Tuyn tp Hi ngh Khoa hc thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
395
NGƯỜI THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI VÀ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
Đinh Thị Minh Nguyệt
Trường Đại hc Thy li, email: Nguyetdtm@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Tại Bộ luật Dân sự 2015, chế định Thừa kế
tại chương XXI, XXII, XXIII, XXIV đã nêu
lên những quy định về các vấn đề xung quanh
việc để lại di sản của một người. Trong đó,
quy định tại Điều 613 về Người thừa kế vẫn
còn tồn tại nhiều quan điểm bất đồng.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết sử dụng một số phương pháp như
phương pháp logic, liệt kê, phân tích, tổng hợp.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Người thừa kế theo pháp luật một
số quốc gia trên thế giới
Khi tham khảo quy định về người thừa kế
tại một số quốc gia cùng nằm trong Khối văn
hóa Đông Á (Sinosphere) - từ những quốc gia
nhiều phong tục tập quán tưởng
hội truyền thống tương đồng với Việt Nam
này, ta thể tìm thấy sự ghi nhận về người
thừa kế là con dâu, con rể trong pháp luật của
nước bạn.
Chẳng hạn như quy định về người thừa kế
trong luật pháp tại Trung Quốc, Điều 1129
Luật Dân sự Trung Quốc quy định về quyền
thừa kế của con dâu đã mất chồng, con rể đã
mất vợ. Nội dung điều khoản này cho phép
người con dâu đã mất chồng, người con rể đã
mất vợ nhưng vẫn hết lòng thực hiện nghĩa
vụ phụng dưỡng đối với cha mẹ chồng, cha
mẹ vợ thì vẫn được coi người thừa kế
thuộc hàng thứ nhất.
Để đi vào làm hơn về điều luật y,
Pháp thích số 23 ban hành ngày 25/12/2020
của Tòa án Nhân dân Tối cao nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa đã giải thích như sau:
“Điều 18. Trường hợp thừa kế theo quy
dịnh tại điều 1129 Luật Dân sự, người con
dâu đã mất chồng, người con rể đã mất vợ
cho dù đã tái hôn hay chưa thì đều không ảnh
hưởng đến quyền thừa kế của người này
không ảnh hưởng đến việc con cái của người
này thừa kế thế vị.”
Về quy định này, Hội Luật học Trung
Quốc đã phân tích, đánh giá trong phần
Pháp luật - Từ điển Bách khoa:
Quyn tha kế ca người con dâu đã mt
chng hoc người con r đã mt v nhưng
vn hết lòng thc hin nghĩa v phng dưỡng
đối vi cha m chng, cha m v là mt quy
định mang tính cht riêng bit trong pháp
lut tha kế nước ta. Mt mt, quy định
này vô cùng phù hp vi thc tin xã hi.
Dưới s nh hưởng ca truyn thng gi đạo
hiếu, có rt nhiu nàng dâu, chàng r nước
ta vn phng dưỡng cha m chng, cha m
v ngay c khi người bn đời đã mt t lâu.
Mt khác, quy định này cũng to điu kin
cho vic phát huy chc năng dưỡng lão ca
gia đình, c vũ người con dâu, con r tiếp tc
phng dưỡng cha m chng, cha m v ca
mình. Không ch vy, điu lut này còn th
hin nguyên tc “quyn li luôn đi đôi vi
nghĩa v pháp lut nước ta.
Đim đáng chú ý trong quy định này là
hành vi “hết lòng thc hin nghĩa v phng
dưỡng” không phi ch cn chăm sóc hay
giúp đỡ mt cách đơn gin, mà người con
dâu, con r phi thường xuyên quan tâm chăm
lo cho b m chng, b m v trong cuc sng
hàng ngày, đồng thi cũng phi có tr cp v
Tuyn tp Hi ngh Khoa hc thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
396
mt kinh tế cho h trong thi gian dài. Nếu
không thc hin được nhng điu trên, người
con dâu đã mt chng hoc người con r đã
mt v s không th tr thành người tha kế
hàng th nht theo pháp lut.
Bên cạnh quy định cho phép con dâu, con
rể khả năng trở thành người thừa kế theo
pháp luật, Trung Quốc cũng công nhận mối
quan hệ giữa anh kế, chị kế, em kế quan
hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản quan
hệ gắn đủ để đặt người anh, chị, em kế
vào hàng thừa kế thứ hai của người để lại di
sản theo luật định.
Quy định cụ thể hơn hơn về điều khoản
này, Pháp thích số 23 đã viết:
Điu 13. Quyn tha kế đối vi anh kế,
ch kế, em kế phát sinh do hình thành quan h
nuôi dưỡng đối vi người để li di sn. Nếu
gia anh kế, ch kế, em kế và người để li di
sn không có quan h nuôi dưỡng thì nhng
người này không th tr thành người tha kế
hàng th hai.
thể thấy, cả hai trường hợp về người
thừa kế nêu trên trong luật pháp Trung Quốc
đều điểm tương đồng khi yêu cầu người
quyền nhận di sản bắt buộc phải mối
quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc đối với người
để lại di sản.
Cùng về người thừa kế, tuy nhiên, pháp
luật Nhật Bản lại đưa ra một kiểu quy định
khác nhằm giải quyết vấn đề. Các nhà làm
luật Nhật Bản đặt ra phương pháp cho phép
nhận nuôi người trưởng thành1, ở đây cho
phép cha mẹ chồng, cha mẹ vợ nhận nuôi con
dâu, con rể của mình.
3.2. Người thừa kế theo luật Việt Nam
Dân gian ta có câu: "Dâu dâu rể rể cũng kể
con", thế nhưng trong quy định của pháp
luật thừa kế tại Việt Nam hiện nay, con dâu
con rể không nằm trong diện được hưởng
di sản thừa kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ
theo pháp luật. Cụ thể, tại Khoản 1 Điều 651
Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Người thừa
kế như sau:
1養子縁組 (ようしえんぐみ; youshi engumi)
1. Nhng người tha kế theo pháp lut
được quy định theo th t sau đây:
a) Hàng tha kế th nht gm: v, chng,
cha đẻ, m đẻ, cha nuôi, m nuôi, con đẻ, con
nuôi ca người chết;
b) Hàng tha kế th hai gm: ông ni, bà
ni, ông ngoi, bà ngoi, anh rut, ch rut,
em rut ca người chết; cháu rut ca người
chết mà người chết là ông ni, bà ni, ông
ngoi, bà ngoi;
c) Hàng tha kế th ba gm: c ni, c
ngoi ca người chết; bác rut, chú rut, cu
rut, cô rut, dì rut ca người chết; cháu
rut ca người chết mà người chết là bác
rut, chú rut, cu rut, cô rut, dì rut; cht
rut ca người chết mà người chết là c ni,
c ngoi.
Theo quy định tại bộ luật này, con dâu,
con rể không phải là người thừa kế theo pháp
luật đối với di sản từ cha mẹ chồng hay cha
mẹ vợ. Điều này có thể coi là một bất cập đối
với một số trường hợp, bởi nhiều gia đình,
người con dâu, con rể khi lại người gần
gũi, chăm sóc cha mẹ chồng, cha mẹ vợ
nhiều hơn cả con đẻ.
Thêm vào đó, chính các nhà làm lut cũng
đã ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, cụ thể tại khoản 16 Điều 3 Luật Hôn
nhân và gia đình 2014 như sau:
Thành viên gia đình bao gm v, chng;
cha m đẻ, cha m nuôi, cha dượng, m kế,
cha m v, cha m chng; con đẻ, con nuôi,
con riêng ca v hoc chng, con dâu, con
r; anh, ch, em cùng cha m, anh, ch, em
cùng cha khác m, anh, ch, em cùng m khác
cha, anh r, em r, ch dâu, em dâu ca
người cùng cha m hoc cùng cha khác m,
cùng m khác cha; ông bà ni, ông bà ngoi;
cháu ni, cháu ngoi; cô, dì, chú, cu, bác
rut và cháu rut.
Theo đó thì con dâu, con rể cũng được
xem là thành viên gia đình.
Bên cạnh đó, trường hợp của những người
anh, chị, em kế (mi quan h gia các con
riêng ca v hoc chng) cũng không được
đặt ra trong cả hai quy định tại cả hai bộ luật
này, theo nhận định về mặt đạo đức hay
Tuyn tp Hi ngh Khoa hc thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
397
xã hội, đây cũng là một mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình. Các thành viên này
thường mối quan hệ chung sống, đối xử
với nhau như những người thân, từ đó không
ít trường hợp hình thành mối quan hệ chăm
sóc, nuôi dưỡng khi bố hoặc mẹ của họ qua
đời. Thế nhưng trong quy định của pháp luật
Việt Nam, mối quan hệ này lại chưa được đặt
ra cả trong khái niệm “gia đình”, hay trong
khái niệm “người thừa kế”.
3.3. Một số gợi mở cho Việt Nam từ
pháp luật một số quốc gia trên thế giới về
người thừa kế
Tư tưởng của nhà làm luật Trung Quốc khi
đặt ra các điều luật về cách thừa kế giữa
con dâu, con rể với tài sản của cha mẹ chồng;
hay quyền thừa kề giữa anh, chị, em kế với
tài sản của nhau, đã sự tương đồng với
tưởng của nhà làm luật Việt Nam khi đặt ra
Điều 654 trong Bộ luật Dân sự. Trên thực tế,
giữa cha mẹ kế con riêng, cha mẹ vợ
con rể, cha mẹ chồng con dâu, hay anh,
chị, em kế, đều đã nhiều trường hợp thể
hiện được nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc
nhau như người thân ruột thịt.
Vậy nên khi xem xét đến cách nhận
thừa kế của những nhân quyền, nghĩa
vụ liên quan đến người để lại di sản, nhà làm
luật tại TQ đã đặt cả các đối tượng khả
năng cao trong việc hình thành và duy trì mối
quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc đối với người
để lại di sản vào danh sách những người
xứng đáng được hưởng quyền thừa kế tài sản
của người đã khuất.
Phân tích quy định của Nhật Bản, ta cũng
thấy việc pháp luật cho phép nhận nuôi người
trưởng thành này đã tạo cơ hội cho các trường
hợp cha mẹ chồng, cha mẹ vợ muốn để lại di
sản cho người con dâu đã mất chồng hoặc
người con rể đã mất vợ của mình. Khi nhận
nuôi người con dâu, con rể đã mất phối ngẫu
của mình, người để lại di sản thể đảm bảo
quyền được thừa kế cho người con họ coi
thành viên trong gia đình. Quyền lợi này
không chỉ thể hiện việc được phép thừa kế
tài sản theo pháp luật, còn việc công
nhn quyn li trong mi mt khác ca đi
sống đối với người con mà các bậc phụ huynh
này đã công nhận một thành viên của gia
đình, đã duy trì mối quan hệ chung sống,
chăm sóc lẫn nhau trong nhiều năm.
Hiện nay việc xác định người thừa kế theo
pháp luật Việt Nam dựa trên 3 mối quan hệ
chính quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng. Nhìn lại quy
định về các trường hợp pháp luật Nhật
Bản và Trung Quốc đặt ra, ta thấy được việc
công nhận các quan hệ tính chất nuôi
dưỡng (chăm sóc, nuôi nấng, phụng dưỡng)
giữa các thành viên gia đình chính sở
để các nhà làm luật nước bạn xem xét, quyết
định đối tượng nào xứng đáng được quyền
hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản
của người đã khuất.
Việc bổ sung quy định về đối tượng thừa
kế dựa trên quan hệ nuôi dưỡng này thể
tăng mạnh sự gắn kết giữa các thành viên gia
đình, giúp các thành viên coi trọng việc chăm
sóc, quan tâm, nuôi dưỡng những người thân
dù không cùng huyết thống.
4. KẾT LUẬN
Qua phân tích những điểm khác biệt trong
quy định pháp luật về người thừa kế tại các
quốc gia có thực trạng xã hội và truyền thống
văn hóa mang nhiều nét tương đồng với Việt
Nam như Nhật Bản Trung Quốc, thể
rút ra được một số gợi mở cho pháp luật Việt
Nam về vấn đề này.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Vikas MehrotraRandall Morck, Jungwook
Shim, Yupana Wiwattanakantang, June
2013, “Adoptive Expectations: Rising Sons
in Japanese Family Firms”, Journal of
Financial Economics, Volume 108, Issue 3,
Pages 840 - 854.
[2] Dương Lập Tân, Dương Chấn, “Kiến nghị đối
với dự thảo sửa đổi chế định Thừa kế trong
pháp luật Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”,
Tạp chí Pháp luật và Tài chính kinh tế Đại học
Hà Nam, Số 5 năm 2012, trang 14-26.