Những Ngụy Biện do Sự Tối Nghĩa

Phần II này nghiên cứu những dạng thông dụng của những

lý luận sai lầm.

Lý luận sai lầm (hay ngụy biện) là một lý luận có khuyết điểm.

Mặc dù không hoàn thiện một cách hợp lý, những ý kiến sai lầm

thường xuyên thuyết phục chúng ta bởi vì, trong sự xem xét

trước tiên, chúng xuất hiện hợp lý trong hình thái và nội dung.

"Ngụy Biện" hay "Sai lầm"[4] xuất phát từ tiếng Hy Lạp là

"phelos", có nghĩa là "lừa dối", được nghĩ ra để thay thế cho sự

thất bại về từ của chúng ta.

Những Ngụy Biện thông thường mà chúng ta tìm thấy trong

những chương sau, là những lý luận không hợp lý về nội dung,

như đối nghịch lại với hình thái hoặc cấu trúc của chúng. Một định

nghĩa khó có thể liệt kê tất cả các dạng ngụy biện thông thường.

Tuy nhiên, bằng cách cho thí dụ, chúng ta có thể tìm thấy trong

cách sử dụng ngôn ngữ xuyên tạc để thực hiện khéo léo nhận

thức của chúng ta về một đề tài dưới sự thảo luận ("Bài thi khó

khăn của Giáo sư Hedley là không công bằng đối với sinh viên"),

trong sự tối nghĩa -- không chủ tâm hay có kế hoạch cẩn thận hay

không mà làm mờ đi sự thấu hiểu của chúng ta về những gì được

tranh cãi rõ ràng, và trong những lý luận nói lên những sự thích

thú đến khuyết điểm nhân tính của chúng ta. Trong những sự sai

lầm gần đây, tranh luận cố gắng "quyết định", học hỏi chúng ta

đồng ý với một lý luận ngoài cảm giác đáng tiếc hay khiếp sợ,

ngoài sự mong muốn của chúng ta là "thành phần của đám đông"

hay ngược lại, để phân biệt với đám đông -- thành phần ưu tú

nhất. Chúng ta xử lý những sai lầm thông thường bằng cách

nhận biết và gạn lọc những phát biểu tối nghĩa và mơ hồ của

chúng, bằng cách tạo ra sự rõ ràng những giả định đáng ngờ của

chúng, và bằng cách trình bày những xu hướng của chúng. Thật

đáng tiếc rằng những khía cạnh mà những lý luận này trở nên vô

ích thường xuyên là những gì phó thác chúng với các thính giả.

Những nhà lo-gic học của tất cả các giai đoạn đã nghiên cứu

những sự sai lầm thường phức tạp và khó phân biệt. Người đầu

tiên phân loại những lý luận sai lầm là Aristotle. Aristotle đã chia

những lý luận bị sai lầm thành hai nhóm: một số có nguồn gốc

ngôn ngữ của chúng, mà bao gồm những sai lầm về sự tối nghĩa,

và một số có nguồn gốc ngoài ngôn ngữ, được xem như tất cả

các sai lầm khác. Mặc dù có nhiều người có khuynh hướng theo

sự phân loại của Aristotle, nhưng sự nghiên cứu một vài sự sai

lầm cũng thay đổi theo thời gian, và những sai lầm mới được

phát hiện. Một số đã tranh cãi rằng không có sự phân loại những

sự sai lầm thích hợp nào tồn tại, từ những hướng đi đến sai sót là

rất nhiều và phức tạp.

Vẫn còn những người khác quả quyết rằng, giống như sự nghiên

cứu lập luận chính xác, lý luận học không nên có liên quan tới

chính nó với lập luận không hoàn hảo. Những tranh luận này hầu

như là sự sai lầm của bản thân nó, từ sự tương tự với những lỗi

hợp lý thông dụng giúp chúng ta bảo vệ những sự sai lầm - trong

những lý luận của người khác và của cả chúng ta - và vì thế đẩy

mạnh nguyên nhân của lập luận chính xác.

Trong quyển sách này, chúng ta sẽ rời khỏi hệ thống phân loại

hai phần của Aristotle, để chúng ta hài lòng rằng, thật ra, tất cả

những sai lầm có nguồn gốc trong một vài khía cạnh của ngôn

ngữ. Vì thế, sự tổ chức của việc nghiên cứu những sai lầm trong

Phần II là ba phần, tương ứng với ba cách thức mà ngôn ngữ

được sử dụng trong một lý luận sai lầm có thể tìm thấy như

nguồn gốc của sự sai lệch. Trong Chương 3, chủ đề là những sai

lầm về tối nghĩa mà nó là ý nghĩa phức tạp của những từ ngữ đã

tận dụng đó là nguồn gốc của sai lầm. Trong Chương 4, trong

những sự sai lầm của giả định, sai sót xuất phát từ cách thức mà

những lý luận sai lầm đã tạo thành ngữ tương đồng hay hợp lý

như những lý luận chính xác hấp dẫn chúng ta để "coi như là" lập

luận phải chính xác bởi nó bao hàm ngôn ngữ tương tự như thế

của những lý luận xác đáng. Nhóm cuối cùng, trong Chương 5,

gồm có những sai lầm của sự thích đáng, mà ngôn ngữ hay lý

luận không thích hợp được đưa ra để làm vững chắc một sự

thích thú dễ gây cảm xúc, đúng hơn là một sự thích thú hợp lý. Vì

thế, trong khi Aristotle phát hiện những lỗi trong lý luận một cách

trực tiếp đến ngôn ngữ chỉ trong trường hợp những sai lầm do sự

mơ hồ, chúng ta sẽ thấy nó hữu dụng để nhấn mạnh bản chất

ngôn ngữ của lỗi trong những sai lầm của giả định và sự xác

đáng.

Sự phân chia ba phần chúng ta phát hiện trong quyển sách này

cũng giúp ta hiểu sâu xa hơn bản chất của sự hợp lý hay sự hợp

lý mạnh mẽ. Hợp lý là sự nghiên cứu lý luận, và do đó, đưa ra sự

tán thành của chúng ta về một lý luận, chúng ta nên luôn chắc

chắn rằng chúng ta hiểu ra ba điều sau đây:

1. Lý luận khẳng định rõ ràng điều gì?

2. Những sự kiện trong lý luận có được trình bày chính xác

hay không?

3. Lập luận trong lý luận có hợp lý hay vững chắc không?

Ba phạm trù của sai lầm được kết hợp chặt chẽ với những khía

cạnh này của lý luận. Hình thức đầu tiên (những sai lầm về tối

nghĩa) có liên quan với những lý luận mà không đạt hiệu quả

ngay khi gặp trở ngại ở câu hỏi đầu tiên ( lý luận có rõ ràng

không?); thứ hai (những sai lầm của giả định) có liên quan với

câu hỏi kế tiếp (lý luận có được trình bày chính xác không?); và

thứ ba (những sai lầm của thích hợp) có liên quan với câu hỏi

cuối cùng (lý luận có hợp lý không?)

Trong quá trình minh họa ba hình thức sai lầm này, đôi khi nó sẽ

hữu dụng để nghiên cứu một số ví dụ vô lý mà không có ai muốn

phạm phải. Tương tự như vậy, trong tầm quan trọng của sự ngắn

gọn, cho phép chúng ta làm nổi bật sai lầm của vấn đề, chúng ta

sử dụng nhiều ví dụ mà chính chúng không bao hàm đầy đủ

những lý luận. Những ví dụ như thế đáp ứng cho một mục tiêu

tương tự như kính thiên văn hay kính hiển vi trong các lĩnh vực

khác: chúng khuyếch đại bản chất tự nhiên của vật thể dưới việc

nghiên cứu để chúng ta có thể thấy nó rõ hơn. Trong những

trường hợp khác, một ví dụ khôi hài có thể được sử dụng để

minh họa cho những gì trong thực tế một sai lầm vô cùng nghiêm

trọng. Cũng ở đây, những ví dụ sáng tỏ như thế giúp nêu bật bản

chất của sai sót, nhưng chúng không phải hướng dẫn chúng ta

nghĩ những sai lầm đó không nguy hiểm. Nhiều người của những

quốc gia khác nhau nói chung bị sai lừa vì những tuyên truyền sai

lầm. Những người được giáo dục tuỳ nghi trong tất cả thời gian

và nơi chốn cần hiểu rõ giá trị những kết quả đúng đắn mà có thể

nó là kết quả của những lập luận sai lầm.

Những sự hiểu lầm về tối nghĩa là những lý luận không hợp lý vì

chúng chứa đựng một hay nhiều từ, nhiều chữ hay trong sự kết

hợp, có thể được hiểu nhiều hơn một nghĩa. Chúng ta theo dõi

trong Chương 2, ngôn ngữ của chúng ta chứa nhiều từ tối nghĩa -

những từ ngữ và sự miêu tả nhiều hơn một nghĩa. Khi sự tối

nghĩa được trình bày trong một lý luận, lý luận luôn kém chính

xác. Chúng ta sẽ nhận thấy trong chương này sáu sai lầm: những

sai lầm về lối nói lập lờ, câu nước đôi, dấu trọng âm, phép tu từ,

sự phân đoạn và sự kết cấu. Mặc dù sự tối nghĩa gây ra sáu sai

lầm đó, sự tối nghĩa đặc trưng trong mỗi trường hợp đều khác

nhau. Trong lói nói lập lờ, sự tối nghĩa xuất phát từ sự kiện những

từ ngữ được sử dụng có nhiều hơn một ý nghĩa chính xác và có

thể có những ý nghĩa đúng đắn tuỳ thuộc vào ngữ cảnh (context)

của nó. Về câu nước đôi, chúng ta sẽ thấy rằng nó là sự tối nghĩa

của cấu trúc câu gây ra sai lầm. Trong trường hợp dấu trọng âm,

sự tối nghĩa được chấp nhận trọng âm nhấn hay âm thanh được

tận dụng. Trong phép tu từ, sự tối nghĩa là kết quả của việc sử

dụng một hay nhiều từ ngữ chỉ có thể tham khảo hợp lý những

tồn tại cụ thể nếu nó cũng có thể xem xét về sự trừu tượng.

Trong phân đoạn và kết cấu, sự tối nghĩa được chấp nhận nhầm

lẫn ý nghĩa chung với ý nghĩa phân biệt của từ. Những sai lầm

của sự tối nghĩa có thể gây thú vị trong những trường hợp chúng

ta có thể đảm bảo rằng chúng không nguy hiểm. Tuy nhiên, trong

trường hợp khác chúng có thể dẫn đến những câu hỏi sâu sắc

hay tức khắc mà không có câu trả lời.

Bảng những sự sai lầm của tối nghĩa:

Lối nói lập lờ (Equivocation) :: Một sự tối nghĩa gây ra bởi một

thay đổi giữa hai ý nghĩa hợp lý của một từ.(Trọng điểm: sự tối

nghĩa tuỳ thuộc vào một từ hay ngữ. Tương phản với CÂU

NƯỚC ĐÔI). :: Ví dụ: "Nếu bạn tin vào những điều kỳ diệu của

khoa học, bạn cũng nên tin vào điều kỳ diệu của Kinh thánh."

(Niềm tin vào khoa học và tin vào kinh thánh có giống nhau

không?)

Câu nước đôi (Amphiboly) :: Một sự tối nghĩa gây ra bởi cấu trúc

câu không hoàn chỉnh. (Trọng điểm: sai lầm bao hàm cả câu và

không tuỳ thuộc vào một từ) :: Ví dụ:"Tôi bỏ phiếu bầu cho ứng

cử viên độc lập với những hy vọng cao nhất. (Gạn lọc sự tối

nghĩa: Những hy vọng của ai? Của ứng cử viên hay của người

nói?)

Dấu trọng âm (Accent) :: Một lời phát biểu tối nghĩa vì (1) âm

thanh và cách phát âm của nó không rõ ràng; (2) âm nhấn của nó

cũng không rõ ràng; hay (3) nó được trích dẫn ngoài ngữ cảnh. ::

Ví dụ: (1) " Có thể hết sức tán dương quyển sách này" (Cách nói

này trong một giọng nghiêm trang hay châm biếm?) (2)"John nghĩ

rằng McIntosh sẽ thành công" ( Từ ngữ nào được nhấn mạnh?)

(3) "Will Rogers không bao giờ gặp George McGovern?" (Trong

tâm hồn người lập dị?)

Phép tu từ (Hypostatization) :: Sự nghiên cứu những từ ngữ trừu

tượng như những từ cụ thể, đôi khi thậm chí gán cho chúng

những đặc tính của con người (Tương tự như nhân cách hóa) ::

Ví dụ: "Thậm chí khi anh ta đã về nhà, công việc sẽ có sức cám

dỗ anh ta, khẳng định ưu thế của nó, và lôi kéo anh ta trở về với

nó." (Quan sát chủ ngữ và động từ)

Phân hóa (Division) :: Giả định rằng những gì là chính xác của

tổng thể (1) hay một nhóm (2) phải đúng với những phần của các

bộ phận (Cố gắng "phân chia" những gì hợp lý của tổng thể giữa

các thành phần của nó). :: Ví dụ: (1)"Tôi không thể xé quyển danh

bạ điện thoại này thành phân nửa, vì thế tôi không thể xé một

trang của nó thành phân nửa." (2) "Đây là hội nữ sinh giàu nhất

trong trường; vì thế Mary, một thành viên trong đó, phải là một

trong những người giàu nhất ở trường."