KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI -------***------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM NĂM 2004:

THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ

NỘI VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN

Sinh viên thực hiện

: Lê Hoàng Mai

Lớp

: Anh 8

Khoá

: 44B

Giáo viên hƣớng dẫn

: GS.TS. Nguyễn Thị Mơ

Hà Nội, tháng 05 năm 2009

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT

NAM NĂM 2004 .................................................................................................... 3

I. Khái niệm và đặc điểm của phá sản .................................................................. 3

1. Khái niệm về phá sản ......................................................................................... 3

1.1 Phá sản theo các cách tiếp cận từ góc độ kinh tế ............................................. 3

1.2 Phá sản theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật ............................................... 5

2. Sự tác động của phá sản ..................................................................................... 7

2.1. Về mặt tiêu cực .............................................................................................. 7

2.2. Về mặt tích cực .............................................................................................. 9

II. Pháp luật về phá sản ........................................................................................11

1. Sự cần thiết phải có pháp luật phá sản .............................................................11

2. Mục đích và vai trò của Pháp luật phá sản .......................................................12

2.1 Mục đích của pháp luật phá sản: ....................................................................12

2.2 Vai trò của Pháp luật phá sản .........................................................................13

3. Một số điểm lưu ý trong các quy định của pháp luật phá sản của các nước trên

thế giới: ..................................................................................................................18

3.1. Phạm vi áp dụng của Luật phá sản. ...............................................................18

3.2. Thế nào là tình trạng phá sản. ........................................................................21

II. Luật phá sản Việt Nam năm 2004...................................................................24

1. Sự cần thiết phải ban hành Luật phá sản năm 2004 .........................................24

2. Những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm 2004 .......................................26

2.1. Về đối tượng áp dụng của Luật Phá sản. .......................................................26

2.2. Điều kiện để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ..27

i

2.3. Thủ tục tiến hành một vụ phá sản thông thường ............................................28

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 TẠI

THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...................................34

I. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Pháp luật phá sản nói chung và luật

phá sản năm 2005 ở Việt Nam .............................................................................34

1. Những thuận lợi và kết quả ..............................................................................34

2. Những khó khăn và bất cập. ..............................................................................38

2.1. Phạm vi chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản còn quá hẹp ....38

2.2. Thủ tục giải quyết phá sản còn kéo dài .........................................................39

2.3. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không nộp đơn

yêu cầu phá sản vì các quy định trong Luật phá sản năm 2004 vẫn chưa cụ thể ...40

3. Nguyên nhân bất cập trong quá trình thực hiện Luật phá sản năm 2004 ........41

3.1 Tính khả thi của luật không cao .....................................................................41

3.2 Văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn chậm ..................................................42

II. Áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội ...........................................43

1. Thực tiễn áp dụng các quy định về giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản các

doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội và những vấn đề đặt ra. .................................43

2. Thực tiễn thực hiện quy trình và thủ tục phá sản và những vấn đề đặt ra .......47

2.1. Vướng mắc trong trường hợp không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp

và của chủ doanh nghiệp (con nợ) khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản .......47

2.2. Chưa có tiêu chí cụ thể về điều kiện thụ lý đơn và ra quyết định mở hay

không mở thủ tục phá sản ....................................................................................48

2.3. Những quy định về Thẩm phán phụ trách việc giải quyết phá sản còn tỏ ra

không sát với thực tế. ...........................................................................................48

2.4. Những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản50

2.5. Về vấn đề thu hồi tài sản phá sản ..................................................................57

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG KHẢ

NĂNG THỰC THI LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 ...............................................59

I. Dự báo xu hƣớng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ở TP. Hà Nội trong thời

gian tới ..................................................................................................................59

ii

1. Cơ sở để dự báo .................................................................................................59

2. Con số dự báo ....................................................................................................61

II. Các giải pháp cụ thể ........................................................................................62

1. Nhóm giải pháp sửa đổi Luật phá sản năm 2004 ..............................................62

1.1. Sửa đổi các quy định về việc nộp đơn, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

và việc mở hoặc không mở thủ tục phá sản ..........................................................62

1.2. Bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản67

1.3. Tăng cường cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục

phá sản. ................................................................................................................69

1.4. Bổ sung các quy định về thủ tục quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp bị

tuyên bố phá sản ..................................................................................................71

2. Nhóm giải pháp đối với Thành phố Hà Nội ......................................................74

2.1. Có biện pháp đủ mạnh để thúc đẩy thủ tục tuyên bố phá sản đối với doanh

nghiệp làm ăn kém hiệu quả.................................................................................74

2.2. Kiên quyết xóa bỏ tư tưởng ỷ lại vào sự cứu xét của Nhà nước đối với những

doanh nghiệp Hà Nội hoạt động không hiệu quả ..................................................74

2.3. Tăng cường nâng cao hiểu biết ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp Hà

Nội về lợi ích của thủ tục phá sản và pháp luật phá sản .......................................75

3. Nhóm giải pháp khác .........................................................................................76

3.1. Đối với Toà án .............................................................................................76

3.2. Tăng cường xử lý vi phạm pháp luật về kế toán ...........................................77

3.3 Tăng cường giáo dục sâu rộng mọi đối tượng trong tầng lớp nhân dân Hà Nội

về phá sản để đổi mới nhận thức ..........................................................................78

Kết luận .................................................................................................................79

iii

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................80

Danh mục các chữ viết tắt

LPSDN 1993

: Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993

1.

LPS 2004

: Luật phá sản năm 2004

2.

CHLB

: Cộng hoà liên bang

3.

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

4.

WTO

: Tổ chức thương mại Thế giới

5.

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội.

6.

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Phá sản doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là hiện tượng tất yếu của quá

trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên để loại bỏ doanh nghiệp yếu kém,

khẳng định sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Vì

những lý do khác nhau mà trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có

thể lâm vào tình trạng phá sản. Chính vì thế pháp luật phá sản là một bộ phận không

thể thiếu của pháp luật kinh doanh để giải quyết những vấn đề phát sinh liên quan

đến tình trạng làm ăn quẫn bách của doanh nghiệp, tức là khi doanh nghiệp lâm vào

tình trạng phá sản.

Luật phá sản đầu tiên của nước ta có tên gọi là Luật phá sản doanh nghiệp, được

Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ tư thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực ngày

1/7/1994. Tuy nhiên, trong hơn mười năm thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp

năm 1993 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Sau môt thời gian nghiên cứu sửa đổi, bổ

sung nhằm khắc phục nhược điểm của Luật phá sản doanh nghiệp năm1993 và đáp

ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện tại. Luật phá sản mới đã ra đời: Luật này có tên

gọi là Luật phá sản năm 2004. Luật phá sản năm 2004 đã được Quốc hội khoá XI

kỳ họp thứ năm thông qua, có hiệu lực từ ngày 15/10/2004 và chính thức thay thế

Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993.

Mục tiêu của Luật phá sản năm 2004 không chỉ nhằm giải quyết vụ việc phá

sản đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, tăng cường trách nhiệm của

các doanh nghiệp trong quá trình tiến hành các hoạt động thương mại mà quan

trọng hơn là nhằm tìm kiếm giải pháp để phục hồi hoạt động kinh doanh cho

doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong kinh doanh. Tuy nhiên, trong thực tế,

mục tiêu này không phải là dễ thực hiện. Vì vậy, cần phải nắm vững nội dung

của Luật phá sản và sự vận dụng đúng đắn những nguyên tắc của Luật phá sản

nói chung và những quy định pháp lý có liên quan mới có thể thực thi Luật phá

1

sản một cách có hiệu quả.

Đó là lý do để vấn đề “Luật phá sản Việt Nam năm 2004: Thực tiễn áp dụng tại

thành phố Hà Nội và phương hướng hoàn thiện” được lựa chọn làm đề tài cho Khoá

luận tốt nghiệp đại học này.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu để làm rõ những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm

2004 sau khi phân tích thực tiễn áp dụng luật này tại TP. Hà Nội trong những năm

qua nhằm làm rõ bất cập và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện; từ đó

đề xuất phương hướng và giải pháp để Luật phá sản năm 2004 có hiệu quả hơn

trong thực tiễn.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứƣ:

Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận là: Luật phá sản nói chung và Luật phá sản

Việt Nam năm 2004 nói riêng.

Phạm vi nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu của Khoá luận giới hạn ở việc phân

tích những vấn đề phát sinh từ việc áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Khoá luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: hệ thống hoá,

phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê và nêu nhận xét cá nhân.

5. Kết cấu Khoá luận:

Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Khoá

luận bao gồm ba chương:

Chƣơng 1: Tổng quan về phá sản, pháp luật phá sản và Luật phá sản năm 2004

Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP Hà Nội và những

vấn đề đặt ra.

Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường khả năng thực thi Luật phá

2

sản năm 2004.

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT

PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM NĂM 2004

I. Khái niệm và đặc điểm của phá sản

1. Khái niệm về phá sản

1.1 Phá sản theo các cách tiếp cận từ góc độ kinh tế

Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các nền kinh tế trên thế giới

đã cho thấy rằng, phá sản ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất

định. Điều này giải thích tại sao, phá sản là hiện tượng bình thường, phổ biến trong

nền kinh tế thị trường nhưng lại rất xa lạ với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.

Phá sản là khái niệm chỉ tình trạng làm ăn thua lỗ của doanh nghiệp, tình trạng mất

khả năng thanh toán nợ của thương gia.

Về phương diện ngôn ngữ, hiện có khá nhiều thuật ngữ dùng để thể hiện khái

niệm này. Ở châu Âu khi nói đến phá sản người ta hay dùng danh từ “Bankruptcy”

trong tiếng Anh hoặc “Banqueroute” trong tiếng Pháp. Cả hai từ này đều bắt nguồn từ chữ “Banca Rotta” của La Mã có nghĩa là “chiếc ghế bị gẫy”1. Vào khoảng thế

kỷ VII, tại La Mã các thương gia của một thành phố thường họp nhau lại để xem xét

việc làm ăn và công nợ. Người nào mất khả năng thanh toán công nợ sẽ bị mất

quyền tham gia Đại hội thương gia và chiếc ghế ngồi của họ theo đó cũng bị đem ra

khỏi hội trường. Như vậy, “Banca Rotta” (chiếc ghế bị gẫy) được quan niệm như

là một biểu tượng của việc mất khả năng thanh toán.

Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, con người làm ra sản phẩm tự phục vụ, tự đáp

ứng nhu cầu của mình nên hoạt động thương mại chưa tồn tại và do đó không thể có

hiện tượng phá sản.

Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chủ thể kinh tế chủ yếu là các doanh

nghiệp quốc doanh, được Nhà nước thành lập và tài sản thuộc quyền sở hữu Nhà

1 TS. Trương Hồng Hải, Luận án tiến sĩ: “Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ so sánh và phương hướng hoàn thiện”, tr38-40

3

nước. Các doanh nghiệp này không có quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh

từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm đều theo kế hoạch của Nhà nước và cũng không

có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Lúc bấy giờ, nếu doanh nghiệp kinh doanh

có lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước, còn ngược lại nếu lỗ thì được Nhà nước bù

lỗ. Các xí nghiệp, hợp tác xã thời kỳ này hoạt động kém hiệu qủa, lãi giả, lỗ thật, nợ

nần chồng chất. Nhà nước phải giúp đỡ các doanh nghiệp này bằng cách hoãn nợ,

xoá nợ hoặc dùng các giải pháp mang tính hành chính như giải thể, sáp nhập… Vì

vậy, doanh nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế bao cấp không bị mất khả năng

thanh toán và do đó hiện tượng phá sản cũng không xảy ra.

Trong nền kinh tế thị trường, phá sản là một hiện tượng kinh tế-xã hội tồn tại

khách quan. Tính tất yếu khách quan của hiện tượng phá sản được lý giải bởi các

nguyên nhân sau:

Thứ nhất, mặc dù có đời sống ngắn dài khác nhau nhưng doanh nghiệp luôn có

một vòng đời nhất định: khởi nghiệp, tăng trưởng, phồn vinh và suy thoái. Cũng

giống như một cơ thể sống, hàng triệu tế bào liên tục được sinh ra và chết đi. Và

trong nền kinh tế thị trường hàng chục triệu doanh nghiệp được sinh ra, và trải qua

nhiều giai đoạn cũng đến lúc tàn lụi, đó là lúc doanh nghiệp phá sản. Điều này hoàn

toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của sự vật, hiện tượng.

Thứ hai, nền kinh tế thị trường là nơi diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các

nhà kinh doanh. Những doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải mạnh và

phải đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Điều đó đòi hỏi các doanh

nghiệp phải chủ động, linh hoạt nắm bắt được các quy luật kinh tế và chiếm lĩnh thị

trường. Và dĩ nhiên các công ty nhỏ, không đủ sức cạnh tranh sẽ lâm vào tình trạng

phá sản.

Một doanh nghiệp phá sản có thể do nhiều nguyên nhân, cũng có thể do nguyên

nhân chủ quan hoặc nguyên nhân khách quan tác động. Nguyên nhân khách quan

như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, động đất, hay sự xuất hiện của đối thủ cạnh

tranh…Ngoài ra, nguyên nhân chủ quan như năng lực quản lý, lãnh đạo công ty,

chiến lược kinh doanh,…nhiều khi cũng là nguyên nhân của các vụ phá sản doanh

4

nghiệp.

Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hệ quả kinh tế-xã hội nhất định. Ví dụ, sự

phá sản của một bộ phận lớn doanh nghiệp thường gây ra những xáo trộn, ảnh

hưởng xấu đến việc sản xuất, thu nhập của một bộ phận lớn người lao động. Song

sự tác động của phá sản không phải bao giờ cũng chỉ có ý nghĩa tiêu cực. Sinh- Tử,

Thành lập- Phá sản là những quy luật của cuộc sống doanh nghiệp và thị trường.

Một trong những quy luật cơ bản của triết học là quy luật phủ định của phủ định,

phá sản cũng chính là sự phủ định cần thiết để kinh tế có bước phát triển cao hơn.

Tóm lại, nhìn từ góc độ kinh tế, phá sản là một thuật ngữ chỉ tình trạng làm ăn

thua lỗ, quẫn bách đến mức không thể trả được các món nợ dù có bán hết mọi tài

sản hiện có. Phá sản là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường, nó hiện

hữu như một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của

nền kinh tế thị trường.

1.2 Phá sản theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật

Phá sản đã có từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ biến thì nó chỉ

xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế này, cùng với các quyền

cơ bản khác của công dân, quyền tự do kinh doanh đã rất được Nhà nước tôn trong,

đề cao và bảo vệ. Với tư cách là một quyền cơ bản của công dân, quyền tự do kinh

doanh có nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều bộ phận cấu thành như quyền tự do thành

lập doanh nghiệp; quyền tự do quyết định quy mô kinh doanh; quyền tự do lựa chọn

ngành nghề, mặt hàng kinh doanh; quyền tự do định đoạt các vấn đề phát sinh trong

khi hành nghề; quyền tự do thiết lập các quan hệ kinh tế; quyền tự do lựa chọn cơ

quan giải quyết tranh chấp; quyền tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Như

vậy, tự do cạnh tranh như một bộ phận cấu thành rất quan trọng của quyền tự do

kinh doanh đã tạo tiền đề pháp lý để các doanh nghiệp tham gia vào các cuộc chiến

với nhau nhằm giành giật thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Cũng như mọi cuộc

chiến khác, cuộc chiến giữa các nhà kinh doanh cũng mang lại những hậu quả nhất

định cho bên thua cuộc: Phá sản. Xét trên quan điểm của pháp luật mà nói thì Phá

5

sản cũng là một quyền của doanh nghiệp và đã là quyền thì được pháp luật bảo vệ.

Thêm vào đó, bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì luôn có

một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp do làm ăn kém hiệu quả, nợ nần chồng

chất, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính đến hạn nên buộc phải chấm

dứt sự tồn tại của mình và rút khỏi thị trường. Trong điều kiện như vậy, một vấn đề

đặt ra mà Nhà nước nào cũng phải quan tâm giải quyết là làm sao tạo điều kiện để

doanh nghiệp con nợ này rút khỏi thương trường một cách êm thấm, có trật tự và ít

gây ra hậu quả xấu cho các chủ thể có liên quan nói riêng và cho xã hội nói chung.

Muốn thực hiện được các mục tiêu này thì Nhà nước không thể đứng ngoài cuộc mà

phải can thiệp bằng cách ban hành pháp luật để xử lý một loạt các vấn đề liên quan

đến việc doanh nghiệp mắc nợ. Ví dụ, Nhà nước phải quy định khi nào và với điều

kiện gì thì một doanh nghiệp con nợ bị coi là đã lâm vào tình trạng phá sản; ai có

quyền làm đơn yêu cầu việc giải quyết phá sản; cơ quan nào trong bộ máy nhà nước

có nghĩa vụ giải quyết việc phá sản; thủ tục Toà án thụ lý và giải quyết vụ phá sản;

cơ chế quản lý tài sản của con nợ lâm vào tình trạng phá sản; thành phần, nhiệm vụ,

quyền hạn của thiết chế thực hiện việc quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào

tình trạng phá sản; tài sản phá sản gồm những gì; khi giải quyết phá sản thì có

những tài sản nào của con nợ không được đem chia cho các chủ nợ; thứ tự ưu tiên

thanh toán từ tài sản phá sản; con nợ có phải tiếp tục trả cho các chủ nợ các khoản

nợ còn thiếu chưa được trả hay không, v.v … Tất cả những vấn đề đó cần phải được

Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật mà giải quyết một cách

thấu đáo, hợp tình, hợp lý. Tổng hợp những văn bản pháp luật này tạo thành một

lĩnh vực pháp luật được gọi là pháp luật về phá sản mà xương sống của nó là Luật

Phá sản. Tóm lại, vì có phá sản nên phải có pháp luật về phá sản và pháp luật về phá

sản là tổng thể các văn bản do Nhà nước ban hành, trong đó quy định về dấu hiệu

của tình trạng phá sản; điều kiện áp dụng các thủ tục phá sản (thủ tục phục hồi, thủ

tục thanh lý); địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố tụng phá sản; trình tự tiến

hành việc giải quyết phá sản; thứ tự ưu tiên thanh toán từ tài sản phá sản và các vấn

đề khác có liên quan đến việc giải quyết một vụ phá sản cụ thể.

Nói cách khác từ góc độ pháp luật, khi một thương gia, một doanh nghiệp bị phá

6

sản thì theo quy định của pháp luật Toà án sẽ tuyên bố thương gia, doanh nghiệp đó

bị phá sản. Tuyên bố phá sản là một thủ tục pháp lý bắt buộc với những quy trình,

những bước cụ thể đã được pháp luật ấn định. Với cách tiếp cận này “tuyên bố phá

sản là thủ tục thanh toán tài sản của con nợ bị phá sản để trang trải cho các chủ nợ bị liên quan” 2. Do đó, về mặt pháp lý, khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản,

hàng loạt các vấn đề pháp lý sẽ phát sinh và kéo theo những hậu quả pháp lý khác

nhau cho những người liên quan.

2. Sự tác động của phá sản

Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Nó là hiện tượng

kéo theo những hệ quả kinh tế xã hội nhất định và tác động đến nhiều mặt của đời

sống kinh tế xã hội và pháp luật.

2.1. Về mặt tiêu cực

Phá sản thường gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng đến việc phát triển sản xuất,

ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động.

Nhìn nhận một cách tổng quát từ các nước có nền kinh tế phát triển đến các

nước chậm phát triển thì vấn đề nạn thất nghiệp của người lao động là một vấn đề

nổi cộm được các quốc gia quan tâm và tìm cách hạn chế. Có nhiều nguyên nhân

dẫn đến thất nghiệp nhưng không có nguyên nhân nào khiến số người đang lao

động bị rơi vào tình trạng thất nghiệp nhiều và nhanh chóng như nguyên nhân phá

sản. Đối với bản thân người lao động, phá sản doanh nghiệp làm cho họ mất việc

làm, mất thu nhập ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, miếng cơm manh áo của chính

bản thân và gia đình người lao động. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này các quốc

gia cần có những biện pháp tích cực để hạn chế những ảnh hưởng xấu của phá sản

doanh nghiệp đến đời sống người lao động như bồi thường thiệt hại cho người thất

nghiệp, trả lương bảo hiểm, giúp họ tìm công việc khác…

Bên cạnh những tác động trên, phá sản còn có nhiều tác động xấu đến sự phát

triển kinh tế. Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì doanh nghiệp khác là bạn hàng

7

của doanh nghiệp cũng phải chịu ảnh hưởng theo kiểu dây chuyền- người không 2 GS. TS. Nguyễn Thị Mơ, Hoàng Ngọc Thiết (2005), Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, Nhà xuất bản Giáo dục, tr 115.

bán được hàng kẻ không cung cấp được sản phẩm (nếu doanh nghiệp bị phá sản

trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc không có nguyên vật liệu cho sản xuất (

nếu doanh nghiệp bị phá sản là doanh nghiệp bán nguyên vật liệu cho họ)… Thêm

vào đó chủ nợ của doanh nghiệp bị phá sản không đòi được nợ dẫn đến thiếu vốn

đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc trang trải cho các khoản nợ mà họ

vay từ chủ nợ khác. Đặc biệt nếu doanh nghiệp bị phá sản là một doanh nghiệp lớn

thì sự tác động của nó tới nền kinh tế là rất tồi tệ.

Nói đến tác động tiêu cực của phá sản phải nói đến hai vụ phá sản điển hình

trong lĩnh vực tài chính, một của Nhật Bản, một của Mỹ:

Thứ nhất là trường hợp Ngân hàng SFCG (Nhật Bản) đệ đơn xin phá sản ngày

23/2/2009. Ngân hàng SFCG là ngân hàng chuyên cung cấp vốn vay cho các doanh

nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản. Đây là vụ phá sản lớn nhất ở Nhật kể từ tháng

3/2002 sau vụ sụp đổ của nhà thầu xây dựng Sato Kogyo với số nợ 450 tỷ Yên.

Ngân hàng đang phải chịu một khoản nợ là 338 tỷ Yên, và phải đi vay nợ rất nhiều

từ các ngân hàng ngoại quốc trong đó có đại gia Citigroup. Tính tới 31/7/2008

SFCG nợ Citigroup 31 tỷ Yên. Sự phá sản Ngân hàng SFCG cũng đồng nghĩa với việc 109 chi nhánh bị đóng cửa và 1.528 nhân viên bị mất việc3.

Thứ hai là vụ phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ đã làm chấn

động thị trường toàn cầu. Lehman Brothers (thành lập năm 1850 bởi ba anh em

Henry, Emanuel và Mayer Lehman người Do Thái từ Đức di cư sang) là một tập

đoàn chứng khoán và tập đoàn ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Hoa Kỳ. Lĩnh vực

chính của tập đoàn là ngân hàng đầu tư, buôn bán cổ phiếu và trái phiếu, nghiên cứu

thị trường, quản lý đầu tư, và ngân hàng tư nhân. Tập đoàn đặt trụ sở chính ở Thành

phố New York, và hai trụ sở khác ở London và Tokyo, cũng như nhiều văn phòng

đại diện khắp thế giới. Ngày 15 tháng 9 năm 2008, tập đoàn tuyên bố phá sản với

khoản nợ 613 tỷ đôla Mỹ sau khi không có công ty nào chấp nhận mua lại. Đây là

3 Website của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam: http://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=6186&Itemid=31

8

vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nguồn gốc của vụ phá sản này

là từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Những năm đầu của thập niên 2000,

BNC Mortgage - một công ty con của Lehman Brothers - đã tích cực cho vay thứ

cấp đối với các dự án nhà ở. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp đã làm công

ty này thua lỗ nặng. Lehman Brothers đã quyết định đóng cửa công ty con này của

mình vào tháng 8 năm 2007. Tuy nhiên không chỉ riêng BNC Mortgage mà cả tập

đoàn Lehman Brother đều tích cực tham gia cho vay nhà ở thứ cấp. Việc chứng

khoán hóa các khoản cho vay không gặp thuận lợi bởi lãi suất không hấp dẫn. Đến

năm 2008, công ty lỗ nặng chưa từng thấy. Kết quả là riêng trong nửa đầu năm

2008, cổ phiếu của Lehman Brothers mất giá tới 70%. Lehman Brothers phá sản

đồng nghĩa với việc có khoảng 26.200 nhân viên bị mất việc. Nghiêm trọng hơn là

tác động của nó tới thị trường chứng khoán toàn cầu. Ngay sau khi có tin Lehman

Brothers phá sản, các thị thường chứng khoán đều đồng loạt giảm giá: chỉ số Down

Jones Mỹ sụt giảm 2,6%; chỉ số FTSE tại thị trường chứng khoán London giảm 3%;

các thị trường chứng khoán Pháp và Đức cũng giảm hơn 3%; chỉ số Nikkei của

Nhật đã giảm tới 4,7%; đặc biệt là thị trường Nga đã phải tạm ngừng dao dịch sau khi chỉ số giảm tới 16% 4. Chỉ số chứng khoán giảm mạnh đe doạ đến sự sụp đổ của

hàng loạt các công ty khác và đẩy hàng nghìn người trên toàn thế giới vào tình trạng

thất nghiệp.

2.2. Về mặt tích cực

Dưới một cách nhìn khác, phá sản cũng đem lại những ảnh hưởng tích cực đến

nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội.

Xét về mặt kinh tế thì phá sản là một giải pháp hữu hiệu để “cơ cấu lại” nền kinh

tế, có thể ví phá sản như dọn vườn, dọn sạch cỏ dại để cây trồng phát triển. Phá sản

góp phần hình thành, duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp còn đủ sức đứng

vững trong điều kiện cạnh tranh nghiệt ngã. Phá sản giữ một vai trò đặc biệt quan

trọng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Phá sản góp phần loại bỏ

những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả ra khỏi nền kinh tế và giữ lại những

4 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.shtml

9

doanh nghiệp mà ở chúng sức cạnh tranh tốt hơn, làm ăn có lãi hơn. Thực tế đã

chứng minh rằng, trong nền kinh tế thị trường chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm

ăn có hiệu quả, sự cạnh tranh bao giờ cũng đem lại kết cục nghiệt ngã cho các

doanh nghiệp yếu hơn nhưng nó lại là quy luật muôn thuở của nền kinh tế thị

trường mà ở đó lợi nhuận là trung tâm còn cạnh tranh là động lực.

Bên cạnh tác động trên, phá sản chưa phải là dấu chấm hết đối với một doanh

nghiệp. Trên thế giới đã chứng kiến nhiều nhà đầu tư thành công từ những doanh

nghiệp phá sản. Dưới đây là hai vụ phá sản điển hình của hai công ty đại chúng ở

Mỹ minh chứng cho luận điểm trên:

Thứ nhất là Công ty Kmart, một trong những hãng bán lẻ giá rẻ đầu tiên ở Mỹ,

nộp đơn xin phá sản vào tháng 1/2002 sau khi doanh số và lợi nhuận sụt giảm,

khiến công ty rơi vào tình trạng kẹt tiền mặt nghiêm trọng. Trái phiếu doanh nghiệp

do Kmart phát hành không còn bán được nữa, trong khi các nhà cung cấp lưỡng lự

giao hàng nhận tiền sau. Kmart coi suy thoái kinh tế Mỹ năm 2001 và sự cạnh tranh

của các đối thủ khác là lý do dẫn tới khó khăn của hãng, nhưng trên thực tế là hãng

không còn đủ sức hấp dẫn với người tiêu dùng.

Trong quá trình phá sản, Kmart đóng cửa hàng trăm trong số khoảng 2.000 cửa

hàng của mình - một hoạt động thường gặp trong trường hợp phá sản của các hãng

bán lẻ. Bên cạnh đó, hãng còn cắt giảm việc làm, hợp nhất các văn phòng và thanh

lý hàng tồn kho.

Một nhà đầu tư là Eddie Lampert nhận thấy giá trị hấp dẫn ở nhiều tài sản bất

động sản của công ty này nên đẩy mạnh mua vào trái phiếu của hãng. Sau khi

Kmart hoàn tất quá trình phá sản kéo dài 455 ngày, Lampert trở thành chủ tịch của

hãng. Ở vai trò này, Lampert đã bán phần lớn những tài sản bất động sản có giá trị

nhất của Kmart, và sau đó, sáp nhập Kmart với hãng bán lẻ Sears vào năm 2004. Vụ

sáp nhập trị giá lên đến 12,3 tỷ USD này đã đẩy giá cổ phiếu của Sears lên 22% và

của Kmart lên 16% không lâu sau khi vụ sáp nhập công bố. Và kể từ ngày Kmart tự

đứng dậy sau khi phá sản từ tháng 5/2003, giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến

700% tính đến mùa xuân 2005. Như vậy, bằng cách sáp nhập Công ty Kmart đã tìm

10

lại được vị trí của mình sau khi tuyên bố phá sản.

Thứ hai là hãng hàng không Continental Airlines của Mỹ thì từng phá sản tới 2

lần, vào các năm 1983 và 1990. Đầu thập niên 1980, do phải đối mặt với suy thoái

và sự nới lỏng giám sát trong ngành hàng không Mỹ, Continental rơi vào một cuộc

chiến với các tổ chức công đoàn trong chuyện giảm tiền công và buộc phải nộp đơn

xin bảo hộ phá sản.

Vào năm 1990, Continental lại phá sản tiếp lần nữa. Tuy nhiên, lần này, hãng

phá sản vì những lý do khác. Giá nhiên liệu tăng cao cộng với nợ nần chồng chất vì

chiến lược mua lại - “tác phẩm” của vị Chủ tịch đã phá vỡ thỏa thuận với công đoàn

cách đó gần 1 thập kỷ - đã khiến Continental không còn lựa chọn nào khác. Vài

tháng sau khi nỗ lực hết sức để thoát nguy cơ phá sản, chẳng hạn bán một số tuyến

bay quốc tế cho hãng Delta, không đem lại kết quả, Continental lại nộp đơn lên tòa

án xin tuyên bố phá sản.

Vì mục tiêu của Luật phá sản Mỹ là tái tạo lại doanh nghiệp bằng cách cho phép

doanh nghiệp, cá nhân đang ở trong tình trạng vỡ nợ có thể nộp “đơn xin bảo hộ

phá sản”. Khi đó, các doanh nghiệp cá nhân này được phép hoàn nợ trong vòng 5

năm nên với đơn xin phá sản giúp Continental tiếp tục hoạt động, một phần do tòa

án buộc các hãng hàng không là đối tác của Continental duy trì thực hiện nghĩa vụ

đối với hãng hàng không này, trong khi Continental có thể từ chối thanh toán cho

các chủ nợ. Hai năm rưỡi sau khi phá sản, Continental trở thành một hãng hàng

không độc lập và hiện là hãng hàng không lớn thứ 9 trên thế giới.

Với hai ví dụ nêu trên, có thể thấy phá sản, ở một chừng mực nhất định, do

những tác động của Pháp luật phá sản thông qua sự hỗ trợ tích cực của Toà án,

nhiều doanh nghiệp đã phục hồi hoạt động kinh doanh, được tái tạo lại tốt hơn và do

đó hoạt động hiệu quả hơn trước.

II. Pháp luật về phá sản

1. Sự cần thiết phải có pháp luật phá sản

Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung do kiểm soát và định đoạt mọi nguồn

11

lực sản xuất, Nhà nước trở thành một xí nghiệp khổng lồ, các đơn vị kinh doanh

không có động lực để cạnh tranh, sự tồn tại của chúng được duy trì theo ý chí của

Nhà nước. Kinh tế bao cấp không cần tới luật phá sản. Dấu hiệu sụp đổ của mô hình

này có thể nhận thấy khi các doanh nghiệp "vượt rào", ngày càng giành lấy nhiều

quyền tự chủ trong hoạch định và tổ chức kinh doanh. Cùng với sự gia nhập của đầu

tư nước ngoài, sự tự do kinh doanh cho tư nhân, môi trường cạnh tranh tái xuất hiện

và trở nên gay gắt nhanh chóng ngay trên thị trường nội địa, vai trò của Nhà nước

với tư cách là một chủ đầu tư chịu trách nhiệm hữu hạn trong các doanh nghiệp Nhà

nước mới dần dần hiện rõ. Khi tự do kinh doanh và cạnh tranh tái xuất hiện, nhu cầu

điều tiết vỡ nợ các đơn vị kinh tế vốn thuộc quyền quản lý của Nhà nước mới trở

nên cấp bách. Đáng lưu ý: nhu cầu điều chỉnh cấp bách bậc nhất của pháp luật phá

sản trong các quốc gia chuyển đổi chính là các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ hàng

loạt khi bước vào cạnh tranh với một tư thế thiếu năng động so với khu vực kinh tế

tư nhân và tư bản nước ngoài. Năm 1986 Trung Quốc ban hành một đạo luật phá

sản, chỉ áp dụng riêng cho khối doanh nghiệp Nhà nước. Vì thế, đối với nhiều quốc

gia như ở Liên Xô cũ, Trung và Đông Âu và Việt Nam, pháp luật phá sản trước hết

được dùng như một công cụ tái cơ cấu, giải quyết sự vỡ nợ hàng loạt của các doanh

nghiệp Nhà nước đang chuyển đổi sang các hình thức doanh nghiệp khác.

Ngoài ra, như đã nói ở trên, phá sản là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị

trường nên việc một công ty bị phá sản ảnh hưởng đến nhiều đối tượng liên quan,

gây ra nhiều tác động đối với các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Do vậy cần thiết

có một đạo luật điều chỉnh về vấn đề này. Đó là lý do cho thấy sự cần thiết khách

quan phải có pháp luật về phá sản như là một lĩnh vực pháp luật độc lập.

2. Mục đích và vai trò của Pháp luật phá sản

2.1 Mục đích của pháp luật phá sản:

Mục đích chính của pháp luật phá sản ở hầu hết các quốc gia là chính phủ muốn

tạo lối thoát nhân đạo cho những doanh nghiệp lâm vào tình trạng tài chính khó

khăn, hoặc không có khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, tuỳ theo luật pháp từng nước mà

12

pháp luật phá sản còn bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, con nợ và người lao động.

2.2 Vai trò của Pháp luật phá sản

2.2.1. Pháp luật phá sản là công cụ pháp lý bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi

ích hợp pháp của các chủ nợ.

Trong kinh doanh, việc nợ nần lẫn nhau là hiện tượng bình thường, ít doanh

nghiệp nào có thể tránh khỏi. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên có quyền đòi nợ

thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp khởi kiện ra

Toà án. Tuy nhiên, việc đòi nợ bằng con đường kiện tụng ra Toà dân sự, Toà kinh tế

nhiều khi không thể giải quyết được một cách thoả đáng quyền và lợi ích hợp pháp

của các nhà kinh doanh. Vì vậy, bên cạnh tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế với tư

cách là các thủ tục đòi nợ thông thường, Nhà nước phải thiết kế thêm một cơ chế

đòi nợ đặc biệt nữa để các chủ nợ, khi cần thì có thể sử dụng để đòi nợ, đó là thủ tục

phá sản. Tính ưu việt của cơ chế đòi nợ thông qua thủ tục phá sản là ở chỗ, việc đòi

nợ được bảo đảm bằng việc Toà án có thể tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của con nợ

và thông qua đó mà bán toàn bộ tài sản của nó để trả cho các chủ nợ. Mặc dù ngày

nay, tố tụng phá sản còn phải thực hiện thêm một số mục tiêu nữa, trong đó có mục

tiêu giúp doanh nghiệp con nợ phục hồi (tức là bảo vệ cả lợi ích của con nợ) nhưng

về cơ bản, tố tụng phá sản từ khi ra đời đến nay vẫn là loại tố tụng tư pháp được đặt

ra nhằm trước hết và chủ yếu là để bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Việc ưu tiên bảo

vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ đã làm cho thủ tục phá sản trở thành một công cụ

pháp lý có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư của các nhà kinh

doanh. Từ khi có Luật phá sản, các nhà kinh doanh sẽ yên tâm hơn vì các món nợ

của họ đã có một cơ chế tốt hơn để được bảo vệ.

Pháp luật phá sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ sự quan tâm của Nhà nước đối với

việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Điều này được thể hiện qua

hàng loạt các quy định pháp luật liên quan đến quyền năng của chủ nợ như: quyền

nộp đơn yêu cầu mở thủ tục giải quyết phá sản (Điều 13, LPS 2004), quyền khiếu

nại Danh sách chủ nợ (Khoản 2, Điều 52, LPS 2004), quyền có đại diện trong thiết

chế quản lý tài sản và thanh toán tài sản (Khoản 1, Điều 83, LPS 2004), quyền đề

13

xuất, thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của con nợ (Điều 70,71

LPS 2004), quyền được khiếu nại quyết định tuyên bố phá sản (Khoản 1, Điều 91,

LPS 2004), v.v...

2.2.2. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ, tạo cơ hội để con nợ rút

khỏi thương trường một cách trật tự.

Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt ra vấn đề bảo vệ con nợ. Lúc đó,

người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá sản là một phạm

nhân, do đó, họ không những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt bằng nhiều

hình thức, kể cả phạt tù. Ví dụ, Luật phá sản đầu tiên của Anh năm 1542 quy định

“phải treo cổ tất cả con nợ” để răn đe các thương gia làm ăn thua lỗ. Ngày nay, quan

niệm về việc kinh doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của Nhà nước và

pháp luật đối với con nợ lâm vào tình trạng phá sản cũng đã được thiết kế theo

hướng tích cực, có lợi cho con nợ. Hoạt động kinh doanh là một hoạt động chứa

đựng nhiều rủi ro. Do sự biến động khó lường của thị trường và các yếu tố khách

quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến hạn đều có thể

xảy ra bất cứ lúc nào đối với nhà kinh doanh. Mặt khác, một doanh nghiệp bị phá

sản thì có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, mà trước hết là đối với

người lao động và các chủ nợ. Chính vì vậy mà ngày nay, khi các doanh nghiệp bị

lâm vào tình trạng phá sản thì vấn đề đầu tiên mà Nhà nước quan tâm giải quyết

không phải là việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản ngay và phân chia tài sản của nó

cho các chủ nợ mà là việc phải tìm mọi cách để giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi

tình trạng khó khăn này. Điều đó giải thích tại sao, pháp luật của đa số các nước đều

quy định nhiều hình thức phục hồi khác nhau để doanh nghiệp lâm vào tình trạng

phá sản lựa chọn, áp dụng nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp này phục hồi lại

khả năng kinh doanh của mình.

Đặc biệt ở Mỹ, pháp luật phá sản nước này rất khoan hồng đối với các cá nhân

và doanh nghiệp khi họ lâm vào tình trạng không trả được nợ. Đối với cá nhân

chúng ta thì có hai loại phá sản: Loại thứ nhất được quy định tại chương VII cho

phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể “thanh toán” –được xoá nợ- hầu hết các

14

khoản nợ không có thế chấp. Loại phá sản này không giúp cho cá nhân giữ được tài

sản của mình trước những khoản nợ có bảo đảm, tức là khi vay người vay phải thế

chấp tài sản, chẳng hạn như đất đai, của mình; Loại thứ hai được quy định tại

chương XIII cho phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể trả dần từng phần

khoản nợ trong một khoảng ân hạn từ ba đến năm năm. Đến cuối kỳ thanh toán, nếu

người vay nợ đã dùng hết thu nhập của mình để trả nợ theo kế hoạch thì số nợ còn

lại sẽ bị xóa. Loại này có thể dùng để thanh toán những khoản nợ có bảo đảm quá

hạn mà không bị mất tài sản thế chấp. Luật phá sản áp dụng cho doanh nghiệp hơi

khác một chút. Một số doanh nghiệp có thể tiếp tục kinh doanh theo quy định tại

chương XI khi họ tái cơ cấu lại các khoản nợ. Vì vậy, khác với hầu hết các quy định

về phá sản trên thế giới, luật pháp Mỹ cho phép một công ty phá sản được tiếp tục

hoạt động dưới sự lãnh đạo của đội ngũ quản lý cũ khi công ty này cố gắng tái cơ

cấu lại các khoản nợ. Nói cách khác là về mặt cơ bản thì không có sự chỉ định người

giám sát công ty. Một số người cho rằng hệ thống này, hệ thống có tên là người vay

nợ bị khống chế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm bởi nhiều

công ty vẫn được tiếp tục kinh doanh và tài sản của các công ty được bảo vệ.

Ở Việt Nam, pháp luật phá sản cũng đã được xây dựng theo khuynh hướng này.

Cụ thể là, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và gần đây là Luật Phá sản 2004 đã

không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ mà còn bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp cho cả doanh nghiệp mắc nợ và đặc biệt là đã không coi phá sản là

một tội phạm như quan niệm của một số nước trên thế giới. Điều này có thể thấy

qua việc pháp luật quy định hàng loạt những quyền cho doanh nghiệp mắc nợ trong

quá trình giải quyết phá sản. Chẳng hạn, kể từ thời điểm Toà án ra quyết định mở

thủ tục phá sản doanh nghiệp, tất cả quyền đòi nợ đều được đình chỉ và giải quyết

theo một thủ tục chung duy nhất do Toà án tiến hành, đồng thời nghiêm cấm việc

đòi nợ một cách riêng lẻ. Pháp luật phá sản của nhiều nước đã tạo điều kiện tối đa

cho doanh nghiệp mắc nợ khắc phục khó khăn về tài chính, thoát khỏi tình trạng

phá sản để trở lại hoạt động bình thường, mà không quy định bắt buộc Toà án phải

tuyên bố phá sản ngay khi có đơn yêu cầu. Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục

phá sản, doanh nghiệp mắc nợ cũng có quyền xây dựng phương án hoà giải và giải

15

pháp tổ chức lại sản xuất kinh doanh trình Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua (Điều

64 LPS 2004). Toà án chỉ ra quyết định mở thủ tục thanh lý khi Hội nghị chủ nợ

không thông qua phương án tổ lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, hay trong trường

hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không thành công phương án tổ

chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh đã được Hội nghị chủ nợ thông qua. Ngoài

ra, con nợ còn có quyền cử người đại diện tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản

(Điều 9, Luật PSDN 1993) ... Khi có quyết định mở thủ tục thanh lý, tài sản còn lại

của doanh nghiệp sẽ được thanh toán cho các chủ nợ theo thứ tự nhất định; sau khi

thanh toán, mọi khoản nợ của doanh nghiệp, cho dù chưa được thanh toán đầy đủ

cũng được coi là đã thanh toán và các chủ nợ không có quyền đòi nợ nữa, trừ một

vài ngoại lệ được quy định trong Luật phá sản của từng nước.

2.2.3. Pháp luật phá sản góp phần vào việc bảo vệ lợi ích của người lao động

Phá sản không chỉ gây ra hậu quả xấu cho các chủ nợ, con nợ mà còn cho cả

người lao động. Điều này trước hết thể hiện ở chỗ, chính vì có phá sản mà người lao

động phải mất việc làm, lâm vào tình cảnh thất nghiệp. Do vậy, muốn bảo vệ người

lao động, trước hết là phải làm sao để doanh nghiệp không bị phá sản. Cơ chế phục

hồi doanh nghiệp được pháp luật đề ra chính là để thực hiện chủ trương này vì trên

thực tế, cứu được doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản cũng chính là cứu

được người lao động thoát khỏi tình trạng thất nghiệp. Nhưng mặt khác, khi người

lao động làm việc mà không được trả đủ lương trong một thời gian dài thì Nhà nước

cũng cần phải tạo ra một phương thức nào đó để họ có thể đòi được số tiền lương

mà doanh nghiệp nợ. Để thực hiện được mục tiêu này, pháp luật phá sản phải quy

định cho họ một số quyền như được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền

được tham gia quá trình giải quyết vụ việc phá sản, quyền được ưu tiên thanh toán

nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác mà họ được hưởng trước các khoản nợ

thông thường của doanh nghiệp ...

Và đây là điểm mà pháp luật phá sản của Việt Nam đặc biệt đưa ra nhiều các

quy định. Ví dụ, Điều 14 LPS 2004 quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá

sản của người lao động “Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được

16

lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác

xã lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động cử người đại diện hoặc thông qua

đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp

tác xã đó.”

2.2.4. Pháp luật phá sản góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

Theo lẽ thường, khi mà con nợ có quá nhiều chủ nợ nhưng lại có quá ít tài sản

để thanh toán nợ thì việc các chủ nợ tranh giành nhau tài sản của con nợ là điều rất

có thể xảy ra. Nếu cứ để các chủ nợ “mạnh ai nấy làm”, tuỳ nghi “xiết nợ”, tự do

tước đoạt tài sản của con nợ một cách vô tổ chức, không công bằng thì trật tự, an

toàn xã hội sẽ không được bảo đảm. Vì vậy, Nhà nước nào cũng cần phải có biện

pháp để can thiệp vào việc đòi nợ này nhằm tránh được các hệ quả tiêu cực như vừa

nêu trên. Thủ tục phá sản chính là một công cụ pháp lý có khả năng giúp Nhà nước

đưa ra được nhiều cơ chế để thực hiện được việc thanh toán nợ một cách công bằng

giữa các chủ nợ. Căn cứ vào pháp luật phá sản, Toà án sẽ thay mặt Nhà nước đứng

ra giải quyết một cách công bằng, khách quan mối xung đột về lợi ích giữa các chủ

nợ và con nợ và điều đó sẽ góp phần đảm bảo trật tự, an toàn trong xã hội.

Theo LPS 2004, Toà án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền

giải tiến hành thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã. Khi mở thủ tục

phá sản, Tổ quản lý và thanh lý tài sản được thành lập để làm nhiệm vụ quản lý

thanh lý tài sản, Hội nghị chủ nợ cũng đuợc thành lập để đảm bảo công bằng quyền

lợi của chủ nợ.

2.2.5. Pháp luật phá sản góp phần làm lành mạnh hoá nền kinh tế

Cùng với những pháp luật kinh tế khác, pháp luật phá sản cũng góp phần làm

lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả

hơn. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, phá sản và pháp luật phá sản là công cụ răn đe các nhà kinh doanh,

buộc họ phải năng động, sáng tạo nhưng cũng phải thận trọng trong khi hành nghề.

Một thái độ hành nghề, trong đó có sự kết hợp giữa tính năng động, sáng tạo và tính

17

cẩn trọng là hết sức cần thiết vì nó giúp các nhà kinh doanh đưa ra được những

quyết định hợp lý - tiền đề cho sự làm ăn có hiệu quả của từng doanh nghiệp. Sự

làm ăn có hiệu quả của các doanh nghiệp riêng lẻ đương nhiên sẽ kéo theo sự làm

ăn có hiệu quả của cả nền kinh tế nói chung.

Thứ hai, pháp luật phá sản không chỉ là công cụ răng đe, buộc các doanh nghiệp

phải luôn tự hoàn thiện mình để tồn tại và phát triển mà còn là cơ sở pháp lý để xoá

bỏ các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, tạo ra môi trường kinh doanh lành

mạnh cho các nhà đầu tư. Thông qua thủ tục phá sản, những doanh nghiệp thua lỗ

triền miên, nợ nần chồng chất như những “con bệnh” trong nền kinh tế đều phải

được xử lý, đưa ra khỏi thương trường. Như vậy, thủ tục phá sản đã góp phần tạo ra

môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh - một yếu tố không thể thiếu được cho sự

phát triển bền vững của nền kinh tế.

3. Một số điểm lƣu ý trong các quy định của pháp luật phá sản của các

nƣớc trên thế giới:

Nghiên cứu pháp luật phá sản của các nước cho thấy có sự khác nhau trong các

quy định của pháp luật về những vấn đề liên quan đến phá sản. Điều này là hoàn

toàn dễ hiểu bởi mỗi quốc gia có một hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau và có

những nền văn hóa khác nhau.

Trong khuôn khổ bài khoá luận, người viết sẽ đi vào hai nội dung chính là quy

định về phạm vi áp dụng và khái niệm phá sản của Luật phá sản ở một số quốc gia

trên thế giới.

3.1. Phạm vi áp dụng của Luật phá sản.

Đây là vấn đề đầu tiên mà Luật phá sản các nước thường có cách quy định khác

nhau. Ví dụ, ở Việt Nam, ngoài các cơ quan nhà nước còn có các tổ chức chính trị,

tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; ngoài thương nhân (doanh

nghiệp và hộ kinh doanh cá thể) còn có các công dân nợ tiền của người khác mà

không thể thanh toán đúng hạn được. Vấn đề đặt ra là, tất cả các cá nhân, tổ chức,

cơ quan như vừa nêu trên có thể bị tuyên bố phá sản hay không, nghĩa là đối tượng

18

áp dụng của Luật phá sản bao gồm những ai. Ở Việt Nam, Luật phá sản doanh

nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004 đã coi vấn đề này là hết sức quan trọng

nên đã được đưa ra để xử lý ngay trong những điều khoản đầu tiên của luật (Điều 1

Luật PSDN 1993; Điều 2 LPS 2004) và cách xử lý cũng khác nhau.

Hiện nay, phạm vi áp dụng của Luật phá sản ở các nước khác nhau được quy

định là khác nhau. Lý do của sự quy định khác nhau này thì có nhiều, nhưng cơ bản

nhất là do điều kiện kinh tế - xã hội và năng lực hoạt động của Toà án ở các nước là

không giống nhau. Những nước mà ở đó kinh tế kém phát triển, kinh nghiệm giải

quyết phá sản chưa nhiều, văn hoá pháp lý của các nhà kinh doanh chưa cao, bộ

máy Toà án chưa đủ tầm về con người và trang thiết bị làm việc thì chắc chắn sẽ

không thể mở rộng phạm vi áp dụng của Luật Phá sản như ở các nước tiên tiến.

Cũng chính vì lý do đó mà hiện nay nhìn chung, trên thế giới có 3 cách xử lý vấn đề

về phạm vi áp dụng của Luật phá sản.

Theo cách thứ nhất, pháp luật phá sản chỉ áp dụng cho các chủ thể kinh doanh

(thương nhân), bao gồm thương nhân là pháp nhân (các công ty) và thương nhân là

thể nhân (cá nhân kinh doanh). Ví dụ: ở Latvia, thủ tục phá sản được áp dụng đối

với các doanh nghiệp (khái niệm doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh)5. Ở CHLB Nga, trước năm 2002, theo hai

đạo luật của CHLB Nga là Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) Xí nghiệp năm

1991 và Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) năm 1998 thì việc phá sản cũng

chỉ áp dụng cho các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân và các cá nhân kinh doanh

mà thôi. Tuy nhiên, ngày 27/9/2002, Duma Quốc gia Nga (Quốc hội) đã ban hành

và ngày 16/10/2002, Hội đồng Liên bang (tức Thượng Viện) Nga đã đồng ý thông

qua Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) mới, theo đó, phạm vi áp dụng của thủ

tục phá sản ở CHLB Nga đã được mở rộng ra cả các cá nhân tiêu dùng và đã dành hẳn một chương là Chương X để quy định về việc phá sản đối với chủ thể này6.

Theo cách thứ hai, pháp luật phá sản chỉ áp dụng cho các đối tượng là doanh

5 Tài liệu Hội thảo khoa học pháp luật phá sản của Latvia tổ chức tại Bộ Tư pháp tháng 11/2003 6 PSG. TS. Dương Đăng Tuệ và TS. Nguyễn Văn Tịnh chủ biên (2005), Những vấn đề liên quan đến việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật phá sản năm 2004, Nhà xuất bản Bộ Tư Pháp , tr 16.

19

nghiệp, tức là chỉ có con nợ nào được coi là doanh nghiệp thì mới có thể bị tuyên bố

phá sản. Như vậy là, các chủ thể kinh doanh khác, cho dù có đăng ký kinh doanh tại

cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng không được gọi là doanh nghiệp thì cũng

không thuộc phạm vi áp dụng của Luật phá sản. Một trong số rất ít những nước có

cách làm này là Việt Nam. Theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và Luật

Doanh nghiệp năm 1999 thì ở Việt Nam lúc đó có 2 loại thương nhân và họ được

gọi với hai tên khác nhau là doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể. Theo Luật PSDN 1993 và Luật Phá sản 2004 thì tuyên bố phá sản chỉ áp dụng cho một loại chủ

thể kinh doanh duy nhất là doanh nghiệp mà thôi, còn các hộ kinh doanh cá thể, khi

không trả được các món nợ đến hạn thì việc đòi nợ và trả nợ sẽ được thực hiện theo

cơ chế thông thường tức là đòi nợ thông qua tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế. Cụ

thể, Luật phá sản năm 2004 quy định đối tượng áp dụng Luật phá sản là “doanh

nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ( hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã gọi

chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật”

(Điều 2, LPS 2004). Ngoài Việt Nam, còn có Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là

nước thứ hai cũng có cách quy định hẹp như vậy về phạm vi áp dụng của Luật Phá

sản.

Theo cách thứ ba, tuyên bố phá sản không chỉ được áp dụng cho tất cả các loại

hình thương nhân (pháp nhân, cá nhân kinh doanh) mà còn cho cả cá nhân người

tiêu dùng. Sự mở rộng một cách tuyệt đối phạm vi áp dụng của Luật Phá sản như

vậy là nét đặc trưng trong Luật Phá sản một số nước tư bản phát triển như Nhật

Bản, Thuỵ Điển, CHLB Đức. Cụ thể:

+ Luật Phá sản Nhật Bản năm 2000 (đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần) quy

định “Bất kỳ một cá nhân hay một công ty nào, dù mục đích của nó có vì lợi nhuận

hay không để có thể trở thành chủ thể của phá sản” (trang 9, Chương 25 LPS Nhật

Bản). Tuy nhiên, các pháp nhân không phải là công ty mà có tính chất công như

Chính phủ trung ương và chính quyền địa phương thì không thuộc sự điều chỉnh

20

của thủ tục phá sản do bản chất công rất lớn của chúng.

+ Luật phá sản của Thuỵ Điển không có quy định nào hạn chế về đối tượng bị áp

dụng thủ tục phá sản. Điều này có nghĩa là, bất cứ tổ chức, cá nhân nào lâm vào tình

trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn cũng có thể bị áp dụng thủ tục phá sản.

+ Luật Phá sản CHLB Đức trước đây được áp dụng cho tất cả các chủ thể kinh

doanh bao gồm tổ chức (pháp nhân) và cá nhân có đăng ký kinh doanh. Sau khi

nước Đức thống nhất, đã nảy sinh một tình trạng là có rất nhiều cá nhân tiêu dùng

do vay nợ quá nhiều đã lâm vào tình trạng “vỡ nợ”, tức là không trả được các khoản

nợ đến hạn. Tình trạng này đặt ra nhu cầu cần mở rộng đối tượng áp dụng luật phá

sản cho cả cá nhân tiêu dùng. Chính vì vậy, Luật Phá sản mới của CHLB Đức đã

được ban hành năm 1999, theo đó, thủ tục phá sản đã được áp dụng cho cả các cá

nhân tiêu dùng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn (Điều 11,

Luật phá sản Đức năm 1999). Tuy nhiên, khác với thủ tục phá sản đối với doanh

nghiệp (công ty), thủ tục phá sản đối với cá nhân tiêu dùng được quy định với những nét đặc thù7.

Riêng đối với các con nợ là tổ chức tài chính ngân hàng, các công ty bảo hiểm

và một số tổ chức khác, nhìn chung, pháp luật phá sản các nước đều có những quy

định riêng về phá sản đối với các đối tượng này. Việc tuyên bố phá sản đối với các

chủ thể này là vấn đề rất nhạy cảm, dễ tác động xấu đến nền kinh tế. Vì vậy, chủ

trương chung của các nước là hạn chế tối đa việc tuyên bố phá sản các tổ chức này,

và vì vậy, thủ tục phá sản đối với chúng chỉ được tiến hành khi đã thực sự không

còn khả năng cứu vãn nữa.

3.2. Thế nào là tình trạng phá sản.

Thế nào là lâm vào tình trạng phá sản cũng là vấn đề mà pháp luật các nước có

những quy định khác nhau với những tiêu chuẩn không giống nhau.

Việc thương nhân lâm vào tình trạng phá sản là căn cứ để Toà án ra quyết định

mở thủ tục phá sản đối với thương nhân đó. Quyết định này của Toà án gây ra hậu

7 TS. Trương Hồng Hải Đại học Luật Hà Nội, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện, tr 66-70.

21

quả xấu về nhiều mặt cho nhiều đối tượng, nhất là cho con nợ. Ví dụ, quyết định mở

thủ tục phá sản có thể ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của nhà kinh doanh, đồng

thời hạn chế quyền quản lý tài sản và quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh

doanh của họ. Như vậy, sự quan niệm sai, không phù hợp với bản chất của sự việc

và thực tế khách quan thì nhất định sẽ gây hại không những cho từng thương nhân

cụ thể mà còn cho cả nền kinh tế nói chung. Vì vậy, việc xác định tình trạng phá sản

luôn được các nhà khoa học pháp lý, nhất là các chuyên gia về luật phá sản các

nước quan tâm nghiên cứu, xác định. Thông thường, tiêu chuẩn xác định một doanh

nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thường được Nhà nước ghi nhận ngay trong Luật

Phá sản để làm căn cứ pháp lý thống nhất và duy nhất cho Toà án áp dụng khi giải

quyết vụ việc phá sản. Ví dụ, theo Điều 2 Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản)

của CHLB Nga năm 2002 thì: “Tình trạng phá sản là tình trạng con nợ không có

khả năng thoả mãn một cách đầy đủ các yêu cầu của chủ nợ đối với các nghĩa vụ trả

tiền hoặc các món nợ bắt buộc phải trả khác”. Luật Phá sản của Nhật Bản không

đưa ra khái niệm chung về tình trạng phá sản mà chỉ đưa ra cơ sở của việc phá sản

nói chung và cơ sở của việc phá sản công ty nói riêng. Ví dụ, tại Điều 126 Luật phá

sản Nhật Bản năm 2000 quy định:

“1. Khi con nợ không thể thanh toán thì theo yêu cầu, Toà án phải tuyên bố

người đó phá sản bằng cách đưa ra phán quyết.

2. Nếu con nợ ngừng thanh toán thì con nợ được xem là không có khả năng

thanh toán.”

Như vậy, ở Nhật Bản, cơ sở của sự nhận định về việc con nợ đã lâm vào tình

trạng phá sản và do đó, có thể bị Toà án tuyên bố phá sản là việc con nợ đã không thanh toán được các món nợ đến hạn của mình8.

Ở Trung quốc, tuy khái niệm phá sản được quy định trong nhiều văn bản pháp

luật khác nhau như Luật Phá sản doanh nghiệp (Điều 3), Luật Tố tụng Dân sự (Điều

8 TS. Trương Hồng Hải Đại học Luật Hà Nội, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện, tr57-40.

22

1999), Luật Công ty (Điều 196) nhưng nhìn chung đều thống nhất với nhau ở một

điểm có tính chất nguyên tắc, đó là đều lấy việc con nợ không trả được các món nợ

đến hạn làm căn cứ để xác định doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản.

Ở Việt Nam, các nhà lập pháp ở các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng có quan

điểm về tình trạng phá sản như ở nhiều nước trên thế giới. Ví dụ, tại Điều 864 Bộ

luật Thương mại Sài Gòn 1972 đã viết “Thương gia ngưng trả nợ có thể đương

nhiên hoặc theo đơn xin của trái chủ, bị Toà tuyên án khánh tận”. Luật PSDN 1993

của Việt Nam khẳng định rằng “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh

nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng

các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn” (Điều

2). Quan điểm này của nhà lập pháp Việt Nam cũng đã được tiếp tục ghi nhận tại

Điều 3 Luật Phá sản năm 2004 như sau: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả

năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là đã lâm

vào tình trạng phá sản”.

Như vậy, bản chất của tình trạng phá sản là việc con nợ không có khả năng trả

các món nợ đến hạn của mình. Vì vậy, về cơ bản, khi con nợ ngừng trả nợ thì coi

như đã lâm vào tình trạng phá sản và lúc đó, các chủ nợ đã có cơ sở pháp lý để làm

đơn yêu cầu Toà án thụ lý giải quyết vụ việc phá sản mà họ là nguyên đơn.

Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau, do xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội

khác nhau nên có thể có các quan niệm khác nhau về cái gọi là lâm vào “tình trạng

phá sản”. Có nước, khi xác định tình trạng phá sản, ngoài yếu tố chung, cơ bản,

thiết yếu là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn còn phải có thêm một dấu hiệu nữa

là thời hạn chậm thanh toán. Ví dụ, theo Điều 3 Luật mất khả năng thanh toán (Phá

sản) của CHLB Nga năm 2002 thì các thể nhân, pháp nhân chỉ bị coi là đã lâm vào

tình trạng phá sản nếu sau 3 tháng, kể từ ngày đến hạn phải trả mà họ không trả

được các món nợ đến hạn đó. Sự quy định thêm về thời gian chậm thanh toán có ý

nghĩa nhất định, nhằm khẳng định thêm tính trầm trọng của tình trạng mất khả năng

thanh toán của con nợ. Ngoài ra, một số nước còn bổ sung thêm một dấu hiệu nữa

23

vào khái niệm tình trạng phá sản là con nợ không thể thanh toán được một khoản

tiền tối thiểu nào đó. Ví dụ, theo Luật Phá sản của Singapore năm 19999 thì con nợ

sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản khi không trả được số nợ đến hạn ít nhất là 5.000 Đô

la Singapore. Theo Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) của CHLB Nga năm

2002 thì số tiền đó đối với pháp nhân là không dưới 100.000 Rúp (tương đương

2.828 USD) và đối với cá nhân là không dưới 10.000 Rúp (tương đương 282,8

USD) (Điều 6). Ở Mỹ, số tiền này là không dưới 10.000 USD. Mục đích của việc

quy định này là nhằm khuyến khích các chủ nợ và con nợ tự tìm cách giải quyết êm

thấm các vụ tranh chấp có quy mô nhỏ bằng những hình thức khác thay vì đưa nó ra

Toà án để giải quyết theo thủ tục phá sản nhằm giúp tiết kiệm thời gian, công sức,

tiền bạc cho các đương sự và Nhà nước.

Những phân tích ở trên cho thấy đặc điểm của pháp luật phá sản với ý nghĩa là

lĩnh vực pháp luật độc lập trong hệ thống pháp luật các nước.

II. Luật phá sản Việt Nam năm 2004

1. Sự cần thiết phải ban hành Luật phá sản năm 2004

Ở Việt Nam quá trình hình thành và phát triển của Pháp luật phá sản có những

hoàn cảnh lịch sử đặc thù và có lẽ chính những điều đó đã tạo ra những đặc điểm

riêng của bộ phận pháp luật này. Có thể khái quát như sau:

Trong thời kỳ Pháp thuộc, cùng với Bộ luật thương mại Pháp, chế định pháp luật

về phá sản đã được áp dụng ở Nam Kỳ từ năm 1864 và Bắc Kỳ từ năm 1888.

Năm 1942 triều đình Huế ban hành Bộ luật thương mại áp dụng cho phần lãnh

thổ Trung kì từ năm 1944. Đây là một văn bản pháp luật thể hiện rõ sự vay mượn

Pháp luật phá sản của Pháp với quan điểm hà khắc trong việc xử lý phá sản, theo đó

người vỡ nợ được xem như tội phạm.

Tại miền Nam Việt Nam, dưới chế độ Việt Nam cộng hoà, trước khi có Luật

Thương mại riêng năm 1972, các quy định về phá sản mang nặng tính phân tán và

9 Kinh nghiệm sửa đối Luật phá sản ở Singapore: http://www.saga.vn/Luatkinhdoanh/Luatquocte/12548.saga

24

thể hiện rõ dấu ấn của pháp luật phá sản của Pháp. Trong luật thương mại năm 1972

với 186 điều quy định về sự khánh tận, phá sản và thanh toán tư pháp, song việc áp

dụng còn hết sức hạn chế.

Ở miền Bắc Việt Nam, thời gian từ năm 1945-1975, trong bối cảnh của một nền

kinh tế được vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp với hai thành

phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể, với loại hình chủ thể kinh tế chủ yếu

là xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã, hiện tượng phá sản với tư cách là hệ quả của

nền kinh tế cạnh tranh đã không tồn tại. Sự vắng bóng các quy định pháp lý về vấn

đề phá sản trong hệ thống Luật kinh tế Việt Nam ở giai đoạn này là điều dễ hiểu.

Tình hình này mới bắt đầu được cải thiện từ năm 1990 với 2 đạo luật là Luật Công

ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân trong đó gần như lần đầu tiên mới có những điều

khoản chính thức ghi nhận về kết cục phá sản của doanh nghiệp trong kinh doanh

(Điều 24 và Điều 17). Thế nhưng những điều khoản này mới chỉ mang tính dự báo

cho một xu thế lập pháp về vấn đề phá sản chứ chưa thật sự có giá trị điều chỉnh

trên thực tế. Đến cuối năm 1993, Luật phá sản đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam mới được ban hành. Luật này có tên gọi là Luật phá sản doanh

nghiệp năm 1993. Luật phá sản Doanh nghiệp được quốc hội chính thức có hiệu lực

thi hành từ ngày 1/7/1994. Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 bao gồm 6 chương

và 52 điều. Việc ban hành Pháp luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 là một sự kiện

pháp lý quan trọng đánh dấu nỗ lực cải cách hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng

cũng như đã phản ánh rõ nét những thay đổi cơ bản trong sự phát triển của nền kinh

tế và sự vận hành nền kinh tế của Việt Nam từ sau nửa thập kỉ 80, đặc biệt là từ

những năm 90 đến nay.

Sau gần 10 năm áp dụng, những hạn chế của pháp luật này đã lộ rõ. Vì vậy, Luật

phá sản mới đã được ban hành, luật này có tên gọi là Luật phá sản năm 2004. Luật

phá sản năm 2004 ra đời nhằm khắc phục nhược điểm của Luật phá sản năm 1993.

Luật phá sản năm 2004 ra đời ngoài việc dựa trên tinh thần ưu tiên bảo vệ lợi ích

của chủ nợ và người lao động vốn là mục đích của Luật phá sản doanh nghiệp năm

1993, Luật này còn nhằm mục tiêu phục hồi và tái tạo lại doanh nghiệp. Ngoài ra,

25

pháp luật còn góp phần bảo vệ nhà đầu tư, nhà kinh doanh và là công cụ pháp lý để

Nhà nước can thiệp vĩ mô vào nền kinh tế nhất là trong bối cảnh nền kinh tế của

thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

2. Những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm 2004

2.1. Về đối tượng áp dụng của Luật Phá sản.

Theo Luật phá sản doanh nghiệp, đối tượng áp dụng của Luật là doanh nghiệp

thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với những doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc

phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng, Chính phủ có quy định cụ thể về

việc thi hành.

Theo nghị định số 189/CP ngày 23 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ hướng

dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp thì doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng

Luật gồm có: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị-xã hội,

doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài,

hợp tác xã.

Đối với thời điểm ban hành Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định về

đối tượng áp dụng Luật như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế phát triển-xã hội

đặc thù của nước ta trong giai đoạn này. Để phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế

quốc tế, Luật phá sản năm 2004 đã có sự bổ sung về đối tượng áp dụng luật này.

Điều 2, Luật phá sản năm 2004 quy định “Luật này áp dụng đối với doanh nghiệp,

hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã”. Trong đó thành phần doanh nghiệp trong Luật

được nói đến đã được mở rộng thêm đối tượng công ty hợp danh so với Luật phá

sản doanh nghiệp năm 1993. Theo Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định “Công ty

hợp danh là doanh nghiệp trong đó: phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu

chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung” (Điều 130, Chương

V, Luật doanh nghiệp năm 2005). Để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, Công

26

ty hợp danh đã ra đời và được pháp luật thừa nhận.

Trên cơ sở kế thừa Luật phá sản doanh nghiệp, Luật phá sản quy định đối tượng

áp dụng của Luật phá sản bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

được thành lập theo quy định của pháp luật. Đối với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp

phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài

chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực thường xuyên, trực tiếp cung ứng

sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu, Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc

áp dụng Luật phá sản (Điều 2, LPS 2004).

2.2. Điều kiện để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản

Như bên trên đã nói, pháp luật của nhiều nước trên thế giới có sự khác nhau

trong việc xác định tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Theo Điều2 của

LPSDN 1993 thì “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp

khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, sau khi đã áp dụng các biện

pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Theo Điều 3

của Nghị định số 189/CP ngày 23 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ hướng dẫn thi

hành Luật PSDN:“Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá

sản nói tại Điều 2 của Luật PSDN nếu kinh doanh thua lỗ hai năm liên tiếp tới mức

không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người lao động theo

thoả ước lao động và hợp đồng lao động trong ba tháng liên tiếp”. Thực tế thi hành

Luật PSDN 1993 cho thấy, khái niệm tình trạng phá sản theo quy định tại Điều 2

Luật này và được cụ thể hoá tại Nghị định số 189/CP là quá chặt chẽ, phức tạp, do

đó, đã gây ra rất nhiều khó khăn cho việc mở thủ tục phá sản.

Nhằm khắc phục hạn chế này, Luật Phá sản 2004 đã đưa ra quy định theo hướng

đơn giản hoá tiêu chí xác định tình trạng phá sản. Theo Điều 3 của Luật này thì

doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi “không có khả

năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu”. Như vậy, tiêu

chí xác định tình trạng phá sản đã được quy định theo hướng ngắn gọn, đơn giản và

đi vào bản chất mà không căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên nhân của tình trạng

thua lỗ cũng như việc doanh nghiệp, hợp tác xã con nợ đã áp dụng các biện pháp để

27

tự cứu mình mà không đạt kết quả hay chưa. Quy định này là một bước tiến bộ của

LPS 2004, phù hợp với thông lệ chung trên thế giới, tạo điều kiện dễ dàng cho việc

mở thủ tục phá sản nhanh gọn, cũng như khả năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.

Tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được quy

định tại Điều 3 nói trên là căn cứ cho việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản chứ

không phải là căn cứ cho việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Khi thấy

con nợ không trả được các khoản nợ đến hạn cho mình thì các chủ nợ có quyền làm

đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc mở thủ tục phá sản. Chủ nợ có quyền làm việc

này vì sự ngưng trả nợ là dấu hiệu để suy đoán là con nợ đã lâm vào tình trạng phá

sản. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự suy đoán mà chưa chắc đã là sự thật. Vì vậy, sau khi

thụ lý hồ sơ, Toà án cần phải tiến hành nhiều biện pháp để có đủ cơ sở khẳng định

rằng, trên thực tế, con nợ đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và Toà án chỉ ra

quyết định mở thủ tục phá sản đối với nó khi điều đó đã được chứng minh (khoản 5

Điều 24, LPS 2004). Trong trường hợp mở thủ tục phá sản thì công việc tiếp theo của

Toà án sẽ là xem xét, đánh giá khả năng phục hồi của doanh nghiệp, hợp tác xã để

quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi có sự

chấp thuận của Hội nghị chủ nợ đối với phương án phục hồi mà con nợ đệ trình. Toà

án chỉ ra quyết định áp dụng thủ tục thanh lý hoặc thủ tục tuyên bố phá sản nếu thấy

doanh nghiệp, hợp tác xã đã hoàn toàn không có khả năng phục hồi. Vì vậy, không

phải mọi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đều có chung một kết

cục là bị chấm dứt hoạt động, kết thúc sự tồn tại và bị loại khỏi thương trường.

2.3. Thủ tục tiến hành một vụ phá sản thông thường

2.3.1. Thụ lý đơn yêu cầu phá sản

Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Toà án có quyền yêu cầu

người nộp đơn sửa đổi, bổ sung tài liệu và người nộp đơn có trách nhiệm thực hiện

việc sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Toà

án (Điều 22, LPS 2004). Ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được

28

tính là ngày người nộp đơn xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng phí phá sản hoặc là

ngày Toà án nhận được đơn trong trường hợp người nộp đơn không phải nộp tiền

tạm ứng phí phá sản.

Theo Điều 23 LPS 2004, trong trường hợp người nộp đơn không phải là chủ

doanh nghiệp tư nhân hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào

tình trạng phá sản thì Toà án có trách nhiệm thông báo việc thụ lý đơn yêu cầu mở

thủ tục phá sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết trong thời hạn 5 ngày, kể từ

ngày thụ lý. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án,

doanh nghiệp, hợp tác xã phải xuất trình cho Toà án các giấy tờ, tài liệu: Báo cáo tình

hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã; Báo cáo về các biện pháp

mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện nhưng vẫn không khắc phục được tình

trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn; Bảng kê chi tiết tài sản của

doanh nghiệp, hợp tác xã; Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã; Danh

sách những người mắc nợ doanh nghiệp, hợp tác xã; Danh sách thành viên liên đới

chịu trách nhiệm về những khoản nợ của doanh nghiệp (nếu có); tài liệu khác mà Toà

án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã cung cấp theo quy định của pháp luật.

Theo Điều 24 LPS 2004, Toà án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá

sản trong những trường hợp sau:

+ Người nộp đơn không nộp tiền tạm ứng phí phá sản trong thời hạn do Toà án

ấn định, trừ các trường hợp không phải nộp tạm ứng phí phá sản. Theo quy định tại

Điều 21 của Luật Phá sản 2004 thì người nộp đơn là người lao động không phải nộp

tạm ứng phí phá sản. Người nộp đơn thuộc diện phải nộp tạm ứng phí phá sản tuy

không có tiền để nộp nhưng lại có các tài sản khác thì phí phá sản sẽ do ngân sách

nhà nước tạm ứng và được hoàn trả từ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào

tình trạng phá sản;

+ Người nộp đơn không có quyền nộp đơn, tức là người nộp đơn không thuộc

một trong số các đối tượng: chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần;

người lao động; chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp

tác xã; đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước; cổ đông hoặc nhóm cổ đông

29

của công ty cổ phần; thành viên hợp danh của công ty hợp danh.

+ Đã có Toà án khác mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm

vào tình trạng phá sản;

+ Có căn cứ rõ ràng cho thấy việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là có chủ

ý xấu nhằm bôi nhọ danh dự, uy tín của người quản lý, điều hành doanh nghiệp,

hợp tác xã hoặc gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,

hợp tác xã hoặc có sự gian dối trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản;

+ Doanh nghiệp, hợp tác xã đã chứng minh được rằng, mình không lâm vào tình

trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của Toà án trả lại đơn

yêu cầu mở thủ tục phá sản, người làm đơn có quyền khiếu nại với Chánh án Toà án

(Điều 25, LPS 2004). Chánh án Toà án có trách nhiệm trả lời trong thời hạn 7 ngày,

kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại. Nếu xét thấy quyết định trả lại đơn yêu cầu mở

thủ tục phá sản là có căn cứ theo quy định tại Điều 24 của LPS 2004 thì Chánh án ra

quyết định giữ nguyên quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Ngược lại,

nếu xét thấy việc ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là không có

căn cứ thì Chánh án ra quyết định huỷ quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá

sản và thụ lý đơn theo quy định chung của LPS 2004.

2.3.2. Mở thủ tục phá sản

Quyết định mở thủ tục phá sản là quyết định đầu tiên và có ý nghĩa pháp lý rất to

lớn, làm phát sinh một loạt các hệ quả pháp lý bất lợi đối với con nợ, chủ nợ và các

chủ thể khác có liên quan. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra cho Luật Phá sản là làm sao

quy định được một cơ chế có khả năng giúp thẩm phán có đủ cơ sở để quyết định

mở hay không mở thủ tục phá sản đối với con nợ. Một trong những cơ chế có khả

năng giúp thẩm phán làm được điều này là việc pháp luật phá sản nhiều nước đã

quy định cho Toà án được quyền triệu tập phiên họp với sự tham gia của các bên có

liên quan để xem xét, đánh giá vụ việc trước khi ra quyết định. Ví dụ, Điều 48 của

Luật Mất khả năng thanh toán (Phá sản) CHLB Nga năm 2002 đã đưa ra quy định,

30

theo đó, chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày ra Quyết định thụ lý hồ sơ phá sản, Toà

án phải mở phiên họp với sự tham gia của chủ nợ, con nợ và các tổ chức, cá nhân

khác có liên quan. Tại cuộc họp này, trên cơ sở ý kiến tranh luận của các bên và căn

cứ vào các chứng cứ do các bên đương sự đưa ra, Toà án sẽ quyết định việc mở hay

không mở thủ tục phá sản đối với con nợ.

Tiếp thu kinh nghiệm này, Luật Phá sản 2004 của nước ta đã quy định rằng,

trước khi ra quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản, Toà án có thể triệu tập

phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ

doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở

thủ tục phá sản, cá nhân, tổ chức có liên quan để xem xét, kiểm tra, đánh giá các căn

cứ nhằm chứng minh cho việc doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào tình trạng phá

sản hay chưa. Thời hạn ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản là 30 ngày,

kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

Theo quy định tại Điều 28, Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản khi có căn

cứ chứng minh rằng, doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào tình trạng phá sản. Quyết

định mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây:

+ Ngày, tháng, năm ra quyết định;

+ Tên của Toà án; họ và tên của Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản.

+ Ngày và số thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; tên, địa chỉ của người làm

đơn yêu cầu;

+ Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản;

+ Thời gian, địa điểm khai báo của các chủ nợ và hậu quả pháp lý của việc

không khai báo nợ.

Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án có trách nhiệm gửi

Quyết định mở thủ tục phá sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá

sản, cho Viện Kiểm sát cùng cấp và thông báo cho các chủ nợ, những người mắc nợ

của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Đồng thời, Quyết định mở

thủ tục phá sản cũng phải được đăng trên báo địa phương nơi doanh nghiệp, hợp tác

31

xã lâm vào tình trạng phá sản có địa chỉ chính và báo hàng ngày của Trung ương

trong 3 số liên tiếp. Ngược lại, nếu không có căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp

tác xã đã lâm vào tình trạng phá sản thì Toà án sẽ ra quyết định không mở thủ tục

phá sản (Khoản 4 Điều 28). Quyết định không mở thủ tục phá sản phải được Toà án

gửi cho người làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ

ngày nhận được quyết định không mở thủ tục phá sản, người làm đơn có quyền

khiếu nại với Chánh án Toà án. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu

nại, Chánh án phải ra một trong các quyết định: (1) giữ nguyên quyết định không

mở thủ tục phá sản hoặc (2) huỷ quyết định không mở thủ tục phá sản và ra quyết

định mở thủ tục phá sản.

2.3.3. Phục hồi hoạt động kinh doanh

Mục đích của việc mở thủ tục phá sản không chỉ để giải quyết nợ tập thể giữa

các chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ mà còn tạo điều kiện cho doanh

nghiệp, hợp tác xã mắc nợ có cơ hội tổ chức lại hoạt động kinh doanh.

Mục tiêu hàng đầu của bất kỳ luật phá sản nào trên thế giới cũng tạo điều kiện để

cứu giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn và chỉ thanh lý, chấm dứt sự

tồn tại của doanh nghiệp nếu không thể phục hồi. Chính vì vậy, phá sản không chỉ thu

hồi, thanh lý tài sản theo một trình tự nhất định mà còn một khía cạnh thứ hai đáng

chú ý là tạo cơ hội cho con nợ và chủ nợ thoả thuận, tái tổ chức kinh doanh và lập

một kế hoạch trả nợ phù hợp. Sau khi hội nghị chủ nợ thông qua các giải pháp phục

hồi tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp

thực hiện quá trì tái phân bổ và sử dụng nguồn lực một cách hợp lý hơn.

Trong LPSDN 1993 mới chỉ có quy định cụ thể về thủ tục thanh toán tài sản của

doanh nghiệp mà chưa có những quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp như: điều kiện, nội dung, thời hạn thực hiện phương án phục hồi

hoạt động kinh doanh… Khắc phục nhược điểm này, đồng thời phù hợp với sửa đổi

từ thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã LPS 2004 đã dành hẳn một mục của

chương VI để giải quyết các vấn đề về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh (từ

32

điều 68 đến điều 77).

2.3.4. Thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản

Theo quy định trong LPS 2004, thủ tục thanh lý tài sản được áp dụng trong

những trường hợp sau đây:

+ Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua lỗ đã được Nhà nước áp dụng

biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh, nhưng vẫn không phụ hồi

được và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì Toà

án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp mà không cần phải

triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét việc áp dụng thủ tục phục hồi (Điều 78).

+ Hội nghị chủ nợ không thành do chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của

doanh nghiệp, hợp tác xã không tham gia Hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính

đáng hoặc sau khi Hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu

cầu mở thủ tục phá sản là chủ nợ, người lao động; hoặc do không đủ quá nửa số chủ

nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba trở lên tổng số nợ không có bảo

đảm tham gia Hội nghị chủ nợ sau khi Hội nghị chủ nợ sau khi Hội nghị chủ nợ đã

được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ doanh

nghiệp, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ sở hữu doanh nghiệp

nhà nước, các cổ đông của công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty hợp

danh (Điều 79).

+ Doanh nghiệp, hợp tác xã không xây dựng được phương án phục hồi hoạt

động kinh doanh trong thời hạn quy định; Hội nghị chủ nợ không thông qua phương

án phục hồi hoạt động kinh doanh, hợp tác xã; doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện

không đúng hoặc không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh,

trừ trường hợp các bên liên quan có thoả thuân khác (Điều 80).

+ Trong quá trình thi hành quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản, theo đề nghị

của Tổ quản lý, thanh lý tài sản, Thẩm phán có thể ra quyết định cho phép doanh

nghiệp, hợp tác xã thực hiện một số hoạt động cần thiết cho việc thanh lý tài sản

33

hoặc làm tăng them khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó (Điều 82).

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT PHÁ SẢN

NĂM 2004 TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ

ĐẶT RA

Trước khi nhận xét về thực trạng áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội,

khoá luận sẽ có những nhận xét chung về tình hình thực thi Luật phá sản năm 2004

tại Việt Nam. Lý do là vì không thể bóc tách riêng Hà Nội nếu chưa có một cái nhìn

chung về việc thực thi Luật này trong cả nước.

I. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Pháp luật phá sản nói chung

và luật phá sản năm 2005 ở Việt Nam

1. Những thuận lợi và kết quả

Luật phá sản năm 2004 là một bước tiến bộ rất lớn so với Luật phá sản doanh

nghiệp năm 1993. Rất nhiều điểm mới như đối tượng điều chỉnh được mở rộng hơn

đến các loại hình doanh nghiệp, trình tự tiến hành đơn giản, đỡ phức tạp hơn do

việc nhập tổ quản lý tài sản và tổ thanh lý làm một, thủ tục tiến hành đa dạng hơn,

ngoài thủ tục thanh lý như trước nay có thêm thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất

kinh doanh, tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản

không còn cứng nhắc nữa. Thẩm quyển giải quyết mở rộng đến toà án nhân dân cấp

huyện…

Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao, số liệu về tình hình phá sản khi áp

dụng Luật phá sản doanh nghiệp 1993 đến ngày 31/12/2003, toàn ngành Toà án chỉ

thụ lý được 159 vụ, trong đó chỉ tuyên bố phá sản được 51 doanh nghiệp. Số doanh

nghiệp bị Toà án ra quyết định tuyên bố phá sản chiếm tỷ lệ thấp (39,1%) trong số các vụ việc Toà án thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp10. Do số vụ

việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của Toà án hàng năm không lớn, nên cả

nước trong giai đoạn này mới chỉ có hơn 20 Phòng thi hành án cấp tỉnh, thành phố

10 Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ( VCCI)

34

trực thuộc Trung Ương có thụ lý và tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản.

Bảng 1: Bảng thống kê số vụ phá sản trên cả nƣớc ở Việt Nam giai đoạn từ

năm 2004-2008

Năm Số vụ thụ lý Số vụ giải Tỷ lệ giải quyết (%)

quyết (vụ) (vụ)

2005 14 1 7,14

2006 53 16 30,2

2007 175 159 90,8

2008 148 131 88,5

Nguồn: Theo Tòa án Nhân dân Tối cao

Theo báo cáo của Toà án nhân dân tối cao, từ khi Luật phá sản năm 2004 có

hiệu lực cho đến năm 2006, Toà án cấp tỉnh, thành phố thụ lý 56 vụ phá sản trong

đó năm 2004 thụ lý là 5 vụ, năm 2006 thụ lý 40 vụ. Riêng năm 2006 các Toà án tỉnh

phải giải quyết 53 yêu cầu mở thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp (trong đó thụ

lý mới 40 vụ và măm 2005 chuyển qua là 13 vụ), đã giải quyết 16 vụ đạt tỷ lệ

30,2%. Năm 2007, Toà án phải giải quyết 175 vụ và đã giải quyết 159 đạt lệ 90,8%.

Năm 2008, tòa án thụ lý mới 136 đơn, quyết định không mở thủ tục phá sản 4 đơn,

mở thủ tục phá sản 131 đơn (đạt tỷ lệ 88,5%) và trả lại đơn 1 trường hợp (xem bảng

1).

So với 10 năm thực thi Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 trước đó, toàn ngành

tòa án thụ lý có 159 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, song chỉ tuyên bố

được 51 doanh nghiệp phá sản, có thể thấy ưu việt khá lớn của Luật Phá sản năm

2004.

Luật phá sản năm 2004 ra đời đã đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong việc

35

ban hành và thực thi pháp luật phá sản nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung.

Điểm thuận lợi của Luật phá sản năm 2004 là ra đời khi nền kinh tế đang trên đà

phát triển và cơ chế vận hành chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường. Điều nay

đồng nghĩa với việc sức cạnh tranh lớn dẫn đến ngày càng nhiều các doanh nghiệp

lâm vào tình trạng phá sản. Thêm vào đó, chính bản thân nội dung Luật phá sản

năm 2004 đã có nhiều điểm tiến bộ so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993

cũng góp phần đáng kể cho việc thực hiện Luật này hiệu quả hơn trong thực tiễn.

Cụ thể:

Thứ nhất, đã hoàn thiện hơn khái niệm phá sản hay khái niệm doanh nghiệp lâm

vào tình trạng phá sản. Đây là khái niệm quan trọng của Pháp luật phá sản. Như đã

phân tích ở trên, khái niệm về phá sản trong pháp luật của mỗi quốc gia là khác

nhau. Tuỳ thuộc vào khái niệm này trong pháp luật phá sản mà sự quản lý, chính

sách của Nhà nước đối với hiện tượng phá sản là tích cực hay không tích cực, là

nghiêng về bảo vệ bên nào: chủ nợ hay con nợ.

Theo Pháp luật phá sản năm 1993 quy định chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu

tuyên bố phá sản nếu con nợ không trả nợ sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày đòi nợ,

quy định về thời hạn 3 tháng nợ lương liên tiếp với người lao động. Nhưng trên

thực tế chủ nợ sẽ không bao giờ thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản

đối với con nợ của mình bởi lẽ họ phải chứng minh con nợ thua lỗ trong hoạt động

kinh doanh mà điều này thì nằm ngoài khả năng của chủ nợ. Luật phá sản năm 2004

(Điều 3) đưa ra khái niệm phá sản “Doanh nghiệp, hợp tác xã, không có khả năng

thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình

trạng phá sản”. Đây là một tiến bộ của Luật phá sản năm 2004 trong việc đơn giản

hoá thủ tục xem xét doanh nghiệp bị phá sản con nợ cũng không có nghĩa vụ phải

chứng minh con nợ thua lỗ như trước kia nữa, và do đó việc tiến hành thủ tục tuyên

bố phá sản sẽ nhanh chóng hơn.

Thứ hai, Luật phá sản năm 2004 khẳng định thủ tục phá sản là một thủ tục tư

pháp đặc biệt.

36

Có thể chia thủ tục phá sản là một quá trình bao gồm ba giai đoạn chính yếu:

+ Giai đoạn thứ nhất: Giai đoạn điều tra khả năng thanh toán nợ của doanh

nghiệp. Trong giai đoạn này nếu con nợ không muốn rơi vào giai đoạn sau thì phải

chứng minh cho Tòa án khả năng thanh toán nợ của mình. Nếu Tòa án nhận thấy

con nợ không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn thì áp dụng ngay giai đoạn tiếp

theo.

+ Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Giai đoạn

này có nội dung chủ yếu là xây dựng phương án hòa giải, phục hồi hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp. Nếu không hòa giải được hoặc phương án hòa giải thực

hiện không thành công thì Tòa án chuyển sang giai đoạn tiếp theo.

+ Giai đoạn thứ ba: Giai đoạn phá sản và thanh lý tài sản của doanh nghiệp.

Trong thủ tục phá sản nhiệm vụ của các thủ tục cấu thành có tính độc lập với

nhau rất lớn. Thực hiện nhiệm vụ của thủ tục này không phải lúc nào cũng là tiền đề

để thực hiện nhiệm vụ của thủ tục kia. Ví dụ như nhiệm vụ của thủ tục phục hồi

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác hẳn với nhiệm vụ của thủ tục thanh lý

tài sản và thực hiện nhiệm vụ của thủ tục phục hồi không phải là tiền đề cho thủ tục

thanh lý tài sản mà có thể loại trừ sự cần thiết của chính thủ tục thanh lý tài sản

doanh nghiệp…

Điểm tiến bộ được ghi nhận trong Luật Phá sản năm 2004 chính là những quy

định về mối quan hệ đặc thù giữa các thủ tục cấu thành trong thủ tục phá sản. Điều

này cho phép Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản một cách uyển chuyển tùy

thuộc vào những tình huống cụ thể. Tòa án có thể quyết định tuyên bố phá sản với

con nợ ngay mà không cần thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản (khoản 1 Điều 87

LPS 2004) hoặc sau khi thụ lý (khoản 2 Điều 87) hoặc khi đình chỉ thủ tục thanh lý

tài sản (Điều 86). Thủ tục phục hồi không còn là một thủ tục bắt buộc trước thủ tục

thanh lý tài sản trong tiến trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Không những

thế, khi mà nhiệm vụ của thủ tục này không thể thực hiện được hoặc thực hiện

không thành công thì có thể chuyển đổi sang thủ tục thanh lý tài sản ngay (Điều 79,

37

80).

2. Những khó khăn và bất cập.

2.1. Phạm vi chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản còn quá hẹp

Pháp luật phá sản trước hết là bảo vệ quyền về tài sản của các chủ nợ. Do vậy

đối tượng được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác

xã là các chủ nợ. Theo quy định của Luật phá sản năm 2004 có ba loại chủ nợ : chủ

nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm.

Điều 6 (Luật phá sản năm 2004) quy định:

+ Chủ nợ có đảm bảo một phần là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng giá

trị của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba mà giá trị bảo đảm ít hơn khoản

nợ đó.

+ Chủ nợ có đảm bảo là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng giá trị của doanh

nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba mà giá trị bảo đảm bằng với khoản nợ đó

+ Chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm bằng

bất cứ giá trị nào của doanh nghiệp, hợp tác xã.

Cũng theo Luật phá sản năm 2004, chỉ có ba đối tượng có quyền yêu cầu mở thủ

tục phá sản: doanh nghiệp hay hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, chủ nợ và đại

diện người lao động. Nhưng lại chỉ có chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo

đảm một phần mới được nộp đơn, còn chủ nợ có bảo đảm và các cơ quan công

quyền có chức năng như Toà án, cơ quann Thanh tra, cơ quan Thuế… lại không có

quyền này. Nhưng trên thực tế, các chủ nợ ở nước ta cũng rất ít khi làm đơn yêu cầu

giải quyết phá sản hoặc nếu có làm thì với mục đích khác chứ không phải mục đích

bảo vệ quyền lợi của mình. Họ thường tìm các biện pháp để thu hồi nợ, theo họ làm

như vậy dễ dàng hơn, còn nếu họ nộp đơn yêu cầu phá sản vừa tốn thời gian lại có

khi không thể đòi được nợ vì tài sản của một doanh nghiệp mắc nợ là rất ít trong khi

38

chủ nợ lại rất nhiều.

2.2. Thủ tục giải quyết phá sản còn kéo dài

Ngoài lý do về tính khả thi của pháp luật phá sản chưa cao thì khi tiến hành một

vụ phá sản các bên có liên quan (doanh nghiệp vỡ nợ, chủ nợ, Toà án) thực thi các

bước theo luật phá sản một cách chậm chạp, bất hợp tác dẫn đến thời gian giải quyết

một vụ phá sản ở nước ta thường kéo dài ít nhất là một năm thay vì từ bốn đến sáu

tháng như dự kiến của pháp luật.

Vụ công ty Tamexco ở TP. Hồ Chí Minh kể từ khi nộp đơn đến khi được toà

tuyên bố phá sản mất hơn 3 năm. Điều đó làm nản lòng các đối tượng có liên quan

như chủ nợ, người lao động, thậm chí cả các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như

Toà án.

Một trong những lý do chính dẫn đến sự chậm trễ này là do yếu kém trong chế

độ thực hiện tài chính doanh nghiệp. Hiện nay các quy định của pháp luật về kiểm

toán rất đa dạng và liên quan đến việc kiểm toán khi doanh nghiệp lâm vào tình

trạng phá sản ít nhất có những văn bản sau: Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994

hướng dẫn thực hiện Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 (Điều 11); Luật Doanh

nghiệp nhà nước năm 2003 (Điều 89); Luật Doanh nghiệp 1999 (Điều 92); Nghị

định 105/2004/NĐ- CP ngày 30/3/2004 về kiểm toán độc lập (Điều 10), đều có nội

dung là báo cáo hàng năm của các công ty, doanh nghiệp phải được kiểm toán. Do

vậy, việc áp dụng các văn bản đó như thế nào cho thống nhất là khó khăn thường

xảy ra trong thực tiễn thi hành, chẳng hạn:

Điểm a khoản 4 điều 15 Luật Phá sản năm 2004 quy định: “báo cáo tình hình

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã , trong đó giải trình nguyên

nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu doanh

nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài

chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập”, trong khi khoản 2 Điều 4 LPS 2004

quy định: “trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật phá sản và

39

quy định của luật khác về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của Luật phá sản”.

Tuy nhiên, áp dụng quy định này, các Toà án địa phương khi nhận đơn yêu cầu

mở thủ tục phá sản (không phân biệt thành phần kinh tế) đều yêu cầu phải có kèm

theo báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp đã được kiểm toán, nếu có thì

mới thụ lý giải quyết, nếu báo cáo tài chính chưa có kiểm toán thì trả lại đơn, vì vậy

thời gian thụ lý, giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thường kéo dài do phải chờ

kiểm toán. Điều này dẫn đến hậu qủa là các giao dịch được thực hiện trong thời gian

03 tháng trước ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu

theo khoản 1 điều 43 Luật Phá sản năm 2004.

2.3. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không nộp

đơn yêu cầu phá sản vì các quy định trong Luật phá sản năm 2004 vẫn chưa cụ thể

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp biết rõ mình đang lâm vào tình trạng phá sản

mà không “chịu” nộp đơn yêu cầu phá sản. Đây cũng là nguyên nhân chính giải

thích cho việc số lượng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản là rất ít.

Ngoài hình thức phá sản ra các doanh nghiệp còn có thể chọn cho mình con

đường khác là giải thể hoặc bỏ không. So với phá sản, giải thể là biện pháp chấm

dứt hoạt động công ty một cách nhanh gọn hơn nữa giám đốc của công ty tiến hành

giải thể vẫn có thể tiếp tục thành lập doanh nghiệp hoặc đứng ra điều hành công ty

khác còn nếu chọn hình thức phá sản thì không. Nhiều công ty thì lại chọn biện pháp an

toàn là “không hành động gì cả”. Thí dụ như Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng

nông lâm nghiệp đã bị mất khả năng thanh toán từ năm 2004 đến nay vẫn chưa tuyên

bố phá sản. Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng nông lâm nghiệp là công ty thuộc Sở

nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội có 9 xí nghiệp thành viên, 5 chi nhánh trực

thuộc tại các tỉnh và 5 phòng chức năng, nghiệp vụ. Trong một thời gian ngắn đã dính

đến hai vụ hình sự đến nay chỉ còn công ty chỉ còn lại một toà nhà tại số 01 ngõ 1002

đường Láng, quận Đống Đa, Hà Nội và hai nhân viên bảo vệ cùng với một số chức

trách chủ chốt khác. Đối với một số doanh nghiệp của người nước ngoài làm ăn tại Việt

Nam lại chốn chạy về nước khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Có thể kể ra hai doanh

nghiệp Công ty TNHH Giày Anjin và Công ty TNHH Vina Haeng Woon Industry (tại

40

TP. Hồ Chí Minh) do các doanh nhân Hàn Quốc quản lý đã bỏ chạy khi doanh nghiệp

lâm vào tình trạng phá sản đẩy hàng trăm lao động Việt Nam vào tình trạng thất

nghiệp, không thanh toán lương và bảo hiểm.

3. Nguyên nhân bất cập trong quá trình thực hiện Luật phá sản năm 2004

Luật phá sản năm 2004 ra đời đã được điều chỉnh nhiều so với Luật phá sản

doanh nghiệp năm 1994 nhưng trên thực tế áp dụng luật xảy ra nhiều những khó

khăn, bất cập do những nguyên nhân sau:

3.1 Tính khả thi của luật không cao

Đối với doanh nghiệp khu vực Nhà nước việc phá sản hay không phụ thuộc quá

nhiều vào chủ sở hữu, tức là Bộ hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh là cơ quan chủ quản của

doanh nghiệp. Vì những lý do nào đó, cả lý do của tập thể hay lý do cá nhân của

một số người và cũng không loại trừ khả năng vì nhận thức của một số bộ phận nhà

lãnh đạo doanh nghiệp chưa đúng, vì động cơ thành tích của mình, của thiểu số một

số người mà trì hoãn làm chậm hoặc kéo dài thời gian phá sản doanh nghiệp khi

doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán.

Bản thân doanh nghiệp nếu có muốn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh

nghiệp mà chưa có ý kiến của cơ quan chủ quản cũng không thể được. Hơn nữa,

theo quy định thì chỉ có doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới bị ràng buộc về yêu

cầu mở thủ tục phá sản, còn đối với doanh nghiệp Nhà nước thì nghĩa vụ ấy được

xem như là quyền lợi. Trong bối cảnh hiện nay rõ ràng làm như vậy là tạo điều kiện

cho các doanh nghiệp trốn tránh phá sản.

Đối với bản thân chủ doanh nghiệp cũng vì những động cơ các nhân khác nhau

mà không báo cáo, nộp đơn xin phá sản khi doanh nghiệp đã mất khả năng thanh

toán nợ. Người ta né tránh trách nhiệm bằng việc về hưu, hoặc chờ sự điều chuyển

đến nơi công tác mới, những người khác thay thế họ sẽ là những người phải giải

quyết hậu quả mà lỗi đáng lẽ thuộc về mình. Nhiều trường hợp khi doanh nghiệp

đưa đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến Toà án thì doanh nghiệp chỉ còn nhà, tài

khoản trống trơn hoặc còn không đáng kể, chỉ còn lại mấy nhân viên bảo vệ trông

41

nom khuyên viên, còn công nhân thì đã bỏ đi kiếm sống từ lâu.

Thêm một lý do nữa là chi phí cơ hội cho một vụ phá sản đối với doanh nghiệp

là quá lớn so với lợi ích mà doanh nghiệp nhận được. Cái lợi lớn nhất ở đây là sau

khi được tuyên bố phá sản doanh nghiệp sẽ không còn lo lắng phải trả nợ nữa (trừ

doanh nghiệp tư nhân), đối với doanh nghiệp có khả năng phục hồi thì được tạo cơ

hội để chạy chữa và hoạt động trở lại. Trong khi đó, đổi lại những lợi ích trên thì

doanh nghiệp phải đối mặt với không ít phiền phức. Ngoài việc phải làm sáu loại

báo cáo khác nhau cho toà, doanh nghiệp phải tốn tiền tạm ứng chi phí phá sản và

mất thời gian. Nếu làm trôi chảy thì chỉ riêng giai đoạn từ khi mở thủ tục phá sản

đến khi mở thủ tục thanh lý tài sản đã mất ít nhất là sáu tháng. Nhưng trên thực tế

các vụ phá sản thành công cũng phải mất ít nhất là hơn một năm. Thêm vào đó, theo

quy định thì chủ doanh nghiệp phá sản và những người quản lý doanh nghiệp sẽ bị

toà ra quyết định không được thành lập doanh nghiệp và cấm đảm nhiệm các chức

vụ quản lý doanh nghiệp từ một đến ba năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố

phá sản. Quy định này cũng đã làm ảnh hưởng đến tâm lý không muốn nộp đơn yêu

cầu phá sản của các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản.

Đối với các chủ nợ cũng không mặn mà gì đối với việc đưa đơn yêu cầu mở thủ

tục phá sản đối với con nợ của mình. Nguyên nhân là do theo quy định thì một

doanh nghiệp khi mở thủ tục phá sản bắt buộc phải thông báo công khai cho các tất

cả các chủ nợ biết. Từ đây các chủ nợ nảy sinh tâm lý ngăn cản các chủ nợ tìm đến

toà bằng con đường nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản: nếu nộp đơn thì dễ bị vỡ lở

chuyện doanh nghiệp sắp phá sản và các con nợ ùn ùn kéo đến thì quyền lợi của bản

thân chủ nợ chưa chắc đã đến lượt nên thà cứ im lặng tìm biện pháp để đòi nợ hoặc

kiện bằng một vụ kiện riêng biệt thì còn có khả năng thu hồi.

3.2 Văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn chậm

Các văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn chậm, nội dung hướng dẫn chưa phù

hợp với thực tế hoặc quá khái quát, làm cho người nghiên cứu áp dụng pháp luật

gặp nhiều khó khăn. Thí dụ như Luật phá sản năm 2004 được thông qua ngày

15/6/2004 có hiệu lục từ ngày 15/10/2004 nhưng đến ngày 11/7/2006 Chính phủ

42

mới có Nghị định hướng dẫn về hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản dẫn đến

tâm lý chờ đợi, sợ sai không dám làm, và đó cũng là nguyên nhân chính để cả năm

2005 ngành Toà án cả nước mới chỉ giải quyết được một vụ phá sản.

Cho đến nay, để thực hiện LPS năm 2004 đã có những văn bản dưới luật được

ban hành:

+ Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC/KHXX ngày 27-4-2005 của Chánh án

Toà án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Tổ thẩm phán phụ trách tiến hành

thủ tục phá sản.

+ Nghị quyết số 03/2005/NĐ-HĐTP ngày 28-4-2005 của Hội đồng thẩm phán

Toàn án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản.

+ Nghị định số 94/2005/NĐ-CP ngày 11-7-2006 của Chính phủ hướng dẫn việc

áp dụng Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của Tổ

quản lý, thanh lý tài sản.

+ Thông tư liên tịch số 19/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 19-02-2008 của liên Bộ

Tài chính - Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết đoán kinh

phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài

sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.

Bên cạnh đó, còn nhiều văn bản vẫn đang trong quá trình nghiên cứu. Ví dụ như

văn bản hướng dẫn Luật Phá sản việc thu hồi xử lý tài sản một cách cụ thể cho phù

hợp với tính chất đặc thù của việc phá sản vì nó khác về căn bản khi xử lý tài sản

thế chấp, tài sản kê biên để bảo đảm thi hành án dân sự đối với cá nhân, hộ gia đình,

hoặc doanh nghiệp không lâm vào tình trạng phá sản vẫn chưa động tĩnh xây dựng.

II. Áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội

1. Thực tiễn áp dụng các quy định về giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá

sản các doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội và những vấn đề đặt ra.

TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là hai thành phố có lượng các doanh nghiệp,

hợp tác xã tập trung lớn nhất cả nước. Điều này cũng đồng nghĩa với việc số vụ phá

43

sản ở hai thành phố này cũng lớn hơn rất nhiều so với các tỉnh, thành khác. Dưới

đây là bảng thống kê cho biết số vụ phá sản ở thành phố Hà Nội từ năm 1993 đến

năm 2006 (bảng 2).

Bảng 2 : Số vụ phá sản tại TP. Hà Nội từ 1/1/1993 đến 31/12/2006

Năm Số vụ thụ lý Số vụ giải quyết

1993-2004 3 3

2005 3 3

2006 8 8

Nguồn: Theo Toà án nhân dân TP. Hà Nội

Theo báo cáo của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, từ năm 1994 đến cuối

năm 2004, số vụ phá sản doanh nghiệp mà Toà phải thụ lý và giải quyết là 03 vụ.

Trong năm 2005, thụ lý giải quyết: 03 vụ, từ đầu năm 2006 đến tháng 11/2006 thụ

lý và giải quyết 08 vụ. Như vậy, từ ngày Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến

tháng 11/2006, tổng số vụ phá sản mà Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý và

phải giải quyết là 11 vụ. Tăng gần 36,6% so với 10 năm áp dụng LPSDN 1993.

Số vụ phá sản ít không chứng minh được hầu hết các doanh nghiệp ở Hà Nội

đều làm ăn hiệu quả mà con số này cho thấy LPS 2004 còn chưa đi vào thực tế cuộc

sống của doanh nghiệp. Nhiều trường hợp làm ăn thua lỗ đã lâu nhưng không chịu

làm đơn mở thủ tục phá sản chỉ đến khi bị “ép” phá sản thì mới gửi đơn yêu cầu mở

thủ tục phá sản. Người viết sẽ phân tích hai trường hợp phá sản: một là của công ty

nhà nước và một là của công ty tư nhân để minh chứng cho điều kết luận trên.

Vụ phá sản của Công ty Phát triển nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ Sóc Sơn:

Công ty Phát triển nông lâm ngư và dịch vụ Sóc Sơn là một công ty nhà nước

nhưng làm ăn không hiệu quả. Tháng 11/2001 Công ty bị khởi tố về vụ chiếm đoạt

7 tỷ đồng cùng với Công ty TNHH chế biến tinh dầu (Hà Tĩnh) tiền hoàn thuế.

Giám đốc và kế toán của hai công ty này đã kí khống các giấy tờ nhằm chiếm đoạt

44

hàng tỷ đồng của Nhà nước. Khi vụ việc bị vỡ lở, Giám đốc Nguyễn Văn Phương,

Trưởng phòng Kế hoạch Nguyễn Thái Hoà, kế toán trưởng Đàm Quang Khánh đã

ra tự thú, khai nhận toàn bộ sự việc và nộp lại toàn bộ số tiền đã nhận của Nguyễn

Viết Thìn (Giám đốc Công ty TNHH chế biến tinh dầu).

Đây là một vụ chiếm đoạt hoàn thuế VAT đầu tiên với số tiền lớn. Và sau vụ

việc này việc làm ăn của Công ty Phát triển nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ Sóc

Sơn càng đi vào bế tắc. Đến tháng 8/2003 TP. Hà Nội đã đưa Công ty Phát triển

nông lâm ngư và dịch vụ Sóc Sơn ra Hội đồng giải thể nhưng không rõ vì lý do gì

Công ty vẫn chưa được giải thể. Và mãi đến 25/4/2007 Uỷ ban Nhân dân TP. Hà

Nội đã mở thủ tục phá sản đối với công ty này do chính sách cơ cấu lại một số công

ty Nhà nước của Uỷ ban Nhân dân TP. Hà Nội.

Như vậy việc làm ăn thua lỗ ở Công ty Phát triển nông lâm ngư và dịch vụ Sóc

Sơn đã kéo dài tới 5 năm mới được tuyên bố phá sản. Nguyên nhân của tình trạng

này là do sự chậm trễ và thiếu thống nhất của các cơ quan chức năng có liên quan

đến việc làm thủ tục xin phá sản. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để xoá bỏ sự

chậm trễ này?

Vụ phá sản của Công ty TNHH Đèn hình Orion-Hanel:

Tháng 2/2003 Công ty TNHH Đèn hình Orion-Hanel được Sở Kế hoạch và Đầu

tư Hà Nội cấp giấy đăng kí kinh doanh. Công ty Orion-Hanel là công ty liên doanh

giữa Công ty điện tử Hanel và Công ty Orion của Hàn Quốc với số vốn đầu tư lên

đến trên 178 triệu USD chuyên sản xuất đèn hình và phụ kiện cho tivi và máy tính.

Sau 11 năm hoạt động và dẫn đầu trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại

Hà Nội, ngày 16/10/2004, Công ty Orion Hanel đã khánh thành nhà máy sản xuất

đèn hình màu thứ hai tại Khu công nghiệp Sài Đồng B (Hà Nội). Nhưng hoạt động

của cơ sở hai này không đem lại hiệu quả. Cùng thời điểm đó, thị trường ti vi đã

xuất hiện sự thoái trào của công nghệ sản xuất đèn hình màu, với sự thay thế của

dòng LCD và Plasma, khiến khó khăn của Orion Hanel tăng thêm bội phần. Tiêu

cực khách quan cùng với những khó khăn nội tại đã buộc Công ty phải ngừng sản

45

xuất từ tháng 9/2007.

Đến tháng 1/2008, Công ty đã hoạt động trở lại một dây chuyền. Nhưng hoạt

động nhỏ lẻ này chỉ cầm cự được tiếp 3 tháng và đến tháng 4/2008, toàn bộ hoạt

động sản xuất bị dừng lại, công nhân tại nhà máy đều được nghỉ vô thời hạn. Điều

này có nghĩa là gần 2500 nhân công bị thất nghiệp, trong đó còn có nhiều lao động

chưa được nhận lương.

Đến tháng 12/2008, Công ty còn 822 hợp đồng lao động dài hạn, nhưng trong đó

chỉ có hơn 30 người ở vị trí chủ chốt tiếp tục làm việc và được nhận lương. Và cuối

tháng 12 Công ty Điện tử Hanel đã đệ đơn xin phá sản tới Toà án Nhân dân TP. Hà

Nội.

Thực tế, tình trạng sa sút của Công ty đã rõ nét từ năm 2006 khi doanh thu của

Công ty giảm sút mạnh nhiều lao động trình độ cao đã bỏ về nước. Tình trạng này

kéo dài và trở nên nghiêm trọng khi tháng 9/2007 Công ty phải đóng cửa sản xuất

nhưng mãi đến tháng 12/2008 Công ty mới đệ đơn xin phá sản.

Từ vụ việc của Công ty Orion Hanel ta thấy nguyên nhân của sự kéo dài ngày

trình đơn phá sản là do các thành viên trong công ty đã cố gắng khắc phục sai lầm

và duy trì sản xuất nhưng không thành công bởi lý do đơn giản là công nghệ sản

xuất bong đèn đã trở nên lỗi thời. Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để duy trì sản

xuất đi đôi với đổi mới công nghệ? Và vấn đề giải quyết hậu quả về tình trạng lao

động thất nghiệp khi doanh nghiệp đó phá sản?

Nhìn tổng thể, tính đến hết tháng 12 năm 2008, Hà Nội có 74.029 doanh nghiệp

đang hoạt động, trong đó có 95% doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tỷ lệ các doanh nghiệp

trong tình trạng phá sản còn có thể cao hơn nữa trong thời kỳ suy thoái kinh tế như

hiện nay. Vậy vấn đề đặt ra là tại sao nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ lại không

yêu cầu mở thủ tục phá sản mà lại chọn con đường khác như giải thể hoặc bỏ

không. Đó là do những quy định của LPS 2004 vẫn còn tỏ ra bất cập, khó thực thi.

Điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp không chọn con đường phá sản khi doanh

46

nghiệp đang rơi vào tình trạng vỡ nợ.

2. Thực tiễn thực hiện quy trình và thủ tục phá sản và những vấn đề đặt ra

2.1. Vướng mắc trong trường hợp không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp

và của chủ doanh nghiệp (con nợ) khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập tại TP. Hà Nội nhưng hoạt

động được một thời gian thì “mất tích”, nghĩa là theo địa chỉ đăng ký kinh doanh

của doanh nghiệp thì doanh nghiệp không còn hoạt động vì đã chuyển trụ sở đi nơi

khác mà không để lại địa chỉ mới. Đây là một hiện tượng thường thấy ở các doanh

nghiệp đi thuê trụ sở trên địa bàn TP. Hà Nội. Do vậy, khi có chủ nợ làm đơn yêu

cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó thì Toà án không xác định được trụ

sở doanh nghiệp. Mặt khác, việc xác minh nơi cư trú hoặc nơi đăng ký hộ khẩu

thường trú của các thành viên công ty đều không thực hiện được. Trong những

trường hợp như vậy, vừa rất khó xác định thẩm quyền giải quyết yêu cầu mở thủ tục

phá sản của Toà án nhân dân và vừa không đủ điều kiện để Toà án thụ lý đơn yêu

cầu mở thủ tục phá sản.

Khi giải quyết các vụ phá sản, sự vắng mặt của chủ doanh nghiệp đã gây cho các

cấp Tòa án không ít khó khăn đó là trường hợp người lao động hoặc chủ nợ đưa đơn

yêu cầu Tòa án mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo các Điều 13 và Điều

14 LPS 2004 nhưng không xác định được địa chỉ của chủ doanh nghiệp, không biết

chủ doanh nghiệp ở đâu dù đã xác minh tại trụ sở của doanh nghiệp, tại địa bàn nơi

doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, hoặc tại nơi đăng ký hộ khẩu trường trú. Có

trường hợp chủ doanh nghiệp là người nước ngoài sau khi kinh doanh thua lỗ bỏ về

nước, khi nhận được giấy của Tòa án nhưng cũng không đến Việt Nam để giải

quyết hoặc đặt điều kiện chỉ đến Việt Nam khi phía Việt Nam bảo đảm cho họ được

rời Việt Nam bất cứ lúc nào họ muốn. Không ai giám bảo đảm và Tòa án thường rất

lúng túng khi gặp tình huống này với sức ép của người lao động và của các chủ nợ

đòi hỏi Tòa án mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp để bảo đảm quyền lợi của

47

họ nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể.

2.2. Chưa có tiêu chí cụ thể về điều kiện thụ lý đơn và ra quyết định mở hay

không mở thủ tục phá sản

Quy định tại Điều 3 của LPS 2004: doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán

được các khoản nợ đến hạn khi có chủ nợ yêu cầu thì bị coi là lâm vào tình trạng

phá sản. Nhưng trên thực tế chưa có một tiêu chí hướng dẫn cụ thể nào điều khoản

này nên dẫn đến việc số doanh nghiệp khi căn cứ vào điều luật này đã “lạm dụng”

quyền nộp đơn nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, danh dự của công ty. Bởi vì,

trong hoạt động kinh doanh các công ty thường xuyên có những khoản nợ đến hạn,

nhưng do nhiều lý do khác nhau họ chưa trả nợ ngay mà bị các chủ nợ quy kết là

“lâm vào tình trạng phá sản”. Trên thực tế, Toà kinh tế thành phố Hà Nội đã nhận

được một số đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ở dạng tương tự như trên. Có chủ nợ

nộp đơn yêu cầu phá sản đối với doanh nghiệp khi số nợ chỉ là vài chục triệu đồng

(rất nhỏ so với tổng số vốn của doanh nghiệp đó). Nhưng theo quy định, Toà án Hà

Nội vẫn phải thụ lý đơn yêu cầu này.

2.3. Những quy định về Thẩm phán phụ trách việc giải quyết phá sản còn tỏ ra

không sát với thực tế.

2.3.1. Tổ Thẩm phán làm việc quá tải

Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán

Toà án nhân dân tối cao có hướng dẫn các trường hợp cần phải do Tổ Thẩm phán

gồm 3 người tiến hành thủ tục phá sản, trong đó có các trường hợp sau: Cần giải

quyết tranh chấp về khoản nợ; Tuyên bố giao dịch là vô hiệu; Giải quyết tiếp vụ án

mà doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản là đương sự trong vụ án đó; Doanh

nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản có bất động sản, có nhiều chủ nợ hoặc người

mắc nợ tại nhiều tỉnh khác nhau hoặc ở nước ngoài.

Thông thường vụ phá sản nào cũng có tranh chấp về khoản nợ có thể là nợ phải

trả cho chủ nợ có thể là nợ phải thu từ người mắc nợ. Mỗi vụ phá sản đều có nhiều

người tham gia và vì vậy, chắc chắn sẽ có những chủ nợ hoặc người mắc nợ ở nhiều

48

tỉnh khác. Nếu áp dụng đúng quy định của Nghị quyết 03 của Hội đồng Thẩm phán

thì hầu như vụ phá sản nào cũng phải do Tổ Thẩm phán gồm ba người tiến hành,

quy định này đòi hỏi các Toà án địa phương, nhất là nơi có những vụ phá sản phức

tạp như trên phải có nhiều Thẩm phán.

Ở Toà kinh tế TP. Hà Nội chỉ có 6 thẩm phán và nếu thành lập thì được 02 Tổ,

trong khi số vụ phá sản mà Toà kinh tế TP Hà Nội thụ lý từ ngày LPS 2004 có hiệu

lực đến cho đến hết năm 2006 là 11 vụ. Thực hiện quy định này thì mỗi Thẩm phán

phải tham gia giải quyết hơn 6 vụ, nhưng thực tiễn các vụ giải quyết phá sản tại TP.

Hà Nội cho đến nay chỉ có 01 Thẩm phán tiến hành, kể cả những vụ phá sản có

những dấu hiệu như quy định tại Nghị quyết 03.

2.3.2. Luật quy định chưa rõ về thẩm quyền của Thẩm phán trong việc ra

quyết định bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục

thanh lý

Điều 8 LPS 2004 khi xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tiến hành

thủ tục phá sản không quy định thẩm phán có quyền ra quyết định bán đấu giá tài

sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý, nhưng theo điểm h

khoản 1 điều 10 LPS 2004 thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản có nhiệm vụ, quyền hạn

“thi hành quyết định bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng

thủ tục thanh lý”. Trên thực tế, ở Hà Nội đã có những vụ phá sản không thực hiện

được vấn đề này do cơ quan bán đấu giá không thực hiện việc bán tài sản của doanh

nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản với lý do chưa có quyết định của thẩm

phán về bán đấu giá tài sản nhưng khi đề cập đến vấn đề này, thẩm phán cũng cho

rằng không có đủ căn cứ pháp lý để ra quyết định bán đấu giá tài sản của doanh

nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý vì tại Điều 8 Luật Phá sản không quy

định trực tiếp cho thẩm phán, mặt khác Quyết định số 01 ngày 27/4/2005 của Toà

án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Tổ thẩm phán cũng không đề cập đến

49

vấn đề này.

2.4. Những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản

LPS 2004 đã quy định một số nghĩa vụ, quyền hạn cho Tổ quản lý, thanh lý tài

sản, song thực tế cho thấy Tổ quản lý, thanh lý tài sản gần như chỉ có chức năng

giúp việc cho Thẩm phán (hầu hết các hành vi định đoạt tài sản phá sản đều do

Thẩm phán quyết định). Tổ quản lý, thanh lý tài sản không có quyền điều hành,

quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không có quyền trực tiếp quản lý

các tài sản của doanh nghiệp. Mặt khác, do một số quy định của pháp luật chưa đầy

đủ và cụ thể, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ đều là

nguyên nhân dẫn đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản trên thực tế còn

kém hiệu quả. Cụ thể là:

2.4.1. Chậm trễ trong việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản

Theo quy định của LPS 2004, đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá

sản thì Toà án ra ngay quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Tại khoản 1

Điều 16 Nghị 67 quy định cụ thể hơn việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản:

“Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Thẩm phán,

các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Tổ quản

lý, thanh lý tài sản”. Nhưng thực tế, việc phối hợp giữa Toà án và các cơ quan, tổ

chức, cá nhân liên quan thường bị chậm trễ do không cử người tham gia Tổ quản lý,

thanh lý tài sản. Tình trạng này đã dẫn đến việc không kịp thời thành lập Tổ quản

lý, thanh lý tài sản nên đã tạo “kẽ hở” cho doanh nghiệp tẩu tán tài sản. Việc chậm

thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản còn dẫn đến tình trạng sau khi các chủ nợ biết

được thông tin doanh nghiệp đã bị Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản nên đã

đến doanh nghiệp thực hiện việc siết nợ, thu tài sản của doanh nghiệp trái pháp luật

mà chủ doanh nghiệp bị phá sản không thể ngăn chặn được.

2.4.2. Chất lượng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chưa đáp ứng yêu cầu

Tổ quản lý, thanh lý tài sản được thành lập với thành phần bao gồm: 01 Chấp

hành viên làm tổ trưởng, 01 cán bộ Tòa án, 01 đại diện chủ nợ, 01 đại diện hợp

50

pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản, trường hợp cần thiết phải

có 01 đại diện của công đoàn, người lao động và các cơ quan chuyên môn. Cơ cấu

thành phần là vậy, nhưng trong thực tế thực hiện thì hoạt động của Tổ quản lý,

thanh lý tài sản phụ thuộc chủ yếu vào Chấp hành viên.

Thực tế cũng cho thấy hoạt động của các thành viên trong Tổ quản lý, thanh lý

tài sản chưa thật đều tay. Trước đây, theo LPSDN 1993, Tổ trưởng Tổ quản lý tài

sản là cán bộ Toà án, là thư ký giúp việc cho Thẩm phán phụ trách việc thực hiện

phá sản thì toàn bộ công việc như mời con nợ, chủ nợ lên đối chiếu công nợ, lập

danh sách chủ nợ, người mắc nợ do Thẩm phán thực hiện. Thư ký Toà án được chỉ

định làm Tổ trưởng Tổ quản lý tài sản được Thẩm phán hướng dẫn trực tiếp, đôn

đốc nhắc nhở nên công việc thực hiện nhanh và khá hiệu qủa. Nay LPS 2004 quy

định những nhiệm vụ này do Chấp hành viên là Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài

sản thực hiện. Việc chọn Chấp hành viên của cơ quan Thi hành án làm Tổ trưởng

được thực hiện bằng quy định phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Tòa án với các cơ

quan liên quan. Do đó, việc giao cho Chấp hành viên của cơ quan Thi hành án làm

Tổ trưởng là phù hợp, bảo đảm tính chuyên nghiệp trong hoạt động này và không làm tăng biên chế trong tổ chức, bộ máy của các cơ quan Nhà nước”11.

Tuy nhiên, trên thực tế sự điều chỉnh này phát sinh nhiều bất cập dẫn đến việc

thực hiện các nhiệm vụ này không dễ dàng vì Chấp hành viên Cơ quan Thi hành án

dân sự chỉ với kiến thức chuyên sâu về pháp luật nhưng lại phải đảm nhiệm cả

những công việc nằm ngoài khả năng chuyên môn của mình. Mặt khác, do Chấp

hành viên không có điều kiện, cơ sở để xác định hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp, xác định những khoản thu chi nào của doanh nghiệp là hợp pháp, hợp lệ và

chuẩn mực để xác định việc “có lợi hơn cho doanh nghiệp, hợp tác xã ” cũng thật sự

khó thực hiện. Chẳng hạn, trong thực tế những tình trạng sau đây thường xảy ra:

 Về nguyên tắc Chấp hành viên phải chủ động lên kế hoạch thực hiện nhưng

Chấp hành viên chưa thực hiện được điều này dẫn đến hậu qủa là công việc thực

11 PSG.TS. Dương Đăng Huệ (2004), “Một số ý kiến về dự thảo luật phá sản sửa đổi”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 01, tr 18-24.

51

hiện thụ động, chậm trễ và không thống nhất cách làm.

+ Có trường hợp Chấp hành viên trực tiếp gửi giấy mời các chủ nợ có đơn yêu

cầu đòi nợ đến trụ sở cơ quan thi hành án để đối chiếu công nợ, nhưng có trường

hợp do Chấp hành viên chưa quen với công việc nên ký giấy triệu tập và cán bộ Toà

án gửi giấy triệu tập các chủ nợ và người mắc nợ đến cơ quan thi hành án đối chiếu

công nợ và như vậy biên bản đối chiếu công nợ do Toà án lập.

+ Chấp hành viên không tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ: lập danh

sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ, lập bảng kê tài sản, kiểm tra và giám sát hoạt

động kinh doanh của các doanh nghiệp trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản

cũng như thi hành các quyết định khác của Thẩm phán, dẫn đến việc giải quyết phá

sản không đạt hiệu qủa, kéo dài.

+ Việc thực hiện giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp

tác xã (Điều 30, Luật Phá sản 2004); việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án ra quyết

định đình chỉ thực hiện hợp đồng nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng

đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa thực hiện sẽ có lợi hơn cho

doanh nghiệp (Điều 45, Luật Phá sản 2004)… của Chấp hành viên đều có sự lúng

túng và chưa chuẩn xác.

2.4.3. Thiếu sự ràng buộc trách nhiệm của Chấp hành viên và Tổ quản lý,

thanh lý tài sản trong quá trình hoạt động

Điều 32 Nghị định 67 quy định Tổ quản lý, thanh lý tài sản chịu trách nhiệm bồi

thường thiệt hại trong các trường hợp “lập bảng kê tài sản không đúng tình hình

thực tế; lập danh sách chủ nợ, người mắc nợ sai sự thật; không phát hiện và không

đề nghị thẩm phán ra quyết định thu hồi lại tài sản đã bán hoặc chuyển giao bất

hợp pháp quy định tại khoản 1 điều 43 của Luật Phá sản”. Thiết nghĩ, việc ràng

buộc trách nhiệm là cần thiết nhưng những quy định như trên hoàn toàn không khả

thi khi không có một cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của

Chấp hành viên và Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Các thành viên của Tổ quản lý,

thanh lý tài sản đều không có đủ cơ sở, điều kiện để xác định những thông tin nêu

trên. Tất cả đều phụ thuộc vào tài liệu, thông tin do doanh nghiệp cung cấp. Nếu

52

không có một tổ chức trung gian chuyên ngành như cơ quan kiểm toán hoặc cơ

quan có thẩm định giá thì hoạt động của Tổ sẽ không đáp ứng được yêu cầu tại Luật

Phá sản và các văn bản liên quan.

2.4.4. Các quy định về sự phối hợp giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản với Thẩm

phán, Chấp hành viên chưa rõ

Khi tiến hành thủ tục phá sản, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ quản lý, thanh lý tài

sản rất quan trọng, công việc của Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trôi chảy thì Thẩm

phán mới tiến hành tổ chức Hội nghị chủ nợ để xem xét ra quyết định phục hồi hoạt

động kinh doanh hoặc quyết định thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã một

cách kịp thời, chính xác, đúng qui định pháp luật. Thực tiễn tại các địa phương, do

chưa có sự phối hợp giữa Thẩm phán và Chấp hành viên nên việc thực hiện chưa

thật tốt, chưa thống nhất, còn nhiều vướng mắc.

Thứ nhất, theo quy định của Luật Phá sản thì Tổ quản lý thanh lý tài sản gồm:

một chấp hành viên; một cán bộ Tòa án; một đại diện chủ nợ; đại diện hợp pháp của

doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản. Trường hợp cần thiết có đại diện

của công đoàn, đại diện người lao động. Tổ quản lý, thanh lý tài sản làm việc dưới

sự điều hành của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản và chịu sự giám sát của

Thẩm phán.

Nhìn vào quy định này đã thấy tính thực tế bị hạn chế rất nhiều. Thẩm phán, cán

bộ Tòa án, chấp hành viên đã rất nhiều việc phải làm; kinh nghiệm cho thấy ở địa

phương nào có nhiều vụ phá sản đưa đến Tòa án giải quyết thì ở địa phương đó

cũng rất nhiều các vụ việc tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại, và hình sự.

Các cán bộ nói trên đâu chỉ theo đuổi một vụ giải quyết phá sản kéo dài hàng năm

trời khi mà áp lực công việc khác rất nhiều đang đè nặng lên họ, nên việc giải quyết

phá sản dù không thể xem nhẹ nhưng cũng không được coi là cấp bách. Những

thành viên khác như đại diện chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá

sản, đại diện công đoàn, công nhân càng hạn chế nhiều bởi họ còn phải lo cho cuộc

sống thiết thực hàng ngày. Chung cuộc tiến độ việc phá sản phụ thuộc chủ yếu vào

53

hoạt động của tổ trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản là chấp hành viên.

Theo quy định tại điều 10 và Điều 11 Luật Phá sản, thì tổ quản lý thanh lý tài

sản và tổ trưởng chịu trách nhiệm thi hành các quyết định của Thẩm phán và chịu

trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Điều

21 Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ quy định: “Tổ

trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản vẫn sinh hoạt chuyên môn tại cơ quan Thi hành án

và chịu trách nhiệm chuyên môn trước thủ trưởng cơ quan thi hành án, chịu trách

nhiệm về toàn bộ hoạt động của tổ quản lý thanh lý tài sản trước thẩm phán”. Giữa

Thẩm phán và Tổ trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản không có sự ràng buộc nào về

mặt quản lý, nên việc chỉ đạo của thẩm phán rất khó khăn nghĩa là sẽ có tình trạng

anh nói thì anh cứ nói, tôi làm hay không là quyền của tôi. Tóm lại, quy định như

Luật phá sản hiện nay những người chịu trách nhiệm giải quyết công việc phá sản,

kể cả Thẩm phán và Tổ quản lý thanh lý tài sản khó mà toàn tâm, toàn ý cho công

việc phá sản được. Điều đáng quan tâm là có trường hợp thẩm phán yêu cầu tổ

trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản thực hiện một công việc cụ thể nào đó, nhưng tổ

trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản không thực hiện được vì trưởng phòng thi hành án

là thủ trưởng trực tiếp không đồng ý cho đi làm. Vì lý do: còn quá nhiều công việc

khác cần thiết và cấp bách hơn. Việc đã ít nhưng việc giải quyết lại kéo dài có vụ

kéo dài đã hơn 2 năm hiện nay vẫn chưa kết thúc được việc thanh lý tài sản.

Thứ hai, theo quy định tại khoản 6, Điều 20 Nghị định 67/2006/NĐ-CP thì Tổ

trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền sử dụng con dấu của Tòa án trong quá

trình quản lý, điều hành hoạt động của Tổ. Trên thực tế, quy định này không khả

thi. Trong hoạt động của mình, Chấp hành viên chỉ có thể sử dụng con dấu của Cơ

quan Thi hành án vì trong các thành viên của Tổ, Chấp hành viên là người của cơ

quan thi hành án được bổ nhiệm theo quy định pháp luật và chữ ký của Chấp hành

viên chỉ được bảo chứng tại Cơ quan Thi hành án. Mặt khác, Điều 20 cũng quy định

Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản được đóng dấu Toà án và dấu cơ quan thi

hành án nhưng lại không nêu rõ loại văn bản nào sẽ đóng dấu Toà án và văn bản

54

nào được đóng dấu của cơ quan thi hành án?

Bên cạnh các vướng mắc về việc vận dụng quy định pháp luật vào hoạt động của

Tổ quản lý, thanh lý tài sản, thì mối quan hệ giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản và

Chấp hành viên - với vai trò Tổ trưởng - còn gặp nhiều vướng mắc cần phải giải

quyết. Thực tế cho thấy kết qủa hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản dùng để

phục vụ hoạt động giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản tại Tòa án. Tuy nhiên, trong

trường hợp có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản thì kết quả hoạt động của Tổ

lại được dùng để phục vụ cho giai đoạn thi hành án dân sự. Do đó việc phân định

trách nhiệm quản lý hồ sơ trong từng giai đoạn sẽ được thực hiện như thế nào?

Thực tế mối quan hệ giữa Chấp hành viên là Tổ trưởng và Thẩm phán trong giải

quyết hồ sơ phá sản doanh nghiệp vẫn chưa có sự phối hợp tốt. Hồ sơ mở thủ tục,

các thông tin thống kê về chủ nợ, người mắc nợ, kê khai tài sản của doanh nghiệp

đều được cung cấp cho Tòa án, trong khi đó Chấp hành viên phải chịu trách nhiệm

về việc điều hành hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản, thực hiện lập danh

sách chủ nợ, người mắc nợ, đối chiếu công nợ, kiểm tra tài sản của doanh nghiệp…

nhưng nguồn thông tin, tài liệu hoàn toàn bị phụ thuộc vào Tòa án. Một số trường

hợp Tổ quản lý, thanh lý tài sản thành lập đã lâu nhưng các thông tin mà doanh

nghiệp bắt buộc phải cung cấp cho Tòa án theo quy định tại điều 50 của Luật Phá

sản vẫn chưa được thực hiện.

Thứ ba, đại diện của Tòa án tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản thường là một

thư ký. Hoạt động của nhân sự này không những phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt

động của Chấp hành viên và còn phụ thuộc vào nhiệm vụ Thư ký tại Tòa án do vậy,

không có sự độc lập. Tổ quản lý, thanh lý tài sản hoạt động dưới sự phụ trách của

chấp hành viên cơ quan thi hành án làm tổ trưởng suốt trong quá trình kể từ khi

Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp đến khi kết

thúc việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Luật Phá sản còn quy định

Chấp hành viên có trách nhiệm báo cáo và phải chịu trách nhiệm trước Thẩm phán

về hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Nhưng theo các quy định hiện hành

thì Chấp hành viên là người được giao tổ chức thi hành những bản án, quyết định đã

có hiệu lực của Tòa án, hoạt động thi hành án độc lập hoàn toàn với hoạt động xét

55

xử. Vì vậy, việc không kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn quy chế phối hợp hoạt

động giữa Cơ quan thi hành án dân sự và Tòa án, quy chế hoạt động của Tổ quản lý,

thanh lý tài sản sẽ kéo dài tình trạng phối hợp chưa tốt như hiện nay.

2.4.5. Về chế độ làm việc, tài liệu hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản

Do pháp luật chưa có quy định rõ ràng về chế độ làm việc của Tổ quản lý, thanh

lý tài sản nên trong thực tiễn hoạt động, mỗi Tổ trưởng làm việc theo chế độ khác

nhau. Có tổ tự mình làm, có kết qủa sơ bộ rồi mới họp thông báo cho các thành viên

khác trong tổ. Có Chấp hành viên gọi thư ký Toà án sang làm việc bên trụ sở của cơ

quan thi hành án để cùng lập biên bản. Hình thức và nội dung các đối chiếu, xác

minh công nợ cũng chưa có hướng dẫn. Do vậy, đề nghị cần có mẫu hướng dẫn

chung thống nhất về biên bản đối chiếu công nợ.

Theo Điều 51 LPS 2004 thì trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng

báo về quyết định của Toà án về mở thủ tục phá sản, các chủ nợ phải gửi giấy đòi

nợ cho Toà án. Vậy đặt ra câu hỏi là khi Toà án nhận giấy đòi nợ của các chủ nợ thì

Toà án phải gửi giấy đòi nợ đó cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản hay là phải gửi qua

cơ quan thi hành án? Và gửi bản chính hay bản sao? Những vấn đề này chưa được

quy định rõ nên thực tế có trường hợp khi đối chiếu công nợ thì Tổ quản lý, thanh lý

tài sản lại yêu cầu các chủ nợ nộp lại giấy đòi nợ kèm theo chứng từ chứng minh

việc đòi nợ. Theo tôi, cần quy định rõ khi làm việc Tổ quản lý, thanh lý tài sản có

quyền yêu cầu các chủ nợ nộp giấy đòi nợ kèm theo các chứng từ chứng minh việc

đòi nợ.

Ngoài ra, việc lưu giữ các tài liệu, sổ sách liên quan đến hoạt động của Tổ quản

lý, thanh lý tài sản được quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định 67, theo đó, sổ sách

liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lưu giữ tại cơ quan thi

hành án và Toà án do Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản quản lý. Trường hợp

doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản và Tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể thì hồ sơ

liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lưu giữ tại Toà án

nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Quy định như vậy là không rõ

ràng, dẫn đến việc khó xác định loại nào do Toà án quản lý, loại nào do cơ quan thi

56

hành án quản lý?

2.4.6. Về chi phí, thù lao cho thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản

Theo quy định của pháp luật thì Tổ trưởng và các thành viên của Tổ quản lý,

thanh lý tài sản được hưởng thù lao theo quy định của Bộ Tài chính, nhưng đến nay

vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể do vậy, thực tiễn tại các địa phương thực

hiện việc trả thù lao cho thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng không

thống nhất. Một số doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản còn quỹ tiền mặt thì Thẩm

phán tính thù lao là 10.000 đồng/ngày/một người hoặc tính trung bình thời gian làm

việc khoảng 15 ngày/tháng (300.000 đồng/tháng/người). Trường hợp không còn

tiền thì không chi thù lao cho các thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Theo

người viết, để thống nhất thực hiện cần có hướng dẫn cụ thể.

2.5. Về vấn đề thu hồi tài sản phá sản

Về vấn đề này LPS 2004 vẫn chưa quy định ai sẽ có thẩm quyền giải quyết

khiếu nại quyết định thu hồi tài sản hoặc giải quyết các tranh chấp có liên quan đến

tài sản bị thu hồi. Thủ tục giải quyết khiếu nại và tranh chấp này cũng là vấn đề còn

bỏ ngỏ trong LPS 2004. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng còn thiếu vắng các quy

định về những biện pháp bảo đảm thi hành quyết định thu hồi tài sản của Thẩm

phán, cũng như những quy định cho phép Tổ quản lý, thanh lý tài sản được quyền

áp dụng những biện pháp cưỡng chế đối với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp không

chấp hành quyết định của Toà án. Do đó, việc thi hành quyết định thu hồi tài sản

gặp rất nhiều khó khăn và hiệu quả kém. Việc thu hồi tài sản của các doanh nghiệp

tại TP. Hà Nội còn gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau :

Thứ nhất, các tài sản thường nằm rải rác ở nhiều địa phương khác nhau, trong

khi, công tác quản lý còn yếu kém, khiến việc xác minh còn gặp rất nhiều khó khăn,

chi phí đi lại, giao dịch lớn, trong khi đó tài sản xuống cấp, giảm giá trị (Nhiều

trường hợp, các tài liệu, giấy tờ chứng minh còn bị tẩu tán, cất giấu trái phép). Hiện

nay Luật Phá sản lại chưa quy định về việc uỷ thác thu hồi tài sản trong trường hợp

tài sản của doanh nghiệp bị phân tán nhiều nơi nằm ngoài địa phương đang giải

quyết phá sản. Do vậy, khi tài sản của doanh nghiệp phá sản phân tán ở nhiều nơi

57

thì không ai khác ngoài chính Tổ quản lý, thanh lý tài sản hoặc Thẩm phán phải trực

tiếp đi thu hồi, điều này dẫn đến một thực trạng là các chủ thể đó phải đi lại như

“con thoi” nhiều nơi để thi hành vừa mất thời gian, kéo dài vụ việc vừa làm tăng

những khoản chi phí không đáng có cho việc giải quyết phá sản.

Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đang thụ lý, giải quyết phá sản đối với công

ty may xuất khẩu Thành Công có trụ sở tại quận Đống Đa Hà Nội nhưng ngoài tài

sản tại trụ sở chính thì công ty còn có tài sản tại Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh.

Khi tiến hành giải quyết, Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã trực tiếp đến các địa

phương đó để kiểm kê tài sản nhưng sau khi kiểm kê xong thì không biết giao tài

sản đó cho ai quản lý.

Thứ hai, một số trường hợp doanh nghiệp khi ký hợp đồng làm dịch vụ cho

chính quyền thành phố đã được yêu cầu ứng trước nguồn vật tư, lao động, sau một

thời gian sẽ được hoàn trả, song đến hạn thì phía chính quyền không trả mà doanh

nghiệp cũng không thể “bán” được “dịch vụ” đã làm để đền bù cho khoản chi cho

mình. Đây là một loại quyền về tài sản khó có thể thu hồi trong qúa trình giải quyết

58

phá sản.

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG

CƢỜNG KHẢ NĂNG THỰC THI LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004

I. Dự báo xu hƣớng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ở TP. Hà Nội

trong thời gian tới

Dự báo xu hướng phá sản, hay nói cách khác là dự báo xu hướng các doanh

nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trong thời gian tới là một việc cần thiết giúp cho

các cơ quan chức năng có hướng đi đúng trong việc hoạch định chính sách cho

doanh nghiệp.

1. Cơ sở để dự báo

Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá

sản, nhưng trong bài khoá luận này người viết sẽ xem xét vấn đề trên cơ sở phân

tích hai yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong giai đoạn

hiện nay. Đó là:

Thứ nhất, gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp

Hà Nội nói riêng sẽ phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt ngay trên sân nhà mà hậu

quả tất yếu là doanh nghiệp kém sẽ bị phá sản nhiều hơn.

Đã hơn hai năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO

(ngày 1/1/2007), bên cạnh những cơ hội mà WTO mang lại thì chúng ta còn phải

đối mặt với nhiều thách thức đối với thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói

chung. Thị trường mở cửa dẫn đến cạnh tranh tăng lên làm cho các doanh nghiệp,

đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ khó thích ứng. Thêm vào đó, các

doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều vấn đề như: thiếu kỹ năng và kiến thức chuyên

sâu về quản lý, những rào cản thương mại phi thuế quan, vấn đề ngôn ngữ, các vấn

đề về kế cấu hạ tầng khác như đường xá, viễn thông, cung cấp năng lượng, tiêu

chuẩn hoá, tuân thủ các quy định về nhãn mác và xuất xứ, khung khổ luật pháp

minh bạch để bảo vệ và trợ giúp hợp lý bằng pháp luật,…Khó khăn trong tiếp cân

59

vốn từ khu vực tài chính chính thức. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có 32,4%

DNVVN đủ điều kiện để vay từ các ngân hàng chính thức. Do vậy họ phải có được

tài chính từ các nguồn khác để cạnh tranh.

Thứ hai, Tình hình suy thoái kinh tế thế giới sẽ có những tác động tiêu cực đến

doanh nghiệp Hà Nội mà nếu không có giải pháp thì nhiều doanh nghiệp sẽ có nguy

cơ phá sản. Bước sang năm 2009 là năm thứ ba Việt Nam gia nhập Tổ chức thương

mại Thế giới. Theo đánh giá của của các tổ chức và chuyên gia trên thế giới, kinh tế

thế giới đang bước vào một thời kì bất ổn với nhiều thách thức. Xu thế sụt giảm tốc

độ tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục diễn ra và Việt Nam cũng không nằm ngoài

những biến động đó.

Xuất khẩu giảm sút vì thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta là Mỹ và châu

Âu nên khi các thị trường này rơi vào suy thoái và lâm vào khó khăn thì nhu cầu cắt

sẽ giảm sút. Việc giảm sút nhu cầu sẽ làm cho việc xuất khẩu các sản phẩm của ta

vào các thị trường này sẽ ít đi, mà như thế sẽ tác động đến GDP (giảm xuống).

Việc hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và các đối tác nước ngoài – nơi chịu

ảnh hưởng của khủng hoảng - sẽ bị gián đoạn hay ngưng trệ do phía bạn gặp khó

khăn trong tài chính. Điều này tác động xấu đến các dự án đầu tư hay phát triển

trong dài hạn của ta.

Việc Mỹ lâm vào suy thoái làm đồng đô la mất giá trên thị trường quốc tế, việc

này tác động không nhỏ đến xuất khẩu. Vì đồng đô la mất giá nên việc xuất khẩu

không còn lợi nhuận như trước. Qua đó nó làm giảm GDP của nước ta.

Các hợp đồng kinh tế kí kết với đối tác nước ngòai bị ngưng trệ và có thể các

hợp đồng này sẽ không còn được kí kết hoặc thậm chí đã kí kết, doanh nghiệp Hà

Nội đã giao hàng nhưng rủi ro không lấy được tiền hàng là rất cao. Điều này thực sự

gây thất thu cho cả doanh nghiệp và tác động không tốt đến sự phát triển về lâu dài

của nước ta. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tình hình tăng trưởng Quí

I/2009 đạt 3,1% so với cùng kì năm ngoái, mức thấp nhất trong vòng một thập kỉ

qua. . Còn theo Tổng cục Thống kê, giá trị sản xuất công nghiệp cả nước tháng 1-

60

2009 chỉ đạt 50,6 nghìn tỷ đồng, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước và giảm

8,6% so với tháng 1-200812. Mức giảm lớn chủ yếu đối với các sản phẩm công

nghiệp quan trọng như thép, giày dép, quần áo...

2. Con số dự báo

Trước ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, ngày 10/3/2009 Uỷ ban nhân dân Thành

phố Hà Nội đã tiến hành triển khai thực hiện Nghị quyết 30/2008/NQ của Chính

phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng

trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và cảnh báo về phá sản đối với doanh

nghiệp. Là một thành phố phát triển với nhiều loại hình doanh nghiệp nên Thành

phố Hà Nội cũng chịu ảnh hưởng đáng kể từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới. Cuộc

họp của Uỷ ban nhân dân TP. Hà Nội và các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố

ngày 3/3/2009 để tìm “lối đi” cho các doanh nghiệp trong thời kì khủng hoảng. Xuất

khẩu giảm sút, không chỉ hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu công nghiệp lớn của

Hà Nội mà ngay cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lớn ở Hà Nội lâu

nay có thị trường xuất khẩu ổn định đều phải cắt giảm kế hoạch, sản lượng sản xuất,

thiếu việc làm cho người lao động, sức tiêu thụ sản phẩm kém… Tốc độ tăng

trưởng từ sản xuất công nghiệp của Hà Nội đã giảm đi rất nhiều. Trung bình tổng

kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 1,2 thường là 5.000 container hàng hoá nhưng năm

nay, doanh thu từ xuất khẩu đã giảm 30%. Nhiều đơn hàng đã ký hợp đồng buộc

phải giãn, hoãn thời gian thực hiện.

Thêm vào đó, thách thức gia nhập WTO đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở

Hà Nội là rõ rệt vì họ còn có nhiều hạn chế về công nghệ, năng lực quản lý, điều

hành, thiếu vốn và thiếu khả năng tiếm cận với thị trường bên ngoài. Mặt khác số

lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội chiếm đến 95% trong tổng số khoảng

76000 doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Trong một buổi làm việc với các doanh

nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội hôm 18/3/2009 Bộ tài chính đưa ra con số 7.000

12 Website Bộ Ngoại giao Việt Nam: http://www.mofa.gov.vn/vi/tt_baochi/nr041126171753/ns090209152714/view

61

doanh nghiệp công bố giải thể và hơn 3.000 doanh nghiệp khác phải ngừng sản xuất

trong năm 200913. Như vậy cả nước có khoảng 10.000 doanh nghiệp lâm vào tình

trạng phá sản, chiếm 2,86% trong tổng số 349.309 doanh nghiệp có đăng kí kinh

doanh. Còn đối với TP. Hà Nội theo dự doán tỷ lệ này có thể lên tới 3.2% trong thời

gian tới, nghĩa là trong năm nay có khoảng 224 doanh nghiệp có khả năng lâm vào

tình trạng phá sản.

Trước tình hình này, việc tìm ra giải pháp để ngăn ngừa phá sản cũng như khi

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có cơ hội “tái tạo” là rất quan trọng. Điều

này đòi hỏi bản thân LPS 2004 cần phải tiếp tục được sửa đổi để hoàn thiện nhằm

tăng cường tính thực thi trong thực tiễn.

II. Các giải pháp cụ thể

1. Nhóm giải pháp sửa đổi Luật phá sản năm 2004

1.1. Sửa đổi các quy định về việc nộp đơn, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

và việc mở hoặc không mở thủ tục phá sản

1.1.1. Cho phép chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

LPS 2004 vẫn quy định chỉ có chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một

phần mới có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; các chủ nợ có bảo đảm chưa được quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản14. Việc LPSDN 1993 cũng như

Luật Phá sản 2004 quy định không cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp

đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là xuất phát từ quan điểm cho rằng, đối với chủ nợ

có bảo đảm thì lợi ích của họ đã được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố của

doanh nghiệp hay của người thứ ba, vì vậy, việc doanh nghiệp, hợp tác xã có bị

tuyên bố phá sản hay không thì lợi ích của họ vẫn được bảo đảm. Quy định này là

không hợp lý. Đối với doanh nghiệp thì chủ nợ thông thường và chủ yếu vẫn là chủ

nợ có bảo đảm, vì vậy, cần tăng cường vai trò của các chủ nợ có bảo đảm để thủ tục

13 Webiste Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế-Xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư : http://thongtindubao.gov.vn/Default.aspx?mod=News&cat=33&nid=13389. 14 Điều 13, Luật Phá sản Việt Nam năm 2004

62

phá sản có hiệu quả hơn.

Theo pháp luật phá sản của hầu hết các nước, các chủ nợ đều có quyền nộp đơn

yêu cầu mở thủ tục phá sản, có quyền quyết định về việc con nợ phục hồi hay bị

thanh lý, kiến nghị Toà án áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản của con

nợ, … Tuy nhiên, trong pháp luật phá sản của các nước, mục đích bảo vệ lợi ích của

chủ nợ được đặt lên coi trọng như Anh, Đức, … thì thủ tục phá sản là một công cụ

chủ yếu để giúp các chủ nợ thu hồi lại tiền. Bên cạnh việc quy định quyền nộp đơn

yêu cầu mở thủ tục phá sản, pháp luật có quy định quyền của chủ nợ, kể cả chủ nợ có

bảo đảm đều có thể chỉ định người quản lý tài sản để kiểm soát những tài sản đó.

Theo Giáo sư Yasuhei Taniguchi thì trên thực tế khi các con nợ hoặc các chủ nợ

không có bảo đảm nộp đơn yêu cầu bắt đầu thủ tục phá sản, thì thường là vào những

thời điểm quá muộn, thời điểm mà con nợ hầu như không còn tài sản gì hoặc còn lại

rất ít tài sản. Do đó, luật pháp ở một số nước cho phép cả chủ nợ có bảo đảm cũng có quyền nộp đơn yêu cầu bắt đầu thủ tục phá sản (8)

Thủ tục phá sản cũng chỉ là một phương thức đòi nợ đặc biệt, việc không cho

chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là đã làm mất đi quyền lựa

chọn phương thức đòi nợ của các chủ nợ này.

Các nhà làm luật cần phải nghiên cứu, xem xét một cách kỹ lưỡng có nên quy

định chủ nợ có bảo đảm có được quyền khởi kiện vụ án phá sản hay không? Bởi lẽ

đây là vấn đề còn nhiều điểm chưa rõ ràng: Khi chủ nợ có bảo đảm không thu được

nợ đúng kỳ hạn, họ có quyền thi hành quyền lợi bảo đảm của mình (như bán tài sản

cầm cố). Vậy quyền yêu cầu bắt đầu thủ tục phá sản có quan hệ như thế nào với

quyền này? Tuy nhiên, chúng ta nên thống nhất với nhau một vấn đề đã quá rõ ràng:

các chủ nợ có bảo đảm cần được tham gia vào thủ tục tố tụng phá sản khi thủ tục

phá sản đã được bắt đầu. Do đó, Luật Phá sản nên được sửa đổi theo hướng:

- Các chủ nợ có bảo đảm là các chủ nợ trong tố tụng phá sản,

8 Trình bày của Giáo sư Yasuhei Taniguchi, Đại học Tokyo Kei Zai tại Hà Nội với Tổ biên tập Luật Phá sản của Bộ Tư Pháp trong các ngày 21, 22-6-2000.

63

- Vật cầm cố là một bộ phận trong khối tài sản phá sản,

- Các chủ nợ có bảo đảm được quyền bỏ phiếu như một trong các loại chủ nợ

đối với kế hoạch phục hồi con nợ, và quyền của họ có thể bị ảnh hưởng bởi kế

hoạch đó,

- Trong thủ tục thanh lý, quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm phải được đặt ưu tiên

cao hơn so với chi phí quản lý hành chính vụ phá sản (phí phá sản) và các loại chủ

nợ khác.

Quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm cần được đặc biệt quan tâm trong thủ tục phá

sản, nếu không sẽ rất nguy hại đến hệ thống tín dụng bảo đảm. Một khi quyền lợi

của các chủ nợ có bảo đảm được đặt sau phí phá sản và chi phí cho các chủ nợ đặc

quyền (như lương người lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp tàn tật cho lao động,

bảo hiểm xã hội), sẽ dẫn đến chủ nợ có bảo đảm sẽ không thể tính trước được quyền

lợi của mình sẽ có giá trị bao nhiêu trong trường hợp con nợ phá sản. Do đó, ưu thế

của tín dụng có bảo đảm, đó là sự an toàn, sẽ bị mất đi.

1.1.2. Bổ sung quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của

một số chủ thể đặc biệt

Theo Luật Phá sản, chủ nợ là một trong các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu

mở thủ tục phá sản. Điều này cũng phù hợp với thông lệ pháp luật của các nước trên

thế giới. Tuy nhiên, nghiên cứu quy định về phá sản trong lĩnh vực ngân hàng tín

dụng, một thông lệ được nhiều nước quy định là hạn chế quyền nộp đơn của chủ nợ

đối với các tổ chức tín dụng nhằm mục đích hạn chế tối đa việc phá sản đối với các

tổ chức này. Lĩnh vực hoạt động ngân hàng – tín dụng có tính chất nhạy cảm cao, dễ

gây ảnh hưởng dây truyền trong hệ thống tiền tệ và nền kinh tế nên một yêu cầu đặt

ra là cần có quy định hạn chế tình trạng tuỳ tiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

gây ảnh hưởng xấu đến hệ thống này. Để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, pháp luật

quy định giao cho ngân hàng Nhà nước và cơ quan bảo hiểm tiền gửi có quyền nộp

đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Hai cơ quan này là cơ quan giám sát hoạt động của

các tổ chức tín dụng, thực hiện áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức

tín dụng có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp tổ chức tín dụng đã

64

áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt mà tổ chức tín dụng vẫn mất khả năng thanh

toán thì hai cơ quan này sẽ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản để bảo vệ

lợi ích của các chủ nợ. Tuy nhiên, theo LPS 2004 thì hai cơ quan quan này không

có tư cách nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và điều này cũng chưa được Luật

Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng ghi nhận. Với đặc thù của các tổ chức tín

dụng thì kinh nghiệm của các nước về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

của Ngân hàng Nhà nước và cơ quan bảo hiểm tiền gửi cần được nghiên cứu và cụ

thể hoá trong pháp luật phá sản Việt Nam.

1.1.3. Sửa đổi nội dung của đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Nội dung đơn nên sửa đổi theo hướng:

Trường hợp chủ doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp vv... khi đưa

đơn đến Tòa án họ có quyền lựa chọn hình thức: thanh lý hoặc phục hồi sản

xuất kinh doanh.

Nếu họ chọn hình thức “phục hồi sản xuất kinh doanh” tức là họ đã phải có sự

suy nghĩ, hình thành những biện pháp phục hồi mà họ cho là khả thi. Luật phá sản

cần quy định những cơ chế cụ thể về nội dung này. Chẳng hạn doanh nghiệp mắc

nợ có quyền được thương lượng với các chủ nợ hoặc một số chủ nợ ủng hộ họ trước

khi đưa đơn ra Tòa. Như vậy, việc giải quyết sẽ nhanh hơn.

Nếu họ chọn hình thức “thanh lý” cũng tức là họ đã suy nghĩ tìm mọi cách

nhưng không còn khả năng níu kéo được nữa. Trường hợp này Luật phá sản nên

quy định từ 1 đến 2 tuần sau khi thụ lý đơn Tòa án ra quyết định nở thủ tục phá sản

ngay, không nên kéo dài việc xem xét.Đối với trường hợp chủ nợ đưa đơn xin mở

thủ tục phá sản thì thời gian Tòa án xem xét đương nhiên phải dài hơn. Và khi đã

quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản thì không nên có quy định đình chỉ việc

giải quyết phá sản nữa.

1.1.4. Xác định rõ và cụ thể về đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước có

quyền làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 cho thấy, trong

65

các công ty được quy định tại Điều 1, Điều 3 Luật này thì chỉ có công ty nhà nước

mới là đối tượng áp dụng Luật Doanh nghiệp nhà nước. Do đó, đại diện chủ sở hữu

doanh nghiệp Nhà nước theo quy định tại Điều 16 Luật Phá sản chỉ nên hiểu là đại

diện chủ sở hữu đối với công ty nhà nước. Vì vậy, áp dụng Điều 63 Luật doanh

nghiệp nhà nước thì đại diện chủ sở hữu công ty nhà nước là các tổ chức, cá nhân

bao gồm: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thuộc

chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng quản trị công ty nhà

nước. Tuy nhiên, để áp dụng thống nhất quy định này, cần phải có hướng dẫn cụ thể

của Chính phủ hoặc ít nhất cũng phải có quy định dẫn chiếu sang pháp luật doanh

nghiệp nhà nước. Quy định như vậy nhằm giúp Toà án có cơ sở pháp lý để xem xét

và quyết định thụ lý đơn hay trả lại đơn một cách chính xác và đúng pháp luật.

1.1.5. Bổ sung hướng dẫn cụ thể về cách thức xử lý việc không xác định được

địa chỉ của doanh nghiệp và của doanh nghiệp (con nợ)

Về cách thức xử lý việc không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp và của

doanh nghiệp (con nợ), theo chúng tôi nên xử lý vấn đề này như sau: Có thể vận

dụng linh hoạt quy định “Toà án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá

sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã chứng minh được mình không lâm vào tình trạng

phá sản” (khoản 5 Điều 24 LPS 2004) để trả lại đơn, với lý do doanh nghiệp bị yêu

cầu mở thủ tục phá sản chưa thực hiện được yêu cầu này nên Toà án chưa có căn cứ

để quyết định mở thủ tục phá sản hay ra quyết định không mở thủ tục phá sản. Bên

cạnh đó, hướng dẫn cho các doanh nghiệp, chủ nợ đưa đơn là họ tiếp tục xác định

địa chỉ, các khoản nợ và tài sản của doanh nghiệp mắc nợ để cung cấp cho Toà án

khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp lần sau; nếu không xác định

được những nội dung này, họ nên yêu cầu cơ quan Công an địa phương xem xét nếu

doanh nghiệp mắc nợ có dấu hiệu phạm tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản thì xử lý về hình sự.

1.1.6. Cần có hướng dẫn rõ ràng hơn về phí phá sản.

Có thể nói mức đóng tạm ứng phí phá sản hiện nay phụ thuộc vào nhận thức chủ

quan của thẩm phán do đó, sẽ khó có được sự thống nhất và dễ gây ra những thắc

66

mắc không đáng có. Luật nên quy định một mức đóng tối thiểu để thẩm phán căn cứ

vào tính chất mức độ phức tạp của việc phá sản mà ấn định mức tạm ứng phí phá

sản phù hợp bảo đảm cho việc tiến hành công việc phá sản được thuận lợi.

Về phí phá sản: cần có quy định chi tiết các khoản phí, lệ phí, chi phí được coi là

hợp lý trong quá trình giải quyết phá sản. Nên quy định mức án phí cao hơn mức

thu hiện nay là 1 triệu đồng/vụ, tùy theo tính chất phức tạp của vụ phá sản.

1.2. Bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài

sản

Quy chế hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản cần quy định cụ thể trong

LPS 2004, đặc biệt là trong quy định về việc phân công, phân nhiệm và cơ chế làm

việc của các thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng như việc thực hiện nhiệm

vụ của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Người viết đề xuất một số kiến nghị sau:

1.2.1. Tăng cƣờng sự giám sát, kiểm tra của thành viên Tổ quản lý,

thanh lý tài sản trong việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp

Trước hết, cần phân công cho một thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản là

đại diện doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản và một thành viên khác là đại diện chủ

nợ có số nợ nhiều nhất giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp

cũng như giám sát những hành vi bị cấm và bị hạn chế theo Điều 31 LPS 2004.

Đồng thời, cần quy định cụ thể về quyền và nhiệm vụ của các thành viên của Tổ.

Trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản, vị trí, vai trò của các thành viên không phải như

nhau. Đây là một thiết chế rất đặc biệt, trong đó có sự tham gia đại diện cơ quan

công quyền. Do đó, cần phải có những quy định chi tiết về Quy chế làm việc của

Tổ, giới hạn trách nhiệm, quyền hạn của mỗi loại thành viên.

Đặc biệt, cần quy định về trách nhiệm cá nhân của Tổ trưởng Tổ quản lý,

thanh lý tài sản và các thành viên của Tổ khi thực hiện các quyết định của Tòa

án. Hoạt động của Tổ trưởng có vị trí rất quan trọng, vì đây là người điều phối

hoạt động, tổ chức thực hiện các quyết định quan trọng của Thẩm phán và thực

hiện thanh toán cho các chủ nợ. Do đó, cần quy định rõ chế độ báo cáo của Tổ

67

trưởng đối với Thẩm phán.

Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quy

định: Quản tài viên có nghĩa vụ thu hồi các món nợ do người thứ ba thiếu. Sau khi

trừ đi các khoản chi tiêu, phí tổn, phải nộp lại số tiền đã thu được vào quỹ tồn trữ

trong 3 ngày và phải báo cáo với thẩm phán đã nộp rồi. Nếu nộp muộn hơn sẽ phải

chịu tiền phạt. Thiết nghĩ, đây cũng là những quy định cần được xem xét, kế thừa.

Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn quy chế phối hợp hoạt động giữa Cơ quan

thi hành án dân sự và Tòa án, quy chế hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.

1.2.2 Bổ sung hƣớng dẫn về cơ chế làm việc của Tổ quản lý, thanh lý tài sản

Khi có quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản, tổ trưởng Tổ quản lý,

thanh lý tài sản cần tổ chức phiên họp thứ nhất để phân công nhiệm vụ cụ thể cho

thành viên và thông báo địa điểm, kế hoạch làm việc của Tổ. Địa điểm làm việc của

Tổ là trụ sở của Toà án hoặc trụ sở cơ quan Thi hành án do Tổ trưởng quyết định

sau khi trao đổi ý kiến với Thẩm phán. Phiên họp của Tổ quản lý, thanh lý tài sản

chỉ được tiến hành khi có sự tham gia của ít nhất 2/3 tổng số thành viên. Các quyết

định của Tổ quản lý, thanh lý tài sản bao gồm các quyết định sau: lập bảng kê tài

sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ; đề nghị Thẩm phán tuyên bố giao

dịch mà doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện vô hiệu; thu hồi tài sản mà doanh

nghiệp đã giao dịch vi phạm Điều 31 của Luật Phá sản; đề nghị Thẩm phán quyết

định thu hồi tài sản hoặc phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp bị áp dụng

thủ tục thanh lý tài sản đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp đối với các trường

hợp quy định tại Điều 43 của Luật phá sản, đề nghị Thẩm phán ra quyết định buộc

doanh nghiệp thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhằm bảo toàn tài sản

hoặc phục vụ cho việc thanh lý tài sản hoặc làm tăng thêm khối tài sản của doanh

nghiệp. Những quyết định này phải có quy định chặt chẽ về thủ tục xem xét và

thông qua, theo chúng tôi, nên quy định chỉ thông qua những quyết định đó khi có

sự đồng ý của đa số thành viên tham gia cuộc họp, trường hợp có số phiếu ngang

68

nhau thì ý kiến của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản là ý kiến quyết định.

1.2.3. Cần quy định rõ hơn về việc chuyển giao tài liệu cho Toà án lƣu trữ

Theo người viết, vấn đề đặt ra ở đây cần được làm rõ là tài liệu do Tổ quản lý,

thanh lý tài sản lập bản chính thì được lưu giữ tại Toà án, còn bản sao thì lưu giữ tại

cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, phải có quy định về việc bàn giao hồ sơ, tài liệu

giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản và Toà án, thời gian bàn giao hồ sơ cho Toà án lưu

giữ là bao lâu? Nghĩa là, trong trường hợp này cần quy định là toàn bộ hồ sơ bản

chính do Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải lưu giữ tại Toà án và trong thời hạn 30

ngày, kể từ ngày Tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể thì Tổ trưởng Tổ quản lý,

thanh lý tài sản phải bàn giao hồ sơ cho Toà án và phải lập biên bản, thống kê các

tài liệu bàn giao cho Toà án.

Ngoài ra, Luật cần có quy định cho phép Tổ truởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản

có quyền huy động nhân viên kế toán và các cán bộ khác của cơ quan Thi hành án

giúp Tổ quản lý, thanh lý tài sản hỗ trợ công tác kiểm tra sổ sách kế toán, quyết

định áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo qui định của pháp luật về thi

hành án dân sự, tổ chức thi hành các quyết định của Thẩm phán, đóng tài khoản khi

có quyết định giải thể Tổ quản lý, thanh lý tài sản và bàn giao tài liệu khi kết thúc

việc giải quyết phá sản.

1.3. Tăng cường cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục

phá sản.

Theo nguyên tắc giải quyết phá sản của Ngân hàng thế giới thì các quyền của

chủ nợ phải được bảo đảm thông qua việc thiết lập một Uỷ ban chủ nợ để cho phép

chủ nợ có khả năng tham gia chủ động vào thủ tục phá sản. Pháp luật quốc gia cần

xây dựng cơ chế để Uỷ ban chủ nợ có thể giám sát hiệu quả đối với toàn bộ quá

trình phá sản nhằm bảo đảm sự trung thực khách quan. Uỷ ban chủ nợ sẽ hoạt động

như một cầu nối trong việc cung cấp thông tin cho các chủ nợ khác và trong việc

triệu tập các chủ nợ để đưa ra quyết định về những vấn đề quan trọng. Pháp luật cần

quy định các vấn đề như điều kiện và quyền bỏ phiếu, số chủ nợ cần thiết để biểu

quyết, hội nghị chủ nợ và các hoạt động của hội nghị chủ nợ. đặc biệt, cần thiết lập

69

các quy định cần thiết trong việc lựa chọn và chỉ định uỷ ban chủ nợ để thực hiện

một số hoạt động trong thủ tục phá sản. Việc thành lập Uỷ ban chủ nợ với tư cách là

cơ quan thường trực của Hội nghị chủ nợ là một nhân tố cần thiết, thúc đẩy sự tham

gia tích cực của chủ nợ vào quá trình giải quyết phá sản được pháp luật nhiều nước

quy định. Chẳng hạn:

Theo kinh nghiệm của Mỹ thì, trong thủ tục phá sản, vai trò của các chủ nợ là rất

quan trọng, đặc biệt trong việc chủ động tái tổ chức công ty. Một Uỷ ban chủ nợ

được thành lập với quyền hành rất lớn. Pháp luật Mỹ không chỉ quy định một Uỷ

ban chủ nợ mà trong trường hợp đặc biệt có thể có vài Uỷ ban chủ nợ (Uỷ ban đại

diện người lao động, Uỷ ban đại diện chủ nợ có bảo đảm ...), các Uỷ ban này đều có

sự trợ giúp của các luật sư. Tại một số nước khác như pháp luật của các nước theo

khối thịnh vượng chung như Pháp ..., chủ nợ thường đóng vai trò ít quan trọng hơn

trong việc giám sát vụ việc và hoạt động của người quản lý cũng như trong thủ tục

phá sản nói chung. Xu hướng hiện đại là cho phép chủ nợ được quyết định những gì

có lợi cho họ nhất và làm cho toà án không cần thiết phải tham gia vào việc ra ra

quyết định của họ trừ trường hợp đảm bảo rằng các chủ nợ nhỏ cũng được đối xử

công bằng.

Pháp luật phá sản Đức quy định bên cạnh Hội nghị chủ nợ còn có Hội đồng chủ

nợ. Hôi đồng chủ nợ là một cơ quan thường trực cấp dưới của Hội nghị chủ nợ

không mang tính chất bắt buộc. Đại diện trong Hội đồng chủ nợ gồm những chủ nợ

được bảo đảm, chủ nợ phá sản có quyền đòi nợ lớn nhất và những chủ nợ nhỏ nhất.

Trong Hội đồng chủ nợ cũng phải có một đại diện của những người lao động nếu

những người lao động là chủ nợ phá sản có quyền đòi nợ không nhỏ. Thành viên

Hội đồng chủ nợ do Toà án bổ nhiệm, miễn nhiệm theo yêu cầu của các chủ nợ

hoặc khi xét thấy cần thiết. Thành viên Hội đồng chủ nợ giúp đỡ và giám sát người

quản lý phá sản trong việc điều hành và được hưởng thù lao cho những hoạt động

của mình và được trả những chi phí hợp lý đã bỏ ra khi thực hiện hoạt động với tư

cách là thành viên Hội đồng. Thành viên Hội đồng chủ nợ phải chịu trách nhiệm bồi

70

thường thiệt hại cho các chủ nợ có bản đảm, chủ nợ phá sản, nếu có lỗi vi phạm của

mình. Nghị quyết của Hội đồng chủ nợ có giá trị nếu được đa số thành viên tham

gia biểu quyết tán thành.

Phù hợp với thông lệ chung của thế giới, người viết đề xuất sửa đổi quy định của

LPS 2004 như sau:

+ Quy định cơ chế hoạt động của Hội nghị chủ nợ một cách độc lập khỏi sự can

thiệp của Toà án (thẩm phán), hạn chế tình trạng hành chính hoá quan hệ dân sự,

kinh tế. Chủ nợ có bảo đảm cần được tham gia một cách tích cực hơn vào việc xem

xét và thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh

nghiệp. Hội nghị chủ nợ phải được quyền cử người thay thế người quản lý và điều

hành doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trong trường hợp xét thấy

người quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã hiện tại không có khả năng điều hành

hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo toàn

tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.

+ Quy định việc thành lập Uỷ ban chủ nợ với sự tham gia của một số chủ nợ

nhất định nhằm tạo cơ chế tham gia một cách thường xuyên, liên tục của các chủ nợ

vào quá trình giải quyết phá sản.

1.4. Bổ sung các quy định về thủ tục quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp bị

tuyên bố phá sản

1.4.1. Cần bổ sung quy định về thủ tục kiểm kê tài sản

Theo Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972, thủ tục kê biên được quy định khá rõ

ràng, chi tiết. Quản tài viên lập bản kê khai các tài sản của doanh nghiệp, kể cả

những tài sản là hàng hóa, thực phẩm không bị niêm phong, vì có thể bị hư hại.

Những hàng hóa này Quản tài viên lập bản kê khai và trị giá ngay từ lúc thẩm phán

lập biên bản niêm phong. Khi gỡ niêm, Quản tài viên phải lập bản kê khai tất cả các

tài sản hiện còn lại của doanh nghiệp dưới sự chứng kiến của đương sự. Luật này

cũng quy định về thủ tục niêm phong trước khi lập bản kê tài sản, đề phòng việc lập

71

bản kê tài sản kéo dài, gây thất thoát tài sản.

Kiểm kê là hoạt động được thực hiện kể từ khi có quyết định mở thủ tục tuyên

bố phá sản, do doanh nghiệp thực hiện dưới sự giám sát của Thẩm phán và sự

chứng kiến của những chủ thể khác tham gia vụ phá sản. Công việc này đòi hỏi phải

được thực hiện nhanh chóng và chính xác để đảm bo quyền lợi cho cả chủ nợ và

con nợ.

Thông thường, sau khi có quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản, con nợ

thường có các hành vi nhằm tẩu tán tài sản, trốn nợ. Mặt khác, tài sản tại doanh

nghiệp thường tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau, thậm chí nằm rải rác ở nhiều nơi.

Vì vậy, trong các văn bản hướng dẫn LPS 2004 cần quy định chi tiết về thủ tục

niêm phong và kê biên để phòng tránh các hành vi này.

Mặt khác, theo Điều 50 LPS 2004, nếu việc kiểm kê, xác định giá trị không

chính xác thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền tổ chức kiểm kê, xác định lại

giá trị. Như vậy, cần có quy định chi tiết hơn về thế nào là không chính xác, ở

mức độ nào thì tiến hành kiểm kê lại. Đặc biệt, việc định giá trị tài sản cần phải có

những quy định hướng dẫn rất cụ thể, không chỉ quy định chung chung là theo giá

thị trường tại thời điểm kiểm kê. Trong hoàn cảnh nước ta nền kinh tế thị trường

chưa phát triển, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ làm công tác giải quyết phá sản,

của cả doanh nghiệp và các chủ nợ về tài chính - kế toán còn nhiều bất cập, thì

việc định giá các tài sản của doanh nghiệp không phải là dễ dàng, nhất là đối với

các tài sản đặc biệt như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công nghiệp… cần có

những quy định khuyến khích doanh nghiệp thuê các tổ chức tư vấn tài chính - kế

toán, các tổ chức định giá chuyên nghiệp tham gia đối với những vụ phá sản lớn

để bo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, góp phần làm lành mạnh hóa

môi trường kinh doanh.

1.4.2. Bổ sung quy định về cách xác định giá trị tài sản đã được kiểm kê

Theo khoản 3 Điều 50 LPS 2004: trong trường hợp Tổ quản lý, thanh lý tài sản

xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp quy định tại khoản 1

Điều 50 Luật Phá sản là không chính xác thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản tổ chức

72

kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Nghĩa

là, khi Tổ quản lý, thanh lý tài sản và doanh nghiệp không thoả thuận được về giá trị

các tài sản đã được kiểm kê thì Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trách

nhiệm thuê tổ chức có chức năng định giá hoặc thành lập Hội đồng định giá thực

hiện công việc này. Song cũng có ý kiến cho rằng vì việc thuê tổ chức có chức năng

định giá hoặc thành lập Hội đồng định giá là tốn kém và đòi hỏi những thủ tục phức

tạp nên trong trường hợp này, Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chỉ cần tham

khảo giá thị trường hoặc tham khảo các tổ chức có chức năng định giá để đề xuất

mức giá nhất định vào thời điểm kiểm kê sau đó thông qua Tổ quản lý, thanh lý tài

sản theo cách biểu quyết đa số theo tinh thần của Điều 50 Luật Phá sản.

1.4.3. Bổ sung để làm rõ hơn quy định thu hồi và quản lý tài sản của doanh

nghiệp bị tuyên bố phá sản ở nước ngoài

Hiện nay, trên thế giới có hai khuynh hướng quy định về vấn đề này: một là

không công nhận phán quyết giải quyết vụ phá sản của toà án nước ngoài hoặc

không thừa nhận quyền thu hồi tài sản ở lãnh thổ nước sở tại của người quản lý tài

sản của một nước khác ngoại trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định riêng.

Hai là, công nhận một phần hoặc toàn bộ các phán quyết của Toà án nước ngoài

như: công nhận ngay lập tức mà không cần thực hiện bất kỳ một thủ tục tư pháp hay

hành chính nào; thủ tục công nhận trên cơ sở có đi có lại (Pháp, Hy Lạp, Italia); thủ

tục công nhận trên cơ sở không có đi có lại (Mêhicô, Panama và Colômbia,,) và

việc công nhận chỉ giới hạn trong việc thu hồi tài sản (Hà Lan, Thuỵ Điển).

Luật Phá sản năm 2004 chưa quy định về vấn đề này. Vì vậy, có khả năng bỏ

sót những tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản ở nước ngoài và điều đó tất

nhiên ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ, do vậy trong trường hợp này

chúng tôi kiến nghị, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Pháp, Hy Lạp và ý,

theo đó Việt Nam sẽ ký kết các Hiệp định hay Hiệp Ước với các quốc gia trên thế

giới theo nguyên tắc có đi có lại để bảo vệ được quyền lợi của các bên tham gia

trong vụ phá sản.

Như vậy, ở nội dung này của LPS 2004, rất cần có hướng dẫn chi tiết các vấn đề

73

liên quan đến thu hồi và quản lý tài sản như: Thủ tục thu hồi như thế nào; người có

quyền đề xuất, người ra quyết định thu hồi; người có thẩm quyền giải quyết khiếu

nại tranh chấp, thủ tục giải quyết khiếu nại tranh chấp phát sinh, việc nhập lại tài

sản vào khối tài sản phá sản như thế nào, vấn đề quản lý tài sản thu hồi được…

Những nội dung này rất cần có quy định rõ, tạo điều kiện cho quá trình thực hiện dễ

dàng, tránh trường hợp tắc trách, vô trách nhiệm của các cán bộ nhà nước trong Tổ

quản lý, thanh lý tài sản.

2. Nhóm giải pháp đối với Thành phố Hà Nội

2.1. Có biện pháp đủ mạnh để thúc đẩy thủ tục tuyên bố phá sản đối với doanh

nghiệp làm ăn kém hiệu quả.

Công ty làm ăn kém hiệu qủa thường do các nguyên nhân bên trong và bên

ngoài. Các nguyên nhân bên ngoài như là các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô mà

các công ty không thể kiểm soát được như: khủng hoảng, thay đổi lãi suất, thay đổi

trong môi trường chính sách của chính phủ, lạm phát hay sự xuất hiện của đối thủ

cạnh tranh,… Còn các nguyên nhân bên trong như các vấn đề liên quan đến chiến

lược công ty, các vấn đề lãnh đạo và các vấn đề về tài chính kế toán…

Dù nguyên nhân bên trong hay bên ngoài thì doanh nghiệp làm ăn không hiệu

quả cũng cần phải loại bỏ. Vì trong môi trường kinh tế hội nhập như hiện nay, việc

cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp làm ăn yếu kém, không hiệu

quả bị loại bỏ là điều tất yếu. Do vậy Thành phố Hà Nội cần có các biện pháp hỗ trợ

cho các doanh nghiệp làm này được phá sản sớm, đồng thời kiên quyết không giúp

đỡ các doanh nghiệp yếu kém duy trì sản xuất, kinh doanh.

2.2. Kiên quyết xóa bỏ tư tưởng ỷ lại vào sự cứu xét của Nhà nước đối với

những doanh nghiệp Hà Nội hoạt động không hiệu quả

Thời gian qua do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, sức tiêu thụ sản

phẩm của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu giảm

mạnh so với cùng kỳ năm 2008. Để duy trì và phát triển kinh doanh, nhiều công ty

đã tự mình xây dựng và thực hiện các biện pháp kinh doanh hiệu quả. Thí dụ như

74

Công ty Cổ phần dệt may Hà Nội (Hanosimex) đã giữ “chân” khách hàng truyền

thống, có được khách hàng mới... doanh nghiệp đã đẩy mạnh hoạt động chăm sóc

khách hàng, khai thác thế mạnh làm hàng chất lượng cao để tăng giá trị gia tăng, giao

hàng đúng hạn... Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn đẩy mạnh việc chủ động nguồn

nguyên liệu trong nước, giảm lượng nguyên liệu nhập khẩu từ đó hạ giá thành sản

xuất, đáp ứng yêu cầu khách hàng đặt đơn hàng với thời gian ngắn, đáp ứng cả những

đơn hàng số lượng ít… Nhờ những biện pháp này, Hanosimex không chỉ giữ “chân”

được khách hàng Mỹ, mà còn tăng thêm các khách hàng EU, Nhật Bản.

Bên cạnh những doanh nghiệp đã chủ động xây dựng các biện pháp đẩy mạnh

sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thì còn có các doanh nghiệp ỷ lại

vào sự cứu xét của Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nuớc. Khi Việt

Nam là thành viên của WTO, thay vì cải tiến công nghệ, cách thức tổ chức làm

việc…để cạnh tranh trong một môi trường lớn thì có rất nhiều doanh nghiệp lại

trông chờ vào sự bảo trợ của Nhà nước về thuế, lãi suất,… Thiết nghĩ, để tồn tại và

phát triển trong một môi trường có sự cạnh tranh lớn thì tư tưởng ỷ lại vào Nhà

nước của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội cần phải sớm loại bỏ.

2.3. Tăng cường nâng cao hiểu biết ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp Hà

Nội về lợi ích của thủ tục phá sản và pháp luật phá sản

Để pháp luật phá sản và những quy định về quản lý và xử lý tài sản phá sản

được thực thi có hiệu quả trong thực tiễn thì vấn đề nhận thức pháp luật của xã hội

cũng như giới kinh doanh là hết sức quan trọng. Những nhận đúng sẽ có những

hành vi, ứng xử đúng, nguyên nhân cơ bản khiến việc thực thi Luật phá sản gặp

nhiều khó khăn là do những chủ thể có liên quan đến phá sản doanh nghiệp chưa

nhận thức đúng và đầy đủ vầ phá sản và trình tự phá sản, do công tác tuyên truyền,

phổ biến pháp luật phá sản còn chưa được quan tâm đúng mức. Bởi vậy, cần tuyên

truyền, phổ biến nội dung của LPS 2004, đặc biệt là những quy định pháp luật về cơ

chế quản lý và xử lý tài sản phá sản đến những người làm công tác nghiên cứu, lý

luận, những người làm công tác áp dụng pháp luật, đặc biệt là các cán bộ trong các

ngành tòa án, kiểm sát, các luật sư và đặc biệt là các doanh nghiệp để cho những đối

75

tượng này nắm vững những quy định của pháp luật phá sản, hiểu đúng và rõ ràng

hơn về pháp luật phá sản để từ đó tuân thủ pháp luật phá sản nghiêm túc hơn. Việc

tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua các kênh: đài báo, phát thanh, truyền

hình, qua các tổ chức hội nghề nghiệp hay qua các kênh chuyên biệt như mở các lớp

bồi dưỡng, hội thảo, tập huấn...

3. Nhóm giải pháp khác

3.1. Đối với Toà án

Thẩm phán là người trực tiếp giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, do đó, chất

lượng và hiệu quả của việc giải quyết thủ tục phá sản doanh nghiệp phụ thuộc nhiều

vào trình độ chuyên môn của Thẩm phán. Trong quá trình giải quyết phá sản, ngoài

những yêu cầu về trình độ pháp lý, người Thẩm phán còn phải có trình độ hiểu biết

về nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính - kế toán. Do vậy, cần phải

bồi dưỡng, nâng cao trình độ thẩm phán giải quyết phá sản, đáp ứng những yêu cầu

mới đặt ra. Thường xuyên, định kỳ tổ chức các hội thảo chuyên đề, khóa đào tạo

nhằm bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Thư

ký tòa án trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, kịp thời tổng kết, hướng

dẫn các Tòa án địa phương giải quyết những vướng mắc phát sinh. Điều này đặc

biệt quan trọng, vì LPS 2004 đã mở rộng thẩm quyền giải quyết phá sản cho Tòa án

cấp huyện. Trong tương lai, cần hướng tới đào tạo các thẩm phán chuyên trách về

phá sản.

Mặt khác, cần ban hành mẫu báo cáo để Toà án có thể thống kê được chi tiết

hơn về quy mô của doanh nghiệp phá sản để giúp ngành Toà án có thể thống kê chi

tiết những nội dung cụ thể trong quá trình giải quyết phá sản, chẳng hạn những vấn

đề: số lượng lao động của doanh nghiệp phá sản, tổng tài sản của doanh nghiệp phá

sản tổng số nợ của doanh nghiệp phá sản, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp

phá sản, tỷ lệ tài sản trên nợ của doanh nghiệp phá sản chia theo địa phương, theo

mô hình, những đánh giá về vai trò của công ty quản lý nợ, những ảnh hưởng về

mặt xã hội của phá sản và những vấn đề phát sinh liên quan khác... Trên cơ sở đó,

76

có thể có những số liệu để đánh giá về tình trạng phá sản của các doanh nghiệp ở

Việt Nam đồng thời công khai số liệu về phá sản trong tập số liệu thống kê doanh

nghiệp hàng năm.

Ngoài ra, Toà án nhân dân tối cao cũng phải thường xuyên theo dõi quá trình

thực thi pháp luật phá sản, đồng thời tổng kết kinh nghiệm và kịp thời hướng dẫn

giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản cũng như

trong việc quản lý và xử lý tài sản phá sản cho các Toà án nhân dân địa phương.

3.2. Tăng cường xử lý vi phạm pháp luật về kế toán

Như đã phân tích ở trên, một trong những nguyên nhân làm suy giảm hiệu lực

của pháp luật phá sản và những quy định về cơ chế quản lý, xử lý tài sản phá sản

trong thời gian qua là do những yếu kém trong việc thực hiện chế dộ tài chính kế

toán trong các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không tuân theo những quy định

về tài chính - kế toán hiện hành, sổ sách kế toán còn sơ sài, thậm chí có những

doanh nghiệp không có sổ sách kế toán, dẫn đến công nợ không rõ ràng, gian dối về

chứng từ kế toán. Điều đó làm cho việc giải quyết phá sản gặp nhiều khó khăn. Do

vậy, Luật kế toán cần đưa ra những quy định về xử lý nghiêm khắc những vi phạm

về kế toán thống kê. Tăng cường công tác kiểm tra việc tuân thủ chế độ kế toán - tài

chính doanh nghiệp, bắt buộc doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính định kỳ. Đối với

các doanh nghiệp có quy mô lớn cần phải có quy định buộc doanh nghiệp nộp báo

cáo vào cuối mỗi năm tài chính. Trường hợp doanh nghiệp không nộp báo cáo hoặc

báo cáo gian dối phải bị xử phạt năng bằng tiền hoặc trường hợp nghiêm trọng có

thể bị rút đăng ký kinh doanh. Có như vậy mới có thể chấn chỉnh được tình trạng vi

phạm nghiêm trọng về kế toán tài chính như hiện nay.

Ngoài ra, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp.

Xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm soát doanh nghiệp một cách hợp lý và hiệu quả,

nhất là vấn đề tài chính kế toán để có thể kịp thời phát hiện các doanh nghiệp gặp

khó khăn về tài chính, hỗ trợ và giúp các doanh nghiệp đề ra các biện pháp khắc

phục khó khăn đó. Tiến tới tất cả các doanh nghiệp phải tiến hành kiểm toán vào

77

cuối năm tài chính.

3.3 Tăng cường giáo dục sâu rộng mọi đối tượng trong tầng lớp nhân dân Hà Nội

về phá sản để đổi mới nhận thức

Phá sản là một trong những biện pháp để thúc đẩy lưu thông vốn, vì vậy, không

nên coi phá sản là một thủ tục để chấm dứt hoạt động của một doanh nghiệp mà

mục đích quan trọng là tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội tổ chức lại hoạt

động kinh doanh. Trường hợp đã áp dụng mọi biện pháp mà doanh nghiệp vẫn

không thể khắc phục được thì mới thực hiện việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp

để chia cho các chủ nợ. Chỉ khi nào các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, chủ sở

hữu hoặc người quản lý doanh nghiệp, các chủ nợ, người lao động trong các doanh

nghiệp nhận thức đúng đắn những vấn đề này và sử dụng Luật phá sản như là một

công cụ hữu hiệu để lành mạnh hoá tình hình tài chính doanh nghiệp, cứu vãn

doanh nghiệp trong hoàn cảnh khó khăn, phục hồi doanh nghiệp trở lại hoạt động

kinh doanh bình thường thì pháp luật phá sản mới thực sự phát huy được tác dụng

78

của nó trong việc cơ cấu lại nền kinh tế.

Kết luận

Luật Phá sản năm 2004 và việc thực hiện Luật phá sản năm 2004 trên địa bàn cả

nước nói chung và trên địa bàn TP. Hà Nội nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế và bất

cập mà nguyên nhân bao gồm cả yếu tố bên trong (bản thân Luật phá sản năm 2004)

và cả yếu tố bên ngoài (tư tưởng, quan niệm về phá sản,…). Từ đó dẫn đến tình

trạng nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả mà vẫn không tìm đến Toà án yêu

cầu phá sản.

Luật phá sản năm 2004 được ban hành nhằm mục đích ứng dụng cho các “sự

cố” của nền kinh tế, nó không chỉ là Luật để “chôn” các doanh nghiệp yếu kém mà

còn nhằm mục đích khôi phục lại sự cân bằng về cán cân thanh toán tài chính của

thị trường. Sẽ là không tưởng nếu đòi hỏi có một văn bản pháp luật hoàn hảo, nhất

là trong lĩnh vực phá sản mà mục tiêu quan trọng là dung hòa giữa những lợi ích đối

kháng, bởi lẽ bản thân Luật Phá sản là Luật của sự thất bại. Chúng ta chỉ có thể hy

vọng xây dựng một văn bản pháp luật ít khiếm khuyết nhất trong một giai đoạn nhất

định. Không phủ nhận nỗ lực to lớn của các nhà làm luật trong việc nghiên cứu, ban

hành một văn bản Luật mang tính khả thi cao về phá sản nhưng với những quy đinh

hiện nay thì Luật Phá sản năm 2004 mang trong mình nhiều bất cập dẫn đến việc

khó thực thi.

Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn TP. Hà Nội nói riêng và cả

nước nói chung cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật phá sản để pháp luật này thực

79

sự đi vào thực tiễn và được các doanh nghiệp chấp nhận như một vấn đề tất yếu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Luật Phá sản số 21/2004/QH11 của Quốc hội

2. Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân

tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản.

3. Nghị định 94/2005/NĐ-CP của Chính phủ về giải quyết quyền lợi của

người lao động ở doanh nghiệp và hợp tác xã bị phá sản.

4. Thông tư liên tịch 19/2008/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư

pháp về hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo

đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài

sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.

5. Công văn 7050/BTC-TCT của Bộ Tài chính về việc Quyết toán thuế đối

với doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.

6. Công văn 1977/VPCP-XDPL của Văn phòng Chính về việc thực hiện

Luật phá sản.

7. Nghị định 67/2006/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn việc áp dụng

Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ

quản lý, thanh lý tài sản.

8. Nghị định 10/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản Luật phá sản doanh

nghiệp năm 1993.

9. Nghị định số 114/CP ban hành ngày 3/11/2008 của Chính phủ về việc

Hướng dẫn chi tiết ban hành một số điều luật của Luật phá sản đối với

doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán

80

và tài chính khác.

10. Nghị định số 189/CP ban hành ngày 23/12/1994 về việc Hướng dẫn thi

hành luật phá sản doanh nghiệp.

11. Quyết định số 01/2005 của Toà án nhân dân Tối cao về Quy chế làm việc

của Tổ thẩm phán phụ trách tiến hành làm thủ tục phá sản.

12. Vụ Công tác lập pháp (2005), Những nội dung cơ bản của Luật phá sản

năm 2004, nhà xuất bản Tư pháp.

13. Vũ Thị Hồng Vân- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Đánh giá thực trạng

thi hành Luật phá sản doanh nghiệp năm 2004”.

14. Luật phá sản năm 2004 và những văn bản hướng dẫn thi hành, nhà xuất

bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2008

15. Bộ Tư Pháp (2008), “Báo cáo thực trạng áp dụng Luật phá sản năm

2004”.

16. TS. Trương Hồng Hải, Đại học luật Hà Nội, Luận án “Luật phá sản

doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn

thiện”

17. Dương Đăng Huệ, “Phá sản Việt Nam năm 2004 với việc cải thiện môi

trường kinh doanh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2005, tr26-31.

Tài liệu tiếng Anh

18. Dr. Hans-Jochem Luer (2000), The Insolvency Laws of Germany, Juris

Publishing.

19. David A.Skeel Jr (2003), “A history of bankruptcy law in America”,

81

Princeton University Press.

Website

http://www.thaibinhtrade.gov.vn 20.

http://vneconomy.vn 21.

http://vnba.org.vn 22.

http://vietnamnet.vn 23.

http://vnexpress.net 24.

http://www.hg.org/bankrpt.html 25.

82

http://bbc.co.uk 26.