Bốn kỹ năng dạy trẻ làm người từ

khi học mầm non

- “Dạy kiến thức” là việc của nhà trường, còn “dạy làm người” là việc của

toàn xã hội.

Trong khi dạy kiến thức là nhiệm vụ chính của ngành giáo dục thì dạy làm

người không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành giáo dục mà là của toàn xã hội,

của cả hệ thống chính trị.

Việc dạy kiến thức, tuy còn đôi điều cần bàn luận, dù sao cũng đã đã đáp ứng

phần nào yêu cầu trang bị tri thức cho thế hệ trẻ thì chuyện dạy làm người lại

là “thất bại toàn diện” không phải chỉ của giáo dục mà là của toàn hệ thống.

Nói đến chuyện dạy người, những người lớn tuổi thường vận dụng câu: “tiên

học lễ, hậu học văn”, cũng từ đây nảy sinh những tranh luận gay gắt về “lễ”,

“văn” thời hiện đại. Thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay thiếu những gì và nền giáo

dục, theo tinh thần đổi mới toàn diện cần tập trung dạy cái gì, dạy từ lứa tuổi

nào? Người viết cho rằng cần dạy bắt đầu từ trẻ mẫu giáo-mầm non bốn kỹ

năng cơ bản sau đây:

Kỹ năng làm việc theo nhóm

Kỹ năng này gọi theo cách nguyên thủy là hợp tác bầy đàn. Hợp tác bầy đàn

vừa dùng để săn mồi, cũng lại được dùng để chống lại kẻ săn mồi. Đứng

trước một bầy đàn đông đúc, kẻ săn mồi rất khó lựa chọn đối tượng cuộc săn,

chúng thường lựa chọn những con mồi đứng riêng lẻ. Trong thế giới động vật

điển hình cho việc hợp tác bầy đàn là cá heo. Khi phát hiện đàn cá chích bầy

cá heo sẽ bơi thành vòng tròn xung quanh và liên tục xả các bong bóng khí,

một khi cả đàn đã tạo được lồng bong bóng bao quang đàn cá chích thì khả

năng chạy thoát của con mồi là gần như không có.

Ảnh minh họa

Kỹ năng làm việc theo nhóm càng quan trọng khi loài người bước vào nền

kinh tế tri thức. Người Việt có chỉ số thông minh cao, điều này đã được thế

giới công nhận. Nguyên thủ tướng Singapore, ông Lý Quang Diệu trong cuốn

'One man’s View of the World' nhận định: “người Việt là một trong những

dân tộc năng động và thông minh nhất trong khu vực Đông Nam Á. Sinh viên

Việt Nam thường xuyên giành được những điểm số cao nhất trong cách kỳ

thi tầm cỡ quốc tế[1].

Trái ngược với tính thông minh, kỹ năng xử lý tình huống của người Việt lại

rất hạn chế, mang nặng tâm lý tiểu nông, chỉ biết riêng mình. Dường như

thỏa mãn nhu cầu cá nhân quan trọng hơn lợi ích tập thể. Người ta sẵn sàng

“hy sinh đời bố, củng cố đời con” chứ không phải là vì quốc gia đại sự. Tâm

lý ấy có thể thấy khắp nơi từ chuyện xuất khẩu gạo, thủy, hải sản đến chuyện

nhập rác thải công nghiệp về kiếm lời.

Có phải người Việt có một tập tính trải qua hàng nghìn năm đã trở thành di

truyền chăng? Muốn bảo vệ lãnh thổ, muốn chống ngoại xâm, muốn duy trì

nòi giống trước hết phải “sống” đã. Hễ có ngoại xâm là đoàn kết đánh giặc,

đánh thắng rồi phải tranh thủ “sống”? Dần dà mệnh đề “phải sống” lấn át tất

cả, sống cho mình và sẵn sàng chà đạp sự sống của người khác? Cách sống

ấy càng ngày càng ăn sâu vào nhận thức của thanh niên, đặc biệt là sinh viên.

Bước chân vào giảng đường đại học, chỉ một thời gian ngắn sau là bắt đầu

tiến trình “ghép đôi”, tiến trình sống đơn lẻ, tranh thủ tận dụng từng mớ rau,

củ khoai của cha mẹ, ý thức cộng đồng, sinh hoạt theo nhóm gần như không

tồn tại với các cặp đôi này.

Làm việc theo nhóm bao giờ cũng cần người điều phối, người lãnh đạo. Sự

lầm tưởng về dân chủ, bình đẳng khiến cho không ít thanh niên cho rằng tất

cả mọi người đều như nhau, không thể có chuyện bị người khác “sai bảo”.

Người lãnh đạo, đó phải là “con đầu đàn” đủ sức mạnh và trí tuệ chỉ huy cả

nhóm. Đó phải là người được cả nhóm xuy tôn chứ không do áp đặt từ trên

xuống. Một chuyện vui kể rằng có người bán chim cảnh, treo các lồng chim

thành ba tầng, tầng trên cùng chỉ có một con, tầng giữa nhiều hơn và tầng

dưới cùng nhiều nhất. Khách mua chim hỏi giá thì được trả lời chim tầng

dưới cùng năm trăm nghìn một con. Khách hỏi tại sao đắt thế thì được trả lời,

“vì chim biết nói tiếng Việt”. Chim treo tầng giữa giá một triệu vì biết nói

tiếng Anh, chim tầng trên cùng giá ba triệu. Khách thắc mắc giá cao thế chắc

vì chim tầng trên cùng biết cả hai thứ tiếng, chủ trả lời: “chim tầng cao nhất

không biết một thứ tiếng nào cả”. Hỏi tại sao lại đắt nhất thì được trả lời

“chim tầng cao nhất là sếp của các chim tầng dưới“!

Kỹ năng làm việc theo nhóm cần được giáo dục ngay từ khi trẻ còn học mẫu

giáo, điều này chưa được chú ý đúng mức. Tất cả nhà trẻ mẫu giáo chỉ được

trang bị các trò chơi như cầu trượt, đu quay, cầu bập bênh, rất khó bố trí chơi

theo nhóm. Cần hình thành các trò chơi sao cho giáo viên có thể chia các

cháu thành nhóm, tạo sự đoàn kết và thi đua giữa các nhóm. Hình thức thi thể

dục nhịp điệu của học sinh phổ thông ở Mỹ là một cách dạy làm việc theo

nhóm rất hiệu quả. Nếu để ý kỹ sẽ thấy các vũ công múa nước ta dù ở những

đơn vị chuyên nghiệp cũng chẳng bao giờ múa đều như nước ngoài, tay chân

vung lên thế nào cũng có người lệch lạc.

Kỹ năng cảm nhận

Một nhận xét thật chua chát, rằng giới trẻ hiện nay “chỉ cảm nhận được cái

đẹp của mì tôm” đã nói lên phần nào thực trạng mà giáo dục mang lại cho

thanh thiếu niên. Nhiều người đang sống hoàn toàn vô cảm trước thực trạng

xã hội, trước những nét đẹp cần được tôn vinh. Khả năng cảm nhận cái thiện

- cái ác, cái đẹp - cái xấu gần như không có khiến cho nhiều học sinh sẵn

sàng lột quần áo cấu xé nhau giữa chốn đông người.

Khả năng cảm nhận kém dễ dẫn tới hành đông a dua, học mót. Dạy cho trẻ

càm nhận được vẻ đẹp tiềm ẩn trong một bức tranh, một câu thơ lại là vấn đề

trình độ thầy cô giáo. Với ba, bốn năm học sư phạm, họ không được trang bị

những kiến văn hóa, xã hội cần thiết. Người viết đã từng trao đổi với một

nhóm chừng hai mươi giáo viên PTCS về câu cao dao: “gió đưa hoa cải về

giời, rau răm ở lại chịu nhời đắng cay”, một số có nhận xét đọc câu ca dao

này thấy có một cái gì đó buồn buồn nhưng không một ai giải thích được

những gì ẩn chứa sau câu ca dao đó.

Hoa cải, một thứ hoa tầm thường không bao giờ được dùng để cắm lọ chứ

đừng nói dâng lên bàn thờ tổ tiên, loại hoa đó lại được đưa về nơi cao quý (về

giời). Rau răm vốn là một loại rau được dùng nhiều ở chùa vì có tác dụng

“diệt dục”, kiềm chế sự ham muốn. Rau răm là biểu hiện của sự đè nén, cay

đằng thì ở lại nhân gian, gắn bó với cuộc đời người nông dân. Đó là thực

trạng xã hội ngày xưa mà người dân không được quyền nói thẳng, nói thật

nên đã phải nói một cách ẩn dụ.

Ở tuổi mẫu giáo không thể bắt các cháu cảm nhận những gì trừu tượng,

nhưng chỉ cần với ba bông hoa hồng ba màu trắng, đỏ, vàng là đã có thể để

các cháu nêu quan điểm yêu thích của mình. Những năm cuối THCS và sang

THPT khi trí tuệ và thể chất phát triển hãy yêu cầu mức cảm nhận cao hơn

như bình luận cái hay, cái đẹp của câu thơ, bức ảnh, bài văn hay một sự

kiện…

Kỹ năng tự lập (kỹ năng sống đơn lẻ)

Một số người ngại đề cập đến kỹ năng này vì sợ sẽ khuyến khích thói ích kỷ,

tham lam của người học. Lo ngại như vậy là có cơ sở song không vì thế mà

không giáo dục trẻ kỹ năng này.

Người Mỹ dạy cho trẻ các kỹ năng tự lập khi các cháu được 18 tháng tuổi,

nghĩa là khi lẫm chẫm biết đi, khi ngã các cháu phải tự đứng dậy, cô giáo và

bố mẹ không vội vàng bế con lên suýt xoa sợ con đau. Kỹ năng tự lập giúp

trẻ hình thành thói quen độc lập giải quyết sự việc nhờ thế các cháu sẽ có cảm

giác thích thú, tự hào về sự thành công, không phải chỉ lợi cho sự phát triển

của trẻ mà còn giúp ích cho chính những người lớn.

Kỹ năng tự lập giúp hình thành bản lĩnh đối phó với các thử thách trước thiên

nhiên và trong xã hội. Thiếu kỹ năng này con người trở nên yếu ớt, đối phó

một cách tiêu cực. Khi không làm chủ được bản thân, không biết là gì để

chiến thắng đối thủ, người ta sẽ tìm cách đối phó tiêu cực kiểu “chí phèo”. Có

một chuyện “ngụ ngôn hiện đại” kể rằng: “một người trồng được cây hóa

quý, vừa có màu sắc đẹp, vừa có hương thơm. Sau khi chiêm ngưỡng, người

Mỹ về lập phòng thí nghiệm, quyết lai tạo cho được giống hoa như vậy.

Người Nhật mang lễ vật đến xin làm học trò để học cách trồng hoa. Người

Việt bĩu môi bảo, chẳng có hoa gì hơn được hoa đồng tiền”.

Kỹ năng giao tiếp

Dạy kỹ năng sống đương nhiên không tách rời kỹ năng giao tiếp, hành xử. Có

nhận xét tuy tiêu cực nhưng đúng với thực tế, rằng ngôn ngữ giao tiếp của

người Việt không có từ “xin lỗi”, “cảm ơn”. Những đưa bé phạm lỗi, khi

buộc phải xin lỗi thường nói lý nhí trong miệng, không muốn nói to, đó là

bản năng tự nhiên. Còn người lớn, khi ngăn một người lại để hỏi đường

thường chẳng bao giờ nói đủ câu: “xin lỗi, xin bác chỉ giùm lối đi đến…”.

Dạy trẻ cách xin lỗi thì cũng phải kèm theo hình thức động viên, chẳng hạn

khi một trẻ xin lỗi thì cả lớp hoan hô, lúc đó trẻ sẽ không thấy việc xin lỗi là

một hình phạt, sẽ thấy xin lỗi là điều bình thường.

Kỹ năng giao tiếp không phải chỉ là “xin lỗi” và “cảm ơn” mà còn rất nhiều

điều cần phải chú ý tuy nhiên do khuôn khổ bài viết xin phép không đề cập

đến.

Để dạy trẻ kỹ năng tự lập từ lứa tuổi mầu giáo, nhà trẻ cần một đội ngũ giáo

viên được đào tạo hoàn chỉnh về tâm sinh lý trẻ em bên cạnh những kiến thức

chuyên môn, nghề nghiệp. Số liệu thống kê năm 2012 của Bộ GD&ĐT cho

thấy lứa tuổi nhà trẻ trường công lập là 347.320 cháu, ngoài công lập là

205.797 cháu, mẫu giáo công lập có 2.628.513 cháu, ngoài công lập có

691.815 cháu. Rõ ràng là nhà nước chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục

lứa tuổi này. Bỏ ngỏ một giai đoạn giáo dục nhân cách quan trọng nhất sẽ là

thảm họa cho cả quá trình giáo dục, đào tạo sau này.

Nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo dục mầm non là hình thành nhân cách

cho trẻ em, một trong các biểu hiện của nhân cách là biết nói lời xin lỗi, cảm

ơn. Cần phải tập cho trẻ hình thành phản xạ tự nhiên trong giao tiếp, chỉ có

thế mới hình thành “văn hóa xin lỗi”, “văn hóa cảm ơn”, mới chứng tỏ được,

rằng người Việt là những người biết ứng xử.

Hy vọng với chủ trương đổi mới toàn diện giáo dục, nhà nước sẽ chuyển sự

bao cấp từ khối cao đẳng đại học xuống khối mẫu giáo, nhà trẻ. Xem đây là

một bước đột phá trong giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ, cũng là kỹ năng

sống cho người Việt hiện đại.