intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn lớp 3 đáp ứng yêu cầu đổi mới

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

23
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học bậc Trung học cơ sở.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn lớp 3 đáp ứng yêu cầu đổi mới

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Sáng kiến kinh nghiệm        “Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn lớp 3   đáp ứng yêu cầu đổi mới”                                      
  2.         Lệ Thủy, tháng 4 năm 2015 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học   sinh bốn kĩ năng đó là: "nghe ­ nói ­ đọc ­ viết". Môn tiếng Việt có các phân môn   như: Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết, tập làm văn... Trong  đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân môn  khác. Qua tiết tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài  nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó  con người thực hiện quá trình tư  duy ­ chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư  tưởng, tình   cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao  động.  Ngôn ngữ  (dưới dạng nói ­ ngôn bản và dưới dạng viết ­ văn bản) giữ  vai   trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho  học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ  nặng nề  đó phụ  thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập   làm văn lớp 3 nói riêng. Vấn đề đặt ra: Người giáo viên dạy Tập làm văn ra sao để  đạt hiệu quả như mong muốn.  Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó   trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với   mục tiêu cụ  thể  là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả  năng trình bày văn  bản (nói và viết)  ở  nhiều thể  loại khác nhau như: miêu tả, kể  chuyện, viết thư,   tường thuật, kể   lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp, giới thiệu về mình và những   người xung quanh. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học   sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói,   các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị  trước. Do đó, giờ  dạy chưa đạt hiệu   quả cao. Tập làm văn là một trong những phân môn có vị  trí quan trọng của môn  Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng   hợp từ nhiều phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn  kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Phải vận dụng các kiến thức về tiếng Việt vào cuộc   sống thực tiễn. Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ  học sinh tích  cực, sáng tạo, chủ động trong học tập; biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn   bản, văn bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện   để hỗ trợ cho việc dạy Tập làm văn được tốt.  Xuất phát từ  thực tiễn đó, tôi tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm Sáng  kiến kinh nghiệm "Một số  kinh nghiệm dạy Tập làm văn lớp 3 để  đáp  ứng yêu  cầu đổi mới".   1.2. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến, giải pháp 2
  3. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề  tài là tất cả  giáo viên  và học sinh khối 3,4,5 trường TH số 1 An Thủy. Phạm vi đề tài: Dựa trên thực tế về việc dạy ­ học phân môn Tập làm văn  lớp 3, tôi trình bày “ Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn lớp 3 theo yêu cầu đổi  mới”, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt, giúp học sinh học tốt các  môn học khác trong chương trình giáo dục bậc Tiểu học.                            2. PHẦN NỘI DUNG Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự phát triển Công nghiệp hoá ­ hiện đại   hoá đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường.   Nhu cầu này đòi hỏi phải có sự  điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương trình bậc  Tiểu học một cách phù hợp. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “giúp học sinh hình thành những   cơ  sở  ban đầu cho sự  phát triển đúng đắn và lâu dài về  đạo đức, trí tuệ, phẩm  chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học bậc Trung học cơ  sở”. Tập làm văn là một trong những phân môn có vị  trí quan trọng của môn  Tiếng việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng   hợp từ  nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt. Để  làm được một bài văn không  những học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe ­ nói ­ đọc ­ viết mà còn phải   vận dụng các kỹ năng về Tiếng việt, về cuộc sống thực tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh tạo lập văn bản, góp phần dạy học  sinh sử dụng Tiếng việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy Tập làm văn là phân môn  có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác.                    Trong quá trình dạy một tiết Tập làm văn, để  đạt mục tiêu đề  ra ngoài  phương pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống   thực tế. Học tốt Tập làm văn sẽ giúp học sinh học tốt các môn học khác đồng thời   giáo dục các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luỵên khả  năng giao   tiếp và góp phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng việt,  hình thành nhân cách con người Việt Nam. 2.1. Thực trạng: * Thuận lợi  + Đối với giáo viên  ­ Giáo viên tiểu học đã nắm được yêu cầu việc đổi mới phương pháp một  cách cơ bản, việc sử dụng đồ dùng tương đối có hiệu quả.  ­ Sự chỉ đạo chuyên môn của Phòng giáo dục, trường, tổ chuyên môn có vai   trò tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.  ­ Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo đã có nhiều giáo viên thành  công khi dạy Tập làm văn.  ­ Qua các phương tiện thông tin đại chúng: ti vi, đài, sách, báo... giáo viên  tiếp cận với phương pháp đổi mới Tập làm văn thường xuyên hơn.  + Đối với học sinh  ­ Học sinh lớp 3 đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học  3
  4. ­ Môn tiếng việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung   phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, hấp dẫn học sinh, phù  hợp với tâm lý lứa tuổi các em. ­ Các em đã được học chương trình thay sách từ lớp 1, đặc biệt là các em ở  lớp 2 đã nắm vững kiến thức, kỹ  năng của phân môn Tập làm văn như  kỹ  năng   giao tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở giúp  các em học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3. * Khó khăn:  + Đối với giáo viên:  Tiếng việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi người   giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú, cần phải có vốn sống thực tế,  người giáo viên luôn biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết  gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết   thành văn bản, ngôn ngữ quả không dễ.  + Đối với học sinh:  ­ Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên,  mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.  ­ Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến   việc tiếp thu bài học.  ­ Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành  độc lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính sáng tạo   trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu,   sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.  ­ Một số  học sinh còn phụ  thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy  móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để  hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví  dụ: Phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình. Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi tiến hành khảo sát chất lượng môn  Tập làm văn lớp 3 vào tháng 10 tuần 6, với đề bài như sau:  Hãy kể lại buổi đầu em đi học.  Kết quả khảo sát như sau: Tổng số học sinh khối 3: 52 em  Nội dung khảo sát Tỷ lệ % 1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý  50.5% 2. Biết nói ­ viết thành câu  55.5% 3.  Biết   dùng từ  ngữ,  câu văn  có   hình  45.3% ảnh  4. Biết trình bày đoạn văn 40% Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt câu văn có hình ảnh,  vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, do vậy chất lượng bài viết của   các em chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Kết quả này cũng thể hiện   phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của học   sinh trong giờ học.  4
  5. 2.2. Các biện pháp dạy học Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới:  Qua quá trình dạy học, bản thân đã vận dụng nhóm các biện pháp, hoặc một  biện pháp chủ  đạo kết hợp với một số  biện pháp bổ  trợ  khác. Về  cơ  bản có  những biện pháp sau:  2.2.1. Luôn chú trọng "tích hợp ­ lồng ghép" khi dạy phân môn tập làm văn lớp   3. Khi dạy tập làm văn tôi cần hiểu rõ tính tích hợp giữa các phân môn trong  môn Tiếng Việt như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ  và câu, Tập viết,   để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Mối quan   hệ này thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài học được biên soạn   theo chủ  đề, chủ  điểm, hai đơn vị  học xoay quanh một chủ  điẻm  ở  tất các các  phân môn.  Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong 2 tuần gồm các bài tập đọc. Luyện từ  và câu... Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho học   sinh vốn từ  về  chủ  đề  Cộng đồng, những câu văn có hình  ảnh về  chủ  để  Cộng  đồng. Cụ thể khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện: Các em nhỏ và cụ già ­ tuần 8, giáo  viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau:  + Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại?  (Các bạn gặp một cụ già đứng ven đường, vẻ mặt mệt mỏi, cặp mắt lộ vẻ u sầu) + Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào?  (Các bạn băn khoăn và trao đổi với nhau. Có bạn đoán: a) Hay ông cụ  bị   ốm, b)   Hay cụ bị mấy cái gì đó. Cuối cùng cả tốp đến tận nơi để hỏi thăm ông cụ).  + Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ? Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:  ­ Vì các bạn là những trẻ ngoan; ­ Vì các bạn là những người nhân hậu;  ­ Vì các bạn muốn quan tâm, giúp đỡ ông cụ. + Ông cụ gặp chuyện gì buồn?  (Cụ bà bị ốm nặng đang nằm trong bệnh viện, khó mà qua khỏi)  + Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn?  Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau: ­ Ông cảm thấy nỗi buồn được  chia sẻ; ­ Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có người trò chuyện; ­ Ông cảm thấy lòng ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình.  Qua các câu trả lời của học sinh, tôi định hướng cho các em ý thức biết quan   tâm chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp cho các em khi viết đoạn văn   kể về  những người thân hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung:  con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung   quanh làm cho mỗi người dịu bớt những lo lắng, buồn phiền và cảm thấy cuộc   sống tốt đẹp hơn. Qua hệ  thống câu hỏi, tôi đã giúp cho học sinh bày tỏ  được thái độ, tình   cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về  vấn đề  nêu ra trong bài học. Song   5
  6. song với quá trình đó, tôi hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn   để học sinh rút ra được câu trả lời đúng, cách ứng xử hay.  Như vậy, qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt   mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình  ảnh, cảm xúc. Trên cơ  sở  đó, bài luyện nói của   các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em cách  ứng xử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối quan   hệ  tương thân tương ái giữa mọi người trong cộng đồng; rèn cho học sinh thói  quen quan tâm, chia sẻ giúp đỡ những người xung quanh.  Cùng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu ­ Tuần 8 cũng cung cấp   cho học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng qua hệ thống các bài tập. Cụ thể: Bài 1: Sắp xếp những từ ngữ vào ô trống trong bảng phân loại sau  Các từ: Cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ: Nhóm 1: Những người  Nhóm 2: Thái độ hoạt động  trong cộng đồng trong cộng đồng Cộng   đồng,   đồng   bào,   đồng   đội,  Cộng tác, đồng tâm đồng hương Từ việc hiểu nghĩa của từ ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở  bài tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không tán thành thái độ ứng xử trong cộng  đồng thể hiện trong các thành ngữ đó:  Chung lưng đấu cật.  (Mọi  người  cùng chung  sức chung lòng  để  thực hiện một công việc có  nhiều khó khăn trở ngại)  Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.  (Phê pháp thái độ thờ ơ, không quan tâm, tương trợ người khác lúc khó khăn) Ăn ở như bát nước đầy.  (Ca ngợi con người ăn  ở, cư  xử  với mọi ngưòi có tình có nghĩa, trước sau   không thay đổi)  Như  vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ  về  thái độ   ứng xử  trong cộng đồng khi nói ­ viết tập làm văn giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống. Ở phân môn Chính tả tuần 8, các em cũng được luyện viết các bài trong chủ  đề Cộng đồng. Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già:  Cụ ngừng lại và nghẹn ngào nói tiếp:  ­ Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông năm bệnh viện mấy tháng nay rồi. Bà   ốm nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ  xe buýt để đến bệnh viện. ông   cảm ơn lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được nhưng ông cũng   thấy lòng nhẹ hơn.  Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử  dụng các  dấu câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi   lo lắng, buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc  6
  7. sống. Học sinh vận dụng cái hay, cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện   tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em.  Tương tự, ở phân môn tập viết ­ tuần 8, các em được làm quen với các thành  ngữ, tục ngữ về chủ để cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng.  "Khôn ngoan đá đáp người ngoài  Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau". Xuất phát từ  các phân môn: Tập đọc, luyện từ  và câu, Chính tả, tập viết   xoay quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết "Kể về người hàng xóm mà em quý  mến" (TLV 3 ­ tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái   độ  đánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử  dụng từ  ngữ, câu văn có hình  ảnh. Ví dụ: Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là giáo viên tiểu học. Cô   rất say sưa với công việc, tối tối miệt mài bên trang giáo án, bên trang vở   chấm   bài cho học sinh. Với dáng người nhỏ  nhắn nhưng rất nhanh nhẹn. Giọng cô ấm   áp. Em thích nghe nhất là khi cô hát, giọng ca như chim oanh vàng. Cô thật xứng   danh là cô ca sĩ của trường. Em rất yêu quý cô Loan.  Như  vậy, khi dạy tất cả  các phân môn: Luyện từ  và câu, Chính tả, Tập   đọc... đều nhằm mục đích giúp học sinh có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản.   Do đó, tích hợp lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn tập làm văn  lớp 3. 2.2.2. Dạy học theo quan điểm giao tiếp Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ  năng diễn   đạt thông qua các bài học, hình thành thói quen  ứng xử  trong giao tiếp hàng ngày  với thầy cô, cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh.  Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, tôi tạo cho học sinh   nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp   dạy học truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học  tập, tích cực sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ  năng  nghe ­ nói ­ đọc ­ viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo đạt  được hiệu quả tối ưu. Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói  Nghe và kể lại câu chuyện "Giấu cày" ­ tập làm văn tuần 1. Qua việc kể mẫu của tôi, việc quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa... học sinh  kể nội dung câu chuyện như sau:  Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả lời   ­ Để tôi giấu cái cày vào bụi đã.  Về nhà bác ta liền bị vợ trách ­ Ông giấu cày mà la to như thế, kẻ gian biết   chỗ, nó lấy mất cày thì sao.  Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên thấy cày bị mất. Bác ta   liền chạy một mạch về nhà, nói thầm vào tai vợ: "Nó lấy mất cày rồi!" Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho   nhau nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự  7
  8. phê phán hóm hỉnh, hài hước và kể chuyện lại nội dung câu truyện với giọng kể,   cử   chỉ,  điệu  bộ  gây  cười   ở   người  nghe, nét  mặt phù  hợp,  nâng kịch  tính câu  chuyện lên cao hơn. Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe ­ nói học sinh rèn kỹ  năng viết:  nắm kỹ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về  ngữ pháp, bố  cục văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn   thuần là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể  hiện suy   nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, thái độ yêu ­ ghét, trân trọng hay phê phán của các em.   Thông qua bài viết của các em người đọc hiểu được tâm tư  tình cảm của các em  về một vấn đề nào đó. Bổ  trợ  cho việc rèn kỹ  năng nghe ­ nói trong tiết Tập làm văn, phấn kể  chuyện của tiết tập đọc kể chuyện cũng chú trọng đến rèn kỹ năng giao tiếp.  Ví dụ: Dạy tập đọc kể chuyện. Tiết 2 ­ Bài Đất quý đấy yêu ­ tuần 11 Nhiệm vụ của học sinh là: quan sát tranh, sắp xếp lại tranh theo trình tự nội  dung câu chuyện Đất quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể  lại câu chuyện. đúng  nội dung, ngắn gọn, từ ngữ súc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử chỉ, điệu  bộ để câu chuyện thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được phong tục   tập quán của người Ê­ti­ô­pi­a: họ coi đất đai là thứ thiêng liêng, cao quý nhất.  Thông qua kể  lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện  khả năng diễn đạt, phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn. Tóm lại, học sinh rèn luyện khả  năng quan sát, nói ­ viết, rút ra những nét  điển hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào   của mỗi vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý   thức gữ gìn, xây dựng quê hương đất nước.  Ngoài ra, tôi chú trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm giao   tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và   có nhu cầu thể hiện, bày tỏ sự cảm thụ đó với người khác. Như vậy, mỗi bài nói,  bài viết sẽ chính là tâm hồn, tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn ­ yêu cái   hay, cái đẹp, yêu tiếng Việt ­ giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.  2.2.3. Tổ chức tốt việc quan sát, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng kể,   điệu bộ  khi làm bài nghe, nói, viết. Với đặc điểm vốn từ  còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn  trong việc nghe ­ nói ­ viết ­ kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, tôi   đã tổ  chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu sắc, hình  ảnh, nội dung, thể  hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được những nét đẹp của  cảnh vật, con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.  Để các em làm tốt hoạt động này, trước hết tôi chú ý cho học sinh sử dụng   gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể để nhớ được các ý chính của  nội dung câu chuyện.  Tôi chú trọng về  lời văn kể  và nghệ  thuật sử  dụng ngôn từ. Tôi đã hướng  dẫn các em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để diễn đạt sao cho dễ hiểu,   sinh động. Có như vậy người nghe, đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm   8
  9. bắt được sự  việc, tình cảm mà các em muốn thể  hiện qua bài nói, bài viết. Đó  chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ.  Ví dụ: Dạy tập làm văn ­ tuần 12. Bài tập 2: Yêu cầu: học sinh viết đoạn văn qua quan sát tranh (ảnh) về một   cảnh đẹp ở nước ta.  Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về  một cảnh đẹp  ở  nước ta, giúp học  sinh nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa  chọn từ  ngữ  thích hợp để  nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe ­ đọc  tuy không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ  đẹp của danh lam thắng  cảnh mà học sinh nói đến. Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt,  giọng điệu, của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với   người nghe. Do đó, tôi cũng khuyến khích các em rèn luyện khả  năng sử  dụng  những yếu tố phi ngôn ngữ này.  2.2.4. Sử  dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy Tập làm văn   theo hướng đổi mới  Việc tổ  chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các  hoạt động học tập một cách chủ động, tích cực.  Tôi đã sử  dụng các hình thức tổ  chức dạy học như: học sinh thảo luận   nhóm, đàm thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc  thoại) về một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng vai thể  hiện các hoạt cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức...  Qua đó học sinh lính hội kiến thức, tích cực, tự giác "học mà chơi ­ chơi mà học".   Không khí học tập thoải mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin hơn khi nói. Các em   dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách   lưu loát, rành mạch, dễ hiểu.  So sánh với phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3 truyền thống: mỗi tiết tập   làm văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề  bài thuộc một  thể loại văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. Tiết học diễn ra theo tiến trình: Giáo  viên hướng dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa ra các câu hỏi   gợi ý... khiến học sinh dễ  nhàm chán, có cảm giác bị  bắt buộc theo khuôn mẫu,  không khuyến khích học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá, sự miêu  rả của chính các em.  Trong chương trình  sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ  thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe ­ nói, nói ­   viết, nghe ­ nói ­ viết... Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết   dạy, bài dạy nhưng linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động dạy  ­ học, phân bố  thời gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa   tạo được không khí học tập phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.  Ví dụ 1: Tiết tập làm văn (tuần 11) với hệ thống bài tập như sau:  Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện "Tôi có đọc đâu"  Yêu cầu: Học sinh nghe và kể lại câu chuyện.  9
  10. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học:  ­ Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuyện  ­ Thảo luận theo nhóm, theo cặp, học sinh dựa vào gợi ý, sách giáo khoa,   tranh và việc nghe giáo viên kể để lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe.  ­ Đại diện từng nhóm kể trước lớp.  ­ Học sinh nhận xét  ­ Giáo viên nhận xét, bổ sung Cách tổ  chức các hình thức hoạt động nêu trên huy động được tất cả  học   sinh tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa từng  học sinh với nhau, và giữa các nhóm học sinh. Bài 2: Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở  Yêu cầu: Học sinh làm việc cá nhân với vở bài tập  Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học  ­ Cá nhân học sinh làm trong vở bài tập  ­ Học sinh nhận xét bài làm của bạn  ­ Giáo viên nhận xét, bổ sung Tóm lại, sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy Tập làm văn lớp 3   theo hướng đổi mới tạo được hứng thú học tập cho học sinh, học sinh tham gia các  hoạt động học một cách hào hứng, tích cực, sáng tạo. Ví dụ 2: Tiết tập làm văn (tuần 22) với hệ thống bài tập  Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết  ­ Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân (làm trong vở bài tập)  ­ Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc.  ­ Sau khi thống nhất các em cử đại diện nhóm trình bày. ­ Học sinh khác nghe nhận xét, bổ sung. Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành đoạn văn:  ­ Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn   đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp.  Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện   viết đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy   học trong dạy Tập làm văn là nhiệm vụ cần thiết.  2.2.5.  Dạy học hướng dẫn vào học sinh và chú trọng hình thức dạy học cá   nhân.  Dạy tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ  tìm ra  một câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ  và hiểu biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng   những vốn tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề  đặt ra trong câu hỏi; phân tích,  sắp xếp những tri thức đó, đưa ra với vấn đề  đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp  xếp những tri thức đó, đưa ra những kết luận và chọn phương án trả lời tốt nhất.   Nói ngắn gọn lại: học sinh tìm ra câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin   và phân tích dữ kiện.  10
  11. Ví dụ: Dạy tập làm văn ­ tuần 5 Bài: Tập tổ chức một cuộc họp.  ­ Học sinh chọn nội dung cuộc họp cho phù hợp.  ­ Xác định đúng mục đích cuộc họp, nguyên nhân của cuộc họp.  ­ Người điều hành cuộc họp thống nhất ý kiến, thống nhất phương án giải  quyết vấn đề, giao việc cho từng thành viên.  Như  vậy thông qua một tiết tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng tạo  của học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh cách làm bài. 2.2.6. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp  Các hoạt động ngoài khoá giúp học sinh có những hiểu biết ngoài kiến thức  được học trong chương trình chính khoá. Do đó việc phối kết hợp với các hoạt   động ngoài giờ  lên lớp là rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ, học sinh  được rèn luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan đến bài học   của các em. Giáo viên giảng dạy cần có sự  kết phối hợp chặt chẽ  với giáo viên  tổng phụ  trách, thông qua các buổi chào cờ  nói về  gương người tốt việc tốt; tổ  chức các hoạt động: thi ca hát, tập diễn các tiểu phẩm, thi kể chuyện ­ văn nghệ,   thi đọc thơ, thi các môn năng khiếu, Hội thi an toàn giao thông, ngày hội học sinh   tiểu học,... Hoặc thông qua buổi lễ  khai giảng học sinh có thể  viết những cảm xúc,  những kỷ niệm đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (bài học tuần 6) Hay qua buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ  Chí Minh, học sinh có nguyện   vọng viết đơn vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ  chức của Đội... Ví dụ:  tham dự hội thi tìm hiểu về Đội.  + Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí MInh,   giúp các em viết tốt hơn Đơn xin vào đội (tiết tập làm văn ­ tuần 2)  2.2.7. Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới ở tất cả các khối lớp Nội dung kiến thức chương trình sách giáo khoa mới biên soạn theo chủ đề,  chủ  điểm, nâng cao dần về  mức độ  và lượng kiến thức qua từng lớp học. Do đó  để đạt được hiệu quả tốt trong giảng dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới   cần thực hiện đồng bộ việc vận dụng đổi mới phương pháp ở tất cả các khối lớp   trước (lớp 1 ­ 2) và tiếp theo (lớp 4 ­ 5) Cụ thể Đối với lớp 1: Dạy học sinh tập   nói thành câu, nói theo chủ đề, nội dung, hình tranh nói thành câu.  Đối với lớp 2: Dựa trên nền tảng kiến thức học sinh đạt được ở lớp 1, nâng  cao với mức độ  vừa phải: kể  lại câu chuyện đã học, nói ­ viết thành câu, đưa ra   các mẫu câu (Ai là gì? Ai làm gì? Ai như thế nào?...) viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu.  Đối với lớp 3: Luyện nghe, luyện nói, luyện viết: mẫu câu rộng, bao quát  hơn; yêu cầu về câu cao hơn; câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so   sánh nhân hoá, câu văn giàu hình  ảnh. Đặc biệt phần luyện viết với số lượng câu  văn tăng lên (5 ­ 7 câu), đã chú ý đến kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc trong   câu văn, đoạn văn. Đối với lớp 4: Học sinh luyện nói câu chuyện đã nghe, đã đọc, xây dựng cốt   truyện có nhân vật, kể  chuỵên dựa trên cốt truyện có sẵn hoặc tưởng tượng;  11
  12. luyện viết: câu thành phần phụ, sử dụng biện pháp tu từ, nhân hoá theo nhiều kiểu  khác tiến tới viết thành bài văn.  Đối với lớp 5: Học sinh luyện nói hoàn chỉnh về câu (câu ghép, các kiểu câu  ghép), sử dụng nhiều biện pháp tu từ trong bài viết, viết thành bài văn hoàn chỉnh   với số lượng câu tuỳ theo bố cục nội dung của bài. Học sinh biết bộc lộ cảm xúc  trong khi tả, kể, viết.  Tóm lại, kiến thức  ở các lớp có mối quan hệ lôgíc: kế thừa, mở rộng, nâng  cao. Do đó muốn dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới còn phải đổi mới ở  tất cả các khối lớp.  * Hiệu quả của đề tài: Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, việc dạy học phân môn Tập làm  văn  ở  lớp tôi chủ  nhiệm đạt được kết quả  khả  quan: Học sinh mạnh dạn tự  tin  hơn trong học tập, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn rõ ràng mạch lạc   và giàu hình ảnh. Tiến hành khảo sát theo những tiêu chí ban đầu đề ra đối với khối lớp 3 đầu   tháng 12 ­ tuần 13 với đề bài:  Viết một bức thư  cho bạn  ở  một tỉnh miền Nam (hoặc miền Trung, mi ền   Bắc) để làm quen và hẹn bạn cùng thi đua học tốt. Kết quả thu được như sau:  Nội dung khảo sát Tỷ lệ % 1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý. 77.9% 2. Biết nói ­ viết thành câu. 72.7% 3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. 64.9% 4. Biết trình bày đoạn văn.  68.8% Bài viết học sinh đạt từ trung bình trở lên. 90.2.% 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Qua quá trình nghiên cứu, tôi đã nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của   việc dạy học phân môn Tập làm văn. Vì vậy, với kinh nghiệm này, không chỉ dừng  lại áp dụng  ở  khối 3 mà triển khai vào các khối lớp trong nhà trường, xây dựng   tích hợp các kiến thức liên quan với nhau giữa các môn học. Thông qua dạy thử  nghiệm theo hướng trên, tôi đã thu được rất nhiều kết quả khả quan: học sinh tập   hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ  của học sinh phong phú hơn, câu văn giàu  hình ảnh hơn.  Đề  tài là cơ  sở  để  giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy phân   môn Tập làm văn. Giúp giáo viên từng lúc san bằng trình độ  học sinh trong lớp   học; giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để  các em hoàn thành  nhiệm vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn.  Từ những kết quả nêu trên, tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau: * Bài học kinh nghiệm: 12
  13. 1. Dạy Tập làm văn theo phương pháp "tích hợp ­ lồng ghép" các phân môn   trong môn Tiếng Việt. Biết kết hợp mối quan hệ chặt chẽ về yêu cầu kiến thức  phân môn Tập làm văn của các khối lớp. 2. Chú trọng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, rèn kỹ  năng  nghe ­ nói ­ đọc ­ viết cho học sinh.  3. Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ,   giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu.  4. Động viên khuyến khích học sinh tự  học, học theo phương pháp tự  tìm  tòi. Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học   theo hướng đổi mới. Giáo viên sửa chữa sai sót thật kỹ càng cho học sinh, hướng   dẫn HS ghi chép và sổ  tay, vở  nháp. Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi   học sinh là chủ thể của hoạt động, tổ chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh  tri thức và rút ra kết luận phù hợp với bài học.  5. Giáo viên biết cách phối hợp hoạt động học tập với các hoạt động ngoài  giờ lên lớp.  * Khả năng ứng dụng triển khai: Đề tài  đang trong quá trình nghiên cứu và thực hiện bước đầu có hiệu quả  khả quan ở trường TH số 1 An Thủy. Vì vậy đề tài có khả năng ứng dụng và triển  khai cho tất cả giáo viên trong đơn vị cùng thực hiện và từng lúc bổ sung để việc  dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3 đạt hiệu quả cao. Đây là cơ sở làm nền tảng   cho các em học tốt phân môn Tập làm văn ở các lớp cuối bậc Tiểu học. 3.2. Những kiến nghị, đề xuất: Phòng Giáo Dục & Đào Tạo, Cụm chuyên môn thường xuyên tổ  chức các   chuyên đề  Tập làm văn theo từng chủ  đề  cho giáo viên học hỏi, trao đổi kinh   nghiệm lẫn nhau. Trên đây là những một số  kinh nghiệm của bản thân đúc rút ra trong quá  trình nghiên cứu, thực nghiệm sáng kiến nhằm giúp giáo viên và học sinh lớp 3   nâng cao chất lượng dạy ­ học phân môn Tập làm văn theo yêu cầu đổi mới hiện  nay. Tôi rất mong được sự quan tâm, góp ý của đồng nghiệp. Xin chân thành cảm  ơn.  13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2