KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI -------***------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM NĂM 2004:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ
NỘI VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN
Sinh viên thực hiện
: Lê Hoàng Mai
Lớp
: Anh 8
Khoá
: 44B
Giáo viên hƣớng dẫn
: GS.TS. Nguyễn Thị Mơ
Hà Nội, tháng 05 năm 2009
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT
NAM NĂM 2004 .................................................................................................... 3
I. Khái niệm và đặc điểm của phá sản .................................................................. 3
1. Khái niệm về phá sản ......................................................................................... 3
1.1 Phá sản theo các cách tiếp cận từ góc độ kinh tế ............................................. 3
1.2 Phá sản theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật ............................................... 5
2. Sự tác động của phá sản ..................................................................................... 7
2.1. Về mặt tiêu cực .............................................................................................. 7
2.2. Về mặt tích cực .............................................................................................. 9
II. Pháp luật về phá sản ........................................................................................11
1. Sự cần thiết phải có pháp luật phá sản .............................................................11
2. Mục đích và vai trò của Pháp luật phá sản .......................................................12
2.1 Mục đích của pháp luật phá sản: ....................................................................12
2.2 Vai trò của Pháp luật phá sản .........................................................................13
3. Một số điểm lưu ý trong các quy định của pháp luật phá sản của các nước trên
thế giới: ..................................................................................................................18
3.1. Phạm vi áp dụng của Luật phá sản. ...............................................................18
3.2. Thế nào là tình trạng phá sản. ........................................................................21
II. Luật phá sản Việt Nam năm 2004...................................................................24
1. Sự cần thiết phải ban hành Luật phá sản năm 2004 .........................................24
2. Những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm 2004 .......................................26
2.1. Về đối tượng áp dụng của Luật Phá sản. .......................................................26
2.2. Điều kiện để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ..27
i
2.3. Thủ tục tiến hành một vụ phá sản thông thường ............................................28
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 TẠI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...................................34
I. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Pháp luật phá sản nói chung và luật
phá sản năm 2005 ở Việt Nam .............................................................................34
1. Những thuận lợi và kết quả ..............................................................................34
2. Những khó khăn và bất cập. ..............................................................................38
2.1. Phạm vi chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản còn quá hẹp ....38
2.2. Thủ tục giải quyết phá sản còn kéo dài .........................................................39
2.3. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không nộp đơn
yêu cầu phá sản vì các quy định trong Luật phá sản năm 2004 vẫn chưa cụ thể ...40
3. Nguyên nhân bất cập trong quá trình thực hiện Luật phá sản năm 2004 ........41
3.1 Tính khả thi của luật không cao .....................................................................41
3.2 Văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn chậm ..................................................42
II. Áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội ...........................................43
1. Thực tiễn áp dụng các quy định về giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản các
doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội và những vấn đề đặt ra. .................................43
2. Thực tiễn thực hiện quy trình và thủ tục phá sản và những vấn đề đặt ra .......47
2.1. Vướng mắc trong trường hợp không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp
và của chủ doanh nghiệp (con nợ) khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản .......47
2.2. Chưa có tiêu chí cụ thể về điều kiện thụ lý đơn và ra quyết định mở hay
không mở thủ tục phá sản ....................................................................................48
2.3. Những quy định về Thẩm phán phụ trách việc giải quyết phá sản còn tỏ ra
không sát với thực tế. ...........................................................................................48
2.4. Những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản50
2.5. Về vấn đề thu hồi tài sản phá sản ..................................................................57
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG KHẢ
NĂNG THỰC THI LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 ...............................................59
I. Dự báo xu hƣớng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ở TP. Hà Nội trong thời
gian tới ..................................................................................................................59
ii
1. Cơ sở để dự báo .................................................................................................59
2. Con số dự báo ....................................................................................................61
II. Các giải pháp cụ thể ........................................................................................62
1. Nhóm giải pháp sửa đổi Luật phá sản năm 2004 ..............................................62
1.1. Sửa đổi các quy định về việc nộp đơn, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
và việc mở hoặc không mở thủ tục phá sản ..........................................................62
1.2. Bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản67
1.3. Tăng cường cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục
phá sản. ................................................................................................................69
1.4. Bổ sung các quy định về thủ tục quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản ..................................................................................................71
2. Nhóm giải pháp đối với Thành phố Hà Nội ......................................................74
2.1. Có biện pháp đủ mạnh để thúc đẩy thủ tục tuyên bố phá sản đối với doanh
nghiệp làm ăn kém hiệu quả.................................................................................74
2.2. Kiên quyết xóa bỏ tư tưởng ỷ lại vào sự cứu xét của Nhà nước đối với những
doanh nghiệp Hà Nội hoạt động không hiệu quả ..................................................74
2.3. Tăng cường nâng cao hiểu biết ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp Hà
Nội về lợi ích của thủ tục phá sản và pháp luật phá sản .......................................75
3. Nhóm giải pháp khác .........................................................................................76
3.1. Đối với Toà án .............................................................................................76
3.2. Tăng cường xử lý vi phạm pháp luật về kế toán ...........................................77
3.3 Tăng cường giáo dục sâu rộng mọi đối tượng trong tầng lớp nhân dân Hà Nội
về phá sản để đổi mới nhận thức ..........................................................................78
Kết luận .................................................................................................................79
iii
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................80
Danh mục các chữ viết tắt
LPSDN 1993
: Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993
1.
LPS 2004
: Luật phá sản năm 2004
2.
CHLB
: Cộng hoà liên bang
3.
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
4.
WTO
: Tổ chức thương mại Thế giới
5.
GDP
: Tổng sản phẩm quốc nội.
6.
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Phá sản doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là hiện tượng tất yếu của quá
trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên để loại bỏ doanh nghiệp yếu kém,
khẳng định sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Vì
những lý do khác nhau mà trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có
thể lâm vào tình trạng phá sản. Chính vì thế pháp luật phá sản là một bộ phận không
thể thiếu của pháp luật kinh doanh để giải quyết những vấn đề phát sinh liên quan
đến tình trạng làm ăn quẫn bách của doanh nghiệp, tức là khi doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản.
Luật phá sản đầu tiên của nước ta có tên gọi là Luật phá sản doanh nghiệp, được
Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ tư thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực ngày
1/7/1994. Tuy nhiên, trong hơn mười năm thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp
năm 1993 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Sau môt thời gian nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung nhằm khắc phục nhược điểm của Luật phá sản doanh nghiệp năm1993 và đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện tại. Luật phá sản mới đã ra đời: Luật này có tên
gọi là Luật phá sản năm 2004. Luật phá sản năm 2004 đã được Quốc hội khoá XI
kỳ họp thứ năm thông qua, có hiệu lực từ ngày 15/10/2004 và chính thức thay thế
Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993.
Mục tiêu của Luật phá sản năm 2004 không chỉ nhằm giải quyết vụ việc phá
sản đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, tăng cường trách nhiệm của
các doanh nghiệp trong quá trình tiến hành các hoạt động thương mại mà quan
trọng hơn là nhằm tìm kiếm giải pháp để phục hồi hoạt động kinh doanh cho
doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong kinh doanh. Tuy nhiên, trong thực tế,
mục tiêu này không phải là dễ thực hiện. Vì vậy, cần phải nắm vững nội dung
của Luật phá sản và sự vận dụng đúng đắn những nguyên tắc của Luật phá sản
nói chung và những quy định pháp lý có liên quan mới có thể thực thi Luật phá
1
sản một cách có hiệu quả.
Đó là lý do để vấn đề “Luật phá sản Việt Nam năm 2004: Thực tiễn áp dụng tại
thành phố Hà Nội và phương hướng hoàn thiện” được lựa chọn làm đề tài cho Khoá
luận tốt nghiệp đại học này.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu để làm rõ những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm
2004 sau khi phân tích thực tiễn áp dụng luật này tại TP. Hà Nội trong những năm
qua nhằm làm rõ bất cập và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện; từ đó
đề xuất phương hướng và giải pháp để Luật phá sản năm 2004 có hiệu quả hơn
trong thực tiễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứƣ:
Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận là: Luật phá sản nói chung và Luật phá sản
Việt Nam năm 2004 nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu của Khoá luận giới hạn ở việc phân
tích những vấn đề phát sinh từ việc áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: hệ thống hoá,
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê và nêu nhận xét cá nhân.
5. Kết cấu Khoá luận:
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Khoá
luận bao gồm ba chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về phá sản, pháp luật phá sản và Luật phá sản năm 2004
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP Hà Nội và những
vấn đề đặt ra.
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường khả năng thực thi Luật phá
2
sản năm 2004.
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM NĂM 2004
I. Khái niệm và đặc điểm của phá sản
1. Khái niệm về phá sản
1.1 Phá sản theo các cách tiếp cận từ góc độ kinh tế
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các nền kinh tế trên thế giới
đã cho thấy rằng, phá sản ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất
định. Điều này giải thích tại sao, phá sản là hiện tượng bình thường, phổ biến trong
nền kinh tế thị trường nhưng lại rất xa lạ với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Phá sản là khái niệm chỉ tình trạng làm ăn thua lỗ của doanh nghiệp, tình trạng mất
khả năng thanh toán nợ của thương gia.
Về phương diện ngôn ngữ, hiện có khá nhiều thuật ngữ dùng để thể hiện khái
niệm này. Ở châu Âu khi nói đến phá sản người ta hay dùng danh từ “Bankruptcy”
trong tiếng Anh hoặc “Banqueroute” trong tiếng Pháp. Cả hai từ này đều bắt nguồn từ chữ “Banca Rotta” của La Mã có nghĩa là “chiếc ghế bị gẫy”1. Vào khoảng thế
kỷ VII, tại La Mã các thương gia của một thành phố thường họp nhau lại để xem xét
việc làm ăn và công nợ. Người nào mất khả năng thanh toán công nợ sẽ bị mất
quyền tham gia Đại hội thương gia và chiếc ghế ngồi của họ theo đó cũng bị đem ra
khỏi hội trường. Như vậy, “Banca Rotta” (chiếc ghế bị gẫy) được quan niệm như
là một biểu tượng của việc mất khả năng thanh toán.
Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, con người làm ra sản phẩm tự phục vụ, tự đáp
ứng nhu cầu của mình nên hoạt động thương mại chưa tồn tại và do đó không thể có
hiện tượng phá sản.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chủ thể kinh tế chủ yếu là các doanh
nghiệp quốc doanh, được Nhà nước thành lập và tài sản thuộc quyền sở hữu Nhà
1 TS. Trương Hồng Hải, Luận án tiến sĩ: “Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ so sánh và phương hướng hoàn thiện”, tr38-40
3
nước. Các doanh nghiệp này không có quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm đều theo kế hoạch của Nhà nước và cũng không
có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Lúc bấy giờ, nếu doanh nghiệp kinh doanh
có lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước, còn ngược lại nếu lỗ thì được Nhà nước bù
lỗ. Các xí nghiệp, hợp tác xã thời kỳ này hoạt động kém hiệu qủa, lãi giả, lỗ thật, nợ
nần chồng chất. Nhà nước phải giúp đỡ các doanh nghiệp này bằng cách hoãn nợ,
xoá nợ hoặc dùng các giải pháp mang tính hành chính như giải thể, sáp nhập… Vì
vậy, doanh nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế bao cấp không bị mất khả năng
thanh toán và do đó hiện tượng phá sản cũng không xảy ra.
Trong nền kinh tế thị trường, phá sản là một hiện tượng kinh tế-xã hội tồn tại
khách quan. Tính tất yếu khách quan của hiện tượng phá sản được lý giải bởi các
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, mặc dù có đời sống ngắn dài khác nhau nhưng doanh nghiệp luôn có
một vòng đời nhất định: khởi nghiệp, tăng trưởng, phồn vinh và suy thoái. Cũng
giống như một cơ thể sống, hàng triệu tế bào liên tục được sinh ra và chết đi. Và
trong nền kinh tế thị trường hàng chục triệu doanh nghiệp được sinh ra, và trải qua
nhiều giai đoạn cũng đến lúc tàn lụi, đó là lúc doanh nghiệp phá sản. Điều này hoàn
toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của sự vật, hiện tượng.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường là nơi diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các
nhà kinh doanh. Những doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải mạnh và
phải đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Điều đó đòi hỏi các doanh
nghiệp phải chủ động, linh hoạt nắm bắt được các quy luật kinh tế và chiếm lĩnh thị
trường. Và dĩ nhiên các công ty nhỏ, không đủ sức cạnh tranh sẽ lâm vào tình trạng
phá sản.
Một doanh nghiệp phá sản có thể do nhiều nguyên nhân, cũng có thể do nguyên
nhân chủ quan hoặc nguyên nhân khách quan tác động. Nguyên nhân khách quan
như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, động đất, hay sự xuất hiện của đối thủ cạnh
tranh…Ngoài ra, nguyên nhân chủ quan như năng lực quản lý, lãnh đạo công ty,
chiến lược kinh doanh,…nhiều khi cũng là nguyên nhân của các vụ phá sản doanh
4
nghiệp.
Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hệ quả kinh tế-xã hội nhất định. Ví dụ, sự
phá sản của một bộ phận lớn doanh nghiệp thường gây ra những xáo trộn, ảnh
hưởng xấu đến việc sản xuất, thu nhập của một bộ phận lớn người lao động. Song
sự tác động của phá sản không phải bao giờ cũng chỉ có ý nghĩa tiêu cực. Sinh- Tử,
Thành lập- Phá sản là những quy luật của cuộc sống doanh nghiệp và thị trường.
Một trong những quy luật cơ bản của triết học là quy luật phủ định của phủ định,
phá sản cũng chính là sự phủ định cần thiết để kinh tế có bước phát triển cao hơn.
Tóm lại, nhìn từ góc độ kinh tế, phá sản là một thuật ngữ chỉ tình trạng làm ăn
thua lỗ, quẫn bách đến mức không thể trả được các món nợ dù có bán hết mọi tài
sản hiện có. Phá sản là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường, nó hiện
hữu như một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của
nền kinh tế thị trường.
1.2 Phá sản theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật
Phá sản đã có từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ biến thì nó chỉ
xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế này, cùng với các quyền
cơ bản khác của công dân, quyền tự do kinh doanh đã rất được Nhà nước tôn trong,
đề cao và bảo vệ. Với tư cách là một quyền cơ bản của công dân, quyền tự do kinh
doanh có nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều bộ phận cấu thành như quyền tự do thành
lập doanh nghiệp; quyền tự do quyết định quy mô kinh doanh; quyền tự do lựa chọn
ngành nghề, mặt hàng kinh doanh; quyền tự do định đoạt các vấn đề phát sinh trong
khi hành nghề; quyền tự do thiết lập các quan hệ kinh tế; quyền tự do lựa chọn cơ
quan giải quyết tranh chấp; quyền tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Như
vậy, tự do cạnh tranh như một bộ phận cấu thành rất quan trọng của quyền tự do
kinh doanh đã tạo tiền đề pháp lý để các doanh nghiệp tham gia vào các cuộc chiến
với nhau nhằm giành giật thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Cũng như mọi cuộc
chiến khác, cuộc chiến giữa các nhà kinh doanh cũng mang lại những hậu quả nhất
định cho bên thua cuộc: Phá sản. Xét trên quan điểm của pháp luật mà nói thì Phá
5
sản cũng là một quyền của doanh nghiệp và đã là quyền thì được pháp luật bảo vệ.
Thêm vào đó, bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì luôn có
một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp do làm ăn kém hiệu quả, nợ nần chồng
chất, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính đến hạn nên buộc phải chấm
dứt sự tồn tại của mình và rút khỏi thị trường. Trong điều kiện như vậy, một vấn đề
đặt ra mà Nhà nước nào cũng phải quan tâm giải quyết là làm sao tạo điều kiện để
doanh nghiệp con nợ này rút khỏi thương trường một cách êm thấm, có trật tự và ít
gây ra hậu quả xấu cho các chủ thể có liên quan nói riêng và cho xã hội nói chung.
Muốn thực hiện được các mục tiêu này thì Nhà nước không thể đứng ngoài cuộc mà
phải can thiệp bằng cách ban hành pháp luật để xử lý một loạt các vấn đề liên quan
đến việc doanh nghiệp mắc nợ. Ví dụ, Nhà nước phải quy định khi nào và với điều
kiện gì thì một doanh nghiệp con nợ bị coi là đã lâm vào tình trạng phá sản; ai có
quyền làm đơn yêu cầu việc giải quyết phá sản; cơ quan nào trong bộ máy nhà nước
có nghĩa vụ giải quyết việc phá sản; thủ tục Toà án thụ lý và giải quyết vụ phá sản;
cơ chế quản lý tài sản của con nợ lâm vào tình trạng phá sản; thành phần, nhiệm vụ,
quyền hạn của thiết chế thực hiện việc quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản; tài sản phá sản gồm những gì; khi giải quyết phá sản thì có
những tài sản nào của con nợ không được đem chia cho các chủ nợ; thứ tự ưu tiên
thanh toán từ tài sản phá sản; con nợ có phải tiếp tục trả cho các chủ nợ các khoản
nợ còn thiếu chưa được trả hay không, v.v … Tất cả những vấn đề đó cần phải được
Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật mà giải quyết một cách
thấu đáo, hợp tình, hợp lý. Tổng hợp những văn bản pháp luật này tạo thành một
lĩnh vực pháp luật được gọi là pháp luật về phá sản mà xương sống của nó là Luật
Phá sản. Tóm lại, vì có phá sản nên phải có pháp luật về phá sản và pháp luật về phá
sản là tổng thể các văn bản do Nhà nước ban hành, trong đó quy định về dấu hiệu
của tình trạng phá sản; điều kiện áp dụng các thủ tục phá sản (thủ tục phục hồi, thủ
tục thanh lý); địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố tụng phá sản; trình tự tiến
hành việc giải quyết phá sản; thứ tự ưu tiên thanh toán từ tài sản phá sản và các vấn
đề khác có liên quan đến việc giải quyết một vụ phá sản cụ thể.
Nói cách khác từ góc độ pháp luật, khi một thương gia, một doanh nghiệp bị phá
6
sản thì theo quy định của pháp luật Toà án sẽ tuyên bố thương gia, doanh nghiệp đó
bị phá sản. Tuyên bố phá sản là một thủ tục pháp lý bắt buộc với những quy trình,
những bước cụ thể đã được pháp luật ấn định. Với cách tiếp cận này “tuyên bố phá
sản là thủ tục thanh toán tài sản của con nợ bị phá sản để trang trải cho các chủ nợ bị liên quan” 2. Do đó, về mặt pháp lý, khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản,
hàng loạt các vấn đề pháp lý sẽ phát sinh và kéo theo những hậu quả pháp lý khác
nhau cho những người liên quan.
2. Sự tác động của phá sản
Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Nó là hiện tượng
kéo theo những hệ quả kinh tế xã hội nhất định và tác động đến nhiều mặt của đời
sống kinh tế xã hội và pháp luật.
2.1. Về mặt tiêu cực
Phá sản thường gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng đến việc phát triển sản xuất,
ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động.
Nhìn nhận một cách tổng quát từ các nước có nền kinh tế phát triển đến các
nước chậm phát triển thì vấn đề nạn thất nghiệp của người lao động là một vấn đề
nổi cộm được các quốc gia quan tâm và tìm cách hạn chế. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến thất nghiệp nhưng không có nguyên nhân nào khiến số người đang lao
động bị rơi vào tình trạng thất nghiệp nhiều và nhanh chóng như nguyên nhân phá
sản. Đối với bản thân người lao động, phá sản doanh nghiệp làm cho họ mất việc
làm, mất thu nhập ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, miếng cơm manh áo của chính
bản thân và gia đình người lao động. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này các quốc
gia cần có những biện pháp tích cực để hạn chế những ảnh hưởng xấu của phá sản
doanh nghiệp đến đời sống người lao động như bồi thường thiệt hại cho người thất
nghiệp, trả lương bảo hiểm, giúp họ tìm công việc khác…
Bên cạnh những tác động trên, phá sản còn có nhiều tác động xấu đến sự phát
triển kinh tế. Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì doanh nghiệp khác là bạn hàng
7
của doanh nghiệp cũng phải chịu ảnh hưởng theo kiểu dây chuyền- người không 2 GS. TS. Nguyễn Thị Mơ, Hoàng Ngọc Thiết (2005), Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, Nhà xuất bản Giáo dục, tr 115.
bán được hàng kẻ không cung cấp được sản phẩm (nếu doanh nghiệp bị phá sản
trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc không có nguyên vật liệu cho sản xuất (
nếu doanh nghiệp bị phá sản là doanh nghiệp bán nguyên vật liệu cho họ)… Thêm
vào đó chủ nợ của doanh nghiệp bị phá sản không đòi được nợ dẫn đến thiếu vốn
đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc trang trải cho các khoản nợ mà họ
vay từ chủ nợ khác. Đặc biệt nếu doanh nghiệp bị phá sản là một doanh nghiệp lớn
thì sự tác động của nó tới nền kinh tế là rất tồi tệ.
Nói đến tác động tiêu cực của phá sản phải nói đến hai vụ phá sản điển hình
trong lĩnh vực tài chính, một của Nhật Bản, một của Mỹ:
Thứ nhất là trường hợp Ngân hàng SFCG (Nhật Bản) đệ đơn xin phá sản ngày
23/2/2009. Ngân hàng SFCG là ngân hàng chuyên cung cấp vốn vay cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản. Đây là vụ phá sản lớn nhất ở Nhật kể từ tháng
3/2002 sau vụ sụp đổ của nhà thầu xây dựng Sato Kogyo với số nợ 450 tỷ Yên.
Ngân hàng đang phải chịu một khoản nợ là 338 tỷ Yên, và phải đi vay nợ rất nhiều
từ các ngân hàng ngoại quốc trong đó có đại gia Citigroup. Tính tới 31/7/2008
SFCG nợ Citigroup 31 tỷ Yên. Sự phá sản Ngân hàng SFCG cũng đồng nghĩa với việc 109 chi nhánh bị đóng cửa và 1.528 nhân viên bị mất việc3.
Thứ hai là vụ phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ đã làm chấn
động thị trường toàn cầu. Lehman Brothers (thành lập năm 1850 bởi ba anh em
Henry, Emanuel và Mayer Lehman người Do Thái từ Đức di cư sang) là một tập
đoàn chứng khoán và tập đoàn ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Hoa Kỳ. Lĩnh vực
chính của tập đoàn là ngân hàng đầu tư, buôn bán cổ phiếu và trái phiếu, nghiên cứu
thị trường, quản lý đầu tư, và ngân hàng tư nhân. Tập đoàn đặt trụ sở chính ở Thành
phố New York, và hai trụ sở khác ở London và Tokyo, cũng như nhiều văn phòng
đại diện khắp thế giới. Ngày 15 tháng 9 năm 2008, tập đoàn tuyên bố phá sản với
khoản nợ 613 tỷ đôla Mỹ sau khi không có công ty nào chấp nhận mua lại. Đây là
3 Website của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam: http://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=6186&Itemid=31
8
vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nguồn gốc của vụ phá sản này
là từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Những năm đầu của thập niên 2000,
BNC Mortgage - một công ty con của Lehman Brothers - đã tích cực cho vay thứ
cấp đối với các dự án nhà ở. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp đã làm công
ty này thua lỗ nặng. Lehman Brothers đã quyết định đóng cửa công ty con này của
mình vào tháng 8 năm 2007. Tuy nhiên không chỉ riêng BNC Mortgage mà cả tập
đoàn Lehman Brother đều tích cực tham gia cho vay nhà ở thứ cấp. Việc chứng
khoán hóa các khoản cho vay không gặp thuận lợi bởi lãi suất không hấp dẫn. Đến
năm 2008, công ty lỗ nặng chưa từng thấy. Kết quả là riêng trong nửa đầu năm
2008, cổ phiếu của Lehman Brothers mất giá tới 70%. Lehman Brothers phá sản
đồng nghĩa với việc có khoảng 26.200 nhân viên bị mất việc. Nghiêm trọng hơn là
tác động của nó tới thị trường chứng khoán toàn cầu. Ngay sau khi có tin Lehman
Brothers phá sản, các thị thường chứng khoán đều đồng loạt giảm giá: chỉ số Down
Jones Mỹ sụt giảm 2,6%; chỉ số FTSE tại thị trường chứng khoán London giảm 3%;
các thị trường chứng khoán Pháp và Đức cũng giảm hơn 3%; chỉ số Nikkei của
Nhật đã giảm tới 4,7%; đặc biệt là thị trường Nga đã phải tạm ngừng dao dịch sau khi chỉ số giảm tới 16% 4. Chỉ số chứng khoán giảm mạnh đe doạ đến sự sụp đổ của
hàng loạt các công ty khác và đẩy hàng nghìn người trên toàn thế giới vào tình trạng
thất nghiệp.
2.2. Về mặt tích cực
Dưới một cách nhìn khác, phá sản cũng đem lại những ảnh hưởng tích cực đến
nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Xét về mặt kinh tế thì phá sản là một giải pháp hữu hiệu để “cơ cấu lại” nền kinh
tế, có thể ví phá sản như dọn vườn, dọn sạch cỏ dại để cây trồng phát triển. Phá sản
góp phần hình thành, duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp còn đủ sức đứng
vững trong điều kiện cạnh tranh nghiệt ngã. Phá sản giữ một vai trò đặc biệt quan
trọng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Phá sản góp phần loại bỏ
những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả ra khỏi nền kinh tế và giữ lại những
4 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.shtml
9
doanh nghiệp mà ở chúng sức cạnh tranh tốt hơn, làm ăn có lãi hơn. Thực tế đã
chứng minh rằng, trong nền kinh tế thị trường chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả, sự cạnh tranh bao giờ cũng đem lại kết cục nghiệt ngã cho các
doanh nghiệp yếu hơn nhưng nó lại là quy luật muôn thuở của nền kinh tế thị
trường mà ở đó lợi nhuận là trung tâm còn cạnh tranh là động lực.
Bên cạnh tác động trên, phá sản chưa phải là dấu chấm hết đối với một doanh
nghiệp. Trên thế giới đã chứng kiến nhiều nhà đầu tư thành công từ những doanh
nghiệp phá sản. Dưới đây là hai vụ phá sản điển hình của hai công ty đại chúng ở
Mỹ minh chứng cho luận điểm trên:
Thứ nhất là Công ty Kmart, một trong những hãng bán lẻ giá rẻ đầu tiên ở Mỹ,
nộp đơn xin phá sản vào tháng 1/2002 sau khi doanh số và lợi nhuận sụt giảm,
khiến công ty rơi vào tình trạng kẹt tiền mặt nghiêm trọng. Trái phiếu doanh nghiệp
do Kmart phát hành không còn bán được nữa, trong khi các nhà cung cấp lưỡng lự
giao hàng nhận tiền sau. Kmart coi suy thoái kinh tế Mỹ năm 2001 và sự cạnh tranh
của các đối thủ khác là lý do dẫn tới khó khăn của hãng, nhưng trên thực tế là hãng
không còn đủ sức hấp dẫn với người tiêu dùng.
Trong quá trình phá sản, Kmart đóng cửa hàng trăm trong số khoảng 2.000 cửa
hàng của mình - một hoạt động thường gặp trong trường hợp phá sản của các hãng
bán lẻ. Bên cạnh đó, hãng còn cắt giảm việc làm, hợp nhất các văn phòng và thanh
lý hàng tồn kho.
Một nhà đầu tư là Eddie Lampert nhận thấy giá trị hấp dẫn ở nhiều tài sản bất
động sản của công ty này nên đẩy mạnh mua vào trái phiếu của hãng. Sau khi
Kmart hoàn tất quá trình phá sản kéo dài 455 ngày, Lampert trở thành chủ tịch của
hãng. Ở vai trò này, Lampert đã bán phần lớn những tài sản bất động sản có giá trị
nhất của Kmart, và sau đó, sáp nhập Kmart với hãng bán lẻ Sears vào năm 2004. Vụ
sáp nhập trị giá lên đến 12,3 tỷ USD này đã đẩy giá cổ phiếu của Sears lên 22% và
của Kmart lên 16% không lâu sau khi vụ sáp nhập công bố. Và kể từ ngày Kmart tự
đứng dậy sau khi phá sản từ tháng 5/2003, giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến
700% tính đến mùa xuân 2005. Như vậy, bằng cách sáp nhập Công ty Kmart đã tìm
10
lại được vị trí của mình sau khi tuyên bố phá sản.
Thứ hai là hãng hàng không Continental Airlines của Mỹ thì từng phá sản tới 2
lần, vào các năm 1983 và 1990. Đầu thập niên 1980, do phải đối mặt với suy thoái
và sự nới lỏng giám sát trong ngành hàng không Mỹ, Continental rơi vào một cuộc
chiến với các tổ chức công đoàn trong chuyện giảm tiền công và buộc phải nộp đơn
xin bảo hộ phá sản.
Vào năm 1990, Continental lại phá sản tiếp lần nữa. Tuy nhiên, lần này, hãng
phá sản vì những lý do khác. Giá nhiên liệu tăng cao cộng với nợ nần chồng chất vì
chiến lược mua lại - “tác phẩm” của vị Chủ tịch đã phá vỡ thỏa thuận với công đoàn
cách đó gần 1 thập kỷ - đã khiến Continental không còn lựa chọn nào khác. Vài
tháng sau khi nỗ lực hết sức để thoát nguy cơ phá sản, chẳng hạn bán một số tuyến
bay quốc tế cho hãng Delta, không đem lại kết quả, Continental lại nộp đơn lên tòa
án xin tuyên bố phá sản.
Vì mục tiêu của Luật phá sản Mỹ là tái tạo lại doanh nghiệp bằng cách cho phép
doanh nghiệp, cá nhân đang ở trong tình trạng vỡ nợ có thể nộp “đơn xin bảo hộ
phá sản”. Khi đó, các doanh nghiệp cá nhân này được phép hoàn nợ trong vòng 5
năm nên với đơn xin phá sản giúp Continental tiếp tục hoạt động, một phần do tòa
án buộc các hãng hàng không là đối tác của Continental duy trì thực hiện nghĩa vụ
đối với hãng hàng không này, trong khi Continental có thể từ chối thanh toán cho
các chủ nợ. Hai năm rưỡi sau khi phá sản, Continental trở thành một hãng hàng
không độc lập và hiện là hãng hàng không lớn thứ 9 trên thế giới.
Với hai ví dụ nêu trên, có thể thấy phá sản, ở một chừng mực nhất định, do
những tác động của Pháp luật phá sản thông qua sự hỗ trợ tích cực của Toà án,
nhiều doanh nghiệp đã phục hồi hoạt động kinh doanh, được tái tạo lại tốt hơn và do
đó hoạt động hiệu quả hơn trước.
II. Pháp luật về phá sản
1. Sự cần thiết phải có pháp luật phá sản
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung do kiểm soát và định đoạt mọi nguồn
11
lực sản xuất, Nhà nước trở thành một xí nghiệp khổng lồ, các đơn vị kinh doanh
không có động lực để cạnh tranh, sự tồn tại của chúng được duy trì theo ý chí của
Nhà nước. Kinh tế bao cấp không cần tới luật phá sản. Dấu hiệu sụp đổ của mô hình
này có thể nhận thấy khi các doanh nghiệp "vượt rào", ngày càng giành lấy nhiều
quyền tự chủ trong hoạch định và tổ chức kinh doanh. Cùng với sự gia nhập của đầu
tư nước ngoài, sự tự do kinh doanh cho tư nhân, môi trường cạnh tranh tái xuất hiện
và trở nên gay gắt nhanh chóng ngay trên thị trường nội địa, vai trò của Nhà nước
với tư cách là một chủ đầu tư chịu trách nhiệm hữu hạn trong các doanh nghiệp Nhà
nước mới dần dần hiện rõ. Khi tự do kinh doanh và cạnh tranh tái xuất hiện, nhu cầu
điều tiết vỡ nợ các đơn vị kinh tế vốn thuộc quyền quản lý của Nhà nước mới trở
nên cấp bách. Đáng lưu ý: nhu cầu điều chỉnh cấp bách bậc nhất của pháp luật phá
sản trong các quốc gia chuyển đổi chính là các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ hàng
loạt khi bước vào cạnh tranh với một tư thế thiếu năng động so với khu vực kinh tế
tư nhân và tư bản nước ngoài. Năm 1986 Trung Quốc ban hành một đạo luật phá
sản, chỉ áp dụng riêng cho khối doanh nghiệp Nhà nước. Vì thế, đối với nhiều quốc
gia như ở Liên Xô cũ, Trung và Đông Âu và Việt Nam, pháp luật phá sản trước hết
được dùng như một công cụ tái cơ cấu, giải quyết sự vỡ nợ hàng loạt của các doanh
nghiệp Nhà nước đang chuyển đổi sang các hình thức doanh nghiệp khác.
Ngoài ra, như đã nói ở trên, phá sản là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị
trường nên việc một công ty bị phá sản ảnh hưởng đến nhiều đối tượng liên quan,
gây ra nhiều tác động đối với các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Do vậy cần thiết
có một đạo luật điều chỉnh về vấn đề này. Đó là lý do cho thấy sự cần thiết khách
quan phải có pháp luật về phá sản như là một lĩnh vực pháp luật độc lập.
2. Mục đích và vai trò của Pháp luật phá sản
2.1 Mục đích của pháp luật phá sản:
Mục đích chính của pháp luật phá sản ở hầu hết các quốc gia là chính phủ muốn
tạo lối thoát nhân đạo cho những doanh nghiệp lâm vào tình trạng tài chính khó
khăn, hoặc không có khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, tuỳ theo luật pháp từng nước mà
12
pháp luật phá sản còn bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, con nợ và người lao động.
2.2 Vai trò của Pháp luật phá sản
2.2.1. Pháp luật phá sản là công cụ pháp lý bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ nợ.
Trong kinh doanh, việc nợ nần lẫn nhau là hiện tượng bình thường, ít doanh
nghiệp nào có thể tránh khỏi. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên có quyền đòi nợ
thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp khởi kiện ra
Toà án. Tuy nhiên, việc đòi nợ bằng con đường kiện tụng ra Toà dân sự, Toà kinh tế
nhiều khi không thể giải quyết được một cách thoả đáng quyền và lợi ích hợp pháp
của các nhà kinh doanh. Vì vậy, bên cạnh tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế với tư
cách là các thủ tục đòi nợ thông thường, Nhà nước phải thiết kế thêm một cơ chế
đòi nợ đặc biệt nữa để các chủ nợ, khi cần thì có thể sử dụng để đòi nợ, đó là thủ tục
phá sản. Tính ưu việt của cơ chế đòi nợ thông qua thủ tục phá sản là ở chỗ, việc đòi
nợ được bảo đảm bằng việc Toà án có thể tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của con nợ
và thông qua đó mà bán toàn bộ tài sản của nó để trả cho các chủ nợ. Mặc dù ngày
nay, tố tụng phá sản còn phải thực hiện thêm một số mục tiêu nữa, trong đó có mục
tiêu giúp doanh nghiệp con nợ phục hồi (tức là bảo vệ cả lợi ích của con nợ) nhưng
về cơ bản, tố tụng phá sản từ khi ra đời đến nay vẫn là loại tố tụng tư pháp được đặt
ra nhằm trước hết và chủ yếu là để bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Việc ưu tiên bảo
vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ đã làm cho thủ tục phá sản trở thành một công cụ
pháp lý có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư của các nhà kinh
doanh. Từ khi có Luật phá sản, các nhà kinh doanh sẽ yên tâm hơn vì các món nợ
của họ đã có một cơ chế tốt hơn để được bảo vệ.
Pháp luật phá sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ sự quan tâm của Nhà nước đối với
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Điều này được thể hiện qua
hàng loạt các quy định pháp luật liên quan đến quyền năng của chủ nợ như: quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục giải quyết phá sản (Điều 13, LPS 2004), quyền khiếu
nại Danh sách chủ nợ (Khoản 2, Điều 52, LPS 2004), quyền có đại diện trong thiết
chế quản lý tài sản và thanh toán tài sản (Khoản 1, Điều 83, LPS 2004), quyền đề
13
xuất, thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của con nợ (Điều 70,71
LPS 2004), quyền được khiếu nại quyết định tuyên bố phá sản (Khoản 1, Điều 91,
LPS 2004), v.v...
2.2.2. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ, tạo cơ hội để con nợ rút
khỏi thương trường một cách trật tự.
Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt ra vấn đề bảo vệ con nợ. Lúc đó,
người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá sản là một phạm
nhân, do đó, họ không những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt bằng nhiều
hình thức, kể cả phạt tù. Ví dụ, Luật phá sản đầu tiên của Anh năm 1542 quy định
“phải treo cổ tất cả con nợ” để răn đe các thương gia làm ăn thua lỗ. Ngày nay, quan
niệm về việc kinh doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của Nhà nước và
pháp luật đối với con nợ lâm vào tình trạng phá sản cũng đã được thiết kế theo
hướng tích cực, có lợi cho con nợ. Hoạt động kinh doanh là một hoạt động chứa
đựng nhiều rủi ro. Do sự biến động khó lường của thị trường và các yếu tố khách
quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến hạn đều có thể
xảy ra bất cứ lúc nào đối với nhà kinh doanh. Mặt khác, một doanh nghiệp bị phá
sản thì có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, mà trước hết là đối với
người lao động và các chủ nợ. Chính vì vậy mà ngày nay, khi các doanh nghiệp bị
lâm vào tình trạng phá sản thì vấn đề đầu tiên mà Nhà nước quan tâm giải quyết
không phải là việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản ngay và phân chia tài sản của nó
cho các chủ nợ mà là việc phải tìm mọi cách để giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi
tình trạng khó khăn này. Điều đó giải thích tại sao, pháp luật của đa số các nước đều
quy định nhiều hình thức phục hồi khác nhau để doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản lựa chọn, áp dụng nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp này phục hồi lại
khả năng kinh doanh của mình.
Đặc biệt ở Mỹ, pháp luật phá sản nước này rất khoan hồng đối với các cá nhân
và doanh nghiệp khi họ lâm vào tình trạng không trả được nợ. Đối với cá nhân
chúng ta thì có hai loại phá sản: Loại thứ nhất được quy định tại chương VII cho
phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể “thanh toán” –được xoá nợ- hầu hết các
14
khoản nợ không có thế chấp. Loại phá sản này không giúp cho cá nhân giữ được tài
sản của mình trước những khoản nợ có bảo đảm, tức là khi vay người vay phải thế
chấp tài sản, chẳng hạn như đất đai, của mình; Loại thứ hai được quy định tại
chương XIII cho phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể trả dần từng phần
khoản nợ trong một khoảng ân hạn từ ba đến năm năm. Đến cuối kỳ thanh toán, nếu
người vay nợ đã dùng hết thu nhập của mình để trả nợ theo kế hoạch thì số nợ còn
lại sẽ bị xóa. Loại này có thể dùng để thanh toán những khoản nợ có bảo đảm quá
hạn mà không bị mất tài sản thế chấp. Luật phá sản áp dụng cho doanh nghiệp hơi
khác một chút. Một số doanh nghiệp có thể tiếp tục kinh doanh theo quy định tại
chương XI khi họ tái cơ cấu lại các khoản nợ. Vì vậy, khác với hầu hết các quy định
về phá sản trên thế giới, luật pháp Mỹ cho phép một công ty phá sản được tiếp tục
hoạt động dưới sự lãnh đạo của đội ngũ quản lý cũ khi công ty này cố gắng tái cơ
cấu lại các khoản nợ. Nói cách khác là về mặt cơ bản thì không có sự chỉ định người
giám sát công ty. Một số người cho rằng hệ thống này, hệ thống có tên là người vay
nợ bị khống chế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm bởi nhiều
công ty vẫn được tiếp tục kinh doanh và tài sản của các công ty được bảo vệ.
Ở Việt Nam, pháp luật phá sản cũng đã được xây dựng theo khuynh hướng này.
Cụ thể là, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và gần đây là Luật Phá sản 2004 đã
không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ mà còn bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho cả doanh nghiệp mắc nợ và đặc biệt là đã không coi phá sản là
một tội phạm như quan niệm của một số nước trên thế giới. Điều này có thể thấy
qua việc pháp luật quy định hàng loạt những quyền cho doanh nghiệp mắc nợ trong
quá trình giải quyết phá sản. Chẳng hạn, kể từ thời điểm Toà án ra quyết định mở
thủ tục phá sản doanh nghiệp, tất cả quyền đòi nợ đều được đình chỉ và giải quyết
theo một thủ tục chung duy nhất do Toà án tiến hành, đồng thời nghiêm cấm việc
đòi nợ một cách riêng lẻ. Pháp luật phá sản của nhiều nước đã tạo điều kiện tối đa
cho doanh nghiệp mắc nợ khắc phục khó khăn về tài chính, thoát khỏi tình trạng
phá sản để trở lại hoạt động bình thường, mà không quy định bắt buộc Toà án phải
tuyên bố phá sản ngay khi có đơn yêu cầu. Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục
phá sản, doanh nghiệp mắc nợ cũng có quyền xây dựng phương án hoà giải và giải
15
pháp tổ chức lại sản xuất kinh doanh trình Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua (Điều
64 LPS 2004). Toà án chỉ ra quyết định mở thủ tục thanh lý khi Hội nghị chủ nợ
không thông qua phương án tổ lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, hay trong trường
hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không thành công phương án tổ
chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh đã được Hội nghị chủ nợ thông qua. Ngoài
ra, con nợ còn có quyền cử người đại diện tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản
(Điều 9, Luật PSDN 1993) ... Khi có quyết định mở thủ tục thanh lý, tài sản còn lại
của doanh nghiệp sẽ được thanh toán cho các chủ nợ theo thứ tự nhất định; sau khi
thanh toán, mọi khoản nợ của doanh nghiệp, cho dù chưa được thanh toán đầy đủ
cũng được coi là đã thanh toán và các chủ nợ không có quyền đòi nợ nữa, trừ một
vài ngoại lệ được quy định trong Luật phá sản của từng nước.
2.2.3. Pháp luật phá sản góp phần vào việc bảo vệ lợi ích của người lao động
Phá sản không chỉ gây ra hậu quả xấu cho các chủ nợ, con nợ mà còn cho cả
người lao động. Điều này trước hết thể hiện ở chỗ, chính vì có phá sản mà người lao
động phải mất việc làm, lâm vào tình cảnh thất nghiệp. Do vậy, muốn bảo vệ người
lao động, trước hết là phải làm sao để doanh nghiệp không bị phá sản. Cơ chế phục
hồi doanh nghiệp được pháp luật đề ra chính là để thực hiện chủ trương này vì trên
thực tế, cứu được doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản cũng chính là cứu
được người lao động thoát khỏi tình trạng thất nghiệp. Nhưng mặt khác, khi người
lao động làm việc mà không được trả đủ lương trong một thời gian dài thì Nhà nước
cũng cần phải tạo ra một phương thức nào đó để họ có thể đòi được số tiền lương
mà doanh nghiệp nợ. Để thực hiện được mục tiêu này, pháp luật phá sản phải quy
định cho họ một số quyền như được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền
được tham gia quá trình giải quyết vụ việc phá sản, quyền được ưu tiên thanh toán
nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác mà họ được hưởng trước các khoản nợ
thông thường của doanh nghiệp ...
Và đây là điểm mà pháp luật phá sản của Việt Nam đặc biệt đưa ra nhiều các
quy định. Ví dụ, Điều 14 LPS 2004 quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản của người lao động “Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được
16
lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động cử người đại diện hoặc thông qua
đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã đó.”
2.2.4. Pháp luật phá sản góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Theo lẽ thường, khi mà con nợ có quá nhiều chủ nợ nhưng lại có quá ít tài sản
để thanh toán nợ thì việc các chủ nợ tranh giành nhau tài sản của con nợ là điều rất
có thể xảy ra. Nếu cứ để các chủ nợ “mạnh ai nấy làm”, tuỳ nghi “xiết nợ”, tự do
tước đoạt tài sản của con nợ một cách vô tổ chức, không công bằng thì trật tự, an
toàn xã hội sẽ không được bảo đảm. Vì vậy, Nhà nước nào cũng cần phải có biện
pháp để can thiệp vào việc đòi nợ này nhằm tránh được các hệ quả tiêu cực như vừa
nêu trên. Thủ tục phá sản chính là một công cụ pháp lý có khả năng giúp Nhà nước
đưa ra được nhiều cơ chế để thực hiện được việc thanh toán nợ một cách công bằng
giữa các chủ nợ. Căn cứ vào pháp luật phá sản, Toà án sẽ thay mặt Nhà nước đứng
ra giải quyết một cách công bằng, khách quan mối xung đột về lợi ích giữa các chủ
nợ và con nợ và điều đó sẽ góp phần đảm bảo trật tự, an toàn trong xã hội.
Theo LPS 2004, Toà án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền
giải tiến hành thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã. Khi mở thủ tục
phá sản, Tổ quản lý và thanh lý tài sản được thành lập để làm nhiệm vụ quản lý
thanh lý tài sản, Hội nghị chủ nợ cũng đuợc thành lập để đảm bảo công bằng quyền
lợi của chủ nợ.
2.2.5. Pháp luật phá sản góp phần làm lành mạnh hoá nền kinh tế
Cùng với những pháp luật kinh tế khác, pháp luật phá sản cũng góp phần làm
lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả
hơn. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, phá sản và pháp luật phá sản là công cụ răn đe các nhà kinh doanh,
buộc họ phải năng động, sáng tạo nhưng cũng phải thận trọng trong khi hành nghề.
Một thái độ hành nghề, trong đó có sự kết hợp giữa tính năng động, sáng tạo và tính
17
cẩn trọng là hết sức cần thiết vì nó giúp các nhà kinh doanh đưa ra được những
quyết định hợp lý - tiền đề cho sự làm ăn có hiệu quả của từng doanh nghiệp. Sự
làm ăn có hiệu quả của các doanh nghiệp riêng lẻ đương nhiên sẽ kéo theo sự làm
ăn có hiệu quả của cả nền kinh tế nói chung.
Thứ hai, pháp luật phá sản không chỉ là công cụ răng đe, buộc các doanh nghiệp
phải luôn tự hoàn thiện mình để tồn tại và phát triển mà còn là cơ sở pháp lý để xoá
bỏ các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, tạo ra môi trường kinh doanh lành
mạnh cho các nhà đầu tư. Thông qua thủ tục phá sản, những doanh nghiệp thua lỗ
triền miên, nợ nần chồng chất như những “con bệnh” trong nền kinh tế đều phải
được xử lý, đưa ra khỏi thương trường. Như vậy, thủ tục phá sản đã góp phần tạo ra
môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh - một yếu tố không thể thiếu được cho sự
phát triển bền vững của nền kinh tế.
3. Một số điểm lƣu ý trong các quy định của pháp luật phá sản của các
nƣớc trên thế giới:
Nghiên cứu pháp luật phá sản của các nước cho thấy có sự khác nhau trong các
quy định của pháp luật về những vấn đề liên quan đến phá sản. Điều này là hoàn
toàn dễ hiểu bởi mỗi quốc gia có một hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau và có
những nền văn hóa khác nhau.
Trong khuôn khổ bài khoá luận, người viết sẽ đi vào hai nội dung chính là quy
định về phạm vi áp dụng và khái niệm phá sản của Luật phá sản ở một số quốc gia
trên thế giới.
3.1. Phạm vi áp dụng của Luật phá sản.
Đây là vấn đề đầu tiên mà Luật phá sản các nước thường có cách quy định khác
nhau. Ví dụ, ở Việt Nam, ngoài các cơ quan nhà nước còn có các tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; ngoài thương nhân (doanh
nghiệp và hộ kinh doanh cá thể) còn có các công dân nợ tiền của người khác mà
không thể thanh toán đúng hạn được. Vấn đề đặt ra là, tất cả các cá nhân, tổ chức,
cơ quan như vừa nêu trên có thể bị tuyên bố phá sản hay không, nghĩa là đối tượng
18
áp dụng của Luật phá sản bao gồm những ai. Ở Việt Nam, Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004 đã coi vấn đề này là hết sức quan trọng
nên đã được đưa ra để xử lý ngay trong những điều khoản đầu tiên của luật (Điều 1
Luật PSDN 1993; Điều 2 LPS 2004) và cách xử lý cũng khác nhau.
Hiện nay, phạm vi áp dụng của Luật phá sản ở các nước khác nhau được quy
định là khác nhau. Lý do của sự quy định khác nhau này thì có nhiều, nhưng cơ bản
nhất là do điều kiện kinh tế - xã hội và năng lực hoạt động của Toà án ở các nước là
không giống nhau. Những nước mà ở đó kinh tế kém phát triển, kinh nghiệm giải
quyết phá sản chưa nhiều, văn hoá pháp lý của các nhà kinh doanh chưa cao, bộ
máy Toà án chưa đủ tầm về con người và trang thiết bị làm việc thì chắc chắn sẽ
không thể mở rộng phạm vi áp dụng của Luật Phá sản như ở các nước tiên tiến.
Cũng chính vì lý do đó mà hiện nay nhìn chung, trên thế giới có 3 cách xử lý vấn đề
về phạm vi áp dụng của Luật phá sản.
Theo cách thứ nhất, pháp luật phá sản chỉ áp dụng cho các chủ thể kinh doanh
(thương nhân), bao gồm thương nhân là pháp nhân (các công ty) và thương nhân là
thể nhân (cá nhân kinh doanh). Ví dụ: ở Latvia, thủ tục phá sản được áp dụng đối
với các doanh nghiệp (khái niệm doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh)5. Ở CHLB Nga, trước năm 2002, theo hai
đạo luật của CHLB Nga là Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) Xí nghiệp năm
1991 và Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) năm 1998 thì việc phá sản cũng
chỉ áp dụng cho các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân và các cá nhân kinh doanh
mà thôi. Tuy nhiên, ngày 27/9/2002, Duma Quốc gia Nga (Quốc hội) đã ban hành
và ngày 16/10/2002, Hội đồng Liên bang (tức Thượng Viện) Nga đã đồng ý thông
qua Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) mới, theo đó, phạm vi áp dụng của thủ
tục phá sản ở CHLB Nga đã được mở rộng ra cả các cá nhân tiêu dùng và đã dành hẳn một chương là Chương X để quy định về việc phá sản đối với chủ thể này6.
Theo cách thứ hai, pháp luật phá sản chỉ áp dụng cho các đối tượng là doanh
5 Tài liệu Hội thảo khoa học pháp luật phá sản của Latvia tổ chức tại Bộ Tư pháp tháng 11/2003 6 PSG. TS. Dương Đăng Tuệ và TS. Nguyễn Văn Tịnh chủ biên (2005), Những vấn đề liên quan đến việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật phá sản năm 2004, Nhà xuất bản Bộ Tư Pháp , tr 16.
19
nghiệp, tức là chỉ có con nợ nào được coi là doanh nghiệp thì mới có thể bị tuyên bố
phá sản. Như vậy là, các chủ thể kinh doanh khác, cho dù có đăng ký kinh doanh tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng không được gọi là doanh nghiệp thì cũng
không thuộc phạm vi áp dụng của Luật phá sản. Một trong số rất ít những nước có
cách làm này là Việt Nam. Theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và Luật
Doanh nghiệp năm 1999 thì ở Việt Nam lúc đó có 2 loại thương nhân và họ được
gọi với hai tên khác nhau là doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể. Theo Luật PSDN 1993 và Luật Phá sản 2004 thì tuyên bố phá sản chỉ áp dụng cho một loại chủ
thể kinh doanh duy nhất là doanh nghiệp mà thôi, còn các hộ kinh doanh cá thể, khi
không trả được các món nợ đến hạn thì việc đòi nợ và trả nợ sẽ được thực hiện theo
cơ chế thông thường tức là đòi nợ thông qua tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế. Cụ
thể, Luật phá sản năm 2004 quy định đối tượng áp dụng Luật phá sản là “doanh
nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ( hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã gọi
chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật”
(Điều 2, LPS 2004). Ngoài Việt Nam, còn có Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là
nước thứ hai cũng có cách quy định hẹp như vậy về phạm vi áp dụng của Luật Phá
sản.
Theo cách thứ ba, tuyên bố phá sản không chỉ được áp dụng cho tất cả các loại
hình thương nhân (pháp nhân, cá nhân kinh doanh) mà còn cho cả cá nhân người
tiêu dùng. Sự mở rộng một cách tuyệt đối phạm vi áp dụng của Luật Phá sản như
vậy là nét đặc trưng trong Luật Phá sản một số nước tư bản phát triển như Nhật
Bản, Thuỵ Điển, CHLB Đức. Cụ thể:
+ Luật Phá sản Nhật Bản năm 2000 (đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần) quy
định “Bất kỳ một cá nhân hay một công ty nào, dù mục đích của nó có vì lợi nhuận
hay không để có thể trở thành chủ thể của phá sản” (trang 9, Chương 25 LPS Nhật
Bản). Tuy nhiên, các pháp nhân không phải là công ty mà có tính chất công như
Chính phủ trung ương và chính quyền địa phương thì không thuộc sự điều chỉnh
20
của thủ tục phá sản do bản chất công rất lớn của chúng.
+ Luật phá sản của Thuỵ Điển không có quy định nào hạn chế về đối tượng bị áp
dụng thủ tục phá sản. Điều này có nghĩa là, bất cứ tổ chức, cá nhân nào lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn cũng có thể bị áp dụng thủ tục phá sản.
+ Luật Phá sản CHLB Đức trước đây được áp dụng cho tất cả các chủ thể kinh
doanh bao gồm tổ chức (pháp nhân) và cá nhân có đăng ký kinh doanh. Sau khi
nước Đức thống nhất, đã nảy sinh một tình trạng là có rất nhiều cá nhân tiêu dùng
do vay nợ quá nhiều đã lâm vào tình trạng “vỡ nợ”, tức là không trả được các khoản
nợ đến hạn. Tình trạng này đặt ra nhu cầu cần mở rộng đối tượng áp dụng luật phá
sản cho cả cá nhân tiêu dùng. Chính vì vậy, Luật Phá sản mới của CHLB Đức đã
được ban hành năm 1999, theo đó, thủ tục phá sản đã được áp dụng cho cả các cá
nhân tiêu dùng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn (Điều 11,
Luật phá sản Đức năm 1999). Tuy nhiên, khác với thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp (công ty), thủ tục phá sản đối với cá nhân tiêu dùng được quy định với những nét đặc thù7.
Riêng đối với các con nợ là tổ chức tài chính ngân hàng, các công ty bảo hiểm
và một số tổ chức khác, nhìn chung, pháp luật phá sản các nước đều có những quy
định riêng về phá sản đối với các đối tượng này. Việc tuyên bố phá sản đối với các
chủ thể này là vấn đề rất nhạy cảm, dễ tác động xấu đến nền kinh tế. Vì vậy, chủ
trương chung của các nước là hạn chế tối đa việc tuyên bố phá sản các tổ chức này,
và vì vậy, thủ tục phá sản đối với chúng chỉ được tiến hành khi đã thực sự không
còn khả năng cứu vãn nữa.
3.2. Thế nào là tình trạng phá sản.
Thế nào là lâm vào tình trạng phá sản cũng là vấn đề mà pháp luật các nước có
những quy định khác nhau với những tiêu chuẩn không giống nhau.
Việc thương nhân lâm vào tình trạng phá sản là căn cứ để Toà án ra quyết định
mở thủ tục phá sản đối với thương nhân đó. Quyết định này của Toà án gây ra hậu
7 TS. Trương Hồng Hải Đại học Luật Hà Nội, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện, tr 66-70.
21
quả xấu về nhiều mặt cho nhiều đối tượng, nhất là cho con nợ. Ví dụ, quyết định mở
thủ tục phá sản có thể ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của nhà kinh doanh, đồng
thời hạn chế quyền quản lý tài sản và quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh của họ. Như vậy, sự quan niệm sai, không phù hợp với bản chất của sự việc
và thực tế khách quan thì nhất định sẽ gây hại không những cho từng thương nhân
cụ thể mà còn cho cả nền kinh tế nói chung. Vì vậy, việc xác định tình trạng phá sản
luôn được các nhà khoa học pháp lý, nhất là các chuyên gia về luật phá sản các
nước quan tâm nghiên cứu, xác định. Thông thường, tiêu chuẩn xác định một doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thường được Nhà nước ghi nhận ngay trong Luật
Phá sản để làm căn cứ pháp lý thống nhất và duy nhất cho Toà án áp dụng khi giải
quyết vụ việc phá sản. Ví dụ, theo Điều 2 Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản)
của CHLB Nga năm 2002 thì: “Tình trạng phá sản là tình trạng con nợ không có
khả năng thoả mãn một cách đầy đủ các yêu cầu của chủ nợ đối với các nghĩa vụ trả
tiền hoặc các món nợ bắt buộc phải trả khác”. Luật Phá sản của Nhật Bản không
đưa ra khái niệm chung về tình trạng phá sản mà chỉ đưa ra cơ sở của việc phá sản
nói chung và cơ sở của việc phá sản công ty nói riêng. Ví dụ, tại Điều 126 Luật phá
sản Nhật Bản năm 2000 quy định:
“1. Khi con nợ không thể thanh toán thì theo yêu cầu, Toà án phải tuyên bố
người đó phá sản bằng cách đưa ra phán quyết.
2. Nếu con nợ ngừng thanh toán thì con nợ được xem là không có khả năng
thanh toán.”
Như vậy, ở Nhật Bản, cơ sở của sự nhận định về việc con nợ đã lâm vào tình
trạng phá sản và do đó, có thể bị Toà án tuyên bố phá sản là việc con nợ đã không thanh toán được các món nợ đến hạn của mình8.
Ở Trung quốc, tuy khái niệm phá sản được quy định trong nhiều văn bản pháp
luật khác nhau như Luật Phá sản doanh nghiệp (Điều 3), Luật Tố tụng Dân sự (Điều
8 TS. Trương Hồng Hải Đại học Luật Hà Nội, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện, tr57-40.
22
1999), Luật Công ty (Điều 196) nhưng nhìn chung đều thống nhất với nhau ở một
điểm có tính chất nguyên tắc, đó là đều lấy việc con nợ không trả được các món nợ
đến hạn làm căn cứ để xác định doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản.
Ở Việt Nam, các nhà lập pháp ở các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng có quan
điểm về tình trạng phá sản như ở nhiều nước trên thế giới. Ví dụ, tại Điều 864 Bộ
luật Thương mại Sài Gòn 1972 đã viết “Thương gia ngưng trả nợ có thể đương
nhiên hoặc theo đơn xin của trái chủ, bị Toà tuyên án khánh tận”. Luật PSDN 1993
của Việt Nam khẳng định rằng “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh
nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng
các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn” (Điều
2). Quan điểm này của nhà lập pháp Việt Nam cũng đã được tiếp tục ghi nhận tại
Điều 3 Luật Phá sản năm 2004 như sau: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả
năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là đã lâm
vào tình trạng phá sản”.
Như vậy, bản chất của tình trạng phá sản là việc con nợ không có khả năng trả
các món nợ đến hạn của mình. Vì vậy, về cơ bản, khi con nợ ngừng trả nợ thì coi
như đã lâm vào tình trạng phá sản và lúc đó, các chủ nợ đã có cơ sở pháp lý để làm
đơn yêu cầu Toà án thụ lý giải quyết vụ việc phá sản mà họ là nguyên đơn.
Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau, do xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội
khác nhau nên có thể có các quan niệm khác nhau về cái gọi là lâm vào “tình trạng
phá sản”. Có nước, khi xác định tình trạng phá sản, ngoài yếu tố chung, cơ bản,
thiết yếu là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn còn phải có thêm một dấu hiệu nữa
là thời hạn chậm thanh toán. Ví dụ, theo Điều 3 Luật mất khả năng thanh toán (Phá
sản) của CHLB Nga năm 2002 thì các thể nhân, pháp nhân chỉ bị coi là đã lâm vào
tình trạng phá sản nếu sau 3 tháng, kể từ ngày đến hạn phải trả mà họ không trả
được các món nợ đến hạn đó. Sự quy định thêm về thời gian chậm thanh toán có ý
nghĩa nhất định, nhằm khẳng định thêm tính trầm trọng của tình trạng mất khả năng
thanh toán của con nợ. Ngoài ra, một số nước còn bổ sung thêm một dấu hiệu nữa
23
vào khái niệm tình trạng phá sản là con nợ không thể thanh toán được một khoản
tiền tối thiểu nào đó. Ví dụ, theo Luật Phá sản của Singapore năm 19999 thì con nợ
sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản khi không trả được số nợ đến hạn ít nhất là 5.000 Đô
la Singapore. Theo Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) của CHLB Nga năm
2002 thì số tiền đó đối với pháp nhân là không dưới 100.000 Rúp (tương đương
2.828 USD) và đối với cá nhân là không dưới 10.000 Rúp (tương đương 282,8
USD) (Điều 6). Ở Mỹ, số tiền này là không dưới 10.000 USD. Mục đích của việc
quy định này là nhằm khuyến khích các chủ nợ và con nợ tự tìm cách giải quyết êm
thấm các vụ tranh chấp có quy mô nhỏ bằng những hình thức khác thay vì đưa nó ra
Toà án để giải quyết theo thủ tục phá sản nhằm giúp tiết kiệm thời gian, công sức,
tiền bạc cho các đương sự và Nhà nước.
Những phân tích ở trên cho thấy đặc điểm của pháp luật phá sản với ý nghĩa là
lĩnh vực pháp luật độc lập trong hệ thống pháp luật các nước.
II. Luật phá sản Việt Nam năm 2004
1. Sự cần thiết phải ban hành Luật phá sản năm 2004
Ở Việt Nam quá trình hình thành và phát triển của Pháp luật phá sản có những
hoàn cảnh lịch sử đặc thù và có lẽ chính những điều đó đã tạo ra những đặc điểm
riêng của bộ phận pháp luật này. Có thể khái quát như sau:
Trong thời kỳ Pháp thuộc, cùng với Bộ luật thương mại Pháp, chế định pháp luật
về phá sản đã được áp dụng ở Nam Kỳ từ năm 1864 và Bắc Kỳ từ năm 1888.
Năm 1942 triều đình Huế ban hành Bộ luật thương mại áp dụng cho phần lãnh
thổ Trung kì từ năm 1944. Đây là một văn bản pháp luật thể hiện rõ sự vay mượn
Pháp luật phá sản của Pháp với quan điểm hà khắc trong việc xử lý phá sản, theo đó
người vỡ nợ được xem như tội phạm.
Tại miền Nam Việt Nam, dưới chế độ Việt Nam cộng hoà, trước khi có Luật
Thương mại riêng năm 1972, các quy định về phá sản mang nặng tính phân tán và
9 Kinh nghiệm sửa đối Luật phá sản ở Singapore: http://www.saga.vn/Luatkinhdoanh/Luatquocte/12548.saga
24
thể hiện rõ dấu ấn của pháp luật phá sản của Pháp. Trong luật thương mại năm 1972
với 186 điều quy định về sự khánh tận, phá sản và thanh toán tư pháp, song việc áp
dụng còn hết sức hạn chế.
Ở miền Bắc Việt Nam, thời gian từ năm 1945-1975, trong bối cảnh của một nền
kinh tế được vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp với hai thành
phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể, với loại hình chủ thể kinh tế chủ yếu
là xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã, hiện tượng phá sản với tư cách là hệ quả của
nền kinh tế cạnh tranh đã không tồn tại. Sự vắng bóng các quy định pháp lý về vấn
đề phá sản trong hệ thống Luật kinh tế Việt Nam ở giai đoạn này là điều dễ hiểu.
Tình hình này mới bắt đầu được cải thiện từ năm 1990 với 2 đạo luật là Luật Công
ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân trong đó gần như lần đầu tiên mới có những điều
khoản chính thức ghi nhận về kết cục phá sản của doanh nghiệp trong kinh doanh
(Điều 24 và Điều 17). Thế nhưng những điều khoản này mới chỉ mang tính dự báo
cho một xu thế lập pháp về vấn đề phá sản chứ chưa thật sự có giá trị điều chỉnh
trên thực tế. Đến cuối năm 1993, Luật phá sản đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam mới được ban hành. Luật này có tên gọi là Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993. Luật phá sản Doanh nghiệp được quốc hội chính thức có hiệu lực
thi hành từ ngày 1/7/1994. Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 bao gồm 6 chương
và 52 điều. Việc ban hành Pháp luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 là một sự kiện
pháp lý quan trọng đánh dấu nỗ lực cải cách hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng
cũng như đã phản ánh rõ nét những thay đổi cơ bản trong sự phát triển của nền kinh
tế và sự vận hành nền kinh tế của Việt Nam từ sau nửa thập kỉ 80, đặc biệt là từ
những năm 90 đến nay.
Sau gần 10 năm áp dụng, những hạn chế của pháp luật này đã lộ rõ. Vì vậy, Luật
phá sản mới đã được ban hành, luật này có tên gọi là Luật phá sản năm 2004. Luật
phá sản năm 2004 ra đời nhằm khắc phục nhược điểm của Luật phá sản năm 1993.
Luật phá sản năm 2004 ra đời ngoài việc dựa trên tinh thần ưu tiên bảo vệ lợi ích
của chủ nợ và người lao động vốn là mục đích của Luật phá sản doanh nghiệp năm
1993, Luật này còn nhằm mục tiêu phục hồi và tái tạo lại doanh nghiệp. Ngoài ra,
25
pháp luật còn góp phần bảo vệ nhà đầu tư, nhà kinh doanh và là công cụ pháp lý để
Nhà nước can thiệp vĩ mô vào nền kinh tế nhất là trong bối cảnh nền kinh tế của
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm 2004
2.1. Về đối tượng áp dụng của Luật Phá sản.
Theo Luật phá sản doanh nghiệp, đối tượng áp dụng của Luật là doanh nghiệp
thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với những doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc
phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng, Chính phủ có quy định cụ thể về
việc thi hành.
Theo nghị định số 189/CP ngày 23 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp thì doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng
Luật gồm có: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị-xã hội,
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài,
hợp tác xã.
Đối với thời điểm ban hành Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định về
đối tượng áp dụng Luật như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế phát triển-xã hội
đặc thù của nước ta trong giai đoạn này. Để phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế, Luật phá sản năm 2004 đã có sự bổ sung về đối tượng áp dụng luật này.
Điều 2, Luật phá sản năm 2004 quy định “Luật này áp dụng đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã”. Trong đó thành phần doanh nghiệp trong Luật
được nói đến đã được mở rộng thêm đối tượng công ty hợp danh so với Luật phá
sản doanh nghiệp năm 1993. Theo Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định “Công ty
hợp danh là doanh nghiệp trong đó: phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu
chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung” (Điều 130, Chương
V, Luật doanh nghiệp năm 2005). Để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, Công
26
ty hợp danh đã ra đời và được pháp luật thừa nhận.
Trên cơ sở kế thừa Luật phá sản doanh nghiệp, Luật phá sản quy định đối tượng
áp dụng của Luật phá sản bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
được thành lập theo quy định của pháp luật. Đối với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp
phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực thường xuyên, trực tiếp cung ứng
sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu, Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc
áp dụng Luật phá sản (Điều 2, LPS 2004).
2.2. Điều kiện để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
Như bên trên đã nói, pháp luật của nhiều nước trên thế giới có sự khác nhau
trong việc xác định tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Theo Điều2 của
LPSDN 1993 thì “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp
khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, sau khi đã áp dụng các biện
pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Theo Điều 3
của Nghị định số 189/CP ngày 23 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ hướng dẫn thi
hành Luật PSDN:“Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá
sản nói tại Điều 2 của Luật PSDN nếu kinh doanh thua lỗ hai năm liên tiếp tới mức
không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người lao động theo
thoả ước lao động và hợp đồng lao động trong ba tháng liên tiếp”. Thực tế thi hành
Luật PSDN 1993 cho thấy, khái niệm tình trạng phá sản theo quy định tại Điều 2
Luật này và được cụ thể hoá tại Nghị định số 189/CP là quá chặt chẽ, phức tạp, do
đó, đã gây ra rất nhiều khó khăn cho việc mở thủ tục phá sản.
Nhằm khắc phục hạn chế này, Luật Phá sản 2004 đã đưa ra quy định theo hướng
đơn giản hoá tiêu chí xác định tình trạng phá sản. Theo Điều 3 của Luật này thì
doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi “không có khả
năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu”. Như vậy, tiêu
chí xác định tình trạng phá sản đã được quy định theo hướng ngắn gọn, đơn giản và
đi vào bản chất mà không căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên nhân của tình trạng
thua lỗ cũng như việc doanh nghiệp, hợp tác xã con nợ đã áp dụng các biện pháp để
27
tự cứu mình mà không đạt kết quả hay chưa. Quy định này là một bước tiến bộ của
LPS 2004, phù hợp với thông lệ chung trên thế giới, tạo điều kiện dễ dàng cho việc
mở thủ tục phá sản nhanh gọn, cũng như khả năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được quy
định tại Điều 3 nói trên là căn cứ cho việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản chứ
không phải là căn cứ cho việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Khi thấy
con nợ không trả được các khoản nợ đến hạn cho mình thì các chủ nợ có quyền làm
đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc mở thủ tục phá sản. Chủ nợ có quyền làm việc
này vì sự ngưng trả nợ là dấu hiệu để suy đoán là con nợ đã lâm vào tình trạng phá
sản. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự suy đoán mà chưa chắc đã là sự thật. Vì vậy, sau khi
thụ lý hồ sơ, Toà án cần phải tiến hành nhiều biện pháp để có đủ cơ sở khẳng định
rằng, trên thực tế, con nợ đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và Toà án chỉ ra
quyết định mở thủ tục phá sản đối với nó khi điều đó đã được chứng minh (khoản 5
Điều 24, LPS 2004). Trong trường hợp mở thủ tục phá sản thì công việc tiếp theo của
Toà án sẽ là xem xét, đánh giá khả năng phục hồi của doanh nghiệp, hợp tác xã để
quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi có sự
chấp thuận của Hội nghị chủ nợ đối với phương án phục hồi mà con nợ đệ trình. Toà
án chỉ ra quyết định áp dụng thủ tục thanh lý hoặc thủ tục tuyên bố phá sản nếu thấy
doanh nghiệp, hợp tác xã đã hoàn toàn không có khả năng phục hồi. Vì vậy, không
phải mọi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đều có chung một kết
cục là bị chấm dứt hoạt động, kết thúc sự tồn tại và bị loại khỏi thương trường.
2.3. Thủ tục tiến hành một vụ phá sản thông thường
2.3.1. Thụ lý đơn yêu cầu phá sản
Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Toà án có quyền yêu cầu
người nộp đơn sửa đổi, bổ sung tài liệu và người nộp đơn có trách nhiệm thực hiện
việc sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Toà
án (Điều 22, LPS 2004). Ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được
28
tính là ngày người nộp đơn xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng phí phá sản hoặc là
ngày Toà án nhận được đơn trong trường hợp người nộp đơn không phải nộp tiền
tạm ứng phí phá sản.
Theo Điều 23 LPS 2004, trong trường hợp người nộp đơn không phải là chủ
doanh nghiệp tư nhân hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản thì Toà án có trách nhiệm thông báo việc thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết trong thời hạn 5 ngày, kể từ
ngày thụ lý. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án,
doanh nghiệp, hợp tác xã phải xuất trình cho Toà án các giấy tờ, tài liệu: Báo cáo tình
hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã; Báo cáo về các biện pháp
mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện nhưng vẫn không khắc phục được tình
trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn; Bảng kê chi tiết tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã; Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã; Danh
sách những người mắc nợ doanh nghiệp, hợp tác xã; Danh sách thành viên liên đới
chịu trách nhiệm về những khoản nợ của doanh nghiệp (nếu có); tài liệu khác mà Toà
án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã cung cấp theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 24 LPS 2004, Toà án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản trong những trường hợp sau:
+ Người nộp đơn không nộp tiền tạm ứng phí phá sản trong thời hạn do Toà án
ấn định, trừ các trường hợp không phải nộp tạm ứng phí phá sản. Theo quy định tại
Điều 21 của Luật Phá sản 2004 thì người nộp đơn là người lao động không phải nộp
tạm ứng phí phá sản. Người nộp đơn thuộc diện phải nộp tạm ứng phí phá sản tuy
không có tiền để nộp nhưng lại có các tài sản khác thì phí phá sản sẽ do ngân sách
nhà nước tạm ứng và được hoàn trả từ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản;
+ Người nộp đơn không có quyền nộp đơn, tức là người nộp đơn không thuộc
một trong số các đối tượng: chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần;
người lao động; chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp
tác xã; đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước; cổ đông hoặc nhóm cổ đông
29
của công ty cổ phần; thành viên hợp danh của công ty hợp danh.
+ Đã có Toà án khác mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản;
+ Có căn cứ rõ ràng cho thấy việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là có chủ
ý xấu nhằm bôi nhọ danh dự, uy tín của người quản lý, điều hành doanh nghiệp,
hợp tác xã hoặc gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã hoặc có sự gian dối trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản;
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã đã chứng minh được rằng, mình không lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của Toà án trả lại đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, người làm đơn có quyền khiếu nại với Chánh án Toà án
(Điều 25, LPS 2004). Chánh án Toà án có trách nhiệm trả lời trong thời hạn 7 ngày,
kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại. Nếu xét thấy quyết định trả lại đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản là có căn cứ theo quy định tại Điều 24 của LPS 2004 thì Chánh án ra
quyết định giữ nguyên quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Ngược lại,
nếu xét thấy việc ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là không có
căn cứ thì Chánh án ra quyết định huỷ quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản và thụ lý đơn theo quy định chung của LPS 2004.
2.3.2. Mở thủ tục phá sản
Quyết định mở thủ tục phá sản là quyết định đầu tiên và có ý nghĩa pháp lý rất to
lớn, làm phát sinh một loạt các hệ quả pháp lý bất lợi đối với con nợ, chủ nợ và các
chủ thể khác có liên quan. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra cho Luật Phá sản là làm sao
quy định được một cơ chế có khả năng giúp thẩm phán có đủ cơ sở để quyết định
mở hay không mở thủ tục phá sản đối với con nợ. Một trong những cơ chế có khả
năng giúp thẩm phán làm được điều này là việc pháp luật phá sản nhiều nước đã
quy định cho Toà án được quyền triệu tập phiên họp với sự tham gia của các bên có
liên quan để xem xét, đánh giá vụ việc trước khi ra quyết định. Ví dụ, Điều 48 của
Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) CHLB Nga năm 2002 đã đưa ra quy định,
30
theo đó, chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày ra Quyết định thụ lý hồ sơ phá sản, Toà
án phải mở phiên họp với sự tham gia của chủ nợ, con nợ và các tổ chức, cá nhân
khác có liên quan. Tại cuộc họp này, trên cơ sở ý kiến tranh luận của các bên và căn
cứ vào các chứng cứ do các bên đương sự đưa ra, Toà án sẽ quyết định việc mở hay
không mở thủ tục phá sản đối với con nợ.
Tiếp thu kinh nghiệm này, Luật Phá sản 2004 của nước ta đã quy định rằng,
trước khi ra quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản, Toà án có thể triệu tập
phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ
doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở
thủ tục phá sản, cá nhân, tổ chức có liên quan để xem xét, kiểm tra, đánh giá các căn
cứ nhằm chứng minh cho việc doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào tình trạng phá
sản hay chưa. Thời hạn ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản là 30 ngày,
kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Theo quy định tại Điều 28, Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản khi có căn
cứ chứng minh rằng, doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào tình trạng phá sản. Quyết
định mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây:
+ Ngày, tháng, năm ra quyết định;
+ Tên của Toà án; họ và tên của Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản.
+ Ngày và số thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; tên, địa chỉ của người làm
đơn yêu cầu;
+ Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản;
+ Thời gian, địa điểm khai báo của các chủ nợ và hậu quả pháp lý của việc
không khai báo nợ.
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án có trách nhiệm gửi
Quyết định mở thủ tục phá sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản, cho Viện Kiểm sát cùng cấp và thông báo cho các chủ nợ, những người mắc nợ
của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Đồng thời, Quyết định mở
thủ tục phá sản cũng phải được đăng trên báo địa phương nơi doanh nghiệp, hợp tác
31
xã lâm vào tình trạng phá sản có địa chỉ chính và báo hàng ngày của Trung ương
trong 3 số liên tiếp. Ngược lại, nếu không có căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp
tác xã đã lâm vào tình trạng phá sản thì Toà án sẽ ra quyết định không mở thủ tục
phá sản (Khoản 4 Điều 28). Quyết định không mở thủ tục phá sản phải được Toà án
gửi cho người làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ
ngày nhận được quyết định không mở thủ tục phá sản, người làm đơn có quyền
khiếu nại với Chánh án Toà án. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu
nại, Chánh án phải ra một trong các quyết định: (1) giữ nguyên quyết định không
mở thủ tục phá sản hoặc (2) huỷ quyết định không mở thủ tục phá sản và ra quyết
định mở thủ tục phá sản.
2.3.3. Phục hồi hoạt động kinh doanh
Mục đích của việc mở thủ tục phá sản không chỉ để giải quyết nợ tập thể giữa
các chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ mà còn tạo điều kiện cho doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ có cơ hội tổ chức lại hoạt động kinh doanh.
Mục tiêu hàng đầu của bất kỳ luật phá sản nào trên thế giới cũng tạo điều kiện để
cứu giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn và chỉ thanh lý, chấm dứt sự
tồn tại của doanh nghiệp nếu không thể phục hồi. Chính vì vậy, phá sản không chỉ thu
hồi, thanh lý tài sản theo một trình tự nhất định mà còn một khía cạnh thứ hai đáng
chú ý là tạo cơ hội cho con nợ và chủ nợ thoả thuận, tái tổ chức kinh doanh và lập
một kế hoạch trả nợ phù hợp. Sau khi hội nghị chủ nợ thông qua các giải pháp phục
hồi tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp
thực hiện quá trì tái phân bổ và sử dụng nguồn lực một cách hợp lý hơn.
Trong LPSDN 1993 mới chỉ có quy định cụ thể về thủ tục thanh toán tài sản của
doanh nghiệp mà chưa có những quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp như: điều kiện, nội dung, thời hạn thực hiện phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh… Khắc phục nhược điểm này, đồng thời phù hợp với sửa đổi
từ thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã LPS 2004 đã dành hẳn một mục của
chương VI để giải quyết các vấn đề về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh (từ
32
điều 68 đến điều 77).
2.3.4. Thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
Theo quy định trong LPS 2004, thủ tục thanh lý tài sản được áp dụng trong
những trường hợp sau đây:
+ Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua lỗ đã được Nhà nước áp dụng
biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh, nhưng vẫn không phụ hồi
được và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì Toà
án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp mà không cần phải
triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét việc áp dụng thủ tục phục hồi (Điều 78).
+ Hội nghị chủ nợ không thành do chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của
doanh nghiệp, hợp tác xã không tham gia Hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính
đáng hoặc sau khi Hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản là chủ nợ, người lao động; hoặc do không đủ quá nửa số chủ
nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba trở lên tổng số nợ không có bảo
đảm tham gia Hội nghị chủ nợ sau khi Hội nghị chủ nợ sau khi Hội nghị chủ nợ đã
được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ doanh
nghiệp, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ sở hữu doanh nghiệp
nhà nước, các cổ đông của công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty hợp
danh (Điều 79).
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã không xây dựng được phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh trong thời hạn quy định; Hội nghị chủ nợ không thông qua phương
án phục hồi hoạt động kinh doanh, hợp tác xã; doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện
không đúng hoặc không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh,
trừ trường hợp các bên liên quan có thoả thuân khác (Điều 80).
+ Trong quá trình thi hành quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản, theo đề nghị
của Tổ quản lý, thanh lý tài sản, Thẩm phán có thể ra quyết định cho phép doanh
nghiệp, hợp tác xã thực hiện một số hoạt động cần thiết cho việc thanh lý tài sản
33
hoặc làm tăng them khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó (Điều 82).
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT PHÁ SẢN
NĂM 2004 TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA
Trước khi nhận xét về thực trạng áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội,
khoá luận sẽ có những nhận xét chung về tình hình thực thi Luật phá sản năm 2004
tại Việt Nam. Lý do là vì không thể bóc tách riêng Hà Nội nếu chưa có một cái nhìn
chung về việc thực thi Luật này trong cả nước.
I. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Pháp luật phá sản nói chung
và luật phá sản năm 2005 ở Việt Nam
1. Những thuận lợi và kết quả
Luật phá sản năm 2004 là một bước tiến bộ rất lớn so với Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993. Rất nhiều điểm mới như đối tượng điều chỉnh được mở rộng hơn
đến các loại hình doanh nghiệp, trình tự tiến hành đơn giản, đỡ phức tạp hơn do
việc nhập tổ quản lý tài sản và tổ thanh lý làm một, thủ tục tiến hành đa dạng hơn,
ngoài thủ tục thanh lý như trước nay có thêm thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất
kinh doanh, tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
không còn cứng nhắc nữa. Thẩm quyển giải quyết mở rộng đến toà án nhân dân cấp
huyện…
Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao, số liệu về tình hình phá sản khi áp
dụng Luật phá sản doanh nghiệp 1993 đến ngày 31/12/2003, toàn ngành Toà án chỉ
thụ lý được 159 vụ, trong đó chỉ tuyên bố phá sản được 51 doanh nghiệp. Số doanh
nghiệp bị Toà án ra quyết định tuyên bố phá sản chiếm tỷ lệ thấp (39,1%) trong số các vụ việc Toà án thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp10. Do số vụ
việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của Toà án hàng năm không lớn, nên cả
nước trong giai đoạn này mới chỉ có hơn 20 Phòng thi hành án cấp tỉnh, thành phố
10 Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ( VCCI)
34
trực thuộc Trung Ương có thụ lý và tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản.
Bảng 1: Bảng thống kê số vụ phá sản trên cả nƣớc ở Việt Nam giai đoạn từ
năm 2004-2008
Năm Số vụ thụ lý Số vụ giải Tỷ lệ giải quyết (%)
quyết (vụ) (vụ)
2005 14 1 7,14
2006 53 16 30,2
2007 175 159 90,8
2008 148 131 88,5
Nguồn: Theo Tòa án Nhân dân Tối cao
Theo báo cáo của Toà án nhân dân tối cao, từ khi Luật phá sản năm 2004 có
hiệu lực cho đến năm 2006, Toà án cấp tỉnh, thành phố thụ lý 56 vụ phá sản trong
đó năm 2004 thụ lý là 5 vụ, năm 2006 thụ lý 40 vụ. Riêng năm 2006 các Toà án tỉnh
phải giải quyết 53 yêu cầu mở thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp (trong đó thụ
lý mới 40 vụ và măm 2005 chuyển qua là 13 vụ), đã giải quyết 16 vụ đạt tỷ lệ
30,2%. Năm 2007, Toà án phải giải quyết 175 vụ và đã giải quyết 159 đạt lệ 90,8%.
Năm 2008, tòa án thụ lý mới 136 đơn, quyết định không mở thủ tục phá sản 4 đơn,
mở thủ tục phá sản 131 đơn (đạt tỷ lệ 88,5%) và trả lại đơn 1 trường hợp (xem bảng
1).
So với 10 năm thực thi Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 trước đó, toàn ngành
tòa án thụ lý có 159 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, song chỉ tuyên bố
được 51 doanh nghiệp phá sản, có thể thấy ưu việt khá lớn của Luật Phá sản năm
2004.
Luật phá sản năm 2004 ra đời đã đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong việc
35
ban hành và thực thi pháp luật phá sản nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung.
Điểm thuận lợi của Luật phá sản năm 2004 là ra đời khi nền kinh tế đang trên đà
phát triển và cơ chế vận hành chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường. Điều nay
đồng nghĩa với việc sức cạnh tranh lớn dẫn đến ngày càng nhiều các doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản. Thêm vào đó, chính bản thân nội dung Luật phá sản
năm 2004 đã có nhiều điểm tiến bộ so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993
cũng góp phần đáng kể cho việc thực hiện Luật này hiệu quả hơn trong thực tiễn.
Cụ thể:
Thứ nhất, đã hoàn thiện hơn khái niệm phá sản hay khái niệm doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản. Đây là khái niệm quan trọng của Pháp luật phá sản. Như đã
phân tích ở trên, khái niệm về phá sản trong pháp luật của mỗi quốc gia là khác
nhau. Tuỳ thuộc vào khái niệm này trong pháp luật phá sản mà sự quản lý, chính
sách của Nhà nước đối với hiện tượng phá sản là tích cực hay không tích cực, là
nghiêng về bảo vệ bên nào: chủ nợ hay con nợ.
Theo Pháp luật phá sản năm 1993 quy định chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản nếu con nợ không trả nợ sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày đòi nợ,
quy định về thời hạn 3 tháng nợ lương liên tiếp với người lao động. Nhưng trên
thực tế chủ nợ sẽ không bao giờ thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
đối với con nợ của mình bởi lẽ họ phải chứng minh con nợ thua lỗ trong hoạt động
kinh doanh mà điều này thì nằm ngoài khả năng của chủ nợ. Luật phá sản năm 2004
(Điều 3) đưa ra khái niệm phá sản “Doanh nghiệp, hợp tác xã, không có khả năng
thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình
trạng phá sản”. Đây là một tiến bộ của Luật phá sản năm 2004 trong việc đơn giản
hoá thủ tục xem xét doanh nghiệp bị phá sản con nợ cũng không có nghĩa vụ phải
chứng minh con nợ thua lỗ như trước kia nữa, và do đó việc tiến hành thủ tục tuyên
bố phá sản sẽ nhanh chóng hơn.
Thứ hai, Luật phá sản năm 2004 khẳng định thủ tục phá sản là một thủ tục tư
pháp đặc biệt.
36
Có thể chia thủ tục phá sản là một quá trình bao gồm ba giai đoạn chính yếu:
+ Giai đoạn thứ nhất: Giai đoạn điều tra khả năng thanh toán nợ của doanh
nghiệp. Trong giai đoạn này nếu con nợ không muốn rơi vào giai đoạn sau thì phải
chứng minh cho Tòa án khả năng thanh toán nợ của mình. Nếu Tòa án nhận thấy
con nợ không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn thì áp dụng ngay giai đoạn tiếp
theo.
+ Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Giai đoạn
này có nội dung chủ yếu là xây dựng phương án hòa giải, phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Nếu không hòa giải được hoặc phương án hòa giải thực
hiện không thành công thì Tòa án chuyển sang giai đoạn tiếp theo.
+ Giai đoạn thứ ba: Giai đoạn phá sản và thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
Trong thủ tục phá sản nhiệm vụ của các thủ tục cấu thành có tính độc lập với
nhau rất lớn. Thực hiện nhiệm vụ của thủ tục này không phải lúc nào cũng là tiền đề
để thực hiện nhiệm vụ của thủ tục kia. Ví dụ như nhiệm vụ của thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác hẳn với nhiệm vụ của thủ tục thanh lý
tài sản và thực hiện nhiệm vụ của thủ tục phục hồi không phải là tiền đề cho thủ tục
thanh lý tài sản mà có thể loại trừ sự cần thiết của chính thủ tục thanh lý tài sản
doanh nghiệp…
Điểm tiến bộ được ghi nhận trong Luật Phá sản năm 2004 chính là những quy
định về mối quan hệ đặc thù giữa các thủ tục cấu thành trong thủ tục phá sản. Điều
này cho phép Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản một cách uyển chuyển tùy
thuộc vào những tình huống cụ thể. Tòa án có thể quyết định tuyên bố phá sản với
con nợ ngay mà không cần thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản (khoản 1 Điều 87
LPS 2004) hoặc sau khi thụ lý (khoản 2 Điều 87) hoặc khi đình chỉ thủ tục thanh lý
tài sản (Điều 86). Thủ tục phục hồi không còn là một thủ tục bắt buộc trước thủ tục
thanh lý tài sản trong tiến trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Không những
thế, khi mà nhiệm vụ của thủ tục này không thể thực hiện được hoặc thực hiện
không thành công thì có thể chuyển đổi sang thủ tục thanh lý tài sản ngay (Điều 79,
37
80).
2. Những khó khăn và bất cập.
2.1. Phạm vi chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản còn quá hẹp
Pháp luật phá sản trước hết là bảo vệ quyền về tài sản của các chủ nợ. Do vậy
đối tượng được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác
xã là các chủ nợ. Theo quy định của Luật phá sản năm 2004 có ba loại chủ nợ : chủ
nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm.
Điều 6 (Luật phá sản năm 2004) quy định:
+ Chủ nợ có đảm bảo một phần là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng giá
trị của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba mà giá trị bảo đảm ít hơn khoản
nợ đó.
+ Chủ nợ có đảm bảo là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng giá trị của doanh
nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba mà giá trị bảo đảm bằng với khoản nợ đó
+ Chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm bằng
bất cứ giá trị nào của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Cũng theo Luật phá sản năm 2004, chỉ có ba đối tượng có quyền yêu cầu mở thủ
tục phá sản: doanh nghiệp hay hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, chủ nợ và đại
diện người lao động. Nhưng lại chỉ có chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo
đảm một phần mới được nộp đơn, còn chủ nợ có bảo đảm và các cơ quan công
quyền có chức năng như Toà án, cơ quann Thanh tra, cơ quan Thuế… lại không có
quyền này. Nhưng trên thực tế, các chủ nợ ở nước ta cũng rất ít khi làm đơn yêu cầu
giải quyết phá sản hoặc nếu có làm thì với mục đích khác chứ không phải mục đích
bảo vệ quyền lợi của mình. Họ thường tìm các biện pháp để thu hồi nợ, theo họ làm
như vậy dễ dàng hơn, còn nếu họ nộp đơn yêu cầu phá sản vừa tốn thời gian lại có
khi không thể đòi được nợ vì tài sản của một doanh nghiệp mắc nợ là rất ít trong khi
38
chủ nợ lại rất nhiều.
2.2. Thủ tục giải quyết phá sản còn kéo dài
Ngoài lý do về tính khả thi của pháp luật phá sản chưa cao thì khi tiến hành một
vụ phá sản các bên có liên quan (doanh nghiệp vỡ nợ, chủ nợ, Toà án) thực thi các
bước theo luật phá sản một cách chậm chạp, bất hợp tác dẫn đến thời gian giải quyết
một vụ phá sản ở nước ta thường kéo dài ít nhất là một năm thay vì từ bốn đến sáu
tháng như dự kiến của pháp luật.
Vụ công ty Tamexco ở TP. Hồ Chí Minh kể từ khi nộp đơn đến khi được toà
tuyên bố phá sản mất hơn 3 năm. Điều đó làm nản lòng các đối tượng có liên quan
như chủ nợ, người lao động, thậm chí cả các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như
Toà án.
Một trong những lý do chính dẫn đến sự chậm trễ này là do yếu kém trong chế
độ thực hiện tài chính doanh nghiệp. Hiện nay các quy định của pháp luật về kiểm
toán rất đa dạng và liên quan đến việc kiểm toán khi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản ít nhất có những văn bản sau: Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994
hướng dẫn thực hiện Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 (Điều 11); Luật Doanh
nghiệp nhà nước năm 2003 (Điều 89); Luật Doanh nghiệp 1999 (Điều 92); Nghị
định 105/2004/NĐ- CP ngày 30/3/2004 về kiểm toán độc lập (Điều 10), đều có nội
dung là báo cáo hàng năm của các công ty, doanh nghiệp phải được kiểm toán. Do
vậy, việc áp dụng các văn bản đó như thế nào cho thống nhất là khó khăn thường
xảy ra trong thực tiễn thi hành, chẳng hạn:
Điểm a khoản 4 điều 15 Luật Phá sản năm 2004 quy định: “báo cáo tình hình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã , trong đó giải trình nguyên
nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu doanh
nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài
chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập”, trong khi khoản 2 Điều 4 LPS 2004
quy định: “trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật phá sản và
39
quy định của luật khác về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của Luật phá sản”.
Tuy nhiên, áp dụng quy định này, các Toà án địa phương khi nhận đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản (không phân biệt thành phần kinh tế) đều yêu cầu phải có kèm
theo báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp đã được kiểm toán, nếu có thì
mới thụ lý giải quyết, nếu báo cáo tài chính chưa có kiểm toán thì trả lại đơn, vì vậy
thời gian thụ lý, giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thường kéo dài do phải chờ
kiểm toán. Điều này dẫn đến hậu qủa là các giao dịch được thực hiện trong thời gian
03 tháng trước ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu
theo khoản 1 điều 43 Luật Phá sản năm 2004.
2.3. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không nộp
đơn yêu cầu phá sản vì các quy định trong Luật phá sản năm 2004 vẫn chưa cụ thể
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp biết rõ mình đang lâm vào tình trạng phá sản
mà không “chịu” nộp đơn yêu cầu phá sản. Đây cũng là nguyên nhân chính giải
thích cho việc số lượng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản là rất ít.
Ngoài hình thức phá sản ra các doanh nghiệp còn có thể chọn cho mình con
đường khác là giải thể hoặc bỏ không. So với phá sản, giải thể là biện pháp chấm
dứt hoạt động công ty một cách nhanh gọn hơn nữa giám đốc của công ty tiến hành
giải thể vẫn có thể tiếp tục thành lập doanh nghiệp hoặc đứng ra điều hành công ty
khác còn nếu chọn hình thức phá sản thì không. Nhiều công ty thì lại chọn biện pháp an
toàn là “không hành động gì cả”. Thí dụ như Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng
nông lâm nghiệp đã bị mất khả năng thanh toán từ năm 2004 đến nay vẫn chưa tuyên
bố phá sản. Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng nông lâm nghiệp là công ty thuộc Sở
nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội có 9 xí nghiệp thành viên, 5 chi nhánh trực
thuộc tại các tỉnh và 5 phòng chức năng, nghiệp vụ. Trong một thời gian ngắn đã dính
đến hai vụ hình sự đến nay chỉ còn công ty chỉ còn lại một toà nhà tại số 01 ngõ 1002
đường Láng, quận Đống Đa, Hà Nội và hai nhân viên bảo vệ cùng với một số chức
trách chủ chốt khác. Đối với một số doanh nghiệp của người nước ngoài làm ăn tại Việt
Nam lại chốn chạy về nước khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Có thể kể ra hai doanh
nghiệp Công ty TNHH Giày Anjin và Công ty TNHH Vina Haeng Woon Industry (tại
40
TP. Hồ Chí Minh) do các doanh nhân Hàn Quốc quản lý đã bỏ chạy khi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản đẩy hàng trăm lao động Việt Nam vào tình trạng thất
nghiệp, không thanh toán lương và bảo hiểm.
3. Nguyên nhân bất cập trong quá trình thực hiện Luật phá sản năm 2004
Luật phá sản năm 2004 ra đời đã được điều chỉnh nhiều so với Luật phá sản
doanh nghiệp năm 1994 nhưng trên thực tế áp dụng luật xảy ra nhiều những khó
khăn, bất cập do những nguyên nhân sau:
3.1 Tính khả thi của luật không cao
Đối với doanh nghiệp khu vực Nhà nước việc phá sản hay không phụ thuộc quá
nhiều vào chủ sở hữu, tức là Bộ hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh là cơ quan chủ quản của
doanh nghiệp. Vì những lý do nào đó, cả lý do của tập thể hay lý do cá nhân của
một số người và cũng không loại trừ khả năng vì nhận thức của một số bộ phận nhà
lãnh đạo doanh nghiệp chưa đúng, vì động cơ thành tích của mình, của thiểu số một
số người mà trì hoãn làm chậm hoặc kéo dài thời gian phá sản doanh nghiệp khi
doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán.
Bản thân doanh nghiệp nếu có muốn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh
nghiệp mà chưa có ý kiến của cơ quan chủ quản cũng không thể được. Hơn nữa,
theo quy định thì chỉ có doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới bị ràng buộc về yêu
cầu mở thủ tục phá sản, còn đối với doanh nghiệp Nhà nước thì nghĩa vụ ấy được
xem như là quyền lợi. Trong bối cảnh hiện nay rõ ràng làm như vậy là tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp trốn tránh phá sản.
Đối với bản thân chủ doanh nghiệp cũng vì những động cơ các nhân khác nhau
mà không báo cáo, nộp đơn xin phá sản khi doanh nghiệp đã mất khả năng thanh
toán nợ. Người ta né tránh trách nhiệm bằng việc về hưu, hoặc chờ sự điều chuyển
đến nơi công tác mới, những người khác thay thế họ sẽ là những người phải giải
quyết hậu quả mà lỗi đáng lẽ thuộc về mình. Nhiều trường hợp khi doanh nghiệp
đưa đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến Toà án thì doanh nghiệp chỉ còn nhà, tài
khoản trống trơn hoặc còn không đáng kể, chỉ còn lại mấy nhân viên bảo vệ trông
41
nom khuyên viên, còn công nhân thì đã bỏ đi kiếm sống từ lâu.
Thêm một lý do nữa là chi phí cơ hội cho một vụ phá sản đối với doanh nghiệp
là quá lớn so với lợi ích mà doanh nghiệp nhận được. Cái lợi lớn nhất ở đây là sau
khi được tuyên bố phá sản doanh nghiệp sẽ không còn lo lắng phải trả nợ nữa (trừ
doanh nghiệp tư nhân), đối với doanh nghiệp có khả năng phục hồi thì được tạo cơ
hội để chạy chữa và hoạt động trở lại. Trong khi đó, đổi lại những lợi ích trên thì
doanh nghiệp phải đối mặt với không ít phiền phức. Ngoài việc phải làm sáu loại
báo cáo khác nhau cho toà, doanh nghiệp phải tốn tiền tạm ứng chi phí phá sản và
mất thời gian. Nếu làm trôi chảy thì chỉ riêng giai đoạn từ khi mở thủ tục phá sản
đến khi mở thủ tục thanh lý tài sản đã mất ít nhất là sáu tháng. Nhưng trên thực tế
các vụ phá sản thành công cũng phải mất ít nhất là hơn một năm. Thêm vào đó, theo
quy định thì chủ doanh nghiệp phá sản và những người quản lý doanh nghiệp sẽ bị
toà ra quyết định không được thành lập doanh nghiệp và cấm đảm nhiệm các chức
vụ quản lý doanh nghiệp từ một đến ba năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản. Quy định này cũng đã làm ảnh hưởng đến tâm lý không muốn nộp đơn yêu
cầu phá sản của các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản.
Đối với các chủ nợ cũng không mặn mà gì đối với việc đưa đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản đối với con nợ của mình. Nguyên nhân là do theo quy định thì một
doanh nghiệp khi mở thủ tục phá sản bắt buộc phải thông báo công khai cho các tất
cả các chủ nợ biết. Từ đây các chủ nợ nảy sinh tâm lý ngăn cản các chủ nợ tìm đến
toà bằng con đường nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản: nếu nộp đơn thì dễ bị vỡ lở
chuyện doanh nghiệp sắp phá sản và các con nợ ùn ùn kéo đến thì quyền lợi của bản
thân chủ nợ chưa chắc đã đến lượt nên thà cứ im lặng tìm biện pháp để đòi nợ hoặc
kiện bằng một vụ kiện riêng biệt thì còn có khả năng thu hồi.
3.2 Văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn chậm
Các văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn chậm, nội dung hướng dẫn chưa phù
hợp với thực tế hoặc quá khái quát, làm cho người nghiên cứu áp dụng pháp luật
gặp nhiều khó khăn. Thí dụ như Luật phá sản năm 2004 được thông qua ngày
15/6/2004 có hiệu lục từ ngày 15/10/2004 nhưng đến ngày 11/7/2006 Chính phủ
42
mới có Nghị định hướng dẫn về hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản dẫn đến
tâm lý chờ đợi, sợ sai không dám làm, và đó cũng là nguyên nhân chính để cả năm
2005 ngành Toà án cả nước mới chỉ giải quyết được một vụ phá sản.
Cho đến nay, để thực hiện LPS năm 2004 đã có những văn bản dưới luật được
ban hành:
+ Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC/KHXX ngày 27-4-2005 của Chánh án
Toà án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Tổ thẩm phán phụ trách tiến hành
thủ tục phá sản.
+ Nghị quyết số 03/2005/NĐ-HĐTP ngày 28-4-2005 của Hội đồng thẩm phán
Toàn án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản.
+ Nghị định số 94/2005/NĐ-CP ngày 11-7-2006 của Chính phủ hướng dẫn việc
áp dụng Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của Tổ
quản lý, thanh lý tài sản.
+ Thông tư liên tịch số 19/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 19-02-2008 của liên Bộ
Tài chính - Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết đoán kinh
phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Bên cạnh đó, còn nhiều văn bản vẫn đang trong quá trình nghiên cứu. Ví dụ như
văn bản hướng dẫn Luật Phá sản việc thu hồi xử lý tài sản một cách cụ thể cho phù
hợp với tính chất đặc thù của việc phá sản vì nó khác về căn bản khi xử lý tài sản
thế chấp, tài sản kê biên để bảo đảm thi hành án dân sự đối với cá nhân, hộ gia đình,
hoặc doanh nghiệp không lâm vào tình trạng phá sản vẫn chưa động tĩnh xây dựng.
II. Áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội
1. Thực tiễn áp dụng các quy định về giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá
sản các doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội và những vấn đề đặt ra.
TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là hai thành phố có lượng các doanh nghiệp,
hợp tác xã tập trung lớn nhất cả nước. Điều này cũng đồng nghĩa với việc số vụ phá
43
sản ở hai thành phố này cũng lớn hơn rất nhiều so với các tỉnh, thành khác. Dưới
đây là bảng thống kê cho biết số vụ phá sản ở thành phố Hà Nội từ năm 1993 đến
năm 2006 (bảng 2).
Bảng 2 : Số vụ phá sản tại TP. Hà Nội từ 1/1/1993 đến 31/12/2006
Năm Số vụ thụ lý Số vụ giải quyết
1993-2004 3 3
2005 3 3
2006 8 8
Nguồn: Theo Toà án nhân dân TP. Hà Nội
Theo báo cáo của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, từ năm 1994 đến cuối
năm 2004, số vụ phá sản doanh nghiệp mà Toà phải thụ lý và giải quyết là 03 vụ.
Trong năm 2005, thụ lý giải quyết: 03 vụ, từ đầu năm 2006 đến tháng 11/2006 thụ
lý và giải quyết 08 vụ. Như vậy, từ ngày Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến
tháng 11/2006, tổng số vụ phá sản mà Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý và
phải giải quyết là 11 vụ. Tăng gần 36,6% so với 10 năm áp dụng LPSDN 1993.
Số vụ phá sản ít không chứng minh được hầu hết các doanh nghiệp ở Hà Nội
đều làm ăn hiệu quả mà con số này cho thấy LPS 2004 còn chưa đi vào thực tế cuộc
sống của doanh nghiệp. Nhiều trường hợp làm ăn thua lỗ đã lâu nhưng không chịu
làm đơn mở thủ tục phá sản chỉ đến khi bị “ép” phá sản thì mới gửi đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản. Người viết sẽ phân tích hai trường hợp phá sản: một là của công ty
nhà nước và một là của công ty tư nhân để minh chứng cho điều kết luận trên.
Vụ phá sản của Công ty Phát triển nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ Sóc Sơn:
Công ty Phát triển nông lâm ngư và dịch vụ Sóc Sơn là một công ty nhà nước
nhưng làm ăn không hiệu quả. Tháng 11/2001 Công ty bị khởi tố về vụ chiếm đoạt
7 tỷ đồng cùng với Công ty TNHH chế biến tinh dầu (Hà Tĩnh) tiền hoàn thuế.
Giám đốc và kế toán của hai công ty này đã kí khống các giấy tờ nhằm chiếm đoạt
44
hàng tỷ đồng của Nhà nước. Khi vụ việc bị vỡ lở, Giám đốc Nguyễn Văn Phương,
Trưởng phòng Kế hoạch Nguyễn Thái Hoà, kế toán trưởng Đàm Quang Khánh đã
ra tự thú, khai nhận toàn bộ sự việc và nộp lại toàn bộ số tiền đã nhận của Nguyễn
Viết Thìn (Giám đốc Công ty TNHH chế biến tinh dầu).
Đây là một vụ chiếm đoạt hoàn thuế VAT đầu tiên với số tiền lớn. Và sau vụ
việc này việc làm ăn của Công ty Phát triển nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ Sóc
Sơn càng đi vào bế tắc. Đến tháng 8/2003 TP. Hà Nội đã đưa Công ty Phát triển
nông lâm ngư và dịch vụ Sóc Sơn ra Hội đồng giải thể nhưng không rõ vì lý do gì
Công ty vẫn chưa được giải thể. Và mãi đến 25/4/2007 Uỷ ban Nhân dân TP. Hà
Nội đã mở thủ tục phá sản đối với công ty này do chính sách cơ cấu lại một số công
ty Nhà nước của Uỷ ban Nhân dân TP. Hà Nội.
Như vậy việc làm ăn thua lỗ ở Công ty Phát triển nông lâm ngư và dịch vụ Sóc
Sơn đã kéo dài tới 5 năm mới được tuyên bố phá sản. Nguyên nhân của tình trạng
này là do sự chậm trễ và thiếu thống nhất của các cơ quan chức năng có liên quan
đến việc làm thủ tục xin phá sản. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để xoá bỏ sự
chậm trễ này?
Vụ phá sản của Công ty TNHH Đèn hình Orion-Hanel:
Tháng 2/2003 Công ty TNHH Đèn hình Orion-Hanel được Sở Kế hoạch và Đầu
tư Hà Nội cấp giấy đăng kí kinh doanh. Công ty Orion-Hanel là công ty liên doanh
giữa Công ty điện tử Hanel và Công ty Orion của Hàn Quốc với số vốn đầu tư lên
đến trên 178 triệu USD chuyên sản xuất đèn hình và phụ kiện cho tivi và máy tính.
Sau 11 năm hoạt động và dẫn đầu trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại
Hà Nội, ngày 16/10/2004, Công ty Orion Hanel đã khánh thành nhà máy sản xuất
đèn hình màu thứ hai tại Khu công nghiệp Sài Đồng B (Hà Nội). Nhưng hoạt động
của cơ sở hai này không đem lại hiệu quả. Cùng thời điểm đó, thị trường ti vi đã
xuất hiện sự thoái trào của công nghệ sản xuất đèn hình màu, với sự thay thế của
dòng LCD và Plasma, khiến khó khăn của Orion Hanel tăng thêm bội phần. Tiêu
cực khách quan cùng với những khó khăn nội tại đã buộc Công ty phải ngừng sản
45
xuất từ tháng 9/2007.
Đến tháng 1/2008, Công ty đã hoạt động trở lại một dây chuyền. Nhưng hoạt
động nhỏ lẻ này chỉ cầm cự được tiếp 3 tháng và đến tháng 4/2008, toàn bộ hoạt
động sản xuất bị dừng lại, công nhân tại nhà máy đều được nghỉ vô thời hạn. Điều
này có nghĩa là gần 2500 nhân công bị thất nghiệp, trong đó còn có nhiều lao động
chưa được nhận lương.
Đến tháng 12/2008, Công ty còn 822 hợp đồng lao động dài hạn, nhưng trong đó
chỉ có hơn 30 người ở vị trí chủ chốt tiếp tục làm việc và được nhận lương. Và cuối
tháng 12 Công ty Điện tử Hanel đã đệ đơn xin phá sản tới Toà án Nhân dân TP. Hà
Nội.
Thực tế, tình trạng sa sút của Công ty đã rõ nét từ năm 2006 khi doanh thu của
Công ty giảm sút mạnh nhiều lao động trình độ cao đã bỏ về nước. Tình trạng này
kéo dài và trở nên nghiêm trọng khi tháng 9/2007 Công ty phải đóng cửa sản xuất
nhưng mãi đến tháng 12/2008 Công ty mới đệ đơn xin phá sản.
Từ vụ việc của Công ty Orion Hanel ta thấy nguyên nhân của sự kéo dài ngày
trình đơn phá sản là do các thành viên trong công ty đã cố gắng khắc phục sai lầm
và duy trì sản xuất nhưng không thành công bởi lý do đơn giản là công nghệ sản
xuất bong đèn đã trở nên lỗi thời. Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để duy trì sản
xuất đi đôi với đổi mới công nghệ? Và vấn đề giải quyết hậu quả về tình trạng lao
động thất nghiệp khi doanh nghiệp đó phá sản?
Nhìn tổng thể, tính đến hết tháng 12 năm 2008, Hà Nội có 74.029 doanh nghiệp
đang hoạt động, trong đó có 95% doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tỷ lệ các doanh nghiệp
trong tình trạng phá sản còn có thể cao hơn nữa trong thời kỳ suy thoái kinh tế như
hiện nay. Vậy vấn đề đặt ra là tại sao nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ lại không
yêu cầu mở thủ tục phá sản mà lại chọn con đường khác như giải thể hoặc bỏ
không. Đó là do những quy định của LPS 2004 vẫn còn tỏ ra bất cập, khó thực thi.
Điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp không chọn con đường phá sản khi doanh
46
nghiệp đang rơi vào tình trạng vỡ nợ.
2. Thực tiễn thực hiện quy trình và thủ tục phá sản và những vấn đề đặt ra
2.1. Vướng mắc trong trường hợp không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp
và của chủ doanh nghiệp (con nợ) khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập tại TP. Hà Nội nhưng hoạt
động được một thời gian thì “mất tích”, nghĩa là theo địa chỉ đăng ký kinh doanh
của doanh nghiệp thì doanh nghiệp không còn hoạt động vì đã chuyển trụ sở đi nơi
khác mà không để lại địa chỉ mới. Đây là một hiện tượng thường thấy ở các doanh
nghiệp đi thuê trụ sở trên địa bàn TP. Hà Nội. Do vậy, khi có chủ nợ làm đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó thì Toà án không xác định được trụ
sở doanh nghiệp. Mặt khác, việc xác minh nơi cư trú hoặc nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú của các thành viên công ty đều không thực hiện được. Trong những
trường hợp như vậy, vừa rất khó xác định thẩm quyền giải quyết yêu cầu mở thủ tục
phá sản của Toà án nhân dân và vừa không đủ điều kiện để Toà án thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản.
Khi giải quyết các vụ phá sản, sự vắng mặt của chủ doanh nghiệp đã gây cho các
cấp Tòa án không ít khó khăn đó là trường hợp người lao động hoặc chủ nợ đưa đơn
yêu cầu Tòa án mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo các Điều 13 và Điều
14 LPS 2004 nhưng không xác định được địa chỉ của chủ doanh nghiệp, không biết
chủ doanh nghiệp ở đâu dù đã xác minh tại trụ sở của doanh nghiệp, tại địa bàn nơi
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, hoặc tại nơi đăng ký hộ khẩu trường trú. Có
trường hợp chủ doanh nghiệp là người nước ngoài sau khi kinh doanh thua lỗ bỏ về
nước, khi nhận được giấy của Tòa án nhưng cũng không đến Việt Nam để giải
quyết hoặc đặt điều kiện chỉ đến Việt Nam khi phía Việt Nam bảo đảm cho họ được
rời Việt Nam bất cứ lúc nào họ muốn. Không ai giám bảo đảm và Tòa án thường rất
lúng túng khi gặp tình huống này với sức ép của người lao động và của các chủ nợ
đòi hỏi Tòa án mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp để bảo đảm quyền lợi của
47
họ nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể.
2.2. Chưa có tiêu chí cụ thể về điều kiện thụ lý đơn và ra quyết định mở hay
không mở thủ tục phá sản
Quy định tại Điều 3 của LPS 2004: doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán
được các khoản nợ đến hạn khi có chủ nợ yêu cầu thì bị coi là lâm vào tình trạng
phá sản. Nhưng trên thực tế chưa có một tiêu chí hướng dẫn cụ thể nào điều khoản
này nên dẫn đến việc số doanh nghiệp khi căn cứ vào điều luật này đã “lạm dụng”
quyền nộp đơn nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, danh dự của công ty. Bởi vì,
trong hoạt động kinh doanh các công ty thường xuyên có những khoản nợ đến hạn,
nhưng do nhiều lý do khác nhau họ chưa trả nợ ngay mà bị các chủ nợ quy kết là
“lâm vào tình trạng phá sản”. Trên thực tế, Toà kinh tế thành phố Hà Nội đã nhận
được một số đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ở dạng tương tự như trên. Có chủ nợ
nộp đơn yêu cầu phá sản đối với doanh nghiệp khi số nợ chỉ là vài chục triệu đồng
(rất nhỏ so với tổng số vốn của doanh nghiệp đó). Nhưng theo quy định, Toà án Hà
Nội vẫn phải thụ lý đơn yêu cầu này.
2.3. Những quy định về Thẩm phán phụ trách việc giải quyết phá sản còn tỏ ra
không sát với thực tế.
2.3.1. Tổ Thẩm phán làm việc quá tải
Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao có hướng dẫn các trường hợp cần phải do Tổ Thẩm phán
gồm 3 người tiến hành thủ tục phá sản, trong đó có các trường hợp sau: Cần giải
quyết tranh chấp về khoản nợ; Tuyên bố giao dịch là vô hiệu; Giải quyết tiếp vụ án
mà doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản là đương sự trong vụ án đó; Doanh
nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản có bất động sản, có nhiều chủ nợ hoặc người
mắc nợ tại nhiều tỉnh khác nhau hoặc ở nước ngoài.
Thông thường vụ phá sản nào cũng có tranh chấp về khoản nợ có thể là nợ phải
trả cho chủ nợ có thể là nợ phải thu từ người mắc nợ. Mỗi vụ phá sản đều có nhiều
người tham gia và vì vậy, chắc chắn sẽ có những chủ nợ hoặc người mắc nợ ở nhiều
48
tỉnh khác. Nếu áp dụng đúng quy định của Nghị quyết 03 của Hội đồng Thẩm phán
thì hầu như vụ phá sản nào cũng phải do Tổ Thẩm phán gồm ba người tiến hành,
quy định này đòi hỏi các Toà án địa phương, nhất là nơi có những vụ phá sản phức
tạp như trên phải có nhiều Thẩm phán.
Ở Toà kinh tế TP. Hà Nội chỉ có 6 thẩm phán và nếu thành lập thì được 02 Tổ,
trong khi số vụ phá sản mà Toà kinh tế TP Hà Nội thụ lý từ ngày LPS 2004 có hiệu
lực đến cho đến hết năm 2006 là 11 vụ. Thực hiện quy định này thì mỗi Thẩm phán
phải tham gia giải quyết hơn 6 vụ, nhưng thực tiễn các vụ giải quyết phá sản tại TP.
Hà Nội cho đến nay chỉ có 01 Thẩm phán tiến hành, kể cả những vụ phá sản có
những dấu hiệu như quy định tại Nghị quyết 03.
2.3.2. Luật quy định chưa rõ về thẩm quyền của Thẩm phán trong việc ra
quyết định bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục
thanh lý
Điều 8 LPS 2004 khi xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tiến hành
thủ tục phá sản không quy định thẩm phán có quyền ra quyết định bán đấu giá tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý, nhưng theo điểm h
khoản 1 điều 10 LPS 2004 thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản có nhiệm vụ, quyền hạn
“thi hành quyết định bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng
thủ tục thanh lý”. Trên thực tế, ở Hà Nội đã có những vụ phá sản không thực hiện
được vấn đề này do cơ quan bán đấu giá không thực hiện việc bán tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản với lý do chưa có quyết định của thẩm
phán về bán đấu giá tài sản nhưng khi đề cập đến vấn đề này, thẩm phán cũng cho
rằng không có đủ căn cứ pháp lý để ra quyết định bán đấu giá tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý vì tại Điều 8 Luật Phá sản không quy
định trực tiếp cho thẩm phán, mặt khác Quyết định số 01 ngày 27/4/2005 của Toà
án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Tổ thẩm phán cũng không đề cập đến
49
vấn đề này.
2.4. Những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
LPS 2004 đã quy định một số nghĩa vụ, quyền hạn cho Tổ quản lý, thanh lý tài
sản, song thực tế cho thấy Tổ quản lý, thanh lý tài sản gần như chỉ có chức năng
giúp việc cho Thẩm phán (hầu hết các hành vi định đoạt tài sản phá sản đều do
Thẩm phán quyết định). Tổ quản lý, thanh lý tài sản không có quyền điều hành,
quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không có quyền trực tiếp quản lý
các tài sản của doanh nghiệp. Mặt khác, do một số quy định của pháp luật chưa đầy
đủ và cụ thể, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ đều là
nguyên nhân dẫn đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản trên thực tế còn
kém hiệu quả. Cụ thể là:
2.4.1. Chậm trễ trong việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Theo quy định của LPS 2004, đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá
sản thì Toà án ra ngay quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Tại khoản 1
Điều 16 Nghị 67 quy định cụ thể hơn việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản:
“Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Thẩm phán,
các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Tổ quản
lý, thanh lý tài sản”. Nhưng thực tế, việc phối hợp giữa Toà án và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân liên quan thường bị chậm trễ do không cử người tham gia Tổ quản lý,
thanh lý tài sản. Tình trạng này đã dẫn đến việc không kịp thời thành lập Tổ quản
lý, thanh lý tài sản nên đã tạo “kẽ hở” cho doanh nghiệp tẩu tán tài sản. Việc chậm
thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản còn dẫn đến tình trạng sau khi các chủ nợ biết
được thông tin doanh nghiệp đã bị Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản nên đã
đến doanh nghiệp thực hiện việc siết nợ, thu tài sản của doanh nghiệp trái pháp luật
mà chủ doanh nghiệp bị phá sản không thể ngăn chặn được.
2.4.2. Chất lượng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chưa đáp ứng yêu cầu
Tổ quản lý, thanh lý tài sản được thành lập với thành phần bao gồm: 01 Chấp
hành viên làm tổ trưởng, 01 cán bộ Tòa án, 01 đại diện chủ nợ, 01 đại diện hợp
50
pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản, trường hợp cần thiết phải
có 01 đại diện của công đoàn, người lao động và các cơ quan chuyên môn. Cơ cấu
thành phần là vậy, nhưng trong thực tế thực hiện thì hoạt động của Tổ quản lý,
thanh lý tài sản phụ thuộc chủ yếu vào Chấp hành viên.
Thực tế cũng cho thấy hoạt động của các thành viên trong Tổ quản lý, thanh lý
tài sản chưa thật đều tay. Trước đây, theo LPSDN 1993, Tổ trưởng Tổ quản lý tài
sản là cán bộ Toà án, là thư ký giúp việc cho Thẩm phán phụ trách việc thực hiện
phá sản thì toàn bộ công việc như mời con nợ, chủ nợ lên đối chiếu công nợ, lập
danh sách chủ nợ, người mắc nợ do Thẩm phán thực hiện. Thư ký Toà án được chỉ
định làm Tổ trưởng Tổ quản lý tài sản được Thẩm phán hướng dẫn trực tiếp, đôn
đốc nhắc nhở nên công việc thực hiện nhanh và khá hiệu qủa. Nay LPS 2004 quy
định những nhiệm vụ này do Chấp hành viên là Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài
sản thực hiện. Việc chọn Chấp hành viên của cơ quan Thi hành án làm Tổ trưởng
được thực hiện bằng quy định phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Tòa án với các cơ
quan liên quan. Do đó, việc giao cho Chấp hành viên của cơ quan Thi hành án làm
Tổ trưởng là phù hợp, bảo đảm tính chuyên nghiệp trong hoạt động này và không làm tăng biên chế trong tổ chức, bộ máy của các cơ quan Nhà nước”11.
Tuy nhiên, trên thực tế sự điều chỉnh này phát sinh nhiều bất cập dẫn đến việc
thực hiện các nhiệm vụ này không dễ dàng vì Chấp hành viên Cơ quan Thi hành án
dân sự chỉ với kiến thức chuyên sâu về pháp luật nhưng lại phải đảm nhiệm cả
những công việc nằm ngoài khả năng chuyên môn của mình. Mặt khác, do Chấp
hành viên không có điều kiện, cơ sở để xác định hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, xác định những khoản thu chi nào của doanh nghiệp là hợp pháp, hợp lệ và
chuẩn mực để xác định việc “có lợi hơn cho doanh nghiệp, hợp tác xã ” cũng thật sự
khó thực hiện. Chẳng hạn, trong thực tế những tình trạng sau đây thường xảy ra:
Về nguyên tắc Chấp hành viên phải chủ động lên kế hoạch thực hiện nhưng
Chấp hành viên chưa thực hiện được điều này dẫn đến hậu qủa là công việc thực
11 PSG.TS. Dương Đăng Huệ (2004), “Một số ý kiến về dự thảo luật phá sản sửa đổi”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 01, tr 18-24.
51
hiện thụ động, chậm trễ và không thống nhất cách làm.
+ Có trường hợp Chấp hành viên trực tiếp gửi giấy mời các chủ nợ có đơn yêu
cầu đòi nợ đến trụ sở cơ quan thi hành án để đối chiếu công nợ, nhưng có trường
hợp do Chấp hành viên chưa quen với công việc nên ký giấy triệu tập và cán bộ Toà
án gửi giấy triệu tập các chủ nợ và người mắc nợ đến cơ quan thi hành án đối chiếu
công nợ và như vậy biên bản đối chiếu công nợ do Toà án lập.
+ Chấp hành viên không tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ: lập danh
sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ, lập bảng kê tài sản, kiểm tra và giám sát hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản
cũng như thi hành các quyết định khác của Thẩm phán, dẫn đến việc giải quyết phá
sản không đạt hiệu qủa, kéo dài.
+ Việc thực hiện giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã (Điều 30, Luật Phá sản 2004); việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án ra quyết
định đình chỉ thực hiện hợp đồng nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng
đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa thực hiện sẽ có lợi hơn cho
doanh nghiệp (Điều 45, Luật Phá sản 2004)… của Chấp hành viên đều có sự lúng
túng và chưa chuẩn xác.
2.4.3. Thiếu sự ràng buộc trách nhiệm của Chấp hành viên và Tổ quản lý,
thanh lý tài sản trong quá trình hoạt động
Điều 32 Nghị định 67 quy định Tổ quản lý, thanh lý tài sản chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong các trường hợp “lập bảng kê tài sản không đúng tình hình
thực tế; lập danh sách chủ nợ, người mắc nợ sai sự thật; không phát hiện và không
đề nghị thẩm phán ra quyết định thu hồi lại tài sản đã bán hoặc chuyển giao bất
hợp pháp quy định tại khoản 1 điều 43 của Luật Phá sản”. Thiết nghĩ, việc ràng
buộc trách nhiệm là cần thiết nhưng những quy định như trên hoàn toàn không khả
thi khi không có một cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Chấp hành viên và Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Các thành viên của Tổ quản lý,
thanh lý tài sản đều không có đủ cơ sở, điều kiện để xác định những thông tin nêu
trên. Tất cả đều phụ thuộc vào tài liệu, thông tin do doanh nghiệp cung cấp. Nếu
52
không có một tổ chức trung gian chuyên ngành như cơ quan kiểm toán hoặc cơ
quan có thẩm định giá thì hoạt động của Tổ sẽ không đáp ứng được yêu cầu tại Luật
Phá sản và các văn bản liên quan.
2.4.4. Các quy định về sự phối hợp giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản với Thẩm
phán, Chấp hành viên chưa rõ
Khi tiến hành thủ tục phá sản, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ quản lý, thanh lý tài
sản rất quan trọng, công việc của Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trôi chảy thì Thẩm
phán mới tiến hành tổ chức Hội nghị chủ nợ để xem xét ra quyết định phục hồi hoạt
động kinh doanh hoặc quyết định thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã một
cách kịp thời, chính xác, đúng qui định pháp luật. Thực tiễn tại các địa phương, do
chưa có sự phối hợp giữa Thẩm phán và Chấp hành viên nên việc thực hiện chưa
thật tốt, chưa thống nhất, còn nhiều vướng mắc.
Thứ nhất, theo quy định của Luật Phá sản thì Tổ quản lý thanh lý tài sản gồm:
một chấp hành viên; một cán bộ Tòa án; một đại diện chủ nợ; đại diện hợp pháp của
doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản. Trường hợp cần thiết có đại diện
của công đoàn, đại diện người lao động. Tổ quản lý, thanh lý tài sản làm việc dưới
sự điều hành của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản và chịu sự giám sát của
Thẩm phán.
Nhìn vào quy định này đã thấy tính thực tế bị hạn chế rất nhiều. Thẩm phán, cán
bộ Tòa án, chấp hành viên đã rất nhiều việc phải làm; kinh nghiệm cho thấy ở địa
phương nào có nhiều vụ phá sản đưa đến Tòa án giải quyết thì ở địa phương đó
cũng rất nhiều các vụ việc tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại, và hình sự.
Các cán bộ nói trên đâu chỉ theo đuổi một vụ giải quyết phá sản kéo dài hàng năm
trời khi mà áp lực công việc khác rất nhiều đang đè nặng lên họ, nên việc giải quyết
phá sản dù không thể xem nhẹ nhưng cũng không được coi là cấp bách. Những
thành viên khác như đại diện chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá
sản, đại diện công đoàn, công nhân càng hạn chế nhiều bởi họ còn phải lo cho cuộc
sống thiết thực hàng ngày. Chung cuộc tiến độ việc phá sản phụ thuộc chủ yếu vào
53
hoạt động của tổ trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản là chấp hành viên.
Theo quy định tại điều 10 và Điều 11 Luật Phá sản, thì tổ quản lý thanh lý tài
sản và tổ trưởng chịu trách nhiệm thi hành các quyết định của Thẩm phán và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Điều
21 Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ quy định: “Tổ
trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản vẫn sinh hoạt chuyên môn tại cơ quan Thi hành án
và chịu trách nhiệm chuyên môn trước thủ trưởng cơ quan thi hành án, chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động của tổ quản lý thanh lý tài sản trước thẩm phán”. Giữa
Thẩm phán và Tổ trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản không có sự ràng buộc nào về
mặt quản lý, nên việc chỉ đạo của thẩm phán rất khó khăn nghĩa là sẽ có tình trạng
anh nói thì anh cứ nói, tôi làm hay không là quyền của tôi. Tóm lại, quy định như
Luật phá sản hiện nay những người chịu trách nhiệm giải quyết công việc phá sản,
kể cả Thẩm phán và Tổ quản lý thanh lý tài sản khó mà toàn tâm, toàn ý cho công
việc phá sản được. Điều đáng quan tâm là có trường hợp thẩm phán yêu cầu tổ
trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản thực hiện một công việc cụ thể nào đó, nhưng tổ
trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản không thực hiện được vì trưởng phòng thi hành án
là thủ trưởng trực tiếp không đồng ý cho đi làm. Vì lý do: còn quá nhiều công việc
khác cần thiết và cấp bách hơn. Việc đã ít nhưng việc giải quyết lại kéo dài có vụ
kéo dài đã hơn 2 năm hiện nay vẫn chưa kết thúc được việc thanh lý tài sản.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 6, Điều 20 Nghị định 67/2006/NĐ-CP thì Tổ
trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền sử dụng con dấu của Tòa án trong quá
trình quản lý, điều hành hoạt động của Tổ. Trên thực tế, quy định này không khả
thi. Trong hoạt động của mình, Chấp hành viên chỉ có thể sử dụng con dấu của Cơ
quan Thi hành án vì trong các thành viên của Tổ, Chấp hành viên là người của cơ
quan thi hành án được bổ nhiệm theo quy định pháp luật và chữ ký của Chấp hành
viên chỉ được bảo chứng tại Cơ quan Thi hành án. Mặt khác, Điều 20 cũng quy định
Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản được đóng dấu Toà án và dấu cơ quan thi
hành án nhưng lại không nêu rõ loại văn bản nào sẽ đóng dấu Toà án và văn bản
54
nào được đóng dấu của cơ quan thi hành án?
Bên cạnh các vướng mắc về việc vận dụng quy định pháp luật vào hoạt động của
Tổ quản lý, thanh lý tài sản, thì mối quan hệ giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản và
Chấp hành viên - với vai trò Tổ trưởng - còn gặp nhiều vướng mắc cần phải giải
quyết. Thực tế cho thấy kết qủa hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản dùng để
phục vụ hoạt động giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản tại Tòa án. Tuy nhiên, trong
trường hợp có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản thì kết quả hoạt động của Tổ
lại được dùng để phục vụ cho giai đoạn thi hành án dân sự. Do đó việc phân định
trách nhiệm quản lý hồ sơ trong từng giai đoạn sẽ được thực hiện như thế nào?
Thực tế mối quan hệ giữa Chấp hành viên là Tổ trưởng và Thẩm phán trong giải
quyết hồ sơ phá sản doanh nghiệp vẫn chưa có sự phối hợp tốt. Hồ sơ mở thủ tục,
các thông tin thống kê về chủ nợ, người mắc nợ, kê khai tài sản của doanh nghiệp
đều được cung cấp cho Tòa án, trong khi đó Chấp hành viên phải chịu trách nhiệm
về việc điều hành hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản, thực hiện lập danh
sách chủ nợ, người mắc nợ, đối chiếu công nợ, kiểm tra tài sản của doanh nghiệp…
nhưng nguồn thông tin, tài liệu hoàn toàn bị phụ thuộc vào Tòa án. Một số trường
hợp Tổ quản lý, thanh lý tài sản thành lập đã lâu nhưng các thông tin mà doanh
nghiệp bắt buộc phải cung cấp cho Tòa án theo quy định tại điều 50 của Luật Phá
sản vẫn chưa được thực hiện.
Thứ ba, đại diện của Tòa án tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản thường là một
thư ký. Hoạt động của nhân sự này không những phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt
động của Chấp hành viên và còn phụ thuộc vào nhiệm vụ Thư ký tại Tòa án do vậy,
không có sự độc lập. Tổ quản lý, thanh lý tài sản hoạt động dưới sự phụ trách của
chấp hành viên cơ quan thi hành án làm tổ trưởng suốt trong quá trình kể từ khi
Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp đến khi kết
thúc việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Luật Phá sản còn quy định
Chấp hành viên có trách nhiệm báo cáo và phải chịu trách nhiệm trước Thẩm phán
về hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Nhưng theo các quy định hiện hành
thì Chấp hành viên là người được giao tổ chức thi hành những bản án, quyết định đã
có hiệu lực của Tòa án, hoạt động thi hành án độc lập hoàn toàn với hoạt động xét
55
xử. Vì vậy, việc không kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn quy chế phối hợp hoạt
động giữa Cơ quan thi hành án dân sự và Tòa án, quy chế hoạt động của Tổ quản lý,
thanh lý tài sản sẽ kéo dài tình trạng phối hợp chưa tốt như hiện nay.
2.4.5. Về chế độ làm việc, tài liệu hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Do pháp luật chưa có quy định rõ ràng về chế độ làm việc của Tổ quản lý, thanh
lý tài sản nên trong thực tiễn hoạt động, mỗi Tổ trưởng làm việc theo chế độ khác
nhau. Có tổ tự mình làm, có kết qủa sơ bộ rồi mới họp thông báo cho các thành viên
khác trong tổ. Có Chấp hành viên gọi thư ký Toà án sang làm việc bên trụ sở của cơ
quan thi hành án để cùng lập biên bản. Hình thức và nội dung các đối chiếu, xác
minh công nợ cũng chưa có hướng dẫn. Do vậy, đề nghị cần có mẫu hướng dẫn
chung thống nhất về biên bản đối chiếu công nợ.
Theo Điều 51 LPS 2004 thì trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng
báo về quyết định của Toà án về mở thủ tục phá sản, các chủ nợ phải gửi giấy đòi
nợ cho Toà án. Vậy đặt ra câu hỏi là khi Toà án nhận giấy đòi nợ của các chủ nợ thì
Toà án phải gửi giấy đòi nợ đó cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản hay là phải gửi qua
cơ quan thi hành án? Và gửi bản chính hay bản sao? Những vấn đề này chưa được
quy định rõ nên thực tế có trường hợp khi đối chiếu công nợ thì Tổ quản lý, thanh lý
tài sản lại yêu cầu các chủ nợ nộp lại giấy đòi nợ kèm theo chứng từ chứng minh
việc đòi nợ. Theo tôi, cần quy định rõ khi làm việc Tổ quản lý, thanh lý tài sản có
quyền yêu cầu các chủ nợ nộp giấy đòi nợ kèm theo các chứng từ chứng minh việc
đòi nợ.
Ngoài ra, việc lưu giữ các tài liệu, sổ sách liên quan đến hoạt động của Tổ quản
lý, thanh lý tài sản được quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định 67, theo đó, sổ sách
liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lưu giữ tại cơ quan thi
hành án và Toà án do Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản quản lý. Trường hợp
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản và Tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể thì hồ sơ
liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lưu giữ tại Toà án
nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Quy định như vậy là không rõ
ràng, dẫn đến việc khó xác định loại nào do Toà án quản lý, loại nào do cơ quan thi
56
hành án quản lý?
2.4.6. Về chi phí, thù lao cho thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Theo quy định của pháp luật thì Tổ trưởng và các thành viên của Tổ quản lý,
thanh lý tài sản được hưởng thù lao theo quy định của Bộ Tài chính, nhưng đến nay
vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể do vậy, thực tiễn tại các địa phương thực
hiện việc trả thù lao cho thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng không
thống nhất. Một số doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản còn quỹ tiền mặt thì Thẩm
phán tính thù lao là 10.000 đồng/ngày/một người hoặc tính trung bình thời gian làm
việc khoảng 15 ngày/tháng (300.000 đồng/tháng/người). Trường hợp không còn
tiền thì không chi thù lao cho các thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Theo
người viết, để thống nhất thực hiện cần có hướng dẫn cụ thể.
2.5. Về vấn đề thu hồi tài sản phá sản
Về vấn đề này LPS 2004 vẫn chưa quy định ai sẽ có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại quyết định thu hồi tài sản hoặc giải quyết các tranh chấp có liên quan đến
tài sản bị thu hồi. Thủ tục giải quyết khiếu nại và tranh chấp này cũng là vấn đề còn
bỏ ngỏ trong LPS 2004. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng còn thiếu vắng các quy
định về những biện pháp bảo đảm thi hành quyết định thu hồi tài sản của Thẩm
phán, cũng như những quy định cho phép Tổ quản lý, thanh lý tài sản được quyền
áp dụng những biện pháp cưỡng chế đối với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp không
chấp hành quyết định của Toà án. Do đó, việc thi hành quyết định thu hồi tài sản
gặp rất nhiều khó khăn và hiệu quả kém. Việc thu hồi tài sản của các doanh nghiệp
tại TP. Hà Nội còn gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau :
Thứ nhất, các tài sản thường nằm rải rác ở nhiều địa phương khác nhau, trong
khi, công tác quản lý còn yếu kém, khiến việc xác minh còn gặp rất nhiều khó khăn,
chi phí đi lại, giao dịch lớn, trong khi đó tài sản xuống cấp, giảm giá trị (Nhiều
trường hợp, các tài liệu, giấy tờ chứng minh còn bị tẩu tán, cất giấu trái phép). Hiện
nay Luật Phá sản lại chưa quy định về việc uỷ thác thu hồi tài sản trong trường hợp
tài sản của doanh nghiệp bị phân tán nhiều nơi nằm ngoài địa phương đang giải
quyết phá sản. Do vậy, khi tài sản của doanh nghiệp phá sản phân tán ở nhiều nơi
57
thì không ai khác ngoài chính Tổ quản lý, thanh lý tài sản hoặc Thẩm phán phải trực
tiếp đi thu hồi, điều này dẫn đến một thực trạng là các chủ thể đó phải đi lại như
“con thoi” nhiều nơi để thi hành vừa mất thời gian, kéo dài vụ việc vừa làm tăng
những khoản chi phí không đáng có cho việc giải quyết phá sản.
Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đang thụ lý, giải quyết phá sản đối với công
ty may xuất khẩu Thành Công có trụ sở tại quận Đống Đa Hà Nội nhưng ngoài tài
sản tại trụ sở chính thì công ty còn có tài sản tại Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh.
Khi tiến hành giải quyết, Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã trực tiếp đến các địa
phương đó để kiểm kê tài sản nhưng sau khi kiểm kê xong thì không biết giao tài
sản đó cho ai quản lý.
Thứ hai, một số trường hợp doanh nghiệp khi ký hợp đồng làm dịch vụ cho
chính quyền thành phố đã được yêu cầu ứng trước nguồn vật tư, lao động, sau một
thời gian sẽ được hoàn trả, song đến hạn thì phía chính quyền không trả mà doanh
nghiệp cũng không thể “bán” được “dịch vụ” đã làm để đền bù cho khoản chi cho
mình. Đây là một loại quyền về tài sản khó có thể thu hồi trong qúa trình giải quyết
58
phá sản.
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƢỜNG KHẢ NĂNG THỰC THI LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004
I. Dự báo xu hƣớng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ở TP. Hà Nội
trong thời gian tới
Dự báo xu hướng phá sản, hay nói cách khác là dự báo xu hướng các doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trong thời gian tới là một việc cần thiết giúp cho
các cơ quan chức năng có hướng đi đúng trong việc hoạch định chính sách cho
doanh nghiệp.
1. Cơ sở để dự báo
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản, nhưng trong bài khoá luận này người viết sẽ xem xét vấn đề trên cơ sở phân
tích hai yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong giai đoạn
hiện nay. Đó là:
Thứ nhất, gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp
Hà Nội nói riêng sẽ phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt ngay trên sân nhà mà hậu
quả tất yếu là doanh nghiệp kém sẽ bị phá sản nhiều hơn.
Đã hơn hai năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
(ngày 1/1/2007), bên cạnh những cơ hội mà WTO mang lại thì chúng ta còn phải
đối mặt với nhiều thách thức đối với thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói
chung. Thị trường mở cửa dẫn đến cạnh tranh tăng lên làm cho các doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ khó thích ứng. Thêm vào đó, các
doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều vấn đề như: thiếu kỹ năng và kiến thức chuyên
sâu về quản lý, những rào cản thương mại phi thuế quan, vấn đề ngôn ngữ, các vấn
đề về kế cấu hạ tầng khác như đường xá, viễn thông, cung cấp năng lượng, tiêu
chuẩn hoá, tuân thủ các quy định về nhãn mác và xuất xứ, khung khổ luật pháp
minh bạch để bảo vệ và trợ giúp hợp lý bằng pháp luật,…Khó khăn trong tiếp cân
59
vốn từ khu vực tài chính chính thức. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có 32,4%
DNVVN đủ điều kiện để vay từ các ngân hàng chính thức. Do vậy họ phải có được
tài chính từ các nguồn khác để cạnh tranh.
Thứ hai, Tình hình suy thoái kinh tế thế giới sẽ có những tác động tiêu cực đến
doanh nghiệp Hà Nội mà nếu không có giải pháp thì nhiều doanh nghiệp sẽ có nguy
cơ phá sản. Bước sang năm 2009 là năm thứ ba Việt Nam gia nhập Tổ chức thương
mại Thế giới. Theo đánh giá của của các tổ chức và chuyên gia trên thế giới, kinh tế
thế giới đang bước vào một thời kì bất ổn với nhiều thách thức. Xu thế sụt giảm tốc
độ tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục diễn ra và Việt Nam cũng không nằm ngoài
những biến động đó.
Xuất khẩu giảm sút vì thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta là Mỹ và châu
Âu nên khi các thị trường này rơi vào suy thoái và lâm vào khó khăn thì nhu cầu cắt
sẽ giảm sút. Việc giảm sút nhu cầu sẽ làm cho việc xuất khẩu các sản phẩm của ta
vào các thị trường này sẽ ít đi, mà như thế sẽ tác động đến GDP (giảm xuống).
Việc hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và các đối tác nước ngoài – nơi chịu
ảnh hưởng của khủng hoảng - sẽ bị gián đoạn hay ngưng trệ do phía bạn gặp khó
khăn trong tài chính. Điều này tác động xấu đến các dự án đầu tư hay phát triển
trong dài hạn của ta.
Việc Mỹ lâm vào suy thoái làm đồng đô la mất giá trên thị trường quốc tế, việc
này tác động không nhỏ đến xuất khẩu. Vì đồng đô la mất giá nên việc xuất khẩu
không còn lợi nhuận như trước. Qua đó nó làm giảm GDP của nước ta.
Các hợp đồng kinh tế kí kết với đối tác nước ngòai bị ngưng trệ và có thể các
hợp đồng này sẽ không còn được kí kết hoặc thậm chí đã kí kết, doanh nghiệp Hà
Nội đã giao hàng nhưng rủi ro không lấy được tiền hàng là rất cao. Điều này thực sự
gây thất thu cho cả doanh nghiệp và tác động không tốt đến sự phát triển về lâu dài
của nước ta. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tình hình tăng trưởng Quí
I/2009 đạt 3,1% so với cùng kì năm ngoái, mức thấp nhất trong vòng một thập kỉ
qua. . Còn theo Tổng cục Thống kê, giá trị sản xuất công nghiệp cả nước tháng 1-
60
2009 chỉ đạt 50,6 nghìn tỷ đồng, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước và giảm
8,6% so với tháng 1-200812. Mức giảm lớn chủ yếu đối với các sản phẩm công
nghiệp quan trọng như thép, giày dép, quần áo...
2. Con số dự báo
Trước ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, ngày 10/3/2009 Uỷ ban nhân dân Thành
phố Hà Nội đã tiến hành triển khai thực hiện Nghị quyết 30/2008/NQ của Chính
phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng
trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và cảnh báo về phá sản đối với doanh
nghiệp. Là một thành phố phát triển với nhiều loại hình doanh nghiệp nên Thành
phố Hà Nội cũng chịu ảnh hưởng đáng kể từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới. Cuộc
họp của Uỷ ban nhân dân TP. Hà Nội và các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố
ngày 3/3/2009 để tìm “lối đi” cho các doanh nghiệp trong thời kì khủng hoảng. Xuất
khẩu giảm sút, không chỉ hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu công nghiệp lớn của
Hà Nội mà ngay cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lớn ở Hà Nội lâu
nay có thị trường xuất khẩu ổn định đều phải cắt giảm kế hoạch, sản lượng sản xuất,
thiếu việc làm cho người lao động, sức tiêu thụ sản phẩm kém… Tốc độ tăng
trưởng từ sản xuất công nghiệp của Hà Nội đã giảm đi rất nhiều. Trung bình tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 1,2 thường là 5.000 container hàng hoá nhưng năm
nay, doanh thu từ xuất khẩu đã giảm 30%. Nhiều đơn hàng đã ký hợp đồng buộc
phải giãn, hoãn thời gian thực hiện.
Thêm vào đó, thách thức gia nhập WTO đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Hà Nội là rõ rệt vì họ còn có nhiều hạn chế về công nghệ, năng lực quản lý, điều
hành, thiếu vốn và thiếu khả năng tiếm cận với thị trường bên ngoài. Mặt khác số
lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội chiếm đến 95% trong tổng số khoảng
76000 doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Trong một buổi làm việc với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội hôm 18/3/2009 Bộ tài chính đưa ra con số 7.000
12 Website Bộ Ngoại giao Việt Nam: http://www.mofa.gov.vn/vi/tt_baochi/nr041126171753/ns090209152714/view
61
doanh nghiệp công bố giải thể và hơn 3.000 doanh nghiệp khác phải ngừng sản xuất
trong năm 200913. Như vậy cả nước có khoảng 10.000 doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, chiếm 2,86% trong tổng số 349.309 doanh nghiệp có đăng kí kinh
doanh. Còn đối với TP. Hà Nội theo dự doán tỷ lệ này có thể lên tới 3.2% trong thời
gian tới, nghĩa là trong năm nay có khoảng 224 doanh nghiệp có khả năng lâm vào
tình trạng phá sản.
Trước tình hình này, việc tìm ra giải pháp để ngăn ngừa phá sản cũng như khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có cơ hội “tái tạo” là rất quan trọng. Điều
này đòi hỏi bản thân LPS 2004 cần phải tiếp tục được sửa đổi để hoàn thiện nhằm
tăng cường tính thực thi trong thực tiễn.
II. Các giải pháp cụ thể
1. Nhóm giải pháp sửa đổi Luật phá sản năm 2004
1.1. Sửa đổi các quy định về việc nộp đơn, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
và việc mở hoặc không mở thủ tục phá sản
1.1.1. Cho phép chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
LPS 2004 vẫn quy định chỉ có chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một
phần mới có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; các chủ nợ có bảo đảm chưa được quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản14. Việc LPSDN 1993 cũng như
Luật Phá sản 2004 quy định không cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là xuất phát từ quan điểm cho rằng, đối với chủ nợ
có bảo đảm thì lợi ích của họ đã được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố của
doanh nghiệp hay của người thứ ba, vì vậy, việc doanh nghiệp, hợp tác xã có bị
tuyên bố phá sản hay không thì lợi ích của họ vẫn được bảo đảm. Quy định này là
không hợp lý. Đối với doanh nghiệp thì chủ nợ thông thường và chủ yếu vẫn là chủ
nợ có bảo đảm, vì vậy, cần tăng cường vai trò của các chủ nợ có bảo đảm để thủ tục
13 Webiste Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế-Xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư : http://thongtindubao.gov.vn/Default.aspx?mod=News&cat=33&nid=13389. 14 Điều 13, Luật Phá sản Việt Nam năm 2004
62
phá sản có hiệu quả hơn.
Theo pháp luật phá sản của hầu hết các nước, các chủ nợ đều có quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, có quyền quyết định về việc con nợ phục hồi hay bị
thanh lý, kiến nghị Toà án áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản của con
nợ, … Tuy nhiên, trong pháp luật phá sản của các nước, mục đích bảo vệ lợi ích của
chủ nợ được đặt lên coi trọng như Anh, Đức, … thì thủ tục phá sản là một công cụ
chủ yếu để giúp các chủ nợ thu hồi lại tiền. Bên cạnh việc quy định quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, pháp luật có quy định quyền của chủ nợ, kể cả chủ nợ có
bảo đảm đều có thể chỉ định người quản lý tài sản để kiểm soát những tài sản đó.
Theo Giáo sư Yasuhei Taniguchi thì trên thực tế khi các con nợ hoặc các chủ nợ
không có bảo đảm nộp đơn yêu cầu bắt đầu thủ tục phá sản, thì thường là vào những
thời điểm quá muộn, thời điểm mà con nợ hầu như không còn tài sản gì hoặc còn lại
rất ít tài sản. Do đó, luật pháp ở một số nước cho phép cả chủ nợ có bảo đảm cũng có quyền nộp đơn yêu cầu bắt đầu thủ tục phá sản (8)
Thủ tục phá sản cũng chỉ là một phương thức đòi nợ đặc biệt, việc không cho
chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là đã làm mất đi quyền lựa
chọn phương thức đòi nợ của các chủ nợ này.
Các nhà làm luật cần phải nghiên cứu, xem xét một cách kỹ lưỡng có nên quy
định chủ nợ có bảo đảm có được quyền khởi kiện vụ án phá sản hay không? Bởi lẽ
đây là vấn đề còn nhiều điểm chưa rõ ràng: Khi chủ nợ có bảo đảm không thu được
nợ đúng kỳ hạn, họ có quyền thi hành quyền lợi bảo đảm của mình (như bán tài sản
cầm cố). Vậy quyền yêu cầu bắt đầu thủ tục phá sản có quan hệ như thế nào với
quyền này? Tuy nhiên, chúng ta nên thống nhất với nhau một vấn đề đã quá rõ ràng:
các chủ nợ có bảo đảm cần được tham gia vào thủ tục tố tụng phá sản khi thủ tục
phá sản đã được bắt đầu. Do đó, Luật Phá sản nên được sửa đổi theo hướng:
- Các chủ nợ có bảo đảm là các chủ nợ trong tố tụng phá sản,
8 Trình bày của Giáo sư Yasuhei Taniguchi, Đại học Tokyo Kei Zai tại Hà Nội với Tổ biên tập Luật Phá sản của Bộ Tư Pháp trong các ngày 21, 22-6-2000.
63
- Vật cầm cố là một bộ phận trong khối tài sản phá sản,
- Các chủ nợ có bảo đảm được quyền bỏ phiếu như một trong các loại chủ nợ
đối với kế hoạch phục hồi con nợ, và quyền của họ có thể bị ảnh hưởng bởi kế
hoạch đó,
- Trong thủ tục thanh lý, quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm phải được đặt ưu tiên
cao hơn so với chi phí quản lý hành chính vụ phá sản (phí phá sản) và các loại chủ
nợ khác.
Quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm cần được đặc biệt quan tâm trong thủ tục phá
sản, nếu không sẽ rất nguy hại đến hệ thống tín dụng bảo đảm. Một khi quyền lợi
của các chủ nợ có bảo đảm được đặt sau phí phá sản và chi phí cho các chủ nợ đặc
quyền (như lương người lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp tàn tật cho lao động,
bảo hiểm xã hội), sẽ dẫn đến chủ nợ có bảo đảm sẽ không thể tính trước được quyền
lợi của mình sẽ có giá trị bao nhiêu trong trường hợp con nợ phá sản. Do đó, ưu thế
của tín dụng có bảo đảm, đó là sự an toàn, sẽ bị mất đi.
1.1.2. Bổ sung quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của
một số chủ thể đặc biệt
Theo Luật Phá sản, chủ nợ là một trong các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản. Điều này cũng phù hợp với thông lệ pháp luật của các nước trên
thế giới. Tuy nhiên, nghiên cứu quy định về phá sản trong lĩnh vực ngân hàng tín
dụng, một thông lệ được nhiều nước quy định là hạn chế quyền nộp đơn của chủ nợ
đối với các tổ chức tín dụng nhằm mục đích hạn chế tối đa việc phá sản đối với các
tổ chức này. Lĩnh vực hoạt động ngân hàng – tín dụng có tính chất nhạy cảm cao, dễ
gây ảnh hưởng dây truyền trong hệ thống tiền tệ và nền kinh tế nên một yêu cầu đặt
ra là cần có quy định hạn chế tình trạng tuỳ tiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
gây ảnh hưởng xấu đến hệ thống này. Để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, pháp luật
quy định giao cho ngân hàng Nhà nước và cơ quan bảo hiểm tiền gửi có quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Hai cơ quan này là cơ quan giám sát hoạt động của
các tổ chức tín dụng, thực hiện áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức
tín dụng có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp tổ chức tín dụng đã
64
áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt mà tổ chức tín dụng vẫn mất khả năng thanh
toán thì hai cơ quan này sẽ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản để bảo vệ
lợi ích của các chủ nợ. Tuy nhiên, theo LPS 2004 thì hai cơ quan quan này không
có tư cách nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và điều này cũng chưa được Luật
Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng ghi nhận. Với đặc thù của các tổ chức tín
dụng thì kinh nghiệm của các nước về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
của Ngân hàng Nhà nước và cơ quan bảo hiểm tiền gửi cần được nghiên cứu và cụ
thể hoá trong pháp luật phá sản Việt Nam.
1.1.3. Sửa đổi nội dung của đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Nội dung đơn nên sửa đổi theo hướng:
Trường hợp chủ doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp vv... khi đưa
đơn đến Tòa án họ có quyền lựa chọn hình thức: thanh lý hoặc phục hồi sản
xuất kinh doanh.
Nếu họ chọn hình thức “phục hồi sản xuất kinh doanh” tức là họ đã phải có sự
suy nghĩ, hình thành những biện pháp phục hồi mà họ cho là khả thi. Luật phá sản
cần quy định những cơ chế cụ thể về nội dung này. Chẳng hạn doanh nghiệp mắc
nợ có quyền được thương lượng với các chủ nợ hoặc một số chủ nợ ủng hộ họ trước
khi đưa đơn ra Tòa. Như vậy, việc giải quyết sẽ nhanh hơn.
Nếu họ chọn hình thức “thanh lý” cũng tức là họ đã suy nghĩ tìm mọi cách
nhưng không còn khả năng níu kéo được nữa. Trường hợp này Luật phá sản nên
quy định từ 1 đến 2 tuần sau khi thụ lý đơn Tòa án ra quyết định nở thủ tục phá sản
ngay, không nên kéo dài việc xem xét.Đối với trường hợp chủ nợ đưa đơn xin mở
thủ tục phá sản thì thời gian Tòa án xem xét đương nhiên phải dài hơn. Và khi đã
quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản thì không nên có quy định đình chỉ việc
giải quyết phá sản nữa.
1.1.4. Xác định rõ và cụ thể về đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước có
quyền làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 cho thấy, trong
65
các công ty được quy định tại Điều 1, Điều 3 Luật này thì chỉ có công ty nhà nước
mới là đối tượng áp dụng Luật Doanh nghiệp nhà nước. Do đó, đại diện chủ sở hữu
doanh nghiệp Nhà nước theo quy định tại Điều 16 Luật Phá sản chỉ nên hiểu là đại
diện chủ sở hữu đối với công ty nhà nước. Vì vậy, áp dụng Điều 63 Luật doanh
nghiệp nhà nước thì đại diện chủ sở hữu công ty nhà nước là các tổ chức, cá nhân
bao gồm: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thuộc
chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng quản trị công ty nhà
nước. Tuy nhiên, để áp dụng thống nhất quy định này, cần phải có hướng dẫn cụ thể
của Chính phủ hoặc ít nhất cũng phải có quy định dẫn chiếu sang pháp luật doanh
nghiệp nhà nước. Quy định như vậy nhằm giúp Toà án có cơ sở pháp lý để xem xét
và quyết định thụ lý đơn hay trả lại đơn một cách chính xác và đúng pháp luật.
1.1.5. Bổ sung hướng dẫn cụ thể về cách thức xử lý việc không xác định được
địa chỉ của doanh nghiệp và của doanh nghiệp (con nợ)
Về cách thức xử lý việc không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp và của
doanh nghiệp (con nợ), theo chúng tôi nên xử lý vấn đề này như sau: Có thể vận
dụng linh hoạt quy định “Toà án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã chứng minh được mình không lâm vào tình trạng
phá sản” (khoản 5 Điều 24 LPS 2004) để trả lại đơn, với lý do doanh nghiệp bị yêu
cầu mở thủ tục phá sản chưa thực hiện được yêu cầu này nên Toà án chưa có căn cứ
để quyết định mở thủ tục phá sản hay ra quyết định không mở thủ tục phá sản. Bên
cạnh đó, hướng dẫn cho các doanh nghiệp, chủ nợ đưa đơn là họ tiếp tục xác định
địa chỉ, các khoản nợ và tài sản của doanh nghiệp mắc nợ để cung cấp cho Toà án
khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp lần sau; nếu không xác định
được những nội dung này, họ nên yêu cầu cơ quan Công an địa phương xem xét nếu
doanh nghiệp mắc nợ có dấu hiệu phạm tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản thì xử lý về hình sự.
1.1.6. Cần có hướng dẫn rõ ràng hơn về phí phá sản.
Có thể nói mức đóng tạm ứng phí phá sản hiện nay phụ thuộc vào nhận thức chủ
quan của thẩm phán do đó, sẽ khó có được sự thống nhất và dễ gây ra những thắc
66
mắc không đáng có. Luật nên quy định một mức đóng tối thiểu để thẩm phán căn cứ
vào tính chất mức độ phức tạp của việc phá sản mà ấn định mức tạm ứng phí phá
sản phù hợp bảo đảm cho việc tiến hành công việc phá sản được thuận lợi.
Về phí phá sản: cần có quy định chi tiết các khoản phí, lệ phí, chi phí được coi là
hợp lý trong quá trình giải quyết phá sản. Nên quy định mức án phí cao hơn mức
thu hiện nay là 1 triệu đồng/vụ, tùy theo tính chất phức tạp của vụ phá sản.
1.2. Bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài
sản
Quy chế hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản cần quy định cụ thể trong
LPS 2004, đặc biệt là trong quy định về việc phân công, phân nhiệm và cơ chế làm
việc của các thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng như việc thực hiện nhiệm
vụ của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Người viết đề xuất một số kiến nghị sau:
1.2.1. Tăng cƣờng sự giám sát, kiểm tra của thành viên Tổ quản lý,
thanh lý tài sản trong việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp
Trước hết, cần phân công cho một thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản là
đại diện doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản và một thành viên khác là đại diện chủ
nợ có số nợ nhiều nhất giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp
cũng như giám sát những hành vi bị cấm và bị hạn chế theo Điều 31 LPS 2004.
Đồng thời, cần quy định cụ thể về quyền và nhiệm vụ của các thành viên của Tổ.
Trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản, vị trí, vai trò của các thành viên không phải như
nhau. Đây là một thiết chế rất đặc biệt, trong đó có sự tham gia đại diện cơ quan
công quyền. Do đó, cần phải có những quy định chi tiết về Quy chế làm việc của
Tổ, giới hạn trách nhiệm, quyền hạn của mỗi loại thành viên.
Đặc biệt, cần quy định về trách nhiệm cá nhân của Tổ trưởng Tổ quản lý,
thanh lý tài sản và các thành viên của Tổ khi thực hiện các quyết định của Tòa
án. Hoạt động của Tổ trưởng có vị trí rất quan trọng, vì đây là người điều phối
hoạt động, tổ chức thực hiện các quyết định quan trọng của Thẩm phán và thực
hiện thanh toán cho các chủ nợ. Do đó, cần quy định rõ chế độ báo cáo của Tổ
67
trưởng đối với Thẩm phán.
Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quy
định: Quản tài viên có nghĩa vụ thu hồi các món nợ do người thứ ba thiếu. Sau khi
trừ đi các khoản chi tiêu, phí tổn, phải nộp lại số tiền đã thu được vào quỹ tồn trữ
trong 3 ngày và phải báo cáo với thẩm phán đã nộp rồi. Nếu nộp muộn hơn sẽ phải
chịu tiền phạt. Thiết nghĩ, đây cũng là những quy định cần được xem xét, kế thừa.
Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn quy chế phối hợp hoạt động giữa Cơ quan
thi hành án dân sự và Tòa án, quy chế hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
1.2.2 Bổ sung hƣớng dẫn về cơ chế làm việc của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Khi có quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản, tổ trưởng Tổ quản lý,
thanh lý tài sản cần tổ chức phiên họp thứ nhất để phân công nhiệm vụ cụ thể cho
thành viên và thông báo địa điểm, kế hoạch làm việc của Tổ. Địa điểm làm việc của
Tổ là trụ sở của Toà án hoặc trụ sở cơ quan Thi hành án do Tổ trưởng quyết định
sau khi trao đổi ý kiến với Thẩm phán. Phiên họp của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
chỉ được tiến hành khi có sự tham gia của ít nhất 2/3 tổng số thành viên. Các quyết
định của Tổ quản lý, thanh lý tài sản bao gồm các quyết định sau: lập bảng kê tài
sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ; đề nghị Thẩm phán tuyên bố giao
dịch mà doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện vô hiệu; thu hồi tài sản mà doanh
nghiệp đã giao dịch vi phạm Điều 31 của Luật Phá sản; đề nghị Thẩm phán quyết
định thu hồi tài sản hoặc phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp bị áp dụng
thủ tục thanh lý tài sản đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp đối với các trường
hợp quy định tại Điều 43 của Luật phá sản, đề nghị Thẩm phán ra quyết định buộc
doanh nghiệp thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhằm bảo toàn tài sản
hoặc phục vụ cho việc thanh lý tài sản hoặc làm tăng thêm khối tài sản của doanh
nghiệp. Những quyết định này phải có quy định chặt chẽ về thủ tục xem xét và
thông qua, theo chúng tôi, nên quy định chỉ thông qua những quyết định đó khi có
sự đồng ý của đa số thành viên tham gia cuộc họp, trường hợp có số phiếu ngang
68
nhau thì ý kiến của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản là ý kiến quyết định.
1.2.3. Cần quy định rõ hơn về việc chuyển giao tài liệu cho Toà án lƣu trữ
Theo người viết, vấn đề đặt ra ở đây cần được làm rõ là tài liệu do Tổ quản lý,
thanh lý tài sản lập bản chính thì được lưu giữ tại Toà án, còn bản sao thì lưu giữ tại
cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, phải có quy định về việc bàn giao hồ sơ, tài liệu
giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản và Toà án, thời gian bàn giao hồ sơ cho Toà án lưu
giữ là bao lâu? Nghĩa là, trong trường hợp này cần quy định là toàn bộ hồ sơ bản
chính do Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải lưu giữ tại Toà án và trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày Tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể thì Tổ trưởng Tổ quản lý,
thanh lý tài sản phải bàn giao hồ sơ cho Toà án và phải lập biên bản, thống kê các
tài liệu bàn giao cho Toà án.
Ngoài ra, Luật cần có quy định cho phép Tổ truởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản
có quyền huy động nhân viên kế toán và các cán bộ khác của cơ quan Thi hành án
giúp Tổ quản lý, thanh lý tài sản hỗ trợ công tác kiểm tra sổ sách kế toán, quyết
định áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo qui định của pháp luật về thi
hành án dân sự, tổ chức thi hành các quyết định của Thẩm phán, đóng tài khoản khi
có quyết định giải thể Tổ quản lý, thanh lý tài sản và bàn giao tài liệu khi kết thúc
việc giải quyết phá sản.
1.3. Tăng cường cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục
phá sản.
Theo nguyên tắc giải quyết phá sản của Ngân hàng thế giới thì các quyền của
chủ nợ phải được bảo đảm thông qua việc thiết lập một Uỷ ban chủ nợ để cho phép
chủ nợ có khả năng tham gia chủ động vào thủ tục phá sản. Pháp luật quốc gia cần
xây dựng cơ chế để Uỷ ban chủ nợ có thể giám sát hiệu quả đối với toàn bộ quá
trình phá sản nhằm bảo đảm sự trung thực khách quan. Uỷ ban chủ nợ sẽ hoạt động
như một cầu nối trong việc cung cấp thông tin cho các chủ nợ khác và trong việc
triệu tập các chủ nợ để đưa ra quyết định về những vấn đề quan trọng. Pháp luật cần
quy định các vấn đề như điều kiện và quyền bỏ phiếu, số chủ nợ cần thiết để biểu
quyết, hội nghị chủ nợ và các hoạt động của hội nghị chủ nợ. đặc biệt, cần thiết lập
69
các quy định cần thiết trong việc lựa chọn và chỉ định uỷ ban chủ nợ để thực hiện
một số hoạt động trong thủ tục phá sản. Việc thành lập Uỷ ban chủ nợ với tư cách là
cơ quan thường trực của Hội nghị chủ nợ là một nhân tố cần thiết, thúc đẩy sự tham
gia tích cực của chủ nợ vào quá trình giải quyết phá sản được pháp luật nhiều nước
quy định. Chẳng hạn:
Theo kinh nghiệm của Mỹ thì, trong thủ tục phá sản, vai trò của các chủ nợ là rất
quan trọng, đặc biệt trong việc chủ động tái tổ chức công ty. Một Uỷ ban chủ nợ
được thành lập với quyền hành rất lớn. Pháp luật Mỹ không chỉ quy định một Uỷ
ban chủ nợ mà trong trường hợp đặc biệt có thể có vài Uỷ ban chủ nợ (Uỷ ban đại
diện người lao động, Uỷ ban đại diện chủ nợ có bảo đảm ...), các Uỷ ban này đều có
sự trợ giúp của các luật sư. Tại một số nước khác như pháp luật của các nước theo
khối thịnh vượng chung như Pháp ..., chủ nợ thường đóng vai trò ít quan trọng hơn
trong việc giám sát vụ việc và hoạt động của người quản lý cũng như trong thủ tục
phá sản nói chung. Xu hướng hiện đại là cho phép chủ nợ được quyết định những gì
có lợi cho họ nhất và làm cho toà án không cần thiết phải tham gia vào việc ra ra
quyết định của họ trừ trường hợp đảm bảo rằng các chủ nợ nhỏ cũng được đối xử
công bằng.
Pháp luật phá sản Đức quy định bên cạnh Hội nghị chủ nợ còn có Hội đồng chủ
nợ. Hôi đồng chủ nợ là một cơ quan thường trực cấp dưới của Hội nghị chủ nợ
không mang tính chất bắt buộc. Đại diện trong Hội đồng chủ nợ gồm những chủ nợ
được bảo đảm, chủ nợ phá sản có quyền đòi nợ lớn nhất và những chủ nợ nhỏ nhất.
Trong Hội đồng chủ nợ cũng phải có một đại diện của những người lao động nếu
những người lao động là chủ nợ phá sản có quyền đòi nợ không nhỏ. Thành viên
Hội đồng chủ nợ do Toà án bổ nhiệm, miễn nhiệm theo yêu cầu của các chủ nợ
hoặc khi xét thấy cần thiết. Thành viên Hội đồng chủ nợ giúp đỡ và giám sát người
quản lý phá sản trong việc điều hành và được hưởng thù lao cho những hoạt động
của mình và được trả những chi phí hợp lý đã bỏ ra khi thực hiện hoạt động với tư
cách là thành viên Hội đồng. Thành viên Hội đồng chủ nợ phải chịu trách nhiệm bồi
70
thường thiệt hại cho các chủ nợ có bản đảm, chủ nợ phá sản, nếu có lỗi vi phạm của
mình. Nghị quyết của Hội đồng chủ nợ có giá trị nếu được đa số thành viên tham
gia biểu quyết tán thành.
Phù hợp với thông lệ chung của thế giới, người viết đề xuất sửa đổi quy định của
LPS 2004 như sau:
+ Quy định cơ chế hoạt động của Hội nghị chủ nợ một cách độc lập khỏi sự can
thiệp của Toà án (thẩm phán), hạn chế tình trạng hành chính hoá quan hệ dân sự,
kinh tế. Chủ nợ có bảo đảm cần được tham gia một cách tích cực hơn vào việc xem
xét và thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Hội nghị chủ nợ phải được quyền cử người thay thế người quản lý và điều
hành doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trong trường hợp xét thấy
người quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã hiện tại không có khả năng điều hành
hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo toàn
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
+ Quy định việc thành lập Uỷ ban chủ nợ với sự tham gia của một số chủ nợ
nhất định nhằm tạo cơ chế tham gia một cách thường xuyên, liên tục của các chủ nợ
vào quá trình giải quyết phá sản.
1.4. Bổ sung các quy định về thủ tục quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản
1.4.1. Cần bổ sung quy định về thủ tục kiểm kê tài sản
Theo Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972, thủ tục kê biên được quy định khá rõ
ràng, chi tiết. Quản tài viên lập bản kê khai các tài sản của doanh nghiệp, kể cả
những tài sản là hàng hóa, thực phẩm không bị niêm phong, vì có thể bị hư hại.
Những hàng hóa này Quản tài viên lập bản kê khai và trị giá ngay từ lúc thẩm phán
lập biên bản niêm phong. Khi gỡ niêm, Quản tài viên phải lập bản kê khai tất cả các
tài sản hiện còn lại của doanh nghiệp dưới sự chứng kiến của đương sự. Luật này
cũng quy định về thủ tục niêm phong trước khi lập bản kê tài sản, đề phòng việc lập
71
bản kê tài sản kéo dài, gây thất thoát tài sản.
Kiểm kê là hoạt động được thực hiện kể từ khi có quyết định mở thủ tục tuyên
bố phá sản, do doanh nghiệp thực hiện dưới sự giám sát của Thẩm phán và sự
chứng kiến của những chủ thể khác tham gia vụ phá sản. Công việc này đòi hỏi phải
được thực hiện nhanh chóng và chính xác để đảm bo quyền lợi cho cả chủ nợ và
con nợ.
Thông thường, sau khi có quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản, con nợ
thường có các hành vi nhằm tẩu tán tài sản, trốn nợ. Mặt khác, tài sản tại doanh
nghiệp thường tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau, thậm chí nằm rải rác ở nhiều nơi.
Vì vậy, trong các văn bản hướng dẫn LPS 2004 cần quy định chi tiết về thủ tục
niêm phong và kê biên để phòng tránh các hành vi này.
Mặt khác, theo Điều 50 LPS 2004, nếu việc kiểm kê, xác định giá trị không
chính xác thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền tổ chức kiểm kê, xác định lại
giá trị. Như vậy, cần có quy định chi tiết hơn về thế nào là không chính xác, ở
mức độ nào thì tiến hành kiểm kê lại. Đặc biệt, việc định giá trị tài sản cần phải có
những quy định hướng dẫn rất cụ thể, không chỉ quy định chung chung là theo giá
thị trường tại thời điểm kiểm kê. Trong hoàn cảnh nước ta nền kinh tế thị trường
chưa phát triển, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ làm công tác giải quyết phá sản,
của cả doanh nghiệp và các chủ nợ về tài chính - kế toán còn nhiều bất cập, thì
việc định giá các tài sản của doanh nghiệp không phải là dễ dàng, nhất là đối với
các tài sản đặc biệt như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công nghiệp… cần có
những quy định khuyến khích doanh nghiệp thuê các tổ chức tư vấn tài chính - kế
toán, các tổ chức định giá chuyên nghiệp tham gia đối với những vụ phá sản lớn
để bo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, góp phần làm lành mạnh hóa
môi trường kinh doanh.
1.4.2. Bổ sung quy định về cách xác định giá trị tài sản đã được kiểm kê
Theo khoản 3 Điều 50 LPS 2004: trong trường hợp Tổ quản lý, thanh lý tài sản
xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp quy định tại khoản 1
Điều 50 Luật Phá sản là không chính xác thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản tổ chức
72
kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Nghĩa
là, khi Tổ quản lý, thanh lý tài sản và doanh nghiệp không thoả thuận được về giá trị
các tài sản đã được kiểm kê thì Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trách
nhiệm thuê tổ chức có chức năng định giá hoặc thành lập Hội đồng định giá thực
hiện công việc này. Song cũng có ý kiến cho rằng vì việc thuê tổ chức có chức năng
định giá hoặc thành lập Hội đồng định giá là tốn kém và đòi hỏi những thủ tục phức
tạp nên trong trường hợp này, Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chỉ cần tham
khảo giá thị trường hoặc tham khảo các tổ chức có chức năng định giá để đề xuất
mức giá nhất định vào thời điểm kiểm kê sau đó thông qua Tổ quản lý, thanh lý tài
sản theo cách biểu quyết đa số theo tinh thần của Điều 50 Luật Phá sản.
1.4.3. Bổ sung để làm rõ hơn quy định thu hồi và quản lý tài sản của doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản ở nước ngoài
Hiện nay, trên thế giới có hai khuynh hướng quy định về vấn đề này: một là
không công nhận phán quyết giải quyết vụ phá sản của toà án nước ngoài hoặc
không thừa nhận quyền thu hồi tài sản ở lãnh thổ nước sở tại của người quản lý tài
sản của một nước khác ngoại trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định riêng.
Hai là, công nhận một phần hoặc toàn bộ các phán quyết của Toà án nước ngoài
như: công nhận ngay lập tức mà không cần thực hiện bất kỳ một thủ tục tư pháp hay
hành chính nào; thủ tục công nhận trên cơ sở có đi có lại (Pháp, Hy Lạp, Italia); thủ
tục công nhận trên cơ sở không có đi có lại (Mêhicô, Panama và Colômbia,,) và
việc công nhận chỉ giới hạn trong việc thu hồi tài sản (Hà Lan, Thuỵ Điển).
Luật Phá sản năm 2004 chưa quy định về vấn đề này. Vì vậy, có khả năng bỏ
sót những tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản ở nước ngoài và điều đó tất
nhiên ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ, do vậy trong trường hợp này
chúng tôi kiến nghị, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Pháp, Hy Lạp và ý,
theo đó Việt Nam sẽ ký kết các Hiệp định hay Hiệp Ước với các quốc gia trên thế
giới theo nguyên tắc có đi có lại để bảo vệ được quyền lợi của các bên tham gia
trong vụ phá sản.
Như vậy, ở nội dung này của LPS 2004, rất cần có hướng dẫn chi tiết các vấn đề
73
liên quan đến thu hồi và quản lý tài sản như: Thủ tục thu hồi như thế nào; người có
quyền đề xuất, người ra quyết định thu hồi; người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại tranh chấp, thủ tục giải quyết khiếu nại tranh chấp phát sinh, việc nhập lại tài
sản vào khối tài sản phá sản như thế nào, vấn đề quản lý tài sản thu hồi được…
Những nội dung này rất cần có quy định rõ, tạo điều kiện cho quá trình thực hiện dễ
dàng, tránh trường hợp tắc trách, vô trách nhiệm của các cán bộ nhà nước trong Tổ
quản lý, thanh lý tài sản.
2. Nhóm giải pháp đối với Thành phố Hà Nội
2.1. Có biện pháp đủ mạnh để thúc đẩy thủ tục tuyên bố phá sản đối với doanh
nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Công ty làm ăn kém hiệu qủa thường do các nguyên nhân bên trong và bên
ngoài. Các nguyên nhân bên ngoài như là các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô mà
các công ty không thể kiểm soát được như: khủng hoảng, thay đổi lãi suất, thay đổi
trong môi trường chính sách của chính phủ, lạm phát hay sự xuất hiện của đối thủ
cạnh tranh,… Còn các nguyên nhân bên trong như các vấn đề liên quan đến chiến
lược công ty, các vấn đề lãnh đạo và các vấn đề về tài chính kế toán…
Dù nguyên nhân bên trong hay bên ngoài thì doanh nghiệp làm ăn không hiệu
quả cũng cần phải loại bỏ. Vì trong môi trường kinh tế hội nhập như hiện nay, việc
cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp làm ăn yếu kém, không hiệu
quả bị loại bỏ là điều tất yếu. Do vậy Thành phố Hà Nội cần có các biện pháp hỗ trợ
cho các doanh nghiệp làm này được phá sản sớm, đồng thời kiên quyết không giúp
đỡ các doanh nghiệp yếu kém duy trì sản xuất, kinh doanh.
2.2. Kiên quyết xóa bỏ tư tưởng ỷ lại vào sự cứu xét của Nhà nước đối với
những doanh nghiệp Hà Nội hoạt động không hiệu quả
Thời gian qua do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, sức tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu giảm
mạnh so với cùng kỳ năm 2008. Để duy trì và phát triển kinh doanh, nhiều công ty
đã tự mình xây dựng và thực hiện các biện pháp kinh doanh hiệu quả. Thí dụ như
74
Công ty Cổ phần dệt may Hà Nội (Hanosimex) đã giữ “chân” khách hàng truyền
thống, có được khách hàng mới... doanh nghiệp đã đẩy mạnh hoạt động chăm sóc
khách hàng, khai thác thế mạnh làm hàng chất lượng cao để tăng giá trị gia tăng, giao
hàng đúng hạn... Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn đẩy mạnh việc chủ động nguồn
nguyên liệu trong nước, giảm lượng nguyên liệu nhập khẩu từ đó hạ giá thành sản
xuất, đáp ứng yêu cầu khách hàng đặt đơn hàng với thời gian ngắn, đáp ứng cả những
đơn hàng số lượng ít… Nhờ những biện pháp này, Hanosimex không chỉ giữ “chân”
được khách hàng Mỹ, mà còn tăng thêm các khách hàng EU, Nhật Bản.
Bên cạnh những doanh nghiệp đã chủ động xây dựng các biện pháp đẩy mạnh
sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thì còn có các doanh nghiệp ỷ lại
vào sự cứu xét của Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nuớc. Khi Việt
Nam là thành viên của WTO, thay vì cải tiến công nghệ, cách thức tổ chức làm
việc…để cạnh tranh trong một môi trường lớn thì có rất nhiều doanh nghiệp lại
trông chờ vào sự bảo trợ của Nhà nước về thuế, lãi suất,… Thiết nghĩ, để tồn tại và
phát triển trong một môi trường có sự cạnh tranh lớn thì tư tưởng ỷ lại vào Nhà
nước của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội cần phải sớm loại bỏ.
2.3. Tăng cường nâng cao hiểu biết ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp Hà
Nội về lợi ích của thủ tục phá sản và pháp luật phá sản
Để pháp luật phá sản và những quy định về quản lý và xử lý tài sản phá sản
được thực thi có hiệu quả trong thực tiễn thì vấn đề nhận thức pháp luật của xã hội
cũng như giới kinh doanh là hết sức quan trọng. Những nhận đúng sẽ có những
hành vi, ứng xử đúng, nguyên nhân cơ bản khiến việc thực thi Luật phá sản gặp
nhiều khó khăn là do những chủ thể có liên quan đến phá sản doanh nghiệp chưa
nhận thức đúng và đầy đủ vầ phá sản và trình tự phá sản, do công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật phá sản còn chưa được quan tâm đúng mức. Bởi vậy, cần tuyên
truyền, phổ biến nội dung của LPS 2004, đặc biệt là những quy định pháp luật về cơ
chế quản lý và xử lý tài sản phá sản đến những người làm công tác nghiên cứu, lý
luận, những người làm công tác áp dụng pháp luật, đặc biệt là các cán bộ trong các
ngành tòa án, kiểm sát, các luật sư và đặc biệt là các doanh nghiệp để cho những đối
75
tượng này nắm vững những quy định của pháp luật phá sản, hiểu đúng và rõ ràng
hơn về pháp luật phá sản để từ đó tuân thủ pháp luật phá sản nghiêm túc hơn. Việc
tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua các kênh: đài báo, phát thanh, truyền
hình, qua các tổ chức hội nghề nghiệp hay qua các kênh chuyên biệt như mở các lớp
bồi dưỡng, hội thảo, tập huấn...
3. Nhóm giải pháp khác
3.1. Đối với Toà án
Thẩm phán là người trực tiếp giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, do đó, chất
lượng và hiệu quả của việc giải quyết thủ tục phá sản doanh nghiệp phụ thuộc nhiều
vào trình độ chuyên môn của Thẩm phán. Trong quá trình giải quyết phá sản, ngoài
những yêu cầu về trình độ pháp lý, người Thẩm phán còn phải có trình độ hiểu biết
về nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính - kế toán. Do vậy, cần phải
bồi dưỡng, nâng cao trình độ thẩm phán giải quyết phá sản, đáp ứng những yêu cầu
mới đặt ra. Thường xuyên, định kỳ tổ chức các hội thảo chuyên đề, khóa đào tạo
nhằm bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Thư
ký tòa án trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, kịp thời tổng kết, hướng
dẫn các Tòa án địa phương giải quyết những vướng mắc phát sinh. Điều này đặc
biệt quan trọng, vì LPS 2004 đã mở rộng thẩm quyền giải quyết phá sản cho Tòa án
cấp huyện. Trong tương lai, cần hướng tới đào tạo các thẩm phán chuyên trách về
phá sản.
Mặt khác, cần ban hành mẫu báo cáo để Toà án có thể thống kê được chi tiết
hơn về quy mô của doanh nghiệp phá sản để giúp ngành Toà án có thể thống kê chi
tiết những nội dung cụ thể trong quá trình giải quyết phá sản, chẳng hạn những vấn
đề: số lượng lao động của doanh nghiệp phá sản, tổng tài sản của doanh nghiệp phá
sản tổng số nợ của doanh nghiệp phá sản, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
phá sản, tỷ lệ tài sản trên nợ của doanh nghiệp phá sản chia theo địa phương, theo
mô hình, những đánh giá về vai trò của công ty quản lý nợ, những ảnh hưởng về
mặt xã hội của phá sản và những vấn đề phát sinh liên quan khác... Trên cơ sở đó,
76
có thể có những số liệu để đánh giá về tình trạng phá sản của các doanh nghiệp ở
Việt Nam đồng thời công khai số liệu về phá sản trong tập số liệu thống kê doanh
nghiệp hàng năm.
Ngoài ra, Toà án nhân dân tối cao cũng phải thường xuyên theo dõi quá trình
thực thi pháp luật phá sản, đồng thời tổng kết kinh nghiệm và kịp thời hướng dẫn
giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản cũng như
trong việc quản lý và xử lý tài sản phá sản cho các Toà án nhân dân địa phương.
3.2. Tăng cường xử lý vi phạm pháp luật về kế toán
Như đã phân tích ở trên, một trong những nguyên nhân làm suy giảm hiệu lực
của pháp luật phá sản và những quy định về cơ chế quản lý, xử lý tài sản phá sản
trong thời gian qua là do những yếu kém trong việc thực hiện chế dộ tài chính kế
toán trong các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không tuân theo những quy định
về tài chính - kế toán hiện hành, sổ sách kế toán còn sơ sài, thậm chí có những
doanh nghiệp không có sổ sách kế toán, dẫn đến công nợ không rõ ràng, gian dối về
chứng từ kế toán. Điều đó làm cho việc giải quyết phá sản gặp nhiều khó khăn. Do
vậy, Luật kế toán cần đưa ra những quy định về xử lý nghiêm khắc những vi phạm
về kế toán thống kê. Tăng cường công tác kiểm tra việc tuân thủ chế độ kế toán - tài
chính doanh nghiệp, bắt buộc doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính định kỳ. Đối với
các doanh nghiệp có quy mô lớn cần phải có quy định buộc doanh nghiệp nộp báo
cáo vào cuối mỗi năm tài chính. Trường hợp doanh nghiệp không nộp báo cáo hoặc
báo cáo gian dối phải bị xử phạt năng bằng tiền hoặc trường hợp nghiêm trọng có
thể bị rút đăng ký kinh doanh. Có như vậy mới có thể chấn chỉnh được tình trạng vi
phạm nghiêm trọng về kế toán tài chính như hiện nay.
Ngoài ra, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp.
Xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm soát doanh nghiệp một cách hợp lý và hiệu quả,
nhất là vấn đề tài chính kế toán để có thể kịp thời phát hiện các doanh nghiệp gặp
khó khăn về tài chính, hỗ trợ và giúp các doanh nghiệp đề ra các biện pháp khắc
phục khó khăn đó. Tiến tới tất cả các doanh nghiệp phải tiến hành kiểm toán vào
77
cuối năm tài chính.
3.3 Tăng cường giáo dục sâu rộng mọi đối tượng trong tầng lớp nhân dân Hà Nội
về phá sản để đổi mới nhận thức
Phá sản là một trong những biện pháp để thúc đẩy lưu thông vốn, vì vậy, không
nên coi phá sản là một thủ tục để chấm dứt hoạt động của một doanh nghiệp mà
mục đích quan trọng là tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội tổ chức lại hoạt
động kinh doanh. Trường hợp đã áp dụng mọi biện pháp mà doanh nghiệp vẫn
không thể khắc phục được thì mới thực hiện việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp
để chia cho các chủ nợ. Chỉ khi nào các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, chủ sở
hữu hoặc người quản lý doanh nghiệp, các chủ nợ, người lao động trong các doanh
nghiệp nhận thức đúng đắn những vấn đề này và sử dụng Luật phá sản như là một
công cụ hữu hiệu để lành mạnh hoá tình hình tài chính doanh nghiệp, cứu vãn
doanh nghiệp trong hoàn cảnh khó khăn, phục hồi doanh nghiệp trở lại hoạt động
kinh doanh bình thường thì pháp luật phá sản mới thực sự phát huy được tác dụng
78
của nó trong việc cơ cấu lại nền kinh tế.
Kết luận
Luật Phá sản năm 2004 và việc thực hiện Luật phá sản năm 2004 trên địa bàn cả
nước nói chung và trên địa bàn TP. Hà Nội nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế và bất
cập mà nguyên nhân bao gồm cả yếu tố bên trong (bản thân Luật phá sản năm 2004)
và cả yếu tố bên ngoài (tư tưởng, quan niệm về phá sản,…). Từ đó dẫn đến tình
trạng nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả mà vẫn không tìm đến Toà án yêu
cầu phá sản.
Luật phá sản năm 2004 được ban hành nhằm mục đích ứng dụng cho các “sự
cố” của nền kinh tế, nó không chỉ là Luật để “chôn” các doanh nghiệp yếu kém mà
còn nhằm mục đích khôi phục lại sự cân bằng về cán cân thanh toán tài chính của
thị trường. Sẽ là không tưởng nếu đòi hỏi có một văn bản pháp luật hoàn hảo, nhất
là trong lĩnh vực phá sản mà mục tiêu quan trọng là dung hòa giữa những lợi ích đối
kháng, bởi lẽ bản thân Luật Phá sản là Luật của sự thất bại. Chúng ta chỉ có thể hy
vọng xây dựng một văn bản pháp luật ít khiếm khuyết nhất trong một giai đoạn nhất
định. Không phủ nhận nỗ lực to lớn của các nhà làm luật trong việc nghiên cứu, ban
hành một văn bản Luật mang tính khả thi cao về phá sản nhưng với những quy đinh
hiện nay thì Luật Phá sản năm 2004 mang trong mình nhiều bất cập dẫn đến việc
khó thực thi.
Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn TP. Hà Nội nói riêng và cả
nước nói chung cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật phá sản để pháp luật này thực
79
sự đi vào thực tiễn và được các doanh nghiệp chấp nhận như một vấn đề tất yếu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Luật Phá sản số 21/2004/QH11 của Quốc hội
2. Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản.
3. Nghị định 94/2005/NĐ-CP của Chính phủ về giải quyết quyền lợi của
người lao động ở doanh nghiệp và hợp tác xã bị phá sản.
4. Thông tư liên tịch 19/2008/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư
pháp về hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo
đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
5. Công văn 7050/BTC-TCT của Bộ Tài chính về việc Quyết toán thuế đối
với doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.
6. Công văn 1977/VPCP-XDPL của Văn phòng Chính về việc thực hiện
Luật phá sản.
7. Nghị định 67/2006/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn việc áp dụng
Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ
quản lý, thanh lý tài sản.
8. Nghị định 10/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993.
9. Nghị định số 114/CP ban hành ngày 3/11/2008 của Chính phủ về việc
Hướng dẫn chi tiết ban hành một số điều luật của Luật phá sản đối với
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán
80
và tài chính khác.
10. Nghị định số 189/CP ban hành ngày 23/12/1994 về việc Hướng dẫn thi
hành luật phá sản doanh nghiệp.
11. Quyết định số 01/2005 của Toà án nhân dân Tối cao về Quy chế làm việc
của Tổ thẩm phán phụ trách tiến hành làm thủ tục phá sản.
12. Vụ Công tác lập pháp (2005), Những nội dung cơ bản của Luật phá sản
năm 2004, nhà xuất bản Tư pháp.
13. Vũ Thị Hồng Vân- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Đánh giá thực trạng
thi hành Luật phá sản doanh nghiệp năm 2004”.
14. Luật phá sản năm 2004 và những văn bản hướng dẫn thi hành, nhà xuất
bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2008
15. Bộ Tư Pháp (2008), “Báo cáo thực trạng áp dụng Luật phá sản năm
2004”.
16. TS. Trương Hồng Hải, Đại học luật Hà Nội, Luận án “Luật phá sản
doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn
thiện”
17. Dương Đăng Huệ, “Phá sản Việt Nam năm 2004 với việc cải thiện môi
trường kinh doanh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2005, tr26-31.
Tài liệu tiếng Anh
18. Dr. Hans-Jochem Luer (2000), The Insolvency Laws of Germany, Juris
Publishing.
19. David A.Skeel Jr (2003), “A history of bankruptcy law in America”,
81
Princeton University Press.
Website
http://www.thaibinhtrade.gov.vn 20.
http://vneconomy.vn 21.
http://vnba.org.vn 22.
http://vietnamnet.vn 23.
http://vnexpress.net 24.
http://www.hg.org/bankrpt.html 25.
82
http://bbc.co.uk 26.