intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Dạy Tiếng Việt lớp 11 theo quan điểm giao tiếp

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:199

97
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Dạy Tiếng Việt lớp 11 theo quan điểm giao tiếp gồm có 3 chương nêu lên cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài; quan điểm giao tiếp với việc dạy Tiếng Việt lớp 11; thực nghiệm sư phạm. Luận văn hữu ích với các bạn chuyên ngành Giáo dục học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Dạy Tiếng Việt lớp 11 theo quan điểm giao tiếp

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _________________ Nguyễn Thị Thùy Trang DẠY TIẾNG VIỆT LỚP 11 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP Chuyên ngành : Lý luận và Phương pháp dạy học môn Văn Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ LY KHA Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thị Ly Kha. Cô đã tận tình hướng dẫn không chỉ về chuyên môn mà còn cả về hình thức, bố cục trình bày, cách diễn đạt; giới thiệu và gửi tặng tài liệu nghiên cứu giúp tôi có nhiều cơ sở để hoàn thành luận văn. Xin cảm ơn TS. Trần Thanh Bình đã có nhiều ý kiến đóng góp quý báu cho đề tài luận văn của tôi. Đồng thời, tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu, Các giáo viên trong tổ Ngữ Văn và Thầy Đỗ Trung Lai (giáo viên dạy Toán) Trường trung học phổ thông Tân Châu (An Giang); Cô Phan Thị Cẩm Lan (Trường trung học phổ thông Châu Văn Liêm - An Giang); Cô Trần Thị Mộng Thúy (Trường trung học phổ thông Mỹ Thới - An Giang); Cô Lê Linh Chi (Trường trung học phổ thông Hùng Vương - Thành phố Hồ Chí Minh) đã tạo điều kiện thuận lợi và phối hợp cùng tôi trong việc thực nghiệm sư phạm. Đặc biệt, tôi xin cảm ơn PGS.TS. Đặng Ngọc Lệ, người đã tận tình chỉ dẫn cho tôi nhiều tài liệu và phương pháp nghiên cứu đề tài, đồng thời đọc và góp ý rất nhiều cho luận văn. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn tất cả.
  3. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tiếng Việt (TV) là môn học (phân môn) được dạy từ tiểu học đến trung học phổ thông hiện nay. Về phương pháp, nếu như ở tiểu học, việc dạy theo quan điểm giao tiếp đã được xác định, được thể hiện khá rõ và nhất quán từ chương trình đến sách giáo khoa (SGK), sách giáo viên (SGV), tài liệu dạy học và phương pháp, hình thức tổ chức dạy học thì ở trung học cơ sở và trung học phổ thông việc dạy học TV vẫn còn nặng về cấu trúc; quan điểm giao tiếp trong dạy học TV chưa được chú ý khai thác một cách triệt để đúng với vai trò và thế mạnh của nó. Nhiều giáo viên (GV) chưa thật quan tâm đến việc hướng học sinh (HS) học TV để giao tiếp và giao tiếp có hiệu quả; cũng có những GV quan tâm đến việc dạy TV theo định hướng giao tiếp nhưng gặp khó khăn trong quá trình giảng dạy. GV THPT hầu như chỉ quan tâm đến dạy văn, chưa chú ý đến dạy TV; suốt thời gian dài trước đây, dạy học tiếng theo quan điểm cấu trúc nên khó tránh khỏi khó khăn khi nắm bắt và vận dụng quan điểm giao tiếp. Từ thực tế giao tiếp với HS, cũng như qua các bài kiểm tra, bài viết của các em, các thầy cô giáo đều có chung nhận xét: “kĩ năng trình bày, diễn đạt của HS phần nhiều chưa tốt”; có em có ý tưởng nhưng “không biết trình bày”, “lúng túng khi diễn đạt, nói (viết) vụng về, sơ sài” hoặc “lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu logic”, khiến người nghe khó nắm bắt được vấn đề các em muốn trình bày,… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong việc sử dụng TV của HS, trong đó có cả việc nhà trường dạy học phân môn TV chưa đạt hiệu quả mong muốn. Nhận xét chung về tình hình dạy học TV trong nhà trường hiện nay, Lê A cho rằng: “Tình trạng nội dung lí thuyết và bài tập thực hành mang nặng tính chất ngôn ngữ, tính cấu trúc là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiệu quả thấp của việc dạy học TV hiện nay trong nhà trường phổ thông. Chúng ta dạy nhiều, HS học nhiều và có thể biết nhiều song vẫn còn thiếu nhiều hiểu biết đến nơi đến chốn về cách thức và nghệ
  4. 2 thuật sử dụng TV. Và kết quả tất yếu là năng lực TV của các em còn nhiều non yếu, không đáp ứng được yêu cầu giao tiếp trong công việc học tập cũng như trong lĩnh vực giao tiếp xã hội”. “Chọn hoạt động giao tiếp làm đối tượng dạy học chẳng những không bỏ qua các tri thức Việt ngữ mà còn góp phần làm cho những tri thức ấy linh hoạt, phong phú hơn và gần với thực tế cuộc sống hơn.” (“Dạy TV là dạy một hoạt động và bằng hoạt động” – Tạp chí Ngôn ngữ số 4/2001). Đây cũng là sự gợi ý cho những ai quan tâm đến việc dạy học TV, nghiên cứu về phương pháp dạy học TV. Nếu việc học của HS chỉ dừng lại ở những kiến thức về TV trong nhà trường thì chưa đủ, kiến thức chỉ hoàn chỉnh và vững chắc khi HS đã thực sự vận dụng vào hoạt động giao tiếp, vì “giao tiếp là chức năng trọng yếu của ngôn ngữ”. Chỉ có đặt trong hoạt động giao tiếp, thì giá trị của các phương tiện ngôn ngữ mới được xác định. Và cũng chỉ có trong hoạt động giao tiếp, trong mối quan hệ giữa ngôn ngữ với các yếu tố giao tiếp nằm ngoài ngôn ngữ thì HS mới có điều kiện để hiểu chắc, hiểu sâu TV và biết cách sử dụng phù hợp, hiệu quả. Việc dạy học TV chỉ thật sự có ý nghĩa khi HS rèn luyện được kĩ năng và nâng cao được khả năng giao tiếp. Bởi vậy, nghiên cứu để nâng cao chất lượng dạy học TV là điều cần quan tâm và thực hiện. Để góp phần cải tiến phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả dạy học TV ở bậc trung học phổ thông, chúng tôi chọn đề tài: Dạy TV lớp 11 theo quan điểm giao tiếp. 2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng chức năng đề cao chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Họ cho rằng cần phải tập trung vào việc phát triển năng lực giao tiếp hơn là chỉ dạy cho người học cách nắm vững các cấu trúc. Các học giả đầu tiên chủ trương quan điểm này là Widdowson H.G (1972), Wilkins D.A (1972), Candlin C.N (1976), Brumfit C.J và Johnsonk (1979). Họ đã dựa vào công trình nghiên cứu của các nhà
  5. 3 ngôn ngữ học chức năng Anh (John Firth M.A.K. Halliday (1970)), công trình nghiên cứu về xã hội học của các nhà nghiên cứu Mĩ (Hymes D. và Gumperz J.J (1972), Labov W. (1972)) và các kết quả nghiên cứu ngữ dụng học của Austin J.L (1962) và Searle J.R (1969), để đề ra cơ sở lí luận cho đường hướng dạy học tiếng theo quan điểm chức năng hay còn gọi là quan điểm giao tiếp. Từ giữa những năm 70 đường hướng dạy học theo quan điểm này được phát triển rộng rãi ở Anh và Mĩ. Mục đích chính của nó là làm cho năng lực giao tiếp trở thành mục tiêu chính của việc dạy và học tiếng. Khi bàn về những quan điểm tâm lí học hoạt động có liên quan đến việc dạy và học ngôn ngữ, Trương Dĩnh đã đề cao quan điểm dạy học bản ngữ dựa trên lý thuyết hoạt động lời nói. Ông khẳng định: “Trên quan điểm coi hoạt động lời nói trong giao tiếp như mục đích dạy học, dạy ngôn ngữ, đặc biệt là bản ngữ, phải thông qua hoạt động giao tiếp giữa thầy và trò để tổ chức cho HS phân tích mẫu hành vi lời nói trong giao tiếp, quan sát hành vi lời nói giao tiếp trong thực tiễn, nghiên cứu các văn bản giao tiếp trích dẫn để nâng cao ý thức, quy tắc về giao tiếp bản ngữ, mặt khác, trên cơ sở đã có ý thức về năng lực giao tiếp, tổ chức cho HS sáng tạo các hành vi lời nói trong giao tiếp, [...], tức là dạy cho HS ứng xử sáng tạo trong giao tiếp ở môi trường có tính thực tiễn nhất của đời sống” (Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn về dạy và học TV ở trường trung học, Tp. HCM, 1998). Đồng thời tác giả cũng coi trọng việc xây dựng các bài tập tình huống để rèn luyện năng lực giao tiếp cho HS. Đây cũng là một trong những cơ sở góp phần định hướng cho việc dạy và học TV đạt hiệu quả cao hơn. Giáo trình Phương pháp dạy học TV (tập 2, Nxb Giáo dục, 2001) do nhóm tác giả: Nguyễn Trí - Lê A - Lê Phương Nga biên soạn có tất cả tám chương, trong đó các tác giả dành hẳn một chương để nói về quan điểm giao tiếp trong dạy học TV. Trong chương này (chương một) các tác giả nói khá rõ về : Giao tiếp và hoạt động giao tiếp. Những cơ sở của quan điểm giao tiếp trong dạy học TV. Sự thể hiện của quan điểm
  6. 4 giao tiếp trong việc dạy học TV . Nội dung của chương này là một trong những cơ sở khoa học cho đề tài nghiên cứu “Dạy TV 11 theo quan điểm giao tiếp” của chúng tôi. Hai vấn đề: Dạy cái gì? Dạy như thế nào? được Lê A bàn đến trong bài viết Dạy TV là dạy một hoạt động và bằng hoạt động (Tạp chí Ngôn ngữ số 4/2001). Tác giả chú ý đến vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, trình tự dạy học TV cùng với một số thao tác cơ bản khi dạy học (Thao tác phân tích - phát hiện; Thao tác phân tích - chứng minh; Thao tác phân tích - phán đoán); Giới thiệu về phương tiện dạy học Grap (sơ đồ mạng để trình bày những vấn đề cần truyền đạt). Sau khi trình bày về các vấn đề trên, tác giả nhấn mạnh: “Tri thức về TV chỉ hoàn chỉnh và chắc chắn khi các em đã thực sự vận dụng vào hoạt động giao tiếp, vì “giao tiếp là chức năng trọng yếu của ngôn ngữ”. Có thể nói bài viết này là một gợi ý tốt cho việc tổ chức các hoạt động dạy học, lựa chọn sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học TV theo quan điểm giao tiếp. Cũng trong tạp chí Ngôn ngữ số 4/2001, Nguyễn Minh Thuyết trao đổi về Mấy quan điểm cơ bản trong việc biên soạn SGK TV (thử nghiệm) bậc tiểu học và bậc trung học cơ sở. Bài viết này giới thiệu một số quan điểm cơ bản trong việc biên soạn hai bộ sách trên: Quan điểm dạy giao tiếp; Quan điểm tích hợp; Quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của HS. Mặc dù bài viết trên đã được công bố cách đây tám năm, nhưng những quan điểm ấy vẫn còn có giá trị và có thể áp dụng vào việc biên soạn SGK Ngữ Văn (phân môn TV), định hướng cho việc giảng dạy TV đúng với mục tiêu của môn TV. Vấn đề giao tiếp cũng được Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San đề cập trong giáo trình TV (tập 3, Nxb Giáo dục, 2002) với các nội dung cụ thể như : Các chức năng của ngôn ngữ - chức năng giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp: những sự biến đổi và chuyển hóa. Vai trò của các quan hệ hệ thống trong hoạt động giao tiếp. Nguyên tắc hệ thống và quan
  7. 5 điểm giao tiếp trong dạy - học TV. Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San khẳng định: “Quan điểm giao tiếp trong việc dạy - học ngôn ngữ (TV) xuất phát từ đặc trưng bản chất của đối tượng và phù hợp với đối tượng. […] Ngôn ngữ […] cần phải hoạt động để thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp”. Bàn về “độ phổ biến” của quan điểm giao tiếp, Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Thị Ly Kha cho rằng: “Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và phương pháp dạy học”. Về nội dung dạy học, quan điểm giao tiếp được thể hiện ở “Cách bố trí thời lượng, sắp xếp các đơn vị kiến thức và các kiểu bài đều không tập trung vào việc nhận diện các hiện tượng ngôn ngữ mà chú trọng rèn luyện khả năng sử dụng từ ngữ phục vụ cho hoạt động giao tiếp”. Về phương pháp dạy học, quan điểm giao tiếp được thể hiện ở điểm:“Các kiến thức và kĩ năng trong phân môn Luyện từ và câu được rèn luyện thông qua nhiều bài tập gắn với yêu cầu về tập làm văn ở lớp 5 hoặc với các tình huống giao tiếp tự nhiên”. Kèm theo những nội dung trình bày là những VD sinh động. Do trình bày dưới dạng hỏi - đáp, nên tài liệu này chỉ dừng ở giới hạn cung cấp những gợi ý có tính chất định hướng cơ bản về nội dung, hình thức tổ chức dạy học môn TV ở lớp 5 theo quan điểm giao tiếp. Mặt khác, do tính chất đồng tâm và tính phổ quát của vấn đề, những gợi ý có tính định hướng đó không chỉ dừng ở giới hạn cho một lớp và một bậc học cụ thể mà còn có tác dụng định hướng cho việc dạy học TV ở phổ thông nói chung theo quan điểm giao tiếp. (Hỏi - đáp về dạy học TV 5, Nxb Giáo dục, 2006). Trong bài viết Từ khái niệm năng lực giao tiếp đến vấn đề dạy và học TV trong nhà trường phổ thông hiện nay (Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/2006), Vũ Thị Thanh Hương đã đề cập và phân tích khá sâu khái niệm “năng lực giao tiếp”, đã dẫn ra những ý kiến khác nhau của các học giả (Chomsky, Campbell & Wales, Hymes, Murby, Canale & Swain, Bachman) xoay quanh khái niệm “năng lực giao tiếp”. Tác giả bài viết so sánh đối chiếu các nội dung kiến thức TV được trình bày trong các chương trình TV hiện
  8. 6 hành (của Bộ Giáo dục và Đào tạo) với các nội dung của mô hình lí thuyết về “năng lực giao tiếp”. Từ khái niệm “năng lực giao tiếp”, người viết tìm hiểu chương trình dạy TV trong nhà trường phổ thông đầu thế kỉ 21 và nhận xét: “Có thể nói, trong tất cả các tài liệu về chương trình mà chúng tôi được tiếp cận cho đến bây giờ, quan điểm giao tiếp là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ mục tiêu giảng dạy TV ở tất cả các cấp trong nhà trường phổ thông hiện nay”. Tác giả bài viết tiến hành khảo sát chương trình TV ở các cấp học để làm rõ vấn đề: “liệu nội dung của chương trình có thực sự đảm bảo cung cấp đủ kiến thức để giúp các em hình thành và rèn luyện tốt năng lực giao tiếp?”. Tác giả có trình bày kết quả khảo sát và kết thúc bài viết với vài lời nhận xét ngắn gọn. Một trong số những người nghiên cứu về dạy TV trung học phổ thông theo tình huống giao tiếp – Lê Thị Bích Hồng – đã khẳng định sự cần thiết phải sử dụng tình huống giao tiếp trong dạy TV: “Trong dạy học, để giúp HS tích cực chủ động, huy động mọi vốn sống, tri thức, kinh nghiệm của mình vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới hay giải quyết các tình huống mới, tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo, chủ động điều chỉnh nhận thức, lời nói và hành vi, GV cần xây dựng các tình huống giao tiếp” (Dạy học Nghĩa của câu ở trung học phổ thông theo tình huống giao tiếp, Giáo dục, số 175, kì 2 – 10/2007). Trong bài viết, tác giả đã đưa ra những định nghĩa tương đối đầy đủ về tình huống giao tiếp, đồng thời xác định các đặc điểm cơ bản cũng như những yêu cầu cần thiết của một tình huống giao tiếp trong giờ học tiếng; từ cơ sở đó, tác giả mô tả khái quát quy trình thực hiện một tình huống giao tiếp trong giờ dạy TV. Giáo trình Ngữ nghĩa học (dùng cho GV và sinh viên ngành giáo dục tiểu học) (Nguyễn Thị Ly Kha, Vũ Thị Ân, Nxb Giáo dục, 2008) có đề cập đến vấn đề dạy học nghĩa của từ, câu, đoạn văn, văn bản theo quan điểm giao tiếp. Do mục đích và giới hạn của giáo trình, những vấn đề về dạy nghĩa của từ, câu, đoạn văn, văn bản ở đây chỉ dừng lại ở giới hạn dạy học cho HS tiểu học. Tuy nhiên, người quan tâm vẫn có thể tìm thấy ở đây những định hướng, những gợi ý cho việc dạy học các đơn vị mang nghĩa
  9. 7 theo quan điểm giao tiếp cho HS trung học. Hoạt động giao tiếp với dạy học TV ở tiểu học (Nxb Đại học Sư Phạm, 2009) là một giáo trình có ích cho những GV, những người nghiên cứu quan tâm đến việc dạy TV trong nhà trường như thế nào để có hiệu quả. Phan Phương Dung và Đặng Kim Nga đã nghiên cứu khá sâu và rõ ràng những vấn đề về hoạt động giao tiếp trong việc dạy học TV ở tiểu học. Giáo trình gồm ba chương: Chương một đề cập đến vấn đề giao tiếp và hoạt động giao tiếp; chương hai xoáy sâu vào từ và câu trong hoạt động giao tiếp; chương ba – phần trọng tâm, có ý nghĩa thực tiễn – Dạy học TV theo quan điểm giao tiếp. Giáo trình đã vạch ra hướng đi cụ thể cho hoạt động dạy học TV trong nhà trường theo quan điểm giao tiếp: từ việc lựa chọn các tri thức TV, xác lập các quy tắc sử dụng TV đến việc xác định các kĩ năng sử dụng TV cần rèn luyện cho HS. Và việc lựa chọn, sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức nào trong dạy học TV,… giáo trình đều nêu rõ. Tuy giáo trình chỉ giới hạn trong việc dạy học TV ở Tiểu học nhưng đối với các GV dạy TV ở Trung học cơ sở hay ở Trung học phổ thông thì đều tìm thấy ở giáo trình này những định hướng làm cơ sở cho việc dạy TV một cách có hiệu quả theo quan điểm giao tiếp. Trịnh Thị Lan có bài viết khá hay về Yêu cầu đối với việc thiết kế bài tập TV dưới ánh sáng của lí thuyết hoạt động giao tiếp: “Theo quan điểm dạy học TV hướng vào hoạt động giao tiếp, việc thiết kế bài tập TV phải đảm bảo phục vụ cho việc phát triển khả năng giao tiếp cho HS. Dạy học TV sử dụng phương pháp giao tiếp như là phương pháp tổ chức dạy học quan trọng nhất. Phương pháp giao tiếp là phương pháp hướng dẫn HS vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp”. (http://nguvan.hnue.edu.vn) Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có những nghiên cứu đi sâu vào việc dạy học TV theo quan điểm giao tiếp ở một khối lớp cụ thể nói riêng và toàn bộ bậc trung học phổ
  10. 8 thông nói chung, vẫn chưa có một công trình nào cung cấp cho ta một bức tranh toàn cảnh về dạy học TV ở phổ thông theo quan điểm giao tiếp. Vì thế, việc triển khai đề tài: Dạy TV lớp 11 theo quan điểm giao tiếp, theo chúng tôi, là cấp thiết. Mặc dù các giáo trình, các tài liệu và các bài viết trên không đề cập trực tiến đến vấn đề mà đề tài này quan tâm nhưng chính các công trình trên là những định hướng, những gợi ý quý báu giúp người thực hiện đề tài Dạy TV lớp 11 theo quan điểm giao tiếp triển khai thực hiện các nội dung nghiên cứu về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học TV theo quan điểm giao tiếp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Thực hiện đề tài Dạy TV lớp 11 theo quan điểm giao tiếp, chúng tôi muốn góp phần giải quyết một trong những vấn đề trọng tâm của việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn hiện nay: tổ chức dạy học TV trong chương trình trung học phổ thông (đặc biệt là ở lớp 11) theo quan điểm giao tiếp. Để đạt được mục đích trên, nghiên cứu về dạy học phân môn TV ở trường phổ thông trung học theo quan điểm giao tiếp, tác giả luận văn sẽ chú ý đến những ưu thế và tính khả thi của hướng đi này trong việc vận dụng vào thực tế dạy học TV hiện nay. Từ đó, luận văn sẽ đề xuất quy trình, cách thức tổ chức hoạt động dạy học theo quan điểm giao tiếp và thử nghiệm vận dụng vào thực tế khi tiến hành dạy học một số bài thuộc phân môn TV ở lớp 11 theo quan điểm giao tiếp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Thực hiện đề tài Dạy TV lớp 11 theo quan điểm giao tiếp, chúng tôi tập trung nghiên cứu về quá trình hoạt động dạy và học TV theo hướng giao tiếp ở GV và HS. Do điều kiện thời gian có hạn và trong khả năng cho phép, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát đối tượng GV và HS khối 11 ở ba trường: trung học phổ thông Tân Châu (thị xã Tân Châu - An Giang (AG)), trường trung học phổ thông Châu Văn Liêm (huyện Chợ
  11. 9 Mới - AG) và trường trung học phổ thông Mỹ Thới (thành phố Long Xuyên - AG). Đề tài giới hạn ở phạm vi khảo sát về hoạt động dạy TV của GV và hoạt động học của HS. Bao gồm các khía cạnh sau: (1) Mức độ truyền đạt nội dung lí thuyết, nội dung thực hành TV của GV trên lớp và mức độ hiểu, vận dụng lí thuyết vào thực hành TV của HS. (2) Khả năng HS vận dụng những kiến thức TV đã biết vào trong sinh hoạt hàng ngày; khả năng sử dụng linh hoạt TV vào từng hoàn cảnh và đối tượng giao tiếp cụ thể. 5. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu vấn đề mà luận văn đặt ra, người viết kết hợp, vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu lí thuyết và phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, cụ thể như sau: 5.1. Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng để nghiên cứu lịch sử vấn đề và phát hiện, rút ra những kết luận cần thiết về cơ sở lí luận thông qua việc tìm hiểu các tư liệu, tạp chí, giáo trình, các bài nghiên cứu thuộc các lĩnh vực Giáo dục học, Ngôn ngữ học, Tâm lí học, Lí luận và phương pháp dạy học Văn,… có liên quan trực tiếp đến phạm vi đề tài. 5.2. Phương pháp điều tra, khảo sát được sử dụng để thu thập những tư liệu thực tế về tình hình dạy và học TV đang diễn ra ở trường trung học phổ thông Tân Châu và một số trường trung học phổ thông khác trên địa bàn tỉnh An Giang. 5.3. Phương pháp thực nghiệm, ở đề tài này, do mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, việc thực nghiệm sẽ ở phạm vi tổ chức dạy thực nghiệm giáo án đề xuất trong sự đối chứng với các giáo án thông thường để kiểm nghiệm khả năng ứng dụng và tính hiệu quả của hướng dạy học phân môn TV theo quan điểm giao tiếp vào quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông. 5.4. Phương pháp thống kê được sử dụng để xử lí các số liệu thu thập trong quá trình khảo sát, thực nghiệm, bổ trợ cho phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm đạt tới
  12. 10 những kết luận chính xác, khách quan. 5.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm được dùng để xem xét lại những thành quả của hoạt động thực tiễn trong quá khứ để rút ra những kết luận bổ ích cho thực tiễn và cho khoa học. 6. Giả thuyết khoa học Nếu GV vận dụng tốt quan điểm giao tiếp vào dạy học TV 11 thì sẽ: (1) Kích thích HS học TV tích cực, sáng tạo. (2) Giúp HS sử dụng TV có hiệu quả trong việc tạo lập văn bản nói và viết. (3) Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học TV trong trường Trung học phổ thông hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm phần Mở đầu, Kết luận và ba chương: (1) Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài. (2) Quan điểm giao tiếp với việc dạy TV lớp 11. (3) Thực nghiệm sư phạm. Ngoài phần nội dung chính, luận văn còn kèm theo 10 phụ lục (1/ Giáo án thực nghiệm đối chứng. 2/ Thiết kế giáo án thực nghiệm. 3/ Thuyết minh giáo án thực nghiệm. 4/ Đề kiểm tra và đáp án. 5/ Phiếu tham khảo ý kiến GV trung học phổ thông. 6/ Kết quả thu nhận từ phiếu tham khảo ý kiến GV và HS trung học phổ thông. 7/ Bảng phân phối t – student. 8/ Đề thi ngữ Văn 11 ở các trường trung học phổ thông. 9/ Bảng tổng hợp điểm kiểm tra của HS. 10/ Bài tập vui, trò chơi TV 11).
  13. 11 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học Thuật ngữ “năng lực giao tiếp” tuy xuất hiện sau thuật ngữ “năng lực ngôn ngữ” nhưng nhờ sự xuất hiện ấy mà “năng lực giao tiếp” đã làm thay đổi quan điểm dạy học TV hiện nay, trở thành mục đích cuối cùng của việc dạy và học TV. Khái niệm “năng lực giao tiếp” được hiểu thông qua sự đối lập với khái niệm “năng lực ngôn ngữ”. Năng lực ngôn ngữ là khả năng của con người tạo ra được những câu đúng trên cơ sở nắm vững những kiến thức ngữ pháp, từ vựng, ngữ âm, tu từ,... của ngôn ngữ đó. Còn năng lực giao tiếp, đó là việc lựa chọn và hiện thực hóa những chương trình của hành vi lời nói tùy thuộc vào khả năng định hướng trong hoàn cảnh này hoặc khác, khả năng phân loại các tình huống sao cho phù hợp với chủ đề, nhiệm vụ và mục đích giao tiếp ở người học trước khi giao tiếp, trong khi giao tiếp và trong quá trình mô phỏng các tình huống giống và gần giống như giao tiếp thực. Nói cách khác, năng lực giao tiếp chính là khả năng tham gia vào giao tiếp. Thuật ngữ “năng lực giao tiếp” và “năng lực ngôn ngữ” xuất hiện là nhờ có những công trình nghiên cứu đồ sộ của các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng về sự phân biệt giữa hai khái niệm “ngôn ngữ (language)” và “lời nói (speech)”. Trong đó, phải kể đến công trình của nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Ferdinand De Saussure (Cours de linguistique génerale (Giáo trình Ngôn ngữ học Đại cương (1916)). Còn khái niệm “năng lực” ở nghĩa ban đầu chỉ là khả năng đối với một việc gì đó, sau đó được Noam Chomsky đưa vào dùng một cách chính thức trong lĩnh vực ngôn ngữ học (Những chân trời mới trong nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức (2008),dịch giả Hoàng Văn Vân).
  14. 12 Có thể nói, việc chọn năng lực giao tiếp làm mục đích cuối cùng của việc dạy - học ngôn ngữ dựa trên cơ sở ngôn ngữ học chức năng hay còn gọi là ngôn ngữ học giao tiếp mà những luận điểm cơ bản của nó có thể được trình bày rút gọn như sau: Giao tiếp với tư cách là một dạng hoạt động đặc biệt của con người nhằm củng cố mối quan hệ và được sử dụng để truyền đạt thông tin giữa người và người. Ở đây, có hai mặt phản ánh qua lại, mặt ngôn ngữ và mặt xã hội vì bất cứ một phát ngôn nào cũng được sản sinh trong một tình huống cụ thể có kèm theo một nền rất rộng các điều kiện tạo ra tình huống ấy. Ngôn ngữ được sử dụng có tính đến tình huống giao tiếp và sự ảnh hưởng tới những đặc điểm tâm lý cá thể trong việc sử dụng từ ngữ của người tham gia giao tiếp, có nghĩa là có tính đến hiệu quả ứng dụng, điều đó loại trừ khả năng tồn tại những phát ngôn riêng biệt được tạo nên ngoài ngữ cảnh giao tiếp. Đơn vị giao tiếp là loại hành động lời nói nhất định hoặc hành vi lời nói khẳng định yêu cầu hỏi han, xin lỗi, cảm ơn,... Việc hình thành ý định lời nói xảy ra trước khi sản sinh hành vi lời nói. Khi hình thành ý định lời nói có tính đến sự hiểu biết ban đầu về mục đích, đối tượng giao tiếp, địa điểm và thời gian của phát ngôn. Nói tóm lại, theo những luận điểm trên đây thì dạy - học ngôn ngữ là đi theo con đường từ nội dung đến hình thức ngôn ngữ để biểu đạt. Ngôn ngữ là phương tiện để thực hiện những phát ngôn cụ thể. Dạy hoạt động ngôn ngữ (tức là dạy năng lực giao tiếp) chứ không phải dạy hệ thống ngôn ngữ thuần túy. Tuy nhiên, trong quá trình dạy - học hai mặt năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp thống nhất biện chứng với nhau. Dạy năng lực giao tiếp không thể tách rời các hiện tượng ngôn ngữ, ngược lại, những kiến thức của hệ thống ngôn ngữ chỉ được xây dựng và củng cố trên cơ sở nắm được các kĩ năng lời nói. 1.1.2. Cơ sở tâm lí - ngôn ngữ
  15. 13 Theo quan điểm tâm lý học hoạt động do nhà tâm lý học người Nga L. S. Vư- gốtxki và trường phái của ông đề xướng thì hoạt động lời nói là một dạng hoạt động đặc biệt của con người, mà hoạt động thì bao gồm nhiều hành động riêng lẻ và mỗi hành động được tạo thành từ nhiều thao tác riêng biệt. Từ đó suy ra đơn vị dạy - học ngôn ngữ phải là hành động lời nói. Dạy hành động lời nói cần phải xem xét trên quan điểm: Dạy ai?, Dạy cái gì?, Dạy để làm gì?, Dạy như thế nào?. Đối với việc dạy hoạt động lời nói, sự thống nhất giữa các mặt chức năng và hình thức của nó là điều có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì hình thức ngôn ngữ không thể có được nếu thiếu mặt chức năng. Nếu mục đích của việc dạy - học là hoạt động lời nói thì hình thức và chức năng cần phải được hình thành đồng thời, hơn thế, cơ sở để hình thành hoạt động lời nói phải là chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Phương pháp dạy học TV vận dụng rất nhiều thành tựu của Tâm lí học. Đó là các quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo. GV cần biết, sản phẩm lời nói được sản sinh ra như thế nào, quá trình học được thiết lập từ những yếu tố nào, khái niệm ngữ pháp được hình thành ở HS ra sao, vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển tư duy ra sao, kĩ năng nói, viết được hình thành như thế nào…? Những nghiên cứu Tâm lí học cho phép chúng ta xác định mức độ vừa sức của tài liệu học tập. Mặt khác, Tâm lí ngôn ngữ học đem lại cho phương pháp những số liệu về lời nói như một hoạt động, ví dụ (VD) như việc xác định tình huống nói năng, các giai đoạn sản sinh lời nói, tính hiệu quả, sự tác động của lời nói trong giao tiếp giữa cá thể với nhiều người. Quan hệ của phương pháp dạy học TV và Tâm lí học, đặc biệt là Tâm lí học lứa tuổi rất chặt chẽ. Không có kiến thức về quá trình tâm lí người nói chung và tâm lí HS trung học phổ thông nói riêng thì không thể giảng dạy tốt và phát triển ngôn ngữ cho các em.
  16. 14 Kiến thức thu nhận được từ con đường tự khám phá mới là kiến thức vững chắc nhất, đáng tin cậy nhất. Người Mỹ có câu châm ngôn: “Nói cho tôi thì tôi sẽ quên. Cho tôi xem thì tôi có thể sẽ nhớ. Cho tôi tham gia thì tôi sẽ hiểu.”. Người Việt Nam ta cũng có một cách nói tương tự: “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”. Cách đây hơn 25 thế kỉ, Khổng Tử cũng nói: “Tôi nghe - tôi quên. Tôi nhìn - tôi nhớ. Tôi làm - tôi hiểu”. Quan điểm học phương Tây đã mở rộng câu nói của Khổng Tử thành luận điểm phương pháp học chủ động (the active learning credo): Tôi nghe - tôi quên. Tôi nghe và nhìn - tôi nhớ chút ít. Tôi nghe, nhìn, hỏi hoặc thảo luận - tôi bắt đầu hiểu. Tôi nghe, nhìn, hỏi, thảo luận và thực hành - tôi bắt đầu học được kĩ năng và kiến thức. Tôi dạy cho người khác - tôi thành thạo”. Các chuyên gia giáo dục của Mỹ còn nghiên cứu và đưa ra tỉ lệ mức độ tiếp thu trung bình của người học từ các phương thức dạy học: Thuyết giảng: 0.5%; đọc: 10%; nghe nhìn: 20%; mô tả, trình bày: 30%; Thảo luận nhóm: 50%; thực hành: 75%; Dạy cho người khác hoặc ứng dụng ngay của việc học: 90%” (Tạp chí Giáo dục, số 229, 1/2010). Như vậy, hầu hết các ý kiến và quan điểm nghiên cứu phương Đông và phương Tây đều khẳng định tầm quan trọng của việc tổ chức hoạt động học tập ở người học. 1.1.3. Cơ sở giáo dục học Phương pháp dạy học Tiếng Việt (PPDHTV) là một bộ phận của khoa học giáo dục nên nó phụ thuộc vào những quy luật chung của khoa học này. Giáo dục học nói chung, Lí luận dạy học đại cương nói riêng cung cấp cho PPDHTV những hiểu biết về các quy luật chung của việc dạy học môn học. Mục đích của PPDHTV cũng như các khoa học giáo dục nói chung là tổ chức sự phát triển tâm hồn và thể chất của HS, chuẩn bị cho các em đi vào cuộc sống lao động trong xã hội mới. Quan hệ của PPDHTV với khoa học giáo dục thể hiện ở chỗ phương pháp được một hệ thống giáo dục tạo ra và làm cơ sở. PPDHTV sử dụng các khái niệm, thuật ngữ của Giáo dục học. Nó hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục do Giáo dục học đề ra – phát triển trí tuệ, hình thành thế giới quan khoa học, phát triển tư duy sáng tạo cho HS, giáo dục tư tưởng đạo đức,
  17. 15 phát triển óc thẩm mĩ giáo dục tổng hợp và giáo dục lao động. Trong PPDHTV có thể tìm thấy các nguyên tắc cơ bản của Lí luận dạy học: nguyên tắc giáo dục và phát triển của dạy học, nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc gắn liền lí thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tiếp cận cá thể và phân hóa trong dạy học... PPDHTV vận dụng những nguyên tắc này theo đặc trưng riêng của mình. VD nguyên tắc gắn liền lí thuyết và thực hành trong phương pháp dạy học TV đòi hỏi một hoạt động lời nói thường xuyên, biểu hiện ý nghĩ bằng lời nói, viết, cùng với việc thường xuyên vận dụng những hiểu biết lí thuyết trong bài tập. Nhiệm vụ phát triển lời nói đã quy định việc xây dựng chương trình TV mà tất cả các phân môn đều có mục đích phát triển bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Thực hiện nguyên tắc trực quan trong giờ TV không chỉ là việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu, dùng chữ viết sẵn, phim ảnh mà còn là “trực quan lời nói”, bao gồm từ việc quan sát ngôn ngữ sống động đến việc dựa vào bài khóa trong khi nghiên cứu về ngữ âm, từ vựng, chính tả, ngữ pháp. Tài liệu trực quan cơ bản trong giờ học TV là TV văn hóa, TV trong những mẫu tốt nhất của nó: văn học dân gian, tác phẩm văn học Việt Nam và thế giới. Phương pháp dạy học TV chọn ở Giáo dục học các hình thức tổ chức dạy học như bài học và các hình thức khác. Các phương pháp dạy học cơ bản – phương pháp dạy học bằng lời, bài tập, dạy học nêu vấn đề... đều có mặt trong giờ TV. 1.1.4. Lí thuyết về quan điểm giao tiếp 1.1.4.1. Giao tiếp và các hình thức giao tiếp “Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc... nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết, cộng tác... giữa các thành viên trong xã hội… Hoạt động giao tiếp gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin), ký mã (phát thông tin). Trong ngôn ngữ, mỗi hành vi đều có thể được thực hiện bằng hai hình thức: khẩu ngữ (nghe, nói), bút ngữ (đọc, viết)” (Sách GV TV 5, tập 1, trang 6).
  18. 16 Theo Từ điển Thuật ngữ ngôn ngữ học, giao tiếp là “sự thông báo hay truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó”. Theo đó, có thể hiểu giao tiếp là hoạt động giữa hai người hay hơn hai người nhằm bày tỏ với nhau một thông tin trí tuệ hoặc cảm xúc, một ý muốn hành động hay một nhận xét về sự vật, hiện tượng nào đó. Hoạt động giao tiếp có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức, bằng những phương tiện khác nhau, như hội họa, âm nhạc, điêu khắc, điện ảnh, cử chỉ, ... Nhưng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của xã hội loài người. Giao tiếp ngôn ngữ có thể thực hiện bằng lời (giao tiếp miệng) hoặc bằng văn tự (giao tiếp viết). Trong hai dạng giao tiếp vừa nêu, giao tiếp miệng là cơ sở. 1.1.4.2. Chức năng của giao tiếp Nói đến chức năng của giao tiếp là nói đến vai trò mà giao tiếp phải đảm nhiệm trong đời sống cộng đồng. Các chức năng cơ bản của giao tiếp là chức năng thông tin, chức năng tạo lập quan hệ, chức năng giải trí, chức năng tự biểu hiện và chức năng hành động. Chức năng thông tin (Chức năng thông báo), thông tin là chức năng thường gặp nhất của giao tiếp. Nó có thể được thực hiện qua nhiều phương tiện. Trong chức năng này, giao tiếp giúp những người tham gia hoạt động (giao tiếp) trao đổi cho nhau những tin tức dưới dạng nhận thức, những tư tưởng có được từ hiện thực. Những thông tin này thường có tính chất trí tuệ và những nội dung thu nhận được đều có thể đánh giá theo tiêu chuẩn đúng - sai logic. Các cuốn giáo trình, bài giảng của GV, bài thi của HS, hệ thống biển báo, đèn hiệu giao thông, là những VD về chức năng thông tin của giao tiếp. Chức năng tạo lập quan hệ, giao tiếp còn có chức năng tạo lập quan hệ. Nhiều khi ta trò chuyện với nhau không phải vì muốn thông báo với người khác một nội dung trí tuệ, một hiểu biết, một nhận thức, mà vì muốn thiết lập một mối quan hệ mới hoặc duy trì một mối quan hệ đã được thiết lập từ trước.
  19. 17 Một lời chào, một lời thăm hỏi, một lời chúc mừng,… đều có giá trị tạo lập và duy trì quan hệ, ngay cả trong trường hợp chưa có sự quen biết trước. Chức năng tạo lập quan hệ bao hàm cả tác dụng phá vỡ quan hệ. Còn trò chuyện được có nghĩa là có thể tiếp tục duy trì quan hệ thân hữu giữa những người tham gia giao tiếp. Nhưng cũng có khi giao tiếp lại góp phần phá vỡ mối quan hệ vốn có giữa họ. Sự phá vỡ này có thể do những người trong cuộc cố tình tạo ra, nhưng cũng có nhiều mối quan hệ bị phá vỡ một cách vô tình, do ta lỡ lời. Tạo lập quan hệ là chức năng giao tiếp cộng tác giữa người với người. Có thể nhiều người không biết đến, nhưng ngôn ngữ vẫn đảm nhiệm chức năng này một cách đương nhiên. Chức năng tạo lập quan hệ của giao tiếp ngôn ngữ rất cần cho sự tồn tại của xã hội. Chức năng tự biểu hiện, trong giao tiếp ngôn ngữ, con người tự bộc lộ chính bản thân mình. Người nói hay người viết không chỉ truyền đạt nhận thức, tư tưởng mà còn bộc lộ cả tình cảm, thái độ, sở thích, trạng thái tâm sinh lí,… Ngay khi truyền đạt các thông tin lí tính thì con người cũng không thể “khách quan”, “vô can” một cách tuyệt đối được. Có những trường hợp, con người bộc lộ bản thân mình trong giao tiếp một cách vô ý thức. Song, cũng có những trường hợp sự tự bộc lộ đã được tiến hành có ý thức (chẳng hạn rất nhiều thi sĩ đã từng làm thơ để bộc bạch ý chí và xúc cảm của bản thân mình). Chức năng giải trí, con người cần làm việc, cần lao động để sống, để duy trì và phát triển sự sống, nhưng cũng cần nghỉ ngơi, giải trí. Tìm đến nhau để tán gẫu, để trò chuyện, hoặc tìm đến các tác phẩm văn chương – nghệ thuật của ngôn từ – tìm đến sách báo,… chính là một hình thức giải trí. Tất nhiên những hoạt động đó còn mang lại cho con người nhiều ích lợi khác nữa. Những câu chuyện trong lúc tán gẫu, những bài thơ vui hay những câu chuyện cười mà ta sưu tầm được,… (nếu không lạm dụng) sẽ làm cho tinh thần ta thư giãn, thoải mái, nhờ đó mà có thể giải tỏa được stress.
  20. 18 Chức năng hành động. Hành động là chức năng thông qua giao tiếp mà người ta thúc đẩy nhau hành động. Không phải người nghe mới hành động mà người nói cũng phải hành động dưới sự thúc đẩy của lời nói trong giao tiếp. Sự thúc đẩy này không phải khi nào cũng được thực hiện một cách chủ động từ nhân vật giao tiếp, mà có thể xuất hiện một cách tự nhiên trong tình huống giao tiếp cụ thể. Mặt khác, chức năng hành động của giao tiếp còn thể hiện ở chỗ, qua cuộc giao tiếp, các nhân vật có thể thay đổi về nhận thức, tình cảm. Những thay đổi này, ở những mức độ khác nhau, sẽ tác động đến hành động của họ. Cả năm chức năng trên của giao tiếp đều là những điều chúng ta phải lưu ý trong trường hợp cụ thể, nếu muốn cho cuộc giao tiếp đạt hiệu quả. Các chức năng này cũng là căn cứ để xem xét đánh giá các ngôn bản, tức là các sản phẩm của ngôn ngữ nói hoặc viết hình thành trong giao tiếp. 1.1.4.3. Ngôn bản và các nhân tố của hoạt động giao tiếp Chuỗi các yếu tố ngôn ngữ mà người giao tiếp tạo nên để truyền đạt nội dung giao tiếp được gọi là ngôn bản. Ngôn bản có hai mặt hình thức và nội dung. Nội dung của ngôn bản được chia thành hai phần: thành phần sự vật (những hiểu biết, những nhận thức mà người nói đưa vào trong ngôn bản nhằm thông tin cho người nghe biết) và thành phần liên cá nhân (thái độ, tình cảm sự đánh giá sự vật hiện tượng được nói tới (tức về thành phần sự vật) và những ý muốn về hành động mà người nói muốn thực hiện hay muốn người nghe thực hiện). Hình thức của ngôn bản là chuỗi các yếu tố ngôn ngữ và cả các phương tiện phụ trợ phi ngôn ngữ (như điệu bộ, nét mặt, cử chỉ…kèm với lời) được người nói dùng để diễn đạt nội dung. Không nên xem nhẹ vai trò của hình thức ngôn bản đối với hiệu quả giao tiếp của nó. Do hình thức khác nhau mà những ngôn bản cùng nội dung có thể có hiệu quả tác động không giống nhau đối với người tiếp nhận.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2