tố thành phần chính: (cid:131) Lớp thông tin chính của bản đồ thành phần địa hình được sử dụng trong đánh giá sẽ là độ dốc với mô hình tính tự động với các cấp độ dốc được đưa ra. Trên nền thông tin chính này, có bổ sung các thông tin về các “đỉnh cao” và “hang động” thông qua mật độ các “đỉnh cao” và “hang động”;
19
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Lớp thông tin chính của bản đồ hệ thống thủy văn được sử dụng trong đánh giá sẽ là hệ thống sông, suối, và hồ trên đó có bổ sung thông tin về độ dốc lòng sông, sự hiện diện của thác, ghềnh dọc các sông, suối chính; và sự hiện diện và phân bố của các làng/bản dân tộc (nơi còn bảo tồn, lưu giữ được các giá trị văn hóa truyền thống chủ yếu như sinh hoạt truyền thống, nghề truyền thống, kiến trúc truyền thống, lễ hội truyền thống) thông qua mật độ tập trung các bản/làng; các giá trị cảnh quan đặc biệt (hồ nước, thác, v.v.) ;
BÁO CÁO TÓM TẮT
(cid:131) Các lớp thông tin chính của bản đồ lớp phủ thực vật – giá trị đa dạng sinh học (trong đó các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên có vai trò đặc biệt) và cảnh quan đẹp, hấp dẫn (thác nước, đèo, v.v.);
Các cấp độ đánh giá : Dựa trên phân tích về ý nghĩa, vai trò và mức độ quan trọng của các yếu tố thành phần cũng như các yếu tố cụ thể trong từng thành phần đối với phát triển du lịch TTMH nói chung và các sản phẩm du lịch TTMH nói riêng, cấp độ đánh giá đối với các yếu tố thành phần cũng như nhứng yếu tố cụ thể được xác định như sau :
- Thành phần về địa hình : là thành phần quan trọng nhất đứng từ góc độ tài nguyên để phát triển du lịch TTMH vì vậy sẽ có Hệ số 3 trong thang điểm đánh giá chung đối với các thành phần chủ yếu tham gia vào phát triển du lịch TTMH (Bảng 2):
Bảng 2 : Đánh giá mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH từ góc độ địa hình
Tiêu chí đánh giá
Mức độ đánh giá
Tiêu chí phụ
Tiêu chí chính
Hệ số đánh giá
Điểm đánh giá
(đỉnh cao và hang động)
(độ dốc)
Không có sự hiện diện Không thuận lợi 1 3
Rất ít có sự hiện diện Ít thuận lợi 2 3
Có sự hiện diện Thuận lợi 3 3
(Ghi chú : đây là một bài toán mô hình khá phức tạp và sẽ chỉ thuận lợi khi áp dụng cho một lãnh thổ nhỏ cần có những đánh giá chi tiết. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, bước đầu để có đánh giá tổng thể trên phạm vi toàn lãnh thổ vùng núi phía Bắc với sự “phân dị” tương đối rõ giữa các không gian có mức độ thuận lợi khác nhau, việc đưa yếu tố phụ (mật độ các đỉnh cao và hang động) tạm dừng ở mức độ được đưa ra trong Bảng)
Núi đá vôi Dưới 8o Từ 8o – 25o. Trên 25o Có nhiều sự hiện diện Rất thuận lợi 4 3
- Thành phần về thủy văn, các giá trị văn hóa bản địa và cảnh quan đặc biệt: là thành phần có mức độ quan trọng thứ hai đứng từ góc độ tài nguyên để phát triển du lịch TTMH vì vậy sẽ có Hệ số 2 trong thang điểm đánh giá chung đối với các thành phần chủ yếu tham gia vào phát triển du lịch TTMH (Bảng 3):
Bảng 3 : Đánh giá mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH từ góc độ thủy văn, các giá trị văn hóa bản địa và cảnh quan đặc biệt
Tiêu chí đánh giá
Mức độ đánh giá
Hệ số đánh giá
Điểm đánh giá
Tiêu chí phụ ( thác/ghềnh, hồ nước và cảnh quan)
Tiêu chí chính (độ dốc các sông/suối lớn)
20
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Dưới 10% Không có sự hiện diện Không thuận lợi 1 2
BÁO CÁO TÓM TẮT
Ít thuận lợi Thuận lợi
Có sự hiện diện Có nhiều sự hiện diện Rất thuận lợi 2 3 4 2 2 2
Từ 10% đến 20% Rất ít có sự hiện diện Từ 21.đến 30%. Trên 30%. (Ghi chú : đối với việc xem xét các yếu tố phụ như trong Bảng trên cũng giống như trong trường hợp đối với Địa hình)
- Thành phần về lớp phủ thực vật – đa dạng sinh học và cảnh quan: là thành phần có mức độ quan trọng thứ ba đứng từ góc độ tài nguyên để phát triển du lịch TTMH vì vậy sẽ có Hệ số 1 trong thang điểm đánh giá chung đối với các thành phần chủ yếu tham gia vào phát triển du lịch TTMH (Bảng 4):
Bảng 4 : Đánh giá mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH
từ góc độ lớp phủ thực vật – đa dạng sinh học và cảnh quan
Tiêu chí đánh giá
Mức độ đánh giá
Hệ số đánh giá
Điểm đánh giá
Tiêu chí phụ (cảnh quan)
Không thuận lợi 1 1
Ít thuận lợi 2 1
Thuận lợi 1 3
Không có hiện diện của cảnh quan đẹp Rất ít có sự hiện diện của cảnh quan đẹp Có sự hiện diện cảnh quan đẹp Có sự hiện diện nhiều cảnh quan đẹp
Rất thuận lợi 1 4
Tiêu chí chính (Thảm rừng, VQG/khu BTTN) Thảm cây bụi trên núi đá Rừng tre, đất trống - cây bụi Rừng rụng lá, rừng hỗ giao Rừng đặc dụng (rừng thường xanh, lá kim) (Ghi chú : đối với việc xem xét các yếu tố phụ như trong Bảng trên cũng giống như trong trường hợp đối với Địa hình)
Do các tiêu chí đánh giá được đề xuất còn mang nhiều tính định tính, vì vậy
phương pháp đánh giá cho điểm chủ yếu là phương pháp chuyên gia. Phương pháp đánh giá : Việc đánh giá xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH vùng núi phía Bắc được tiến hành trên cơ sở ứng dụng hệ thông tin địa (GIS) bằng phương pháp „chồng xếp“ (Overlay) các bản đồ thành phần. 6.1.2 Kết quả đánh giá xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc Trên cơ sở phương pháp đánh giá cho điểm như đã nêu, mức độ thuận lợi của
21
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
từng không gian sẽ có số điểm tổng hợp tương ứng là (Bảng 5) :
BÁO CÁO TÓM TẮT
Bảng 5 : Điểm đánh giá tổng hợp mức độ thuận lợi
cho phát triển du lịch TTMH phía Bắc
Mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH
Không thuận lợi Ít thuận lợi Thuận lợi Rất thuận lợi Điểm tổng hợp < 6 điểm 6 – 12 điểm 13 – 18 điểm > 18 điểm
Kết quả đánh giá tổng hợp xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc được đưa ra trên Bản đồ 4.
Ở mức độ tổng quan chung, kết quả trên cho thấy những không gian thuận lợi nhất đối với phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc phân bố chủ yếu ở khu vực Tây Bắc trên địa phận các địa phương Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang và và giảm dần theo hướng Đông Nam xuống các địa phương Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Phú Thọ, Bắc Giang và Quảng Ninh. 6.2. Định hướng các sản phẩm du lịch TTMH
Trên cơ sở kết quả đánh giá xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH và những đánh giá về tiềm năng, điều kiện phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc, có thể đưa ra một số định hướng chủ yếu đối với xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cho vùng lãnh thổ này bao gồm :
6.2.1. Nhóm sản phẩm du lịch dã ngoại (Tracking)
Đây là nhóm các sản phẩm du lịch thuộc loại du lịch TTMH “nhẹ” (Soft Adventure) khá phổ biến hiện nay và có thể xây dựng ở các không gian có mức độ thuận lợi từ “Ít thuận lợi” cho đến “Rất thuận lợi”. Nói một cách khác loại sản phẩm du lịch TTMH này dễ được xây dựng phát triển ở hầu hết những nơi nào mà cảnh quan tự nhiên còn tương đối nguyên vẹn và thêm vào đó là sự hiện diện của một số làng bản dân tộc nơi còn lưu giữ được phần nào những giá trị văn hóa truyền thống mà du khách có thể khám phá.
Các dịch vụ cần thiết trong cấu thành sản phẩm du lịch dã ngoại không đòi hỏi
quá “khắt khe”. Các dịch vụ chủ yếu bao gồm : (cid:131) Dịch vụ lưu trú : có thể sử dụng lều chuyên dụng (sử dụng để cắm trại) hoặc lưu
trú tại nhà dân trên tuyến dã ngoại;
22
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Dịch vụ ăn uống : sử dụng dịch vụ địa phương, do cộng đồng cung cấp. Tuy nhiên cần chắc chắn rằng thức ăn (ưu tiên các món ăn địa phương) và nước uống đảm bảo vệ sinh;
BÁO CÁO TÓM TẮT
(cid:131) Dịch vụ hướng dẫn : không đòi hỏi quá cao, vì vậy với kỹ năng của hướng dẫn viên hiện nay hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu của dịch vụ này. Trong nhiều trường hợp có thể sử dụng hướng dẫn viên là người địa phương để tăng thêm tính hấp dẫn đối với khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế;
(cid:131) Dịch vụ cứu hộ : chỉ cần một số phương tiên, thuốc sơ cứu đơn giản, không cần các phương tiên cứu hộ khẩn cấp hiện đại (máy bay trực thăng, ô tô cấp cứu chuyên dụng) bởi có thể sử dụng các tuyến y tế địa phương trên tuyên dã ngoại; (cid:131) Dịch vụ thông tin liên lạc : các tuyến du lịch dã ngoại thường được thiết kế theo các tuyên đường mòn ở những khu vực có khả năng liên lac bằng di động hoặc phương tiện thông tin liên lạc công cộng;
(cid:131) Dịch vụ bảo hiểm : đây là dịch vụ rất cần thiết, bắt buộc được đưa vào cấu thành sản phẩm du lịch TTMH. Tuy nhiên đối với sản phẩm du lịch dã ngoại dịch vụ này là không quá cao.
Ngoài các dịch vụ trên, cộng đồng địa phương có thể cung cấp cho du khách các dịch vụ như biểu diễn văn nghệ truyền thống; trình diễn hoạt động sản xuất và bán các hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống; v.v. Tuy nhiên đây là những dịch vụ bổ sung không nằm trong cấu thành “cứng” của sản phẩm du lịch dã ngoại.
Xét từ những yêu cầu đối với sản phẩm, hầu hết các địa phương thuộc lãnh thổ vùng núi phía Bắc đều có thể xây dựng các sản phẩm du lịch dã ngoại và thời gian để tổ chức hoạt động du lịch dã ngoại ở vùng lãnh thổ này có thể là quanh năm.
6.2.2. Nhóm sản phẩm du lịch khám phá vùng núi phía Bắc bằng xe mô tô/xe đạp
23
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Về cơ bản nội dung của sản phẩm du lịch khám phá bằng các phương tiện xe đạp/xe mô tô không khác nhiều so với nội dung sản phẩm du lịch dã ngoại. Những điểm khác chủ yếu giữa sản phẩm du lịch khám phá bằng xe đạp/xe mô tô và du lịch dã ngoại bao gồm : (i) Chiều dài hành trình du lịch lớn hơn; (ii) Di chuyển chủ yếu bằng phương tiện thay vì đi bộ; (iii) Khả năng xảy ra bất trắc trên tuyến hành trình do hỏng phương tiện hoặc tai nạn giao thông là lớn hơn; (iv) Có thể sử dụng dịch vụ lưu trú ở một số trung tâm du lịch/đô thị trên tuyến hành trình như TP. Hòa Bình (Hòa Bình); TX. Mộc Châu, TP. Sơn La (Sơn La); TP. Điện Biên (Điện Biên); v.v.. Với những khác biệt này (dù không lớn), một số dịch vụ cơ bản trong cấu thành sản phẩm du lịch khám phá bằng xe đạp/xe mô tô cần được thực hiện với yêu cầu cao hơn : (i) Dịch vụ lưu trú; (ii) Dịch vụ hướng dẫn; (iii) Dịch vụ cứu hộ; (iv) Dịch vụ bảo hiểm; và (v) Dịch vụ bảo hiểm. Ngoài ra trong cấu thành sản phẩm du lịch khám phá sẽ còn có thêm dịch vụ thuê phương tiện di chuyển (xe đạp, xe mô tô), trong đó bao gồm cả bảo hành kỹ thuật đối với phương tiện trong quá trình sử dụng trên tuyến hành trình. Do yêu cầu đối với loại sản phẩm TTMH này cũng không quá cao, trong đó các tài nguyên du lịch chủ yếu là các giá trị cảnh quan, sinh thái dọc tuyến hành trình và có
BÁO CÁO TÓM TẮT
bổ sung những giá trị nhân văn (chủ yếu tại các làng bản dân tộc, các phiên chợ, các lễ hội được tổ chức trong thời gian thực hiện chuyến hành trình), vì vậy hầu hết các địa phương trong vùng núi phía Bắc đều có thể xây dựng và phát triển những sản phẩm du lịch mang tính đặc thù địa phương. Ví dụ : tuyến du lịch khám phá bằng xe đạp từ TP. Hòa Bình - Mai Châu (Hòa Bình - Xà Lĩnh - Hang Kia - bản Vặn - bản Vạn Mai - bản Poom Coọng); v.v tuyến du lịch khám phá bằng xe mô tô từ TX. Bắc Giang - khu BTTN Tây Yên Tử, tuyến Song Khủa - Đà Bắc (Hòa Bình); tuyến đường mòn Xuân Nha (Sơn La); tuyến Du Già - Mậu Duệ hay đường xuyên Tây Côn Lĩnh I và Tây Côn Lĩnh II (Hà Giang); v.v. Một điều cần lưu ý là tùy thuộc vào trạng thái đường giao thông để quyết định loại phương tiện nào được sử dụng. Trong một số trường hợp có thể kết hợp cả 2 loại phương tiện này cùng một số phương tiện vận chuyển truyền thống của địa phương (xe bò, xe ngựa, xe trâu, thuyền, v.v.) để tăng thêm sức hấp dẫn của sản phẩm du lịch được tạo ra, đặc biệt đối với khách du lịch quốc tế.
24
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Khoảng thời gian thuận lợi để tổ chức hoạt động du lịch TTMH bằng xe đạp/xe mô tô là vào khoảng thời gian các mùa Thu – Đông – Xuân (từ tháng 9 đến tháng 5 năm sau). Tuy nhiên tính “mạo hiểm” sẽ được tăng lên nhiều khi hoạt động du lịch này được tổ chức vào mùa mưa. Đây là vấn đề cần được đặt ra để các nhà xây dựng tours du lịch khám phá bằng xe đạp/xe mô tô cân nhắc để phù hợp với yêu cầu của khách, đồng thời giảm thiểu được rủi ro trong quá trình thực hiện. 6.2.3 Nhóm sản phẩm du lịch leo núi (rock climbing and moutain climbing) Các sản phẩm du lịch leo núi (moutain climbing) với mục tiêu chinh phục đỉnh cao có thể tổ chức ở những khu vực có đỉnh núi cao trên 1.000m so với mặt nước biển. Như vậy ở vùng núi phía Bắc sẽ có tới hàng chục ngọn núi có độ cao từ trên 1.000 m - 3.143m như Phan Xi Phăng (3.143m), Pusilung (3.076m), Puluông (2.893m), Phu Hoạt (2.452m), Tây Côn Lĩnh (2.419m), Kiều Liên (2.403m), Puthaca (2.274m), Pusan (2.218m), Phuxpan (2.079m), v.v. có thể được khai thác để xây dựng các sản phẩm du lịch leo núi. Tuy nhiên những đỉnh núi cao chủ yếu của vùng phân bố trên dãy Hoàng Liên Sơn, cánh cung Ngân Sơn thuộc các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Cao Bằng, v.v. So với các sản phẩm du lịch TTMH thuộc 2 nhóm trên, các sản phẩm du lịch TTMH thuộc nhóm leo núi được xây dựng công phu hơn. Tùy thuộc vào độ cao cần chinh phục mà yêu cầu đối với các dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ cứu hộ, dịch vụ thông tin liên lạc, cần được chú trọng. Ngoài những dịch vụ cơ bản như đối với các sản phẩm du lịch TTMH thuộc nhóm sản phẩm du lịch dã ngoại và du lịch khám phá bằng xe đạp/xe mô tô, một số dịch vụ khác cần được cơ cấu trong cấu thành sản phẩm du lịch leo núi bao gồm :
BÁO CÁO TÓM TẮT
(cid:131) Dịch vụ mang vác và dẫn đường : đây là loại dịch vụ cần thiết, đặc biệt đối với đối tượng khách du lịch là phụ nữ và người có tuổi, sức khỏe hạn chế. Dịch vụ này thường được cộng đồng người dân địa phương cung cấp;
(cid:131) Dịch vụ huấn luyện : đây cũng là loại dịch vụ cần thiết, đặc biệt trong trường hợp phải chinh phục những ngọn núi có đỉnh cao lớn và hiểm trở. Dịch vụ này cung cấp cho du khách những kỹ năng đi núi cơ bản; kỹ năng xử lý một số tình huống tai biến nảy sinh trong quá trình leo núi như lở đất, lũ quét, v.v.; kỹ năng tự cứu hộ trong trường hợp bị côn trùng, rắn, v.v. tấn công; v.v.
Trong nhóm các sản phẩm du lịch leo núi, các sản phẩm leo vách núi (Rock climbing) thuộc loại sản phẩm “cực kỳ nguy hiểm” (Extreme tourism or Shock tourism), mang tính thể thao cao vì vậy khách du lịch tham gia hoạt động du lịch này thường là các vận động viên chuyên nghiệp hoặc những người ưa thích mạo hiểm và đã được huấn luyện kỹ. Hiện nay các sản phẩm du lịch này còn chưa phát triển nhiều ở Việt Nam nói chung và vùng núi phía Bắc nói riêng.
Việc xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch leo vách núi ở vùng núi phía Bắc rất thuận lợi ở các khu vực có địa hình núi đá vôi, tiêu biểu là ở khu vực Na Hang (Tuyên Quang) – Ba Bể (Bắc Kạn); lưu vực sông Chảy trên địa bàn huyện Lục Yên, Lục Bình (Yên Bái); cao nguyên đá vôi Đồng Văn (Hà Giang), vùng đảo đá trong vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); v.v.
Đối với các sản phẩm du lịch leo vách núi, ngoài các dịch vụ cơ bản như sản phẩm du lịch leo núi, dịch vụ huấn luyện, dịch vụ cứu hộ và dịch vụ bảo hiểm là những dịch vụ rất quan trọng cần được thực hiện một cách chuyên nghiệp.Chính vì vậy cho đến nay, các Công ty du lịch lữ hành Việt Nam chưa xây dựng được một sản phẩm du lịch TTMH nào thuộc nhóm các sản phẩm này. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều tiềm năng to lớn về du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc còn chưa được khai thác. Các sản phẩm du lịch leo núi ở vùng núi phía Bắc được tổ chức thuận lợi vào mùa thu và đông (khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau) khi thời tiết khô ráo và không nóng. Đây là điều kiện thời tiết phù hợp cho hoạt động này. 6.2.4. Nhóm các sản phẩm du lịch chèo thuyền/thả bè
25
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Chèo thuyền vượt thác ghềnh (Rafting) hoặc thả bè/mảng dọc theo các dòng sông/suối để khám phá các giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa vùng lưu vực sông/suối là những sản phẩm du lịch TTMH thu hút được sự quan tâm rất lớn của khách du lịch và có nhiều điều kiện để phát triển ở vùng núi phía Bắc. Những dòng sông có độ dốc khá cao với địa hình khá phức tạp có thể được khai thác để phát triển những sản phẩm du lịch TTMH loại này bao gồm : sông Đà, sông Hồng, sông Thao và sông Lô. Trên các dòng sông này, các đoạn sông ở khu vực phía Bắc nơi có địa hình chia cắt sẽ phù hợp hơn để tổ chức xây dựng các sản phẩm du lịch cụ thể.
BÁO CÁO TÓM TẮT
Ngoài các dòng sông/suối, các hồ lớn ở vùng núi phía Bắc như hồ Hòa Bình (Hòa Bình), hồ Thác Bà (Yên Bái), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), hồ Núi Cốc (Thái Nguyên), vịnh Hạ Long, đặc biệt là trong các tùng, áng (Quảng Ninh); và trong tương lai gần là các hồ Sơn La (Sơn La), hồ Na Hang (Tuyên Quang) cũng sẽ là những tiềm năng đặc sắc để phát triển các sản phẩm du lịch khám phá bằng thuyền chèo (Kayaking), vốn khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
Bên cạnh sản phẩm du lịch TTMH vượt thác ghềnh dọc theo các dòng sông, hoặc du lịch khám phá bằng thuyền chèo, một loại sản sản du lịch nữa thuộc nhóm sản phẩm này có thể phát triển thuận lợi ở vùng núi phía Bắc là du lịch thả mảng/bè dọc theo các dòng sông như đã nêu ở trên.
Đối với những sản phẩm du lịch này, các phương tiện vận chuyển đơn giản hơn và chủ yếu là sử dụng các nguyên liệu địa phương như tre/nứa hoặc cây gỗ để kết nối thành mảng/bè. Tuy nhiên việc điều khiển những bè mảng này đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Vì vậy du khách tham gia loại hình du lịch này cần được huấn luyện khá bài bản trước khi tiến hành hoạt động khám phá dọc các dòng sông. Trong nhiều trường hợp người điều khiển phương tiện sẽ là người địa phương có kinh nghiệm sông nước. Một số chương trình du lịch thả mảng cụ thể có thể tổ chức dọc suối Sia ( Mai Châu – Hòa Bình); suối Lao Chải (Túng Sán – Hà Giang); v.v.
Thời gian phù hợp để tổ chức xây dựng các sản phẩm du lịch chèo thuyền/thả bè ở vùng núi phía Bắc là vào thời kỳ mùa mưa (từ tháng 6- tháng 8) bởi lúc này tốc độ dòng chảy của các con sông chính trong vùng sẽ tăng lên và tính “mạo hiểm” trên các dòng sông/suối thậm trí trong khu vực các lòng hồ lớn của vùng cũng sẽ tăng lên, thỏa mãn được những kỳ vọng khám phá và chinh phục của du khách. 6.2.5. Nhóm các sản phẩm du lịch dù lượn
Những sản phẩm du lịch TTMH này thường được xây dựng phát triển ở những khu vực lòng chảo với địa hình núi cao bao quanh, nơi có cảnh quan đẹp, hấp dẫn. Điều kiện này đảm bảo cho du khách không chỉ được trải nghiệm những cảm xúc “mạo hiểm” mà còn được khám phá, cảm nhận những giá trị cảnh quan nơi họ thụ hưởng những sản phẩm du lịch này.
Những khu vực có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển các sản phẩm du lịch TTMH loại này ở vùng núi phía Bắc là những cao nguyên chính của vùng bao gồm cao nguyên Mộc Châu, cao nguyên Sơn La (Sơn La); vùng lòng chảo Điện Biên Phủ (Điện Biên); cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang); v.v.
26
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Các dịch vụ chủ yếu cần được đưa vào cấu thành sản phẩm loại này cũng tương tự như đối với các loại sản phẩm du lịch thuộc nhóm các sản phẩm du lịch chèo thuyền/thả mảng.
BÁO CÁO TÓM TẮT
Các du khách tham gia du lịch dù lượn đều phải trải qua tập huấn để đảm bảo về khả năng điều khiển phương tiện dù và có kỹ năng xử lý những tình huống bất lợi nảy sinh trong quá trình bay lượn trên không. Điều này đòi hỏi dịch vụ huấn luyện phải được chú trọng trong quá trình xây dựng sản phẩm du lịch này. Ngoài ra, phương tiện dù lượn (có thể có động cơ hoặc không có động cơ) là những phương tiện chuyên dụng cần được mua để trang bị cho khách du lịch.
Thời gian thuận lợi để tổ chức loại hình du lịch này ở vùng núi phía Bắc là vào
mùa thu (khoảng từ tháng 8 - tháng 10) khi thời tiết thuận lợi và tầm quan sát tốt. 6.2.6. Nhóm các sản phẩm du lịch thám hiểm hang động
Với tiềm năng hang động phong phú, vùng núi phía Bắc là nơi thuận lợi để tổ chức phát triển các sản phẩm du lịch thám hiểm hang động. Ở các mức độ khác nhau, hầu hết các địa phương trong vùng đều có hang động, tuy nhiên những hang, động sâu với cấu trúc phức tạp thường được chọn để xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH thám hiểm. Đứng từ góc độ này một số các hang động như động Puông, động Ba Cửa, động Thẩm Kít, động Nà Phòong (Bắc Kạn); động Nam Sơn, động Hoa Tiên (Hòa Bình); hang Phượng Hoàng (Thái Nguyên); hang Thẩm Tét Toòng (Sơn La); hang động Tiên Sơn (Lai Châu); v.v. Phần lớn những hang này đều có chiều sâu hàng trăm mét và có cấu trúc khá phức tạp, vì vậy ngoài việc cảm nhận giá trị cảnh quan địa chất, du khách sẽ có được cảm xúc “mạo hiểm” khi đi sâu, thám hiểm toàn bộ chiều sâu của các hang.
Du lịch thám hiểm hang động có thể được tổ chức quanh năm ở vùng núi phía phía Bắc, tuy nhiên thời gian thuận lợi để tổ chức hoạt động du lịch này là vào mùa thu và mùa đông (từ khoảng tháng 10 – tháng 4 năm sau) khi thời tiết tương đối khô ráo, những rủi ro về sạt lở trần hang, ngập hang do lũ được hạn chế hơn. 6.2.7. Nhóm sản phẩm du lịch lặn biển
Đối với vùng núi phía Bắc thì du lịch lặn biển hình như không phải là sản phẩm du lịch phù hợp. Tuy nhiên do đặc điểm lãnh thổ, khi vùng núi phía Bắc bao gồm cả Quảng Ninh – nơi có di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, sản phẩm du lịch lặn biển cũng phải được nhìn nhận như một sản phẩm du lịch TTMH của vùng. Sản phẩm này được xây dựng dựa trên hoạt động khám phá các giá trị sinh thái dưới biển, trong đó hệ sinh thái san hô, cỏ biển được xem là quan trọng hơn cả. Ngoài ra ở những vùng biển có các dạng địa chất đá vôi (karst) như ở vịnh Hạ Long thì du khách sẽ còn có cơ hội khám phá các giá trị địa chất ngầm sâu trong lòng biển như cấu trúc đặc biệt “tùng”, “áng” (thực chất là cấu trúc phễu karst) với các hang động ngầm.
27
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Du lịch lặn biển thường đòi hỏi kỹ năng lặn với trang bị lặn chuyên dụng, vì vậy mọi khách du lịch khi tham gia hoạt động du lịch này đều phải qua lớp huấn luyên
BÁO CÁO TÓM TẮT
ngắn để đảm bảo là du khách có khả năng sử dụng được các thiết bị lặn cũng như xử lý được những tình huống đột xuất nảy sinh trong quá trình lặn dưới biển. Thời gian thuận lợi để tổ chức du lịch lặn biển là vào mùa hè (khoảng từ tháng 6 – tháng 9) khi thời tiết ấm áp. 6.2.8. Các sản phẩm du lịch TTMH tổng hợp (các chương trình/tours du lịch TTMH
tổng hợp)
Các sản phẩm du lịch thuộc nhóm này thực chất là sự kết hợp của nhiều sản phẩm du lịch TTMH chuyên đề khác nhau trong một chương trình (tours) tổng hợp trên một hành trình trải dài qua nhiều “lát cắt” địa hình với những cảnh quan khác nhau từ vùng núi cao đến vùng cao nguyên, vùng đồi chuyển tiếp và tới vùng biển. Như vậy việc xây dựng những sản phẩm du lịch TTMH này đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao bởi trong cấu thành sản phẩm (chương trình) phải bao quát được nhiều vấn đề về kỹ thuật, nhiều dịch vụ đảm bảo an toàn cho khách trong khi phải thỏa mãn được nhiều nhất nhu cầu khám phá với những cảm xúc “mạo hiểm” mà du khách kỳ vọng.
Một số “lát cắt” có thể được tham khảo để xây dựng các sản phẩm du lịch
TTMH có tính tổng hợp ở vùng núi phía Bắc bao gồm :
(cid:131) Hòa Bình (dã ngoại) – Mộc Châu (dù lượn, khám phá giá trị văn hóa) – Sơn La (hang động) – Điện Biên (khám phá các giá trị sinh thái khu BTTN) – Lai Châu (dã ngoại) – xuôi sông Đà qua hồ Sơn La (chèo thuyền/thả mảng) về hồ Hòa Bình (chèo thuyền vượt thác ghềnh, khám phá hang động);
(cid:131) Điện Biên (khám phá các giá trị sinh thái khu BTTN) – Lai Châu – Lào Cai (leo núi) – xuôi sông Hồng về hồ Thác Bà (chèo thuyền vượt thác ghềnh, khám phá hang động) – Tuyên Quang (khám phá các giá trị sinh thái ở khu bảo tồn) – Bắc Giang (chèo thuyền);
(cid:131) Hòa Bình (dã ngoại) - Sơn La (hang động) – Lào Cai (leo núi)– Yên Bái (khám phá các giá trị văn hóa bản địa) – Phú Thọ (dã ngoại, chèo thuyền) - Hòa Bình (chèo thuyền, thám hiểm hang động);
(cid:131) Lào Cai (leo núi) – Đồng Văn (khám phá các giá trị tự nhiên, cảnh quan, leo núi) - Cao Bằng (thám hiểm hang động)– Lạng Sơn (khám phá các giá trị văn hóa, thám hiểm hang động) – vịnh Hạ Long (khám phá các giá trị cảnh quan, chèo thuyền, lặn biển);
(cid:131) Thái Nguyên (thám hiểm hang động)– Tuyên Quang (khám hiểm văn hóa) - Bắc Kạn (khám phá các giá trị cảnh quan, leo núi, chèo thuyền) – Cao Bằng (thám hiểm hang động) – Lạng Sơn (khám phá các giá trị cảnh quan) – Quảng Ninh (chèo thuyền, lặn biển, các giá trị cảnh quan);
6.3. Định hướng thị trường
Tổng hợp kết quả nghiên cứu một số tài liệu có liên quan cho thấy có sự khác
28
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
nhau giữa các thị trường đối với những sản phẩm du lịch TTMH khác nhau (Bảng 8)
BÁO CÁO TÓM TẮT
) g n i b m
g n ổ t ) s r u o t (
B¶ng 8 : Định hướng thị trường du lịch TTMH vùng núi phía Bắc
Sản phẩm du lịch TTMH Định hướng một số thị trường quốc tế chủ yếu
) g n i b m
i ạ o g n ã d h c ị l u D
è b / g n ả m ả h t h c ị l u D
n ề y u h t o è h c h c ị l u D
n ể i b n ặ l h c ị l u D
m ể i h m á h t h c ị l u D
i l c n i a t u o m
á h p m á h k h c ị l u D
i ú n o e l h c ị l u D
k c o r ( i ú n o e l h c ị l u D
ù d o a h t ể h t h c ị l u D
h n ì r t g n ơ ư h C c á C
p ợ h
p ạ đ e x , ô t ô m e x g n ằ b
(
i l c
n ợ ư l
g n ộ đ g n a h
λ
λ
λ
λ λ
λ λ λ
λ λ
H M T T λ λ λ
λ
λ
λ
λ
Châu Âu
λ
λ
λ λ λ λ λ
λ λ λ λ
λ
λ λ λ λ λ
λ
λ λ λ λ λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ
λ λ λ λ λ λ λ
λ λ λ λ λ λ λ
λ
λ
λ
λ
λ
-
- -
λ
λ
λ
λ
Châu Á - TBD
λ - - λ
λ
λ
- - λ
- - λ
λ
λ
λ
λ
λ
- λ -
- - - λ -
λ
λ
λ
λ
Bắc Mỹ
λ λ λ λ λ
λ λ λ
Ph¸p Anh §øc Bỉ Hµ Lan §an M¹ch NhËt §µi Loan Trung Quèc Úc ASEAN (*) Hµn Quèc Mü Canada
λ λ
λ λ λ λ λ λ
λ λ λ
λ λ λ
λ λ
λ λ
λ λ
λ λ λ λ λ
Chó thÝch
λ Rất quan tâm λ Quan tâm
λ
Ít quan tâm
29
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Trong số các sản phẩm du lịch TTMH có thể xây dựng ở vùng núi phía Bắc, du lịch dã ngoại là loại sản phẩm chiếm được sự quan tâm của khách du lịch từ phần lớn các thị trường; tiếp đến là du lịch khám phá bằng phương tiện xe đạp hoặc xe mô tô và du lịch leo núi (chinh phục các đỉnh cao). Các sản phẩm du lịch thám hiểm hang động; du lịch thả mảng/bè theo các dòng dòng sông hiện chưa có được sự quan tâm đáng kể của khách du lịch từ hầu hết các thị trường. Trong số các thị trường trọng điểm được nghiên cứu, thị trường Tây Âu, Úc và Bắc Mỹ vẫn là những thị trường có sự quan tâm đáng kể đến hầu hết các sản phẩm du lịch TTMH có khả năng phát triển ở vùng núi phía Bắc. Trong các nước từ thị trường Châu Á, khách du lịch Nhật Bản và Hàn Quốc là có sự quan tâm hơn cả đến các sản phẩm du lịch TTMH, nhất là sản phẩm du lịch dã ngoại, du lịch khám phá bằng xe đạp, xe mô tô, và du lịch lặn biển. Đối với khách du lịch nội địa, sự quan tâm đến các sản phẩm du lịch TTMH ngày một tăng, đặc biệt trong lứa tuổi từ 20 - 35. Các thị trường du lịch nội địa chính
BÁO CÁO TÓM TẮT
hiện nay đối với các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc vẫn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Nguyên nhân chính của tình trạng TP. Hồ Chí Minh là thị trường nội địa quan trọng thứ 2 sau Hà Nội được cho là khoảng cách. Đây là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến giá thành của cùng một loại sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc được các công ty lữ hành chào bán tại TP. Hồ Chí Minh nói riêng và ở khu vực phía Nam nói chung. 7. Một số giải pháp chủ yếu nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng để phát triển các sản phẩm du lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc
Để có thể khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc, đẩy mạnh việc xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH, góp phần tích cực vào phát triển du lịch và kinh tế - xã hội vùng lãnh thổ, một số nhóm các giải pháp chủ yếu sau cần được xem xét thực hiện bao gồm : 7.1 . Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách
Du lịch TTMH là một loại hình du lịch đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, thường được tổ chức ở vùng sâu, vùng xa, nơi thiên nhiên còn tương đối hoang sơ, đời sống cộng đồng còn nhiều khó khăn, vì vậy để có thể khuyến khích phát triển du lịch TTMH nói chung, các sản phẩm du lịch TTMH nói riêng ở Việt Nam, trong đó có vùng núi phía Bắc, một số chính sách quan trọng cần xem xét xây dựng và ban hành bao gồm :
(cid:131) Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch TTMH trên cơ sở giảm thuế nhập khẩu đối với các phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ đặc thù; thuế thu nhập doanh nghiệp do phải hoạt động ở vùng sâu, vùng xa;
(cid:131) Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài có kinh nghiệm được đầu tư với số vốn không hạn chế, liên doanh với các doanh nghiệp du lịch trong nước nhằm nhanh chóng có được sự chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH;
(cid:131) Chính sách khuyến khích cộng đồng đại phương tham gia tích cực vòa hoạt động du lịch TTMH thông qua việc cung cấp các dịch vụ mà cộng đồng có thể đảm nhiệm như cung cấp thực phẩm, mang vác và hướng dẫn, đón khách ngủ tại nhà, v.v. theo đó giảm thuế thu nhập đối với những dịch vụ đó, đồng thời có chính sách hỗ trợ hoạt động đào tạo, nâng cao kỹ năng tham gia của công đồng đối với việc cung cấp dịch vụ du lịch;
30
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
(cid:131) Chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với những dịch vụ công như hướng dẫn thực hiện thủ tục cấp phép đến những khu vực “nhạy cảm” về an ninh quốc gia
BÁO CÁO TÓM TẮT
song hấp dẫn đối với các hoạt động du lịch TTMH, hỗ trợ về ứng cứu khi xảy ra sự cố, hỗ trợ về đảm bảo an ninh, an toàn cho khách;
(cid:131) Chính sách tín dụng ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp có kế hoạch khả thi xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc. Điều này thể hiện sự quan tâm của nhà nước không chỉ đối với việc phát triển kinh tế ở vùng sâu, vùng xa nơi còn nhiều khó khăn mà còn là thể hiện cụ thể để cộng đồng có được cơ hội có thêm việc làm và tăng thu nhập thông qua cơ hội cung cấp các dịch liên quan khi du lịch TTMH phát triển trên địa bàn mình. Điều này là phù hợp với chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc.
7.2.
Nhóm giải pháp về quy hoạch Trên cơ sở chiến lược và hệ thống các quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam ở quy mô toàn quốc và vùng du lịch Bắc Bộ; quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng TDMNBB cũng như các nghiên cứu, quy hoạch chuyên ngành có liên quan khác cần nhanh chóng xây dựng chiến lược và quy hoạch cụ thể đối với phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc. Căn cứ vào quy hoạch này, các doanh nghiệp lữ hành sẽ xây dựng riêng cho cho mình những chiến lược riêng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH phù hợp với năng lực cũng như đặc điểm riêng của doanh nghiệp.
Trong quá trình lập chiến lươc/quy hoạch phát triển du lịch TTMH riêng, các doanh nghiệp cần phối hợp và có sự tư vấn với các cơ quan nghiên cứu/quy hoạch chuyên ngành để đảm bảo chiến lược/quy hoạch của mình phù hợp với quy hoạch chung phát triển du lịch ở vùng núi phía Bắc để có được sự hỗ trợ phù hợp từ phía nhà nước việc tổ chức xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể. 7.3.
Nhóm giải pháp về đầu tư xây dựng sản phẩm Để đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc có hiệu quả, cần thiết phải có sự hướng dẫn, hỗ trợ thông tin đối với các doanh nghiệp/các nhà đầu tư từ phía các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương cũng như các địa phương trong vùng. Những hướng dẫn này là cần thiết để các doanh nghiệp du lịch có thể có được các thông tin đầy đủ nhất từ các chính sách hiện hành liên quan đến đầu tư phát triển sản phẩm du lịch nói chung, sản phẩm du lịch TTMH nói riêng; những thông tin liên quan đến những tiềm năng cụ thể trong vùng có thể khai thác xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH;
31
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Du lịch TTMH khác với nhiều loại hình du lịch khác là nhu cầu đất để xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật không lớn. Tuy nhiên trong nhiều trường
BÁO CÁO TÓM TẮT
hợp, để hoạt động đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch TTMH có hiệu quả, chính quyền địa phương trong vùng cần có những quan tâm và tạo điều kiện thỏa đáng để các nhà đầu tư có được quỹ đất phù hợp cũng như có được quyền quản lý những tài nguyên có liên quan (ví dụ một cái hang, một quả đồi, v.v.) trong khuôn khổ của pháp luật. Một nội dung cụ thể khác của giải pháp này cần có những cam kết thỏa đáng để các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở một lãnh thổ còn nhiều khó khăn như vùng núi phía Bắc. Cam kết này từ phía các nhà quản lý có thể việc đầu tư xây dựng những hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, v.v.), tạo tiền đề cho phát triển các sản phẩm du lịch cụ thể. 7.4.
Nhóm giải pháp về tuyên truyền quảng bá Để thông tin về các sản phẩm du lịch TTMH vùng núi phía Bắc đến được với du khách hoạt động tuyên truyền quản bá có vai trò rất quan trọng. Đứng từ góc độ này, nhà nước phải có trách nhiệm hỗ trợ ngành du lịch nói chung, du lịch vùng núi phía Bắc nói riêng có được hình ảnh trên các thị trường trọng điểm đã xác định. Ngoài ra Nhà nước cũng cần quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp du lịch có được thông tin về đặc điểm những thị trường có nhu cầu đối với các sản phẩm du lịch TTMH cũng như thiết lập những quan hệ cần thiết thông qua các kênh chính thức của Chính phủ.
Về phần mình, các doanh nghiệp cũng phải có sự quan tâm và đầu tư thỏa đáng cho việc quảng bá các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể của doanh nghiệp mình đến với du khách. Việc xây dựng hình thức quảng bá (trang WEB riêng, Internet, tờ rơi, tập gấp, v.v.) sản phẩm cần có sự tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn để sao cho thông tin đến được với khách hàng nhanh và đầy đủ nhất đồng thời phù hợp với đặc điểm tiếp nhận thông tin của từng thị trường.
7.5.
32
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Nhóm giải pháp về đào tạo phát triển nguồn nhân lực Du lịch TTMH là loại hình du lịch đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, vì vậy để có thể xây dựng được những sản phẩm du lịch TTMH đảm bảo chất lượng, hấp dẫn và phù hợp với yêu cầu của du khách, cần thiết phải có được đội ngũ cán bộ, từ nghiên cứu đến quản lý cũng như người lao động trong từng vị trí cụ thể đáp ứng được yêu cầu về tính chuyên nghiệp đó. Đứng từ góc độ này, ngoài sự hỗ trợ của nhà nước về cơ chế chính sách đào tạo, các doanh nghiệp phải chủ động xây dựng chiến lược/kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực một cách hợp lý. Do đặc thù của du lịch TTMH, hướng dẫn viên du lịch TTMH và người huấn luyện viên là những đối tượng cần được quan tâm đào tạo có bài bản nhất. Ngoài ra những lao động trong lĩnh vực bảo hiểm, cứu hộ là những lao động rất đặc thù trong hoạt động du lịch TTMH cũng cần được đào tạo nhằm đáp ứng được yêu cầu của loại hình du lịch này.
BÁO CÁO TÓM TẮT
7.6.
Nhóm giải pháp về nghiên cứu, chuyển giao công nghệ Cũng xuất phát từ đặc điểm mang tính đặc thù của du lịch TTMH, sự phát triển của loại hình du lịch này đòi hỏi phải có những ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt đối với các phương tiện và trang thiết bị chuyên dụng. Trước mắt, khi quy mô của loại hình du lịch TTMH chưa phát triển lớn ở Việt Nam thì các doanh nghiệp phải nhập khẩu những phương tiện và trang thiết bị chuyên dụng này, tuy nhiên trong tương lai, khi loại hình du lịch này phát triển mạnh ở Việt Nam, cần thiết phải tiến hành các nghiên cứu và ứng dụng chuyển giao công nghệ để du lịch Việt nam nói chung, các doanh nghiệp du lịch Việt nam nói riêng có thể chủ động trong việc trang bị những phương tiện và trang thiết bị chuyên dụng.
PHẦN KẾT LUẬN
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu thu được, có thể rút ra một số kết luận cơ
bản sau : 1. Du lịch TTMH là một loại hình du lịch đặc thù đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao đang rất phát triển trong khu vực và trên thế giới. Kinh nghiệm phát triển du lịch TTMH ở một số nước trên thế giới, đặc biệt ở Thái Lan đã được đề cập. Đây là cơ sở kinh nghiệm thực tiễn có giá trị cho các định hướng phát triển du lịch TTMH ở Việt Nam, trong đó có vùng núi phía Bắc.
Sự phát triển của loại hình du lịch này với những sản phẩm du lịch TTMH cụ thể không chỉ góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch, làm tăng tính hấp dẫn du lịch của lãnh thổ mà còn có những đóng góp cụ thể vào bảo tồn các giá trị tự nhiên, văn hóa bản địa thông qua việc mở mang hiểu biết và sự tôn trọng của du khách khi tham gia loại hình du lịch này. Bên cạnh đó, việc phát triển du lịch TTMH ở vùng sâu, vùng xa còn có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội ở những khu vực còn khó khăn, góp phần tạo cơ hội cho công đồng vốn còn nghèo ở những khu vực này có thêm được việc làm và tăng thu nhập.
33
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
2. Vùng núi phía Bắc là lãnh thổ có nhiều tiềm năng du lịch TTMH. Đặc điểm địa hình núi cao, chia cắt; hệ thống thủy văn (sông, suối, các hồ chứa) phát triển; các giá trị sinh thái, đặc biệt là các giá trị đa dạng sinh học thể hiện tập trung ở hệ thống các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên; các giá trị văn hóa bản địa thể hiện qua các sinh hoạt truyền thống, các nghề truyên thống, các kiến trúc truyền thống, các lễ hội sinh hoạt văn hóa truyền thống của cộng đồng 32 dân tộc anh em sống trên lãnh thổ
BÁO CÁO TÓM TẮT
này là những tài nguyên chủ yếu để có thể khai thác xây dựng các sản phẩm du lịch TTMH cụ thể như du lịch dã ngoại, du lịch khám phá bằng xe đap/xe máy, du lịch leo núi, du lịch dù lượn, du lịch vượt thác ghềnh, du lịch thám hiểm hang động, v.v.
3. Hiện nay du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc còn chưa phát triển, các sản phẩm du lịch TTMH ở lãnh thổ này còn nghèo nàn, mới chỉ giới hạn ở những sản phẩm tương đối đơn giản như du lịch dã ngoại, du lịch khám phá thiên nhiên bằng xe đạp/xe máy. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là cho đến nay chưa có một chiến lược/quy hoạch cụ thể nào làm cơ sở cho việc xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở lãnh thổ này. Những sản phẩm trên mới chỉ mang tính tự phát và dựa trên kinh nghiệm chủ quan, vì thế chưa thật sự hấp dẫn thu hút được khách du lịch.
Bên cạnh đó năng lực để xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH của các doanh nghiệp du lịch còn hạn chế, đặc biệt liên quan đến tính chuyên nghiệp của sản phẩm.
4. Để tạo cơ sở cho việc xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc, đề tài đã áp dụng công nghệ hệ thông tin địa lý GIS để phân tích tổng hợp các yếu tố tài nguyên chủ yếu là địa hình (độ dốc), đặc điểm thủy văn (hệ thống sông/suối, hồ chứa) cùng các giá trị văn hóa bản địa, giá trị sinh học (đa dạng sinh học tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên) cùng các giá trị cảnh quan để xây dựng và đưa ra bản đồ đánh giá tổng hợp mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc. Đây là lần đầu tiên một bản đồ về tổng hợp tiềm năng du lịch TTMH được xây dựng ở Việt Nam và là cơ sở rất quan trọng cho phát triển du lịch TTMH nói chung và xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH nói riêng ở vùngnúi phía Bắc.
Trên cơ sở những phân tích về lý luận; kinh nghiệm thực tiễn phát triển du lịch 5. TTMH của một số nước trên thế giới; đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch TTMH nói chung, xây dựng phát triển các sản phẩm du lịch TTMH ở vùng núi phía Bắc nói riêng, đề tài đã đề xuất nội dung xây dựng phát triển một số nhóm sản phẩm du lịch TTMH cụ thể phù hợp với đặc điểm đặc thù ở vùng núi phía Bắc và kèm theo đó là một số giải pháp thực hiện cụ thể. Đây được xem là đóng góp thực tiễn của đề tài đối với việc phát triển một loại hình du lịch còn mới những đầy tiềm năng phát triển ở Việt Nam nói chung, ở vùng núi phía Bắc nói riêng.
34
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
Kiến nghị : kết quả nghiên cứu đạt được của đề tài là những kết quả đầu tiên có tính hệ thống theo hướng nghiên cứu còn rất mới này. Những kết quả này được xem là
BÁO CÁO TÓM TẮT
cơ sở khoa học bước đầu cho phát triển du lịch TTMH nói chung và phát triển các sản phẩm du lịch TTMH nói riêng. Tuy nhiên trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài, nhiều vần đề như ứng dụng GIS xác định không gian thuận lợi cho phát triển du lịch TTMH; xây dựng các tuyến (chương trình) du lịch TTMH tổng hợp; v.v. mới được giải quyết ở mức chung và có tính định hướng. Để khả năng ứng dụng của các kết quả nghiên cứu này được cao hơn, trên cơ sở những kết quả đạt được của đề tài, cần thiết phải tiếp tục những nghiên cứu chi tiết hơn, đi vào giải quyết từng vấn đề cụ; xây dựng những sản phẩm du lịch TTMH cụ thể.
35
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH THỂ THAO – MẠO HIỂM VÙNG NÚI PHÍA BẮC
------------* -----------