Nhận diện mấy đặc trưng về văn hóa biển

Phạm Thanh Thôi[1]

Đặt vấn đề

Biển và văn hóa của ngư dân vùng biển là bộ phận không tách rời của nền văn

hóa, xã hội Việt Nam. Từ hơn 1000 năm nay, môi trường sinh thái biển (và ven

biển), là nơi sinh cơ lập nghiệp của hàng triệu người dân Việt. Dọc theo chiều dài

hơn 3200km bờ biển nước ta (chưa kể các đảo và quần đảo), các “tiểu vùng văn

hóa biển” đã hình thành và phát triển rất đa dạng và đặc thù.

Tuy vậy, những nghiên cứu về môi trường sinh thái biển nói chung và văn hóa cư

dân vùng biển nói riêng ở nước ta là không nhiều. Từ 10 năm nay, một số công

trình nghiên cứu khoa học về ngư dân vùng biển được triển khai. Nhưng mục đích

và nội dung nghiên cứu của các đề tài được thực hiện đã xuất phát từ các lý do

sau:

Một là, tập trung nghiên cứu văn hoá lễ hội của ngư dân vùng biển để phục vụ

phát triển du lịch của một số địa phương có hoạt động du lịch dựa vào điều kiện tự

nhiên của vùng biển;

Hai là, tập trung nghiên cứu mô hình và kỹ thuật nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản

của ngư dân vùng biển. Các đề tài này được thực hiện chủ yếu do các nhà quản lý

ở địa phương đặt hàng nghiên cứu, nhằm nâng cao việc khai thác tài nguyên và

mức đóng góp giá trị kinh tế của biển cho cộng đồng ngư dân, kể cả ngân sách địa

phương.

Ba là, khảo sát đời sống kinh tế của những cộng đồng ngư dân nghèo, nhằm giúp

chính quyền tìm giải pháp ổn định và nâng cao mức sống cho ngư dân, bởi thực tại

họ luôn gặp nhiều khó khăn và tổn thất do thiên tai (bão, lũ) gây nên.

Còn một vài lý do khác nữa, một số đề tài đã nghiên cứu về “văn hóa biển” tại

Việt Nam không rơi vào một, hai hoặc ba lý do này. Nhưng lược sử kết quả các

công trình nghiên cứu về “văn hóa biển” trước đây, chúng ta dễ dàng đồng thuận

rằng, các nghiên cứu “về văn hóa biển” ở nước ta mới dừng lại ở việc tập trung

vào khảo sát các lễ hội, tôn giáo tín ngưỡng, những kiêng kỵ khi đi biển và một số kỹ thuật, ngành nghề đánh bắt thuỷ hải sản của ngư dân vùng biển[2]. Những nội

dung này có thể được khái quát vào hai chủ đề chính, đó là “kinh tế” và “văn hóa

tinh thần” của ngư dân vùng biển. Thật vậy, cho đến nay các đề tài nghiên cứu

khoa học về văn hóa biển nói chung ở Việt Nam đang cần được bổ sung và tô đậm

thêm các đặc điểm như tính hệ thống, tính toàn diện và sâu sắc về nội dung, đặc

biệt là tính khoa học trên bình diện phương pháp luận nghiên cứu văn hóa biển.

Phải nói rằng, việc nghiên cứu “văn hoá biển” ở nước ta đang là nhu cầu cấp thiết

của nhận thức khoa học và thực tiễn. Trong môi trường sinh thái nhân văn đặc thù

của vùng biển, việc nghiên cứu đang cần có phương pháp và cách tiếp cận khoa

học liên ngành. Ở nhiều quốc gia khác, Văn hóa biển (Marine Culturology) và

Nhân học biển (Maritime Anthropology) là ngành khoa học đã có những nghiên

cứu và đóng góp cực kỳ quan trọng trong việc nghiên cứu biển và cộng đồng ngư

dân vùng biển. Những đề tài được thực hiện đã tiếp cận liên ngành các khoa học

để nghiên cứu sâu vào các vấn đề như hệ sinh thái biển và ven biển; tâm lý ngư

dân và những kiêng kỵ của người đi biển; cấu trúc xã hội và quan hệ xã hội; vốn

xã hội và mạng lưới xã hội của ngư dân vùng biển; đặc điểm hộ gia đình và vấn đề

giáo dục con cái của ngư dân vùng biển; tri thức dân gian và văn hóa ứng xử của

ngư dân với môi trường biển; sự tương tác giữa lối sống đương đại với hệ sinh thái

biển; đặc điểm ngôn ngữ của ngư dân vùng biển;v.v…

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không tham vọng trình bày được nhiều vấn

đề về văn hoá biển Việt Nam nói chung hay khu vực miền trung, Quảng Nam nói

riêng. Sở dĩ như vậy, vì rằng lâu nay chúng tôi cũng chưa có dịp được tham gia

nghiên cứu về một công trình “văn hóa biển” nào toàn diện và sâu sắc. Do đó,

trong phạm vi nguồn tư liệu còn ít ỏi của mình, chúng tôi trình bày mấy đặc trưng

về bức khảm văn hóa biển của ngư dân Quảng Nam, nơi tôi đã sinh ra và lớn lên.

Nội dung bài viết có 2 phần: phần một, phương thức mưu sinh và đặc điểm xã hội

của cộng đồng ngư dân biển Quảng Nam; phần hai, tri thức dân gian và đặc trưng

văn hóa lễ hội của ngư dân biển Quảng Nam; Tư liệu chính để viết bài này ngoài

những đợt điền dã, tham quan các cộng đồng ngư dân vùng biển Quảng Nam,

chúng tôi đã tham khảo được nhiều tư liệu đã xuất bản như “Văn hóa Quảng Nam-

những giá trị đặc trưng, Sở VHTT Quảng Nam, 2001”; “Văn hóa Quảng Nam- 10

năm tạp chí”, Sở VHTT Quảng Nam, 2007”; “Vai trò lịch sử Dinh trấn Quảng

Nam, Sở VHTT Quảng Nam, 2002”; “Tìm hiểu con người xứ Quảng, Ban Tuyên

giáo tỉnh ủy Quảng Nam, 2004”.v.v..

1. Phương thức mưu sinh và đặc điểm xã hội của ngư dân biển ở Quảng Nam

Miền trung nói chung, Quảng Nam nói riêng, núi, sơn nguyên, đồng bằng và biển

dường như đan cài vào nhau. Những con sông lớn bắt nguồn từ những đồi núi cao

và dốc từ khu vực Trường Sơn chảy xuống những đồng bằng nhỏ hẹp để uà ra

biển Đông mênh mông. Biển theo sông ăn sâu vào đất liền, tạo thành các vịnh, các

đầm phá và bãi biển nên thơ, đem lại điều kiện thuận lợi cho việc quần cư và mưu

sinh của con người.

Đất Quảng Nam nằm ở vị trí ưỡn ra[3] theo dọc dải bờ biển nước ta. Dọc đường

ven biển, bắt đầu từ Cửa Đại (Hội An) chạy theo hướng Nam đến cửa An Hoà nối

vịnh Dung Quất (Quảng Ngãi), bờ biển Quảng Nam có chiều dài 250km, diện tích ngư trường rộng 40 ngàn km2, trữ lượng hải sản khoảng 90 ngàn tấn[4].

Nơi đây có nhiều bãi biển đẹp làm say đắm lòng người như biển Cửa Đại, biển

Bình Dương, biển Bình Minh, biển Tĩnh Thuỷ, biển Tam Thanh, biển Tam Tiến-

Cửa Lò, biển Bãi Rạng, Biển Bàn Than,v.v. Trong hệ sinh thái biển và vùng đất

ven biển Quảng Nam, còn phải kể đến các dãy đảo ở ngoài khơi như Hoàng Sa và

Cù Lao Chàm.

Có thể nói, với những khu vực từ đồi núi, sông ngoài, đồng bằng, ven biển, biển

và các đảo đã đan cài vào nhau, tạo cho vùng đất này một hệ sinh thái tự nhiên

“giàu chất biển”. Với hệ sinh thái này, vùng biển và ven biển Quảng Nam có

nguồn thuỷ sản phong phú, đa dạng chủng loài. Ở vùng đất cát pha bùn ven biển,

còn là nơi trồng được nhiều loại cây lương thực nuôi sống con người.

Tuy vậy, vùng biển Quảng Nam hằng năm lại luôn có nhiều sóng to, bão lớn. Nhất

là vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn các con sông lớn như Thu Bồn, Vu Gia đổ

ra biển rất mạnh và dâng cao, vì thế các cộng đồng ngư dân ven biển Quảng Nam

từ lâu đã biết chọn địa thế để “lập làng” mà mưu sinh. Hàng ngàn năm nay, người

Việt và người Chăm đã biết chọn đất để quần tụ sinh sống. Những ngôi làng ven

biển và làng chài (không có nhà) được ngư dân chọn vị trí “định cư” rất hợp lý. Họ

biết chọn nơi nào có thể tránh được cái nắng nóng làm bỏng da của mùa hè, nơi

nào có thể “lẩn trốn” được sự hung bạo của cơn bão lớn hay của dòng nước lũ từ

đầu nguồn ùa ra biển sâu.

Phải nói rằng, ngư dân ven biển và trên biển Quảng Nam tính từ Bán đảo Sơn Trà

qua Hội An vào đến Dung Quất từ lâu đã biết dựa vào thiên nhiên để sinh cơ –lập

nghiệp “theo mùa”. Các thành viên trong gia đình tuỳ theo tuổi, giới tính, trình độ,

kỹ năng, sở thích,.. mà làm việc, đóng góp vào thu nhập của gia đình bằng nhiều

loại ngành nghề khác nhau. Trừ phần lớn những thanh niên, trung niên khỏe mạnh

có sức khoẻ để theo thuyền ra biển xa, đánh bắt nhiều hải sản như cá, tôm, cua,

mực,v.v. nhiều thành viên khác ở nhiều gia đình còn làm các nghề thủ công, chăn

nuôi, trồng trọt và buôn bán hàng hóa,v.v. để có thu nhập. Những nghề như làm đồ

gốm, ghe bầu, đồ mỹ nghệ, làm mắm (chế biến các loại thực phẩm từ sản vật

biển), đan dệt, buôn bán, bốc vác, môi giới,.v.v. đã sớm hình thành ở cộng đồng

ngư dân Quảng Nam. Các nghề ở làng chài Quảng Nam như xăm, giả ruốc, giả

cào, mành chốt, mành mở, lưới quát, lưới cản, lờ mực, câu ống, câu giàn,… đã

sớm phát triển. Đặc biệt, từ xưa với phương tiện ghe bầu, ngư dân Quảng Nam đã

ra Bắc vào Nam, “Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng” và lên miền ngược về

miền xuôi để trao đổi hàng hóa. Ngư dân Quảng Nam đã góp phần vào việc hình

thành nên các hải trình buôn bán hương liệu, gốm sứ, tơ lụa của các nước Đông Á

và Đông Nam Á. Họ đã góp phần hình thành nên sự phồn thịnh của đô thị-thương

cảng Hội An, bến cảng Trung Phường, Trà Nhiêu, An Hòa, Bàn Thạch, Cù Lao

Chàm,.v.v.

Mặc dù, có khá nhiều gia đình ngư dân Quảng Nam đã không sống chỉ bằng một

nghề như là “đi biển”. Nhưng không vì thế mà cộng đồng ngư dân nơi đây lại

chậm thích nghi hay thiếu vắng những làng chài, vạn chài đánh bắt hải sản chuyên

nghiệp, xa bờ. Việc đánh bắt hải sản ban đầu được thực hiện với các cộng cụ và kỹ

thuật thô sơ, sản phẩm đánh bắt chủ yếu ở khu vực ven biển gần bờ. Hàng trăm

năm nay, ngư dân biển Quảng Nam đã làm chủ nhiều loại phương tiện cơ giới hiện

đại để đánh bắt hải sản xa bờ. Theo số liệu thống kê được từ năm 1976 đến năm

2004, cho thấy số phương tiện là tàu cơ giới tăng lên đáng kể:

Về phương tiện khai thác thủy sản[5]

Đơn vị: chiếc

Phương tiện cơ 1976 1985 1990 1997 2000 2004

giới

Tổng số tu 1663 1650 2134 2905 3491 3773

Tổng cơng suất 19125 21450 26330 61078 78835 67605

Và nghề đi biển đã thu hút một lực lượng lao động đông đảo, khoẻ mạnh nhất ở

cộng đồng ngư dân này. Họ chủ yếu là những thanh niên, đàn ông có sức khoẻ và

thạo nghề đi biển từ khi tuổi mới lên mười. Số liệu thống kê chung được cho thấy

lực lượng lao động làm việc liên quan đến ngành thuỷ sản nói chung là rất lớn.

Lao động làm việc trong ngành thuỷ sản (1997-2004)[6]

Đơn vị: người

Ngnh Thuỷ 1997 2000 2002 2003 2004 Tổng

sản

Số lao động 31624 37824 28971 29501 29973 157895

Biển Quảng Nam có ngư trường rộng sâu, có đảo biển và đảo ven bờ, đặc biệt lại

có dòng hải lưu đi qua, nên trử lượng về các nguồn thuỷ sản lớn. Những phát hiện

khảo cổ học cho thấy từ hơn 5000 năm trước, cư dân sống ở vùng đất này đã tiếp

cận các loại cá biển, rùa biển, ốc biển, sò, hàu, điệp,.. (di chỉ Bàu Dũ, Tam Xuân,

Núi Thành). Theo tài liệu thư tịch cổ, từ xưa ngư dân Quảng Nam đã biết tham gia

khai thác các sản vật biển nổi tiếng ở vùng biển như Yến Sào, Bào Ngư, Đồi Mồi, San Hô,… để cống nộp[7], sử dụng và trao đổi hàng hóa. Hải sản biển Quảng Nam

nổi tiếng về sự đa dạng các chủng loài như cá, tôm, cua, mực, ốc, tảo, hải sâm, vú

nàng, vú sao,…

Theo số liệu thống kê được từ năm 1975 đến nay, sản phẩm đánh bắt và nuôi trồng

của ngư dân Quảng Nam là rất lớn.

Sản lượng hải sản khai thác khu vực nước mặn và lợ[8]

Đơn vị: Tấn

- Khai thc 1976 1985 1990 1997 2000 2004

C 9167 11375 16211 24318 30768 34312

Tơm 509 682 931 1396 1668 2615

Thuỷ sản khc 1341 1596 2381 3754 4551 8775

20 23 196 301 1665 3104 -Nuơi trồng

(C, tơm, loại

khc)

- 260 1167 1539 2564 -Diện - tích

nuơi trồng

(ha)

Tuy vậy, rõ ràng những con số này không thể nào phản ánh được đầy đủ và toàn

diện các sản phẩm kinh tế của cộng đồng ngư dân Quảng Nam từ xưa đến nay. Chỉ

biết rằng, từ ngàn năm nay, các sản phẩm kinh tế của ngư dân Quảng Nam đã

phong phú và dồi dào đủ nuôi sống và cung cấp một nguồn thực phẩm cho cộng

đồng dân cư từ miền xuôi đến tận miền ngược:

“Ai về nhắn với bạn nguồn,

Mít non gởi xuống cá Chuồng gởi lên”.

Nhìn chung, sự đa dạng về ngành nghề của cộng đồng ngư dân Quảng Nam, một

mặt cho thấy hệ sinh thái vùng biển đã chi phối mạnh đến đời sống, phương thức

mưu sinh của ngư dân. Và mặt khác, sự đa dạng các phương thức mưu sinh này từ

lâu là nhân tố làm nảy sinh nơi cộng đồng ngư dân này những đặc điểm xã hội với

tính chất thoáng mở và năng động rất đặc trưng. Không gian xã hội của cộng đồng

ngư dân biển Quảng Nam đã nảy sinh và kết hợp nhiều giá trị văn hóa tiêu biểu

của dân tộc Việt Nam nói chung. Nơi đây, từ lâu đã nuôi dưỡng được nhiều các

giá trị văn hóa xã hội, nảy sinh từ nền kinh tế ngư nghiệp, thương nghiệp, nông

nghiệp và cả công nghiệp (ở phương Đông và phương Tây) v.v. rất đa dạng nhưng

thống nhất.

Đến với cộng đồng ngư dân Quảng Nam, người ta dễ dàng nhận thấy, rằng ngư

dân vùng biển Quảng Nam có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ nhau trong nghề

nghiệp và trong cuộc sống mưu sinh hằng ngày. Trước sự huyền bí và dữ dội của

biển cả, giữa các vạn chài đã thiết lập mối quan hệ thân tình hòa hợp. Tâm thức

của ngư dân Quảng Nam luôn đề cao “đạo lý cộng đồng” để gắn kết tình cảm giữa

những con người cùng chung một phương thức sinh tồn. Có thể nói, quan hệ xã

hội ba chiều Người – Biển –Thần được cộng đồng ngư dân Quảng Nam trân trọng

bảo lưu và nuôi dưỡng. Sự hoà hợp, thích nghi và gìn giữ những điều kiêng kị giữa

người với người, người với thế giới tự nhiên và siêu nhiên để có được điềm lành

như là cách tốt nhất trong quá trình mưu sinh mà ngư dân Quảng Nam luôn chú

tâm thực hiện.

2. Tín ngưỡng dân gian và đặc trưng văn hoá lễ hội của ngư dân Quảng Nam

Biển và những sự kiện liên quan đến cuộc mưu sinh của con người trên biển luôn

hiện hữu trong tâm thức ngư dân Quảng Nam suốt chu kỳ một đời người. Giá trị

văn hoá tinh thần đặc trưng của ngư dân Quảng Nam được lắng đọng trong nhiều

tín ngưỡng dân gian đi kèm với các lễ hội đặc trưng. Cộng đồng ngư dân Quảng

Nam đã nuôi dưỡng và thực hành nhiều lễ hội gắn chặt với tín ngưỡng dân gian

như Lễ hội rước Cô chợ Được, diễn ra vào ngày 11 tháng giêng âm lịch hằng năm,

gắn liền với truyền thuyết về cuộc đời Bà Nguyễn Thị Của rất hiển linh cứu giúp

ngư dân. Lễ hội diễn ra với các nội dung như cầu an, múa lân, đua ghe, rước kiệu

Bà đi quanh làng chài; Lễ vía Bà Thiên Hậu,diễn ra vào ngày 23 tháng 3 âm lịch

hằng năm,do người Hoa ở Hội An tổ chức. Nội dung lễ vía có 2 phần: phần lễ

được tổ chức theo nghi lễ truyền thống của người Hoa, sau đó là phần hội có múa

lân, xin xăm. Ở lễ hội này thường được người dân trang hoàng đèn cờ rực rỡ, con

cháu và du khách thập phương tham dự đông vui..v.v Tuy nhiên, nét đặc trưng cho

tín ngưỡng dân gian và văn hóa lễ hội của ngư dân vùng biển Quảng Nam là tín

ngưỡng thờ Cá Ông (cá Voi).

Thờ cá Ông là tín ngưỡng dân gian đã được nghi thức hóa, cung đình hóa từ thời

Vua Gia Long (Ngô Đức Thịnh, 2004, 228). Ở mỗi làng chài ven biển Quảng

Nam, Cá Ông được tôn xưng với các tước hiệu như Nam Hải đại tướng quân, Đại

Càn Nam Hải đại tướng quân, Đông Hải Ngọc Lân tôn thần,.v.v. hay các danh

xưng gần gủi như Ông Cậu, Ông Khơi, Ông Lộng, Ông Chuông,.v.v.

Ngư dân Quảng Nam luôn tin rằng cá Voi đã cứu người, cứu thuyền khi gặp sóng

bão nơi biển khơi. Với kinh nghiệm dân gian, nơi nào cá Voi xuất hiện thì nơi đó

có nhiều cá để đánh bắt. Cá voi từ lâu đã trở thành một vị phúc thần nơi biển cả, là

ân nhân của người đi biển. Với ngư dân Quảng Nam, cá Ông không chỉ là một vị

thần biển mà còn là vị thần bản mệnh liên quan đến sự hưng thịnh của vạn chài.

Từ niềm tín kính như vậy, hằng năm lễ tế cá Ông là một trong những nghi lễ quan

trọng nhất, đồng thời đó cũng là ngày hội của cư dân vạn chài. Phần tế lễ và các

nghi thức diễn ra hàng năm, kéo dài 2-3 ngày bắt đầu từ Lễ Vọng, lễ Nghinh Ông,

Lễ tế Cô hồn, Lễ Chánh Tế, Lễ xây chầu Bả Trạo. Lễ tế cá Ông hàng năm giữa các

địa phương (làng chài) ở Quảng Nam không có sự thống nhất cùng một lúc về thời gian và quy mô tổ chức cũng có sự khác nhau[9]. Lễ vọng được thực hiện từ sáng

sớm của ngày tế lễ đầu tiên, với mục đích cúng giỗ và cầu xin điềm lành cho vạn

chài, tránh được điều dữ trong năm.

Lễ Nghinh Ông, gồm lễ và hội rước Đông Hải Ngọc Lân Tôn thần về chứng lễ

cúng Nam Hải Ngọc Lân tôn thần. Phần lễ này phức tạp hơn, người chánh tế cùng

học trò lễ, đội Bả Trạo, đội cờ, ban nhạc lễ, ban chinh cổ và các trai niên xuống

thuyền ghe có đèn hoa, kèn trống rộn ràng, cùng với đoàn ghe bầu, ghe thúng của

đông đảo ngư dân ra khơi nghinh Ông. Ra đến điểm đã định, ông chánh tế với

trang phục đặc trưng, làm lễ dâng hương, rượu để khấn vái mời thần Đông Hải

Ngọc Lân Tôn thần về chứng lễ.

Lễ tế cô hồn, diễn ra tại sân lăng. Lễ vật cúng gồm có cháo, khoai, bánh, oản, trầu,

rượu, hương, vàng bạc và áo giấy. Cũng như lễ vọng, chánh lễ dâng rượu và đọc

văn tế rất uy nghiêm và hùng hồn. Văn tế cúng cô hồn của ngư dân Quảng Nam

luôn thể hiện tình cảm sâu đậm giữa người sống và người đã chết.

Lễ chánh tế, thường chỉ được tiến hành vào lúc nửa đêm về sáng. Lễ vật cúng gồm

có như hương, hoa đăng, trà, trái cây, thịt heo,.v.v cũng như trên, chánh lễ cũng

thực hiện các nghi thức dâng hương, rượu và đọc văn tế.

Lễ xây chầu Bả Trạo, đây là nghi lễ cũng rất quan trọng, cố định mở đầu cho buổi

hát thờ/hát thiêng trong lễ hội nghinh ông của ngư dân Quảng Nam. Người xây

chầu là vị chánh tế, trống chầu là trống đại, màu đỏ, mặt quay về hướng Đông có

phủ khăn điều. Hát Bả Trạo là bộ phận không thể thiếu của nghi lễ, một loại hình

diễn xướng bao gồm cả múa và hát. Bả là bạn, Trạo là chèo, nên ngư dân gọi là

“hát bạn chèo”. Và kiểu hát thờ cúng này được trình diễn tại lăng Ông nên còn

được gọi là hát lăng. Thông thường, hát Bả Trạo được trình diễn ở hai lễ là chánh

lễ và lễ tế cô hồn. Đội hình hát Bả Trạo được sắp xếp theo hình chiếc thuyền với

tâm thế chuyền thuyền linh đưa hồn cá Ông về nơi cực lạc. Nội dung ngôn từ của

hát Bả Trạo nhằm ca ngợi công đức cá Ông, xót thương người đã quá cố, lời hát

thấm đượm màu sắc bi ai nhưng không chút sầu muộn hay bi luỵ.

Có thể nói, với tín ngưỡng thờ cá Ông là được đông đảo ngư dân biển Quảng Nam

tham gia nhất. Cá Ông là vị thần chung của các ngư dân, vì thế các vạn chài đã có

sự kết nghĩa giao lưu đãi nhau. Thờ cá Ông ở cộng đồng ngư dân biển Quảng Nam

không chỉ đơn thuần là sự thực hành các nghi lễ tín ngưỡng, thể hiện tâm thức tôn

giáo mà còn biểu hiện thế ứng xử, tính thích nghi của ngư dân với hệ sinh thái

biển và với cộng đồng của mình trong suốt quá trình lịch sử mưu sinh. Thực hành

các lễ hội thờ cá Ông đã hàm chứa đầy đủ, sâu sắc các giá trị văn hóa tinh thần và

xã hội với ý nghĩa nhân văn của cộng đồng ngư dân biển Quảng Nam.

Tóm lại, có thể nói rằng, hệ sinh thái vùng biển Quảng Nam từ lâu đã chi phối và ít

nhiều quy định đời sống xã hội và văn hóa của ngư dân. Việc tổ chức đánh bắt xa

bờ và gần bờ, cùng với hoạt động thủ công, buôn bán, trồng trọt ven biển và gần

bờ, từ xưa đến nay đã nảy sinh trong cộng đồng ngư dân ven biển Quảng Nam một

bản sắc văn hóa kết hợp và một cấu trúc xã hội rất đặc thù. Ngày nay, những đặc

điểm xã hội và văn hóa của cộng đồng ngư dân này đang chịu tác động và biến đổi

bởi rất nhiều nhân tố, chủ quan và khách quan của con người trong và ngoài cộng

đồng ngư dân. Các đặc điểm xã hội và văn hóa mới hình thành, ắt sẽ có điểm tích

cực và chưa tích cực cho sự phát triển bền vững của cộng đồng ngư dân ven biển

miền Trung nói chung và Quảng Nam nói riêng, rất cần được nhận diện sáng rõ.