Phospho (lân) trong đất

Lân là nguyên tố dinh dưỡng đa lượng đối

với cây trồng. Lân đóng vai trò quan trọng

trong quá trình trao đổi chất, hút dinh

dưỡng và vận chuyển các chất trong cây.

Cây thiếu lân sẽ sinh trưởng chậm, cho

năng suất thấp phẩm chất nông sản kém.

Hàm lượng lân tổng số trong đất Việt Nam

khoảng 0,03-0,2%. Giàu P nhất là nâu đỏ

trên bazan và nghèo P nhất là đất bạc màu

và đất cát Dưới đây giá trị của P trong vài

đất

Hàm lượng lân tổng số của đất phụ thuộc

chủ yếu vào thành phần khoáng vật của đá

mẹ, thành phần cơ giới đất, chế độ canh tác

và phân bón.

Trong đất phospho có trong các hợp chất

hữu cơ và vô cơ. Phospho có trong thành

phần của nhiều hợp chất hữu cơ của tàn

tích sinh vật. Các hợp chất hữu cơ chứa

phospho gồm có: Phitin, axit nucleic,

nucleoproteit, phosphatit, sacarophosphat...

và các vi sinh vật đất. Nguyên tố này được

tích luỹ trong đất tầng mặt nhờ sự tích luỹ

sinh học, vì vậy trong tầng đất mặt thường

chứa nhiều lân hữu cơ hơn các tầng dưới

sâu. Tỷ lệ lân hữu cơ phụ thuộc chủ yếu

vào hàm lượng mùn trong đất và dao động

trong khoảng từ 10-50% của lân tổng số.

Hợp chất vô cơ chứa phospho chủ yếu là

những muối của axit octophosphoric với Ca,

Mg, Fe và Al. Trong đất phospho còn có

trong thành phần của apatit, phosphoric và

vivianit, cũng như trong trạng thái hấp phụ

của anion phosphat. Apatit là nguồn gốc

đầu tiên của tất cả các hợp chất phospho

trong đất. Nó chiếm tới 95% hợp chất

phospho trong vỏ trái đất. Các dạng

phospho vô cơ trong đất phần lớn có tính di

động kém.

Trong đất chua (có các dạng hoạt động hoá

học của sắt và nhôm) phospho phần lớn

gặp ở dạng phosphat sắt và phosphat nhôm

(FePO4, AlPO4, Fe2(OH)2PO4,

Al(OH)2PO4...) hoặc liên kết với oxyt sắt,

nhôm dưới dạng hợp chất bị hấp phụ. Các

loại đất chua của Việt Nam đều có hàm

lượng phosphat sắt cao. Ví dụ: đất nâu đỏ

trên bazan có lượng phosphat sắt (Fe-P)

chiếm trên 80% tổng số lân vô cơ; đất vàng

đỏ trên đá phiến sét có Fe-P trên 70% tổng

số lân vô cơ; đất phù sa chua và đất phèn

có Fe-P tương ứng là 48-56% tổng số lân

vô cơ.

Trong đất lúa nước và đất đầm lầy có thể

gặp vivianit - Fe3(PO4)2.8H2O - màu xanh

lơ. Trong đất lúa nước phosphat sắt 3 có

thể bị khử thành phosphat sắt 2 hoà tan

trong nước nên cây trồng có thể hấp thụ

được.

Trong đất chua ít, trung tính và kiềm yếu

phospho chủ yếu tồn tại dưới các dạng liên

kết với canxi. Các phosphat canxi thường

có độ hoà tan thấp. Theo độ hoà tan tăng

dần của các phosphat canxi trong đất chúng

ta có dãy sau:

Ca5(PO4)3Cl

Ca8H2(PO4)6.5H2O < CaHPO4 <

CaHPO4.2H2O < Ca(H2PO4)2

(apatit clo)

Tỷ lệ Ca/P trong các phosphat canxi tăng

lên thì độ hoà tan giảm.

Phản ứng môi trường thuận lợi cho sự hấp

thu phospho là phản ứng chua ít (pH 5,0-

6,5).