Luận văn: Những nhân tố tác động và biện pháp xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 85
download
Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: những nhân tố tác động và biện pháp xóa đói giảm nghèo ở việt nam hiện nay', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Những nhân tố tác động và biện pháp xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay
- Luận văn Những nhân tố tác động và biện pháp xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay
- LỜI GIỚI THIỆU 1. Bối cảnh nghiên cứu Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD */ngày và cứ 8 trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi nghèo đói. Còn Việt Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ nghèo ở V iệt Nam giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và hiện nay còn kho ảng 30%. Theo tiêu chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước ta giảm từ 30,01% năm 1992 xuống 11% năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình quân hàng năm khoảng 50.000 hộ (riêng năm 1996 và 1997 mỗi năm khoảng gần 100.000 hộ do bão lụt. Nếu so sánh tình trạng đói nghèo của nước ta với các nước trên thế giới thì tính bức xúc của nó là rất lớn, ngưỡng nghèo của Việt Nam vẫn xa với ngưỡng nghèo của thế giới. 2. Mục đích nghiên cứu Với một tỷ lệ không nhỏ số dân đang sồng trong cảnh cùng cực, Việt Nam sẽ khó thực hiện được tiến trình CNH-HĐH đất nước. Vấn đề đặt ra là phải làm sao đẩy lùi được tình trạng đói nghèo xuống. Nhưng muốn có những chính sách, biện pháp xoá đói giảm nghèo hiệu quả thì nhất thiết phải hiểu được những nguyên nhân nào d ẫn tới tình trạng nghèo đói của Việt Nam. Nhận thức được yêu cầu bức thiết đó, nghiên cứu này sẽ tập trung đi sâu vào thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, các nguyên nhân làm cho một số người rời vào cảnh khối cùng, các mối quan hệ giữa nghèo đói với công bằng xã hội, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng khác nhau. Nghiên cứu này còn giúp ta hiểu thêm mức độ, tầm ảnh hưởng của nghèo đói ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Nó ảnh hưởng như thế nào, tác động ra sao đến chất lượng cuộc sống của người dân, cũng như sự cải thiện vị thế của quốc gia. Cuối * 2USD tính theo PPP
- cùng, nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng để giúp xoá đói giảm nghèo hiệu quả hơn. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu này sẽ chỉ ra tổng quan của sự nghèo đói trên thế giới và chủ yếu xoáy sâu vào tình trạng nghèo đói ở V iệt Nam, trong những năm gần đây. Đối tượng được đề cập đến chính là những người nghèo đói. Họ là ai và mức khốn khổ của họ đến đâu, cần phải làm những gì cho cuộc sống của họ tốt đẹp hơn. Thông qua các ngưỡng nghèo, các chỉ tiêu đánh giá đói nghèo như chất lượng của cuộc sống, mức nghèo đến đâu, tình trạng giáo dục ra sao, sự đảm bảo y tế như thế nào, tình trạng giáo dục ra sao, sự đảm bảo y tế như thế nào. Nó sẽ xác định được các đối tượng rơi vào diện nghèo, diện đói. 4. Các câu hỏi nghiên cứu Để đánh giá chính xác về tình trạng của nghèo đói ta cần trả lời các câu hỏi: - Đói nghèo là gì? - Đói nghèo được biểu hiện ở những khía cạnh nào? - Các chỉ tiêu và chuẩn mực để xác định và đánh giá đói nghèo? - Thực trạng đói nghèo của Việt Nam trong những năm gần đây? - Các nhân tố tác động đến tình trạng nghèo đói? - Các biện pháp khắc phục? 5. Phương pháp nghiên cứu Để phân tích được tình trạng nghèo đói thì ta cần dùng một số phương pháp như phân tích, đánh giá, so sánh, thống kê và mô tả nhằm phân tích xoáy sâu vào các nhân tố tác động đến sự nghèo khó, đánh giá xem mức độ nghèo đói đến đâu, diễn biến của nó như thế nào là phạm vi ảnh hưởng của nó ra sao. Mặt khác cần phải có sự kết hợp với các số liệu thống kê để phản ánh tình trạng nghèo đói một cách trung thực hơn, chính xác hơn. Qua đó cho phép ta so sánh được các người nghèo, các nhóm dân cư nghèo, các vùng nghèo và các quốc gia nghèo khác nhau. 6. K ết cấu của đề tài:
- Đề tài sẽ được chia làm 3 phần: Chương 1: Đói nghèo - các nguyên nhân dẫn tới đói nghèo. Chương 2: Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Một số biện pháp nhằm xoá đói giảm nghèo. Do phạm vi nghiên cứu rộng, năng lực và kinh nghiệm bản thân có hạn, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em mong nhận được sự chỉ dẫn, gợi ý, nhận xét của thầy cô để bổ sung và hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Sinh viên: Nguyễn Vũ Phúc Lớp K35-F1 trường Đại học Thương mại
- Chương 1: Tổng quan của đói nghèo 1.1. Khái niệm về đói nghèo 1.1.1. Định nghĩa về đói nghèo Đói nghèo từ tiếng nói của chính người nghèo. Tiếng nói của người nghèo cho ta những cảm nhận cụ thể, rõ ràng nhất về các khía cạnh của nghèo đói (nghèo đói không chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật chất mà còn là sự thụ hưởng thiếu thốn về giáo dục và y tế. Một người nghèo ở K ênia đã nói về sự nghèo đói: “Hãy quan sát ngôi nhà và đếm xem có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. H ãy nhìn những đồ đạc trong nhà và quần áo tôi đang mặc trên người. H ãy quan sát tất cả và ghi lại những gì ông thấy. Cái mà ông thấy chính là nghèo đói”. Một nhóm thảo luận Braxin đ ã định nghĩa về đói nghèo là: “Tiền lương thấp và thiếu việc làm, và cũng có nghĩa là không được hưởng thụ về y tế, không có thức ăn và quần áo”. Ngoài ra, khái niệm đói nghèo còn được mở rộng để tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương, không có tiếng nó và quyền lực. Từ tiếng nói của người nghèo, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm về đói nghèo. Tuỳ thuộc vào cách tiếp cận, thời gian nghiên cứu và sự phát triển kinh tế của một quốc gia mà ta có các quan điểm khác nhau về nghèo đói. Q uan niệm trước đây Trước đây người ta thường đánh đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp. Coi thu nhập là tiêu chí chủ yếu để đánh giá sự nghèo đói của con người. Quan niệm này có ưu điểm là thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa theo chuẩn nghèo, ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế đã chứng minh việc xác định đói nghèo theo thu nhập chỉ đo được một phần của cuộc sống. Thu nhập thấp không phản ánh hết được các khía cạnh của đói nghèo, nó không cho chúng ta biết được mức khốn khổ và cơ cực của những người nghèo. Do đó, quan niệm này còn rất nhiều hạn chế. Q uan điểm hiện nay Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo đã được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được hiểu theo các cách tiếp cận khác nhau:
- - H ội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đã đưa ra khái niệm về định nghĩa đói nghèo: Nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. + Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được x ã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương. + N ghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. + Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế. + Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một vùng. - N ăm 1998 UNĐP công bố một bản báo cáo nhan đề “khắc phục sự nghèo khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo. + Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con người như biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định cộng dồng và được nuôi dưỡng tạm đủ. + Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối thiểu. + Sự nghèo khổ cực độ: nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng thoả mãn những nhu cầu tối thiểu. + Sự nghèo khổ chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phí lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hoặc nước khác. Quan niệm của Việt Nam
- Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm nghèo đói, song ý kiến chung nhất cho rằng: Ở V iệt Nam thì tách riêng đói và nghèo thành 2 khái niệm riêng biệt. - Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. - Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay mượn cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không đáng kể, nhà ở dốt nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới 13kg gạo/người/tháng (tương đương 45.000VND). Qua các đ ịnh nghĩa trên, ta có thể đưa ra đ ịnh nghĩa chung về nghèo đói: “Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có những điều kiện về cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng” Qua các cách tiếp cận trên đã giúp chúng ta nâng cao sự hiểu về các nguyên nhân gây ra nghèo đói nhằm có những phương hướng cách thức hành động đúng đắn để tấn công đẩy lùi nghèo đói, làm cho chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng tốt đẹp hơn. Các khía cạnh của đói nghèo. Về thu nhập: Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức thu nhập thấp. Điều này do tính chất công việc của họ đem lại. Người nghèo thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công việc cực nhọc nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những công việc này lại thường rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc vào thời vụ và có tính rủi ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như mưa, nắng, lũ lụt, hạn hán, động đất...). Các nghề thuộc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là những ví dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp nên việc chi tiêu cho cuộc sống của những người nghèo là rất hạn chế. Hầu hết
- các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp, thậm chí còn không đủ. Nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên miên: chưa nói đến vấn đề đủ dinh dưỡng, riêng việc đáp ứng lượng Kcalo cần thiết, tối thiểu cho con người để có thể duy trì hoạt động sống bình thường họ cũng chưa đáp ứng được, hoặc đáp ứng một cách khó khăn. Điều này đã kéo theo hàng loạt các vấn đề khác như làm giảm sức kho ẻ của người nghèo, do đó giảm năng suất lao động, từ đó giảm thu nhập... cứ như thế, nó đã tạo nên vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất khó thoát ra được. Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở những người nghèo. Tài sản ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài sản tài chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được sức lao động cơ b ản, kỹ năng và sức khoẻ tốt. Như đã trình bày ở trên, do thu nhập thấp nên người nghèo không thể đáp ứng một cách đầy đ ủ nhu cầu về lương thực thực phảam. Ăn uống cực kì thiếu thốn cộng với lao động nặng nề đã làm giảm sức khoẻ của người nghèo do đó cũng không đảm bảo được các kỹ năng cũng như sức lao động cơ bản. Tài sản tự nhiên như đât đai, thiếu tài sản tự nhiên có nghĩa là thiếu, không có hoặc có nhưng đất đai quá cằn cỗi, không thể canh tác được. Tài sản vật chất ở đây như nhà ở, phương tiện sản xuất - người nghèo có rất ít hoặc hầu như không có các phương tiện sản xuất. Điều này đã hạn chế khả năng lao động của họ, làm họ khó khăn hơn nhiều so với những người có đủ phương tiện sản xuất nó cũng làm giảm thu nhập của họ. Còn về nhà ở, đại đa số người nghèo sống trong những căn nhà tạm bợ, dột nát, chật chội. Nhiều căn nhà không đủ đảm bảo an toàn, không bảo đảm sức kho ẻ cho những người sống trong đó. Do không có những tài sản giá trị để bảo đảm nên người nghèo cũng có rất ít khả năng tiếp cận với các tổ chức cho vay vốn, do thu nhập thấp nên người nghèo cũng không có khả năng tiết kiệm nhiều. Đó chính là thiếu hụt tài sản tài chính. Còn tài sản xã hội, như các mối quan hệ và trách nhiệm đối với nhau để khi cần có thể nhờ cậy và ảnh hưởng chính trị đối với các nguồn lực, đối với người nghèo điều này cũng rất hạn chế, do thu nhập thấp, lúc nào cũng phải lo chạy ăn đủ bữa nên người nghèo không quan tâm hoặc không có khả năng tham gia nhiều vào các mối quan hệ xã hội. Một điều cản trở nữa là, hầu hết khi tham gia vào các nhóm,
- tổ chức nào đó cũng đều phải đóng một khoản phí nhất định, người nghèo lo ăn còn chưa đủ, nói gì đến việc bỏ tiền tham gia nhóm, hội nào đó. Điều này đã làm cho người nghèo dần bị cô lập và do đó khó nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, hội khi gặp khó khăn. Y tế - giáo d ục Những người nghèo có nguy cơ m ắc phải các bệnh thông thường cao như ốm đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ không được tốt do ăn uống không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở những vùng có điều kiện vệ sinh, y tế thấp, còn nhiều hạn chế, chẳng hạn, họ không được sử dụng nguồn nước sạch, không có công trình phụ hợp vệ sinh, điều này cũng làm giảm đáng kể sức khoẻ của họ. Nó đã dẫn đến tình trạng tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh trong nhóm hộ nghèo, số trẻ bị suy dinh dưỡng và số bà mẹ mang thai thiếu máu rất cao. Có điều này là do người nghèo có thu nhập thấp, không đủ trả khoản tiền viện phí lớn cũng như các chi phí thuốc men khác, thêm vào đó có thể do đối xử bất b ình đẳng trong xã hội, người nghèo không được quan tâm chữa trị bằng người giàu nên tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghèo là rất thấp. Bên cạnh đó, do nhận thức của người nghèo, họ thường không quan tâm lắm bệnh tật của mình, khi bị bệnh họ thường cố tự chạy chữa bằng mọi biện pháp rẻ tiền, chỉ đến khi bệnh trở nên trầm trọng họ mới vào viện vì vậy việc điều trị đem lại hiệu quả không cao mà còn tốn thêm nhiều khoản tiền không đáng có. Tình trạng giáo dục đối với người nghèo cũng là vấn đề đáng thất vọng. Hầu hết những người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn. Tỷ lệ thất học, mù chữ ở hộ nghèo, đói cao. Có tình trạng như vậy là do các gia đình này không thể trang trải được các chi phí về họctập của con cái họ như tiền học phí, tiền sách vở... đi học, họ sẽ mất đi một lao động trong gia dình. Những người nghèo cũng đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của học thức với nghèo đói nhưng vấn đề học phí của con em họ quả là vấn đề quá khó khăn với tình hình tài chính của gia đ ình. Một phụ nữ đã nói: “Các con tôi đã sẵn sàng tới trường vào tháng 9, nhưng tôi không biết làm thế nào để có thể cho cả ba đứa tới trường. Ở một số nước, trẻ em phải thôi học bởi lỡ hạn nộp học phí đến đúng vào lúc mà gia đ ình không có khả năng thanh toán nhất.
- Tóm lại, y tế - giáo dục là vấn đề được nhiều người nghèo quan tâm, họ cũng đã hiểu rõ tầm quan trọng của các yếu tố này tới bản thân họ cũng như tương lai của họ và gia đ ình nhưng do thu nhập thấp, không đủ trang trải, học phí, viện phí, họ đành phải để con cái thôi học, người bệnh không được khám và chữa chạy đúng mức, kịp thời, hầu hết các người nghèo không được tiếp cận với các dịch vụ y tế. Điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ, giảm sức khoẻ cũng như hạn chế cơ hội phát triển của các thế hệ sau. N guy cơ dễ bị tổn thương Ở những người nghèo, nguy cơ dễ bị tổn thương là nhân tố luôn đi kèm với sự khốn cùng về vật chất và con người. Vậy nguy cơ dễ bị tổn thương là gì? Nó chính là nguy cơ mà người nghèo phải đối mặt với nhiều loại rủi ro như bị ngược đãi, đánh đập, thiên tai, b ị thôi việc, phải nghỉ học... Nói cách khác, những rủi ro mà người nghèo phải đối mặt do tình trạng nghèo hèn của họ chính là nguyên nhân khiến họ rất dễ bị tổn thương. Những người nghèo do tài sản ít, thu nhập thấp, họ chỉ có thể trang trải hạn chế, tối thiểu các nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống. Vì vậy, khi rủi ro xảy ra họ rất dễ bị tổn thương và rất khó vượt qua đ ược các cú sốc có hại, những cú sốc mang tính tạm thời mà những người có nhiều tài sản hơn dễ dàng vượt qua được. Do thu nhập thấp, người nghèo có rất ít khả năng tiếp cận với các cơ hội tăng trưởng kinh tế, vì thế họ thường phải bỏ thêm các chi phí không đáng có hoặc giảm thu nhập. Ở các hộ nghèo, khi có rủi ro xảy ra như mất cắp hay có người bị ốm đau thì họ dễ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm đ ảo lộn cuộc sống của cả gia đ ình mà một thời gian lâu sau mới có thể phục hồi được. Cũng có khi việc khắc phục những rủi ro trong ngắn hạn có thể làm trầm trọng thêm sự khốn cùng của họ trong dài hạn. Chẳng hạn, ví dụ trên, do thiếu tài sản nên để chạy chữa cho một người bị ốm, gia đ ình đã buộc phải quyết định cho một đứa con nghỉ học hay họ phải bán trâu, bò, ngựa... những phương tiện lao động cần thiết của gia đình. Cũng có thể người bệnh thì không khỏi được còn gia đ ình từ cảnh khá giả rơi vào cảnh khốn cùng. Như vậy, nếu có thêm một vài sự kiện nghiêm trọng nữa xảy ra thì sự suy sụp đến cùng kiệt là điều khó tránh khỏi với người nghèo.
- Nguy cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên một tâm lý chung của người nghèo là sợ phải đối mặt với rủi ro, vì vậy họ luôn né tránh với những vấn đề mang tính rủi ro cao, kể cả khi điều đó có thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành công (ví dụ đầu tư vào giống lúa mới, áp dụng phương thức sản xuất mới...) chính điều này đ ã làm họ sống tách biệt với xã hội bị cô lập dần với guồng quay của thị trường và do vậy cuộc sống của họ càng trở nên bần cùng hơn. K hông có tiếng nói và quyền lực Những người nghèo thường bị đối xử không công bằng, bị gạt ra ngoài lề xã hội do vậy họ thường không có tiếng nói quyết định trong các công việc chung của cộng đồng cũng như các công việc liên quan đến chính bản thân họ. Trong cuộc sống những người nghèo chịu nhiều bất công do sự phân biệt đối xử, chịu sự thô bạo, nhục mạ, họ bị tước đi những quyền mà những người bình thường khác nghiễm nhiên được hưởng. Người nghèo luôn cảm thấy bị sống phụ thuộc, luôn nơm nớp lo sợ mọi thứ, trở nên tự ti, không kiểm soát được cuộc sống của mình. Đó chính là kết quả mà nguyên nhân không có tiếng nói và quyền lực đem lại. Một người nghèo ở Trà Vinh nói họ chẳng được gọi đi họp vì nhà ở xa, khi nào phải đi lao động thì m ới được gọi tới. Kể cả khi họ tham gia được các cuộc họp của cộng đồng thì họ cũng không thể quyết định được vấn đề gì dù rằng vấn đề đó liên quan đến lợi ích của chính họ. Không có tiếng nói và quyền lực còn thể hiện ở chỗ những người phụ nữ bị đối xử bất b ình đẳng trong chính gia đình của họ. Người phụ nữ không có quyền quyết định việc gì và phải phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng của họ. 1.2. Các thước đo chuẩn mực đánh giá đói nghèo 1.2.1. Các thước đo đói nghèo. Đo lường đói nghèo thông qua các chỉ tiêu như thu nhập, chỉ số về giáo dục và y tế, nguy cơ dễ bị tổn thương, không có tiếng nói và quyền lực cho phép có được một cách nhìn tổng thể về đói nghèo. Nó phản ánh chính xác các nguyên nhân gây ra đói nghèo, từ đó chính phủ hay cộng đồng quốc tế có các biện pháp thích hợp để hành động.
- Đói nghèo theo thu nhập Sử dụng thước đo thu nhập hay tiêu dùng bằng tiền để xác định và đo lường đói nghèo là một phương pháp đã được áp dụng từ lâu. Từ năm 1899 Seebohm Rowntree đã sử dụng phương pháp này đ ể đo lường đói nghèo. Qua các cuộc khảo sát về thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình ông đã đưa ra định nghĩa: “Đói nghèo là mức tổng thu nhập không đủ trang trải nhu cầu thiết yếu tối thiểu để duy trì sức lực cơ bắp thuần tuý”. Nhu cầu thiết yếu đó bao gồm thực phẩm, tiền thuê nhà và một số thứ khác. Từ đó ông đ ã đi đến ước tính về đói nghèo của mình. Tuy cách làm này còn nhiều hạn chế song nó cũng phản ánh được phần lớn tình trạng nghèo khổ của người dân lúc bấy giờ. Hiện nay WB vẫn sử dụng phương pháp và cách tiếp cận giống như của Rowntree. Cách làm này cũng đ ược nhiều quốc gia áp dụng vì nó có nhiều ưu điểm. Điều tra hộ gia đình thu được nhiều thông tin, là căn cứ để tìm ra các mối quan hệ giữa các khía cạnh khác nhau của đói nghèo, từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu. Ngoài ra, thước đo đói nghèo theo thu nhập và tiêu dùng đã xác định được ngưỡng nghèo. Đây là ranh giới quan trọng về thu nhập hay tiêu dùng mà dưới đó, các cá nhân và hộ gia đ ình bị coi là nghèo. Cách làm này xem ra rất tiện dụng khi đưa ra các con số tổng hợp đói nghèo trên phạm cầu. WB đ ưa ngưỡng nghèo là 1USD/người/ngày vi toàn và 2USD/người/ngày* bị coi là nghèo đói. Bên cạnh các ưu điểm nêu trên, phương pháp này còn có một số hạn chế. Đó là, các cách điều tra khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các vùng, khu vực, giữa các quốc gia làm cho việc so sánh gặp nhiều khó khăn, số liệu thu thập từ các hộ gia đình thường không đầy đủ và chính xác, không phản ánh hết tình trạng bất bình đ ẳng chung của đói nghèo. Y tế và giáo d ục Ngoài cách tiếp cận dựa vào thu nhập WB còn sử dụng thước đo y tế và giáo dục để đo lường sự khốn cùng của người dân. Nó bao gồm các chỉ tiêu: * Về y tế: * Tính theo PPP
- Tỷ lệ trẻ em sơ sinh; nặng dưới 2 - = 5kg Số trẻ sơ sinh nặng d ưới 2 5kg;Tổng số trẻ sơ sinh trong năm x 100 Tỷ lệ bà mẹ có thai; khám thai ít nhất 3 lần - Số phụ nữ có thai = x100 khám thai ít nhất 3 lần; Tổng phụ nữ sinh con trong năm Tỷ lệ b à mẹ có thai; tiêm uốn ván đủ mũi = - Số phụ nữ có thai tiêm đủ mũi uốn ván;Tổng số phụ nữ sinh con trong năm x100 - Tỷ lệ hộ có giếng nước;hợp vệ sinh = Error!x100 - Tỷ lệ hộ có hố xí;hợp vệ sinh = Error! x 100 - Tỷ lệ tử vong; trẻ sơ sinh = Error! - Tỷ lệ tử vong;của sản phụ = Error! - Tuổi thọ bình quân là số năm trung bình một người có thể sống được. - Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai là tỷ lệ phụ nữ đang thực hiện hay bạn đời của họ đang thực hiện bất kỳ hình thức tránh thai nào. + Về giáo dục: - Tỷ lệ trẻ đến trường; đúng độ tuổi = Error! x 100 - Tỷ lệ trẻ ngoài; trường học = Error! x 100 - Tỷ lệ mù chữ; ở người lớn = Error! x 100 Đo lường nghèo đói dựa vào các chỉ số trên cho phép phản ánh đầy đủ các khía cạnh của người nghèo. Nó giúp ta có một bức tranh đầy đủ hơn về chất lượng cuộc sống của người dân, nó thuận lợi cho việc so sánh nghèo đói ở những nơi có thu nhập ngang nhau. Nhưng, trong thực tế, việc thu thập số liệu về các chỉ số này gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ như các ví dụ về tỷ lệ tử vong của trẻ em chủ yếu được lấy ra từ các kết quả điều tra dân số định kỳ, vì vậy các số liệu vẫn còn sự sai lệch khá lớn. Về tuổi thọ bình quân cũng rất khó xác đ ịnh chính xác vì nó thường không được đo lường trực tiếp. Các số liệu về giáo dục cũng thất vọng không kém. Tỷ lệ đến trường cũng chỉ là con
- số ước tính thay cho số đến trường thực tế. Hơn nữa, tỷ lệ tổng số học sinh học tiểu học có thể tăng nếu số học sinh lưu ban tăng. Tuy nhiên, hiện nay, các nhà nghiên cứu đã có nhiều sáng kiến, họ đang cố gắng tìm ra những phương pháp hữu hiệ để có thể đưa ra các số liệu đáng tin cậy hơn. N guy cơ dễ bị tổn thương Đo lường nguy cơ d ễ bị tổn thương chính là đo lư ờng mức độ chống chọi với các cú sốc của những hộ gia đình như gặp rủi ro, bị ngược đãi, đánh đập, thiên tai, bị thôi việc, phải nghỉ học... Chẳng hạn, khi gặp rủi ro, các hộ gia đ ình có khả năng b ù đắp lại các thiệt hại hay không và mức bù đắp như thế nào? Thông thường, người ta đo lường và đánh giá nguy cơ dễ bị tổn thương qua các góc độ: - V ề tài sản vật chất: là những tài sản mà hộ có thể bán đi để bù đắp những mất mát tạm thời về thu nhập. Đây là thước đo về khả năng tự bảo hiểm của họ. Tài sản vật chất của hộ gia đình được xem xét theo hai khía cạnh giá trị và tính thanh khoản của nó. Tài sản có tính thanh khoản cao (hay khả năng hoá giá cao) thì mức độ bảo hiểm sẽ càng cao. - Về vốn con người: Các hộ gia đình có trình độ học vấn hạn chế thường dễ phải chịu sự bất ổn định về thu nhập và ít có khả năng quản lý rủi ro hơn. - V ề đa dạng hoá thu nhập: ở nông thôn, hoạt động phi nông nghiệp mang tính rủi ro ít hơn hoạt động nông nghiệp. Vì vậy đa dạng hoá thu nhập là thước đo khả năng chống chọi lại các rủi ro liên quan đến thời tiết. - Mối liên hệ với mạng lưới an sinh. Đánh giá nguy cơ dễ bị tổn thương của hộ gia đình dựa vào các khoản hỗ trợ trông thấy mà họ sẽ đ ược nhận khi khủng ho ảng, từ các nhóm hay hiệp hội mà họ là thành viên. - Tham gia mạng lưới an sinh chính thức: Nguy cơ tổn thương của hộ gia đình sẽ giảm bớt nếu hộ đủ tiêu chuẩn nhận được sự trợ giúp xã hội bảo hiểm thất nghiệp, lương hưu và các khoản trợ cấp khác do nhà nước cấp. - Tiếp cận thị trường tín dụng. Tương tự, nguy cơ tổn thương của hộ gia đình sẽ giảm nếu hộ tiếp cận được nguồn tín dụng một cách nhẹ nhàng.
- Kết hợp tất cả góc độ này với nhau ta sẽ có được một bức tranh tổng thể về nguy cơ dễ bị tổn thương của những người nghèo, nó cho biết khả năng chống chọi của hộ khi có những biến động trong cuộc sống. Việc đo lường nguy cơ dễ bị tổn thương trên thực tế gặp nhiều khó khăn do nó là một khía niệm động nên việc đo lường rất phức tạp, tốn nhiều tiền của và công sức. Không thể đo lường nó bằng cách quan sát các hộ gia đình mà phải có cuộc điều tra, theo dõi trong nhiều năm mới có thể nắm bắt được những thông tin cơ bản và tính biến động và nguy cơ dễ bị tổn thương mà người nghèo là rất quan trọng. K hông có tiếng nói và quyền lực Không có tiếng nói và quyền lực có thể được đo lường bằng cách sử dụng kết hợp các biện pháp có sụ tham gia của người dân, phỏng vấn và điều tra quốc gia về các vấn đề như mức tự do dân sự, tự do chính trị. Không có tiếng nói và quyền lực thể hiện ở chính mức độ được trao quyền của người dân. Tức là, xem xét khả năng tham gia vào các quyết định của gia đình, của cộng đồng vì những người nghèo thường bị khinh miệt, đối xử và thậm chí còn bị hạn chế một số quyền mà những người bình thường khác nghiễm nhiên được hưởng. đo lường mức độ không có tiếng nói và quyền lực nó phản ánh nỗi khổ đau mà những người nghèo cam lòng gánh chịu. Họ không có cả những quyền tham gia vào những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến phúc lợi của họ. Việc đo lường đói nghèo dựa theo tiêu chí này được người nghèo cho là rất quan trọng. Tuy nhiên, việc thực hiện gặp nhiều khó khăn, tốn kém nhiều tiền của và công sức, nó phải được thực hiện bằng các cuộc điều tra, phỏng vấn, theo dõi trong nhiều năm mới có thể nắm bắt được những thông tin chính xác về vấn đề này. 1.2.2. Các chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo ở Việt Nam Chỉ tiêu đánh giá nghèo cấp cá nhân và hộ gia đình - Hộ nghèo: Ở Việt Nam để đo tình trạng nghèo đói, có nhiều cách tính hộ nghèo. Chẳng hạn thành phố Hồ Chí Minh lấy mức thu nhập b ình quân dưới 500.000đ/1 khẩu/1 năm (tương đương trên 33kg gạo/tháng). Vĩnh Phú lấy tiêu chuẩn dưới 500.000đ/1 khẩu/1 năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu thức lương thực bình quân nhân khẩu. Gia đình nào có m ức thu nhập bình quân
- dưới 30 kg gạo một khẩu một tháng được coi là nghèo. Có ý kiến đề nghị lấy mức tối thiểu do nhà nước quy định làm chuẩn. Người có mức sống d ưới mức nghèo khổ là người có thu nhập bình quân một tháng thấp hơn mức tối thiểu do nhà nước quy định (hiện nay là 210.000đ). Theo Bộ Lao động- Thương binh xã hội tiêu chuẩn xác định hộ nghèo như sau: + Năm 1993: Hộ nghèo là hộ có thu nhập thấp b ình quân đầu người d ưới 13kg gạo/tháng ở nông thôn (tương đương 45.000 đồng), 20 kg gạo/tháng ở thành thị (tương đương 70.000 đồng). + Năm 1996: Hộ nghèo là hộ có thu nhập quy đổi ra gạo bình quân đầu người tháng. Dưới 25kg/người ở thành thị, dưới 20kg/người ở nông thôn, đồng bằng và trung du, dưới 15kg/người ở nông thôn miền núi. - Hộ đói: Theo Bộ Lao động - Thương binh xã hội, tiêu chuẩn xác định hộ đói như sau: + N ăm 1993: H ộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 8kg gạo/tháng ở nông thôn, 13kg/tháng ở thành thị. + N ăm 1996: Hộ đói là hộ có thu nhập quy đổi ra gạo bình quân đầu người là 13kg/tháng. Song, trên thực tế những hộ đói là hộ thiếu lương thực trong gia đ ình từ 3 tháng trở lên thể hiện thiếu ăn, đứt bữa, bữa cơm, bữa cháo, ăn độn khoai sắn... Như vậy những hộ đói thì thường con cái của họ thất học, nhà cửa dột nát, đồ d ùng trong nhà không đáng kể, không còn lương thực dự trữ trong nhà, song cũng không có tiền để mua lương thực trong ngày, mặc dù trên thị trường không thiếu lương thực. Hiện nay Bộ Lao động - Thương binh xã hội mới đưa ra chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2001-2005. Theo tiêu chuẩn này thì có hai phương án để lựa chọn: Khu vực áp dụng Chuẩn nghèo (đồng/người/tháng) Phương án 1 (thấp) Phương án 2 (cao) Thành thị 135.000 150.000 Nông thôn đồng bằng 70.000 100.000 Nông thôn miền núi 45.000 80.000
- Các chuẩn mực trên có thể đúng trên tổng thể song không thể áp dụng cho từng đối tượng, từng vùng cụ thể đ ược. Nếu lấy mức bình quân 800.000đồng/khẩu/năm là hộ nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh thì có thể lại là hộ giàu ở vùng nông thôn miền núi phía Bắc. Vì vậy để chọn và phân loại hộ đói nghèo ở V iệt Nam có thể phải xem xét các đặc trưng cơ bản có nó như: Thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ sản lượng khoán, nợ thuế triền miền, vay nặng lãi, con em không có điều kiện đến trường (mù chữ hoặc bỏ học), thậm chí phải cho con hoặc tự bản thân đi làm thuê cuốc m ướn để kiếm sống qua ngày hoặc đi ăn xin... Nếu đ ưa các chuẩn mực này ra để xác định thì rất dễ biết hộ đói nghèo ở nông thôn... Bảng 1.1. Các chỉ tiêu đánh giá nghèo cấp hộ gia đình Lĩnh vực Chỉ tiêu I. Nhu cầu ăn 1. Số lượng gạo tối thiểu (12kg/người/tháng) 2. giá trị khẩu phần ăn tối thiểu một ngày (...đ/người/tháng) II. Nhu cầu mặc 3. Không đủ quần áo, chăn ấm trong mùa rét 4. Không đủ màn chống muỗi III. Nhà ở 5. H ộ gia đình ở lều, lán và nhà tạm bợ IV. Việc làm 6. Thiếu việc làm (thiếu trên tháng/năm) V. Sức khoẻ 7. Trẻ em từ 1 - 3 tuổi suy dinh dưỡng thể thiếu ăn (dưới 80% trọng lượng cần có của độ tuổi) 8. Người lớn 15-60 tuổi ốm đau kinh niên (trên 30 ngày/năm) 9. Không có khả năng chữa bệnh khi ốm đau. VI. Giáo dục 10. Người lớn trong độ tuổi lao động (15-60) mù chữ 11. Trẻ em 6-11 tuổi không đi học 12. Hộ gia đình không có đài hoặc ti vi để nghe. Nguồn: Vũ Tuấn Anh “Những tiêu chuẩn đánh giá mức nghèo ở nông thôn”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 4 năm 1997, trang 36.
- Dựa vào 12 chỉ tiêu trên thì chắc chắn các hộ nghèo đều ở mức độ khác nhau. Nhưng các thẻ phân loại các dạng hộ nghèo thành hai nhóm: Nhóm 1: Hộ nghèo có 5 chỉ tiêu về ăn, mặc, ở dưới chuẩn mực. Nhóm 2: Hộ rất nghèo có trên 5 chỉ tiêu dưới chuẩn mực. Bên cạnh các chỉ tiêu trên, qua cuộc điều tra tình trạng giầu nghèo năm 97**** Tổng cục Thống kê chọn mức nhiệt lượng tối thiểu là 2.100 Calo cho người/ngày thuộc diện nghèo đói. Ứng với mức đảm bảo nhu cầu nhiệt lượng trên, Tổng cục thống kê đưa ra chuẩn mực hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân. Nông thôn: dưới 50.000đồng/người/tháng, trong đó rất nghèo là dưới 30.000/tháng (hay 360.000đ/người/năm). Thành thị: D ưới 70.000 đồng/người/tháng, trong đó rất nghèo là dưới 50.000 đồng/người/tháng (hay 600.000 đồng/người/năm). Qua đó ta thấy các chuẩn mực đánh giá nghèo đói ở V iệt Nam do Bộ Lao động thương binh - x ã hội và Tổng cục Thống kê đưa ra là cực kỳ thấp so với chuẩn mực nghèo khổ chung trên thế giới do ngân hàng thế giới đ ưa ra là dưới 370USDngười/năm*. Điều này càng chứng tỏ nước ta là một nước cực nghèo, vấn đề đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất cho người nghèo là vấn đề nan giải. Đồng thời cũng cho thấy tính tương đối khi xác định chuẩn nghèo đói ở mỗi nơi là khác nhau. Vì vậy để đánh giá đ ược chính xác nghèo đói thì phải biết được mức độ nghèo đói đ ến đâu? nghèo hay rất nghèo. Thực tế nước ta vẫn tồn tại một bộ phận dân cư ở tình trạng thiếu ăn, đói về lương thực (nhiệt lượng chỉ đạt 1500 Calo/người/ngày). Do đó khi đánh giá nghèo ở Việt Nam nên phân thành hai cấp độ nghèo và đói vì nó phản ánh đúng hiện thực khách quan. Chỉ tiêu đánh giá nghèo ở cấp cộng đồng Để đánh giá các vùng nghèo, ở nước ta thường dùng hai chỉ tiêu chính: - Tỷ lệ các hộ nghèo tuyệt đối trên tổng số hộ của vùng. - Thu nhập b ình quân một thành viên trong một hộ gia đình của vùng. * 370USD là tính theo PPP
- Ngoài ra còn có thể kết hợp với một số chỉ tiêu khác như: - Bình quân lương thực tính trên một nhân khẩu nông nghiệp - Số kilômét đường giao thông trên một nhân khẩu nông nghiệp - Tổng mức hàng hoá lưu thông (nhập, xuất) trong vùng tính theo đầu người. - Tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ trẻ em đến trường. - Tỷ lệ y, bác sĩ, giường bệnh trên một nghìn người dân. - Tuổi thọ bình quân. Các chuẩn mực để xác định vùng nghèo: - Tỷ lệ các hộ nghèo từ 60% trở lên. - Bình quân thu nhập của m ột thành viên trong hộ gia đ ình của cả vùng hơn mức thu nhập trung bình của một thành viên của một hộ gia đ ình trong cả nước. Ngoài ra cũng có thể dùng thêm một số chỉ tiêu phụ như: - Bình quân lương thực tính trên đầu người dân nông nghiệp dưới 200kg/năm. - Số kilômét đường giao thong trên một kilômét vuông nhỏ hơn 1/3 mức trung bình của cả nước. - Mức trung bình điện năng, tiền vốn trên một lao động nhỏ hơn 1/3 mức trung bình của cả nước. - Tỷ lệ mù chữ cao hơn 1,5 lần mức trung bình của cả nước. - Tỷ lệ y, bác sĩ, giường bệnh trên một nghìn dân thấp hơn 1/3 mức trung bình của cả nước. Nguồn: Bộ Lao động thương binh - xã hội và Tổng cục thống kê 2000. Bảng 1.2. Các chỉ tiêu đánh giá nghèo ở cấp cộng đồng Lĩnh vực Chỉ tiêu I. Mức sống nói 1. Tỷ lệ số dân nghèo (hoặc số hộ nghèo) trong tổng số hộ dân (hộ) chung
- 2. Giá trị một ngày công lao động trên thị trường lao động địa phương. II. Nguồn lực tự 3. Diện tích đất canh tác nông, lâm, ngư nghiệp bình (ruộng quân/người. nhiên đất) 4. Tỷ lệ số hộ không có ho ặc có ít ruộng đất (dưới 1/2 mức trung bình đầu người). III. Việc làm 5. Tỷ lệ số người lao động thiếu việc làm (trên 3 tháng/năm) trong tổng số lao động. 6. Tỷ lệ lao động làm trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và phi nông nghiệp. IV. Sức khoẻ 7. Tỷ lệ trẻ em 1-5 tuổi suy dinh dưỡng thể thiếu cân (d ưới 80% trọng lượng cần có của độ tuổi). 8. Tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh 9. Có hay không trạm y tế x ã 10. Số nhân viên y tế (cả công, tư cả y và dược) tính trên 1000 dân. V . Giáo dục 11. Tỷ lệ người lớn mù chữ 12. Tỷ lệ trẻ em 6-10 tuổi không đi học 13. Số giáo viên hoạt động trên địa bàn tính trên 1000 dân V I. Nhà ở vệ 14. Tỷ lệ hộ gia đ ình ở lều lán và nhà tạm bợ trong tổng số hộ sinh 15. Tỷ lệ hộ có nguồn nước sạch (giếng, ống dẫn nước sạch) 16. Tỷ lệ hộ có nhà tắm 17. Tỷ lệ hộ có nhà xí hợp vệ sinh V II: Văn hoá và 18. Số Kw/h điện tiêu dùng tính trên đầu người/tháng giao tiếp 19. Có hay không có công trình văn hoá quan trọng (nhà văn hoá, thư viện, loa truyền thanh) 20. Có hay không có chợ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DI CƯ TẠI CÁC TỈNH THÀNH VIỆT NAM
96 p | 459 | 106
-
Khóa luận tốt nghiệp: Những nhân tố tác động tới thương mại quốc tế và những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào thương mại quốc tế
98 p | 147 | 34
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Những nhân tố tác động đến đạo đức nghề nghiệp kế toán – Nghiên cứu tại tỉnh Bình Dương
81 p | 65 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích những nhân tố tác động đến đầu tư bất động sản tại TP.Hồ Chí Minh
95 p | 56 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích những nhân tố tác động đến quyết định gửi tiền tiết kiệm của khách hàng cá nhân khi gửi tiết kiệm tại các NHTM trên địa bàn TP.HCM
123 p | 48 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Các nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
114 p | 19 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu những nhân tố tác động đến ý định mua rau sạch của người tiêu dùng tại thành phố Hồ Chí Minh
131 p | 31 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam giai đoạn 2017 - 2021
88 p | 15 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Nghiên cứu những nhân tố tác động đến quyết định chọn ngành học của sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân
45 p | 23 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Phân tích những nhân tố tác động đến chính sách cổ tức tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
153 p | 17 | 7
-
Những đóng góp mới của luận án: Những nhân tố tác động đến lựa chọn đất đai của các doanh nghiệp qua nghiên cứu thực tế tại thành phố Hải Phòng
1 p | 96 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Các nhân tố tác động đến quyết định gửi tiền tiết kiệm của khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TNHH MTV Shinhan Việt Nam
129 p | 10 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Những nhân tố tác động đến chi phí sử dụng vốn tại các doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
86 p | 30 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Những nhân tố tác động đến ý định mua hàng: Một trường hợp của trà xanh đóng chai
95 p | 38 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích những nhân tố tác động đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
133 p | 17 | 3
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Những nhân tố ảnh hưởng đến sự gắn kết của nhân viên tại Khách sạn DLG Đà Nẵng
26 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Những nhân tố tác động lên thu nhập của những hộ trồng hoa Cát Tường tại thành phố Đà Lạt
126 p | 22 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn