Masaoka Shiki và haiku cận đại

4

ThS. Nguyễn Vũ Quỳnh Như

Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại TP. Hồ Chí Minh

秋風や aki kaze ya Trong

ánh mắt

眼中のもの ganchu no mono gió mùa thu thổi

皆俳句 mina haiku tất cả

đều là thơ.

4. NHỮNG CÁCH TÂN VỀ HÌNH THỨC HAIKU

4.1. Cấu trúc 5 – 7 – 5 âm

Shiki đến với haiku rất tài tử, không phải là một chuyên gia hay nhà thơ chuyên

nghiệp vì thế chẳng mấy quan tâm đến sự hiện hữu của cấu trúc mang tính quy tắc

được dạy dỗ trong nhà trường. Shiki phê phán sự hạn chế trong hạn định số âm từ của

haiku, cho rằng sự ngắn gọn của haiku sẽ thoái trào vì sự hạn chế trong kết cấu, dẫn

đến hạn hẹp về đề tài và thực tế là haiku đang gần như đi vào con đường cáo chung.

Bước vào thời kỳ hiện đại, cấu trúc nguyên thủy đậm tính truyền thống của haiku bắt

đầu bị lung lay khi các nhà cách tân lên tiếng mạnh mẽ về chủ trương luật tự do (riyu-

ritsu). Khuynh hướng này đã dẫn đường cho sự ra đời của luật tự do (riyu-ritsu) như

Shiki với haiku 6 – 8 – 5:

雪の家に yuki no ie ni Nằm

trên giường bệnh

寢て居ると思ふ nete iru to omofu sao toàn nghĩ đến

ばかりに bakari ni te tuyết

trên mái nhà.

Với trào lưu đó, haiku dư từ (ji-amari) được phổ biến rộng rãi trên tờ báo Hototogisu,

trở thành xu hướng của thời kỳ này.

夏の月 natsu no getsu

Tháng hè

人語其辺を jingo sono hen wo đâu đó tiếng ai

行ったり来たり ittari kitari đi đi lại lại

Bài haiku với cấu trúc dư âm 5 – 8 – 6 của Kyoshi nhưng lại khéo léo khi sử dụng từ

rất thông thường ittari kitari (đi tới đi lui) nên bài thơ trở nên gần gũi, thân quen và

gây ảnh hưởng rất lớn trong quần chúng.

4.2. Kigo (quý ngữ)

Kigo (quý ngữ) là ngôn từ để cảm nhận thời gian trong haiku. Bề dày lịch sử của kigo

đã nâng cao tính văn học của haiku. Thế nhưng Shiki – người không mệt mỏi với

công cuộc cách tân haiku và tanka, người đã có công đưa hokku độc lập với haikai và

trở thành tên gọi haiku – lại không quan niệm kigo theo cách truyền thống. Thay vào

đó, Shiki cho rằng quý ngữ kigo là kidai-me – tức đề tài về mùa (chứ không phải từ

chỉ mùa “kigo”)(10).

年玉を otoshidama wo Tiền

mừng tuổi

並べて置くや narabete oku ya đã sắp sẵn

枕元 makura moto dưới

gối rồi.

Otoshidama – tiền lì xì được Shiki sử dụng cho biểu tượng của năm mới đang đến.

Thậm chí Shiki còn quan niệm quý ngữ kigo không chỉ về mùa mà là sự giao hòa

giữa con người với thiên nhiên và mang đậm tính nhân văn:

暑くるし atsukurushi Nóng

bức vô cùng

乱れ心や midare gokoro ya tâm thần bấn

loạn

雷をきく rai o kiku tiếng

sấm vang rền.

Để phù hợp với xã hội hiện đại, kigo không còn hạn hẹp bằng các thuật ngữ về mùa

mà cũng có thể về xã hội mới thậm chí là từ ngoại lai được viết bằng tiếng Nhật

katakana(11) cũng được đem vào sử dụng. Nếu trong thời kỳ cổ đại, Nhật Bản du nhập

tiếng Trung Quốc thì đến thời kỳ này, tiếng Anh được du nhập thay thế chỗ đứng của

tiếng Trung Quốc.

川を見る kawa wo miru Rơi từ tay

người

バナナの皮は banana no kawa wa vỏ chuối

手より落ち te yori ochi nhìn

sông.

セルを着て seru wo kite Mùa

bán sale (giảm giá)

夫婦離れて hufu hanarete vợ chồng xa

cách

椅子に在り Kyoshi ni ari như Kyoshi

đã từng.

ラムネの栓 ramune no sen Nút chai

sâm-banh

天井をついて tenjou wo tsuite tung bắn lên

trần

ホトトギス hototogisu chim đỗ vũ.