Masaoka Shiki và haiku cận đại

5

ThS. Nguyễn Vũ Quỳnh Như

Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại TP. Hồ Chí Minh

子供がちに kodomo gachi ni Đám trẻ nhỏ

クリスマスの人 kurisumasu no vây quanh

集ひけり atsuhikeri Ông

già Noel.

Sale, Christmas, chai nước có ga (ramune) là những thuật ngữ ngoại lai được du

nhập vào Nhật Bản từ thời kỳ hiện đại thể hiện sự giao thoa giữa con người và xã

hội. Còn vô quí (không mùa) hoặc có kigo (quý ngữ) đi nữa thì cũng là sự giao thoa

giữa thiên nhiên và con người ở trong đó mà thôi.

Bước vào thời kỳ hiện đại, chính nhờ kinh nghiệm của quá trình tìm tòi để đi đến

“haiku vô mùa” (muki-haiku) mà quy ước về quý ngữ (kigo) của haiku phát triển tiến

bộ hơn, nhận thức về tính hữu ích của kigo trở nên sâu sắc hơn với các chủ trương

tiếp theo về quý ngữ (kigo) của thời kỳ Taisho sau đó: phải loại bỏ kigo, kigo có hay

không có cũng được, có sử dụng kigo đi nữa cảm thức về mùa cũng không còn được

tin cậy.

LỜI KẾT

Thành quả của Shiki trong cách tân haiku không chỉ nhờ vào những áng thơ haiku bất

hủ, mà chính nhờ sự vận động cách tân và quá trình tập hợp haiku đã đưa haiku đi vào

quần chúng, trở thành của quần chúng chứ không còn là của giới thượng lưu. Thuật

ngữ haiku do quần chúng sáng tác ngày đó nay đã trở thành một thể loại của văn học

và phổ biến rộng rãi. Đó chính là thành công của haiku thời kỳ cận đại với công sức

không mệt mỏi của Shiki. Đóng góp của Shiki vào con đường phát triển thơ văn là

khẳng định được vai trò tiềm tàng của haiku và tanka để hai thể thơ này sánh ngang

tầm với các thể loại khác như tiểu thuyết, kịch nghệ…

Trong quá trình cách tân thơ ca của Shiki luôn thể hiện một trong các giá trị văn hóa

Nhật Bản: cái mới tiếp nối cái cũ từ thời kỳ này sang thời kỳ khác để phát triển chứ

không thay đổi hoàn toàn và làm cái cũ mất đi. Shiki luôn đặt sự cân bằng tinh tế giữa

các yếu tố trái ngược như hiện thực và tưởng tượng, khách quan và chủ quan, truyền

thống và tân thời. Khả năng cân bằng giữa các yếu tố đối nghịch hai trong một là một

đặc trưng “nhận thức kép” hay sự chồng xếp lên nhau giữa hai trạng thái đối nghịch:

sự cùng tồn giữa cái trước và cái đến sau, giữa yếu tố ngoại lai và tính dân tộc truyền

thống để đưa haiku thoát khỏi suy vong, tìm đường phát triển phù hợp với sự phát

triển không ngừng của thời đại. Yếu tố đến sau du nhập từ bên ngoài vẫn không làm

những gì hiện hữu mất đi mà ngược lại luôn cùng tồn tại để bổ khuyết cho nhau. Đây

là đặc tính văn hóa rất Nhật Bản “Kỹ thuật phương Tây linh hồn Nhật Bản”. Thơ

haiku của Shiki dù cách tân theo phong cách phương Tây nhưng rất nồng nàn tình

yêu quê hương đất nước, lưu giữ lại những gì tốt đẹp của bản sắc văn hóa Nhật Bản.

Những bài thơ về tình yêu quê hương, đất nước, con người, văn hóa, lịch sử, tập tục,

truyền thống Nhật Bản hầu như là những áng thơ hay nhất của Shiki thể hiện xúc cảm

mãnh liệt. Xin giới thiệu ba bài thơ cuối cùng trước khi Shiki mất chan chứa tình yêu

quê hương lẫn tình người:

鶏なくや torinaku ya Dưới chân

Fuji nhỏ

小富士の麓 kofuji no fumoto tiếng gà gáy

桃の花 momo no hana

và cánh hoa đào.

故郷は furusato wa Ở quê

nhà

いとこの多し itoko no ooshi còn nhiều anh em họ

桃の花 momo no hana và cả

hoa đào.

松の根に matsu no ne ni Dưới gốc cây thông

薄紫の usumurasaki no màu tim tím

菫かな sumire kana một

khóm hoa cần.

Điều đó thể hiện Shiki lĩnh hội được hàng loạt các yếu tố trong cuộc sống với tính hai

mặt của nó. Chính nhờ sự kếp hợp nhuần nhuyễn các yếu tố đối nghịch này đã đưa

thơ haiku thời kỳ cận đại của Shiki gần gũi với cuộc sống, với người đọc và đây cũng

là phong cách sắc thái nổi bật của Shiki

__________________

(1), (3), (8) Masaoka Shiki: His Life and Works, Boston, 2002, tr.48; 16; 54.

(2), (10) Matsuda Hiromu: 一番やさしい俳句再入門, Daisan Shoten, Japan,

2008, tr.274; 18.

(4) Konishi Jinichi: 発生から現代まで 俳句の世界, Kodansha, Japan, 2002,

tr.258-259.

(5), (6)

(7) Harold G. Henderson: An Introduction to HAIKU – An anthogoly of poems and

poets from Basho to Shiki, A Doubleday Anchor Books, United States of America,

1958, tr.172.

(9) Nhóm Kyoshi thuộc phái Nhật Bản (Nihon – ha) được giới truyền thống bấy giờ

tận dụng và gây ảnh hưởng lớn trong giới văn đoàn với các bài thơ đậm tính tả thực

khách quan.

(11) Tiếng Nhật có 3 hệ chữ: Kanji (chữ Hán – vay mượn tiếng Trung Hoa),

hiragana (tiếng Nhật) và katakana (từ ngoại lai du nhập từ nước ngoài).