CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƢỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC” NĂM 2009

Tên công trình: PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP

LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LUẬT

CỦA PHÁP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI

VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM

Nhóm ngành: XH2b Hà Nội, tháng 8 năm 2009

i

MỤC LỤC

Trang

TÓM TẮT CÔNG TRÌNH ................................................................................................ 1

LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................... 2

Chƣơng I. PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI

PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG

PHÁ SẢN ............................................................................................................................ 7

1. Phá sản và tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp ......................... 7

1.1. Khái niệm và đặc điểm của phá sản ......................................................................... 7

1.2. Những tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp ............................. 11

2. Sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng

phá sản .............................................................................................................................. 16

2.1. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích tái tạo lại doanh nghiệp lâm

vào tình trạng phá sản .................................................................................................... 17

2.2. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của phá

sản đối với xã hội ........................................................................................................... 18

2.3. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp góp phần làm thay đổi nhận thức về

phá sản ........................................................................................................................... 18

3. Pháp luật về phá sản và những quy định về phục hồi hoạt động của

doanh nghiệp .................................................................................................................... 20

3.1. Pháp luật về phá sản ............................................................................................... 20

3.2. Những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật phá sản ...... 22

Chƣơng II. NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT CỦA PHÁP VỀ

PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG

PHÁ SẢN .......................................................................................................................... 24

1. Giới thiệu tổng quan về pháp luật phá sản của Pháp .............................................. 24

1.1. Sự hình thành và phát triển .................................................................................... 24

1.2. Vị trí vấn đề phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật về doanh nghiệp lâm

vào tình trạng khó khăn của Pháp .................................................................................. 29

2. Những quy định trong luật của Pháp về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh

nghiệp ................................................................................................................................ 32

http://svnckh.com.vn

ii

ii

2.1. Đối tượng áp dụng ................................................................................................. 32

2.2. Điều kiện để mở Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp .......................... 33

2.3. Các bước tiến hành thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình

trạng phá sản .................................................................................................................. 37

3. Những quy định trong pháp luật phá sản của Pháp về phƣơng án phục hồi hoạt

động của doanh nghiệp .................................................................................................... 47

3.1. Vấn đề tài chính ..................................................................................................... 47

3.2. Vấn đề quản lý doanh nghiệp ................................................................................ 48

3.3. Vấn đề xã hội ......................................................................................................... 49

4. Nhận xét về các quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động của

doanh nghiệp .................................................................................................................... 50

Chƣơng III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA

VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP THÁO GỠ TRÊN CƠ SỞ

VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TỪ PHÁP ..................................................................... 52

1. Dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới ...... 52

1.1. Cơ sở để dự báo ..................................................................................................... 52

1.2. Các con số dự báo .................................................................................................. 54

2. Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam ............................... 56

2.1. Những bất cập trong các quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp ....... 56

2.2. Việc thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo quy định của Luật Phá

sản năm 2004 trong thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn ..................................................... 64

3. Đề xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp .......................... 69

3.1. Khẳng định rõ mục tiêu của luật phá sản Việt Nam là phục hồi hoạt động của

doanh nghiệp .................................................................. Error! Bookmark not defined.

3.2. Các giải pháp sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật Phá sản năm 2004 về

phục hồi doanh nghiệp ................................................................................................... 69

3.3. Các giải pháp tăng cường thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp trong

Luật Phá sản năm 2004 .................................................................................................. 71

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 76

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 78

PHỤ LỤC ............................................................................................................................ I

Phụ lục 1 .......................................................................................................................... I

http://svnckh.com.vn

ii

iii

Phụ lục 2 ....................................................................................................................... IV

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Giải nghĩa

1. AGS Tổ chức Tổ chức quản lý chế độ bảo hiểm các khoản nợ

công nhân (Association pour la gestion du régime

d’assurance des créances des salariés)

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) 2.

GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product) 3.

OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for 4.

Economic Co-operation and Development)

WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade 5.

Organization)

Đô la Mỹ USD 6.

Đồng Việt Nam VNĐ 7.

http://svnckh.com.vn

iii

TNHH Trách nhiệm hữu hạn 8.

1

TÓM TẮT CÔNG TRÌNH

Ngày nay, pháp luật phá sản ở hầu hết các nước phát triển đều coi việc phục hồi

và tái tạo doanh nghiệp là mục tiêu quan trọng. Điều này lại không tồn tại ở Việt Nam.

Trải qua 16 năm thi hành, cho đến nay vẫn chưa có một doanh nghiệp lâm vào tình trạng

phá sản nào được phục hồi và tái tạo lại theo luật phá sản. Chính điều này đã làm giảm

sức sống của luật phá sản Việt Nam. Để làm rõ nguyên nhân và tìm kiếm giải pháp cho

thực trạng này, vấn đề “Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá

sản theo luật của Pháp và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt

Nam” đã được lựa chọn làm đề tài tham dự cuộc thi “Sinh viên Nghiên cứu Khoa học

năm 2009”.

Với tổng số 78 trang, nội dung của công trình gồm 3 chương:

Chương I trình bày những vấn đề cơ bản như khái niệm, đặc điểm của phá sản và

pháp luật phá sản; sau khi phân tích tác động tích cực và tiêu cực của phá sản đối với

doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp là chủ nợ và doanh nghiệp là con nợ, cũng như đối với

nền kinh tế, chương I đã làm rõ sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp và

khẳng định tính ưu việt và xu thế chung của pháp luật phá sản ngày nay là cố gắng hướng

về mục tiêu tái tạo doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

Chương II phân tích những nỗ lực của Cộng hòa Pháp trong việc hoàn thiện các

quy định trong luật phá sản về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Để thấy rõ điều này,

chương II tóm lược một số nét cơ bản về luật phá sản của Pháp từ thời Cổ đại mà điểm

nổi bật là trong giai đoạn này luật của pháp không coi trọng vấn đề phục hồi hoạt động

của doanh nghiệp. Qua thời gian, với nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến nay, phục hồi doanh

nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã trở thành mục tiêu chính của luật phá sản của Pháp

với nhiều quy định có tính ưu việt nhằm tạo cơ sở để các doanh nghiệp lâm vào tình trạng

phá sản tìm đường trở lại. Điều này đã được giới doanh nghiệp Pháp đón nhận và đây

cũng chính là những kinh nghiệm tốt để Việt Nam học tập.

Chương III, sau khi đưa ra dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt

Nam trong thời gian tới, đã nêu rõ những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam. Đó là 7 bất cập

của Luật phá sản năm 2004 và 4 khó khăn gặp phải trong quá trình thi hành thủ tục phục

hồi doanh nghiệp. Trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp, Chương III đề xuất các giải

pháp cụ thể nhằm loại bỏ bất cập và tăng cường sức sống của các quy định về phục hồi

doanh nghiệp trong Luật phá sản năm 2004, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vì sao Việt Nam

cần khẳng định rằng mục tiêu quan trọng nhất của Luật phá sản sửa đổi tới đây là phục

hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

2

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, sự cạnh tranh giữa các

doanh nghiệp trên thị trường ngày càng lớn, sự rút lui, phá sản của một bộ phận

doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Đặc biệt, do những tác động tiêu cực

của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, tình trạng khó khăn của nền kinh

tế đã và đang dẫn tới sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp, kể cả các doanh

nghiệp ở các nước phát triển và các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.

Giới doanh nghiệp thế giới đã phải sửng sốt và bàng hoàng khi hay tin General

Motor - một đại gia trong ngành xe hơi Hoa Kỳ phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản

vào ngày 1/6/2009, với tổng trị giá tài sản là 82,3 tỷ USD trên số nợ tồn đọng là 172,81 tỷ USD 1. Còn ở Việt Nam, vào ngày 19/12/2008 Công ty TNHH Orion

Hanel - một công ty liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Hàn

Quốc được thành lập năm 1993 và từng là một trong các doanh nghiệp FDI dẫn

đầu tại Hà Nội trong việc sản xuất đèn hình màu và phụ kiện tivi, đã nộp đơn lên Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội xin mở thủ tục phá sản 2.

Doanh nghiệp bị phá sản sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực cho xã hội. Để

hạn chế và giảm thiểu các tác động đó, pháp luật về phá sản đã được ban hành với

nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng

phục hồi hoạt động của doanh nghiệp như thế nào? Luật pháp của các nước khác

nhau quy định không hoàn toàn giống nhau về vấn đề này. Luật phá sản đầu tiên

của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, có tên gọi là Luật phá sản Doanh

nghiệp, được thông qua ngày 30/12/1993 (có hiệu lực từ ngày 1/7/1994) nhằm

hình thành khung pháp lý bảo đảm sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với

hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mục tiêu quan trọng nhất

của Luật này là nhắc nhở, cảnh báo các doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động

1 Website: http://money.cnn.com/2009/06/01/news/companies/gm_bankruptcy/index.htm 2 Website: http://www.vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/2008/12/3BA09C61/

kinh doanh và hướng dẫn thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản.

3

Những quy định trong Luật thiên về bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và hầu như

không đặt ra mục tiêu tái tạo lại doanh nghiệp. Vì vậy, Luật phá sản Doanh nghiệp

năm 1993 không có quy định nào về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.

Ngày 15/6/2004, Luật phá sản mới được ban hành. Luật này có tên gọi là

Luật Phá sản năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 15/10/2004). Một trong những điểm

mới của Luật Phá sản năm 2004 so với Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993 là

Luật Phá sản năm 2004 đã bổ sung những quy định về phục hồi hoạt động của

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Với 10 điều khoản cụ thể trong luật (xem

phụ lục 1), tưởng như Luật Phá sản năm 2004 sẽ được áp dụng tốt trong thực tế.

Nhưng thực tiễn lại không như vậy. Kể từ ngày 15/10/2004 - ngày Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2008 Tòa án đã thụ lý 195 vụ phá sản 3,

nhưng lại không có trường hợp nào trong số đó được phục hồi hoạt động.

Vì sao lại như vậy? Phải chăng vì các quy định về phục hồi hoạt động của

doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành vẫn tỏ ra chưa phù hợp? Pháp luật của các

nước phát triển quy định như thế nào về vấn đề này? Những câu hỏi này đã thôi

thúc chúng tôi tìm hiểu sâu về vấn đề này theo quy định của pháp luật một nước

phát triển. Nhưng tìm hiểu pháp luật nước nào? Là những sinh viên chuyên ngành

Pháp ngữ, chúng tôi quyết định chọn Cộng hòa Pháp là nước để nghiên cứu. Đó là

lý do để vấn đề “Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá

sản theo luật của Pháp và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của

Việt Nam” được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học tham dự Cuộc thi “Sinh

viên nghiên cứu khoa học năm 2009”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Luật phá sản của Việt Nam đã được khá nhiều tác giả phân tích từ nhiều

 Cuốn sách “Những nội dung cơ bản của Luật Phá sản” do Vụ Công tác lập

góc độ khác nhau. Trong số đó có các công trình tiêu biểu như:

pháp của Bộ Tư pháp biên soạn (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2005). Cuốn

3 Bộ Tư Pháp, Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004, ngày 29/12/2008.

sách này tổng hợp những nội dung cơ bản của Luật Phá sản năm 2004 trên cơ sở

4

so sánh với Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993. Tuy nhiên, tài liệu này không

phân tích cụ thể những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào

 Bài viết của tác giả Trần Minh Sơn đăng trên tạp chí Nghề Luật (số 4/2007)

tình trạng phá sản và cũng không so sánh với luật của Pháp.

có tựa đề “Luật Phá sản có nguy cơ tiếp tục phá sản”. Bài viết này chỉ nêu lên

những bất cập cơ bản nhất của Luật Phá sản năm 2004 nhưng cũng chưa phân tích

 Bài viết của PGS.TS.Dương Đăng Huệ: “Luật Phá sản Việt Nam năm 2004

những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.

với việc cải thiện môi trường kinh doanh”, đăng trong Tạp chí Dân chủ và Pháp

luật, số 3 năm 2005. Bài viết này phân tích Luật Phá sản năm 2004 từ góc độ môi

trường kinh doanh của doanh nghiệp, không phân tích vấn đề phục hồi hoạt động

của doanh nghiệp.

Có thể khẳng định đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu vấn đề phục hồi hoạt

động của doanh nghiệp bị phá sản nói chung và những quy định của pháp luật Việt

Nam, pháp luật Cộng hoà Pháp về vấn đề này nói riêng.

3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về phục hồi hoạt động của

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật về phá sản và những quy định

về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành của Việt nam và

của Cộng hoà Pháp.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm cả những vấn đề khó khăn

phát sinh khi thực thi pháp luật phá sản của Việt Nam nói chung và thực thi các

quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 nói

riêng.

 Làm rõ sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

 Phân tích những quy định của luật phá sản Pháp về phục hồi hoạt động của

trạng phá sản trong nền kinh tế thị trường hiện nay;

5

doanh nghiệp để thấy rõ những ưu điểm trong luật phá sản của Pháp về vấn đề

 Nêu bật những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam và đề

này;

xuất giải pháp loại bỏ những bất cập của Luật phá sản năm 2004 trên cơ sở vận

dụng kinh nghiệm của Pháp về quy định và thi hành các quy định về phục hồi

hoạt động của doanh nghiệp.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, các phương pháp nghiên cứu tổng hợp dưới đây đã

 Phương pháp đọc, dịch tài liệu để hệ thống hoá, tổng hợp và phân tích

được áp dụng:

 Phương pháp thống kê, luận giải và đưa ra những nhận xét, những bình

những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu;

 Phương pháp dẫn chiếu luật để phân tích, đối chiếu và so sánh;

 Phương pháp so sánh luật học để làm rõ những điểm khác biệt, những

luận;

điểm khuyết và bất cập trong luật phá sản hiện hành của Việt Nam.

5. Phạm vi nghiên cứu

 Về mặt không gian: phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong khoảng

thời gian từ khi pháp luật phá sản đầu tiên của Việt Nam được ban hành (Luật phá

 Về mặt nội dung: khi nghiên cứu những quy định của pháp luật phá sản, đề

sản Doanh nghiệp), tức là từ năm 1993 cho đến nay và tầm nhìn xa hơn.

tài không phân tích mọi nội dung của luật phá sản mà đặt trong tâm phân tích

những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá

sản theo Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 và những

quy định hiện hành trong luật phá sản của Pháp năm 2009. Việc phân tích tình

hình thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo Luật phá sản năm 2004

cũng là nội dung nghiên cứu của đề tài.

6

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội

dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương:

Chƣơng I: Phá sản, pháp luật về phá sản và sự cần thiết phải phục hồi hoạt động

của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Chƣơng II: Những quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động

của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Chƣơng III: Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam và đề

xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp

7

Chƣơng I

PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI

PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO

TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN

1. Phá sản và tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp

1.1. Khái niệm và đặc điểm của phá sản

1.1.1. Khái niệm về phá sản

Phá sản là một khái niệm được sử dụng để chỉ tình trạng làm ăn thua lỗ,

kém hiệu quả của một thương gia, một nhà buôn (theo cách quan niệm truyền

thống) và của công ty, của doanh nghiệp (theo quan niệm hiện nay).

Về mặt ngôn ngữ, phá sản hay bị phá sản là thuật ngữ được dùng để chỉ sự

chấm dứt hoạt động kinh doanh do làm ăn thua lỗ đi kèm với thanh lý tài sản và

nghĩa vụ trả nợ của một chủ thể cụ thể trong nền kinh tế. Nó được đánh dấu bởi

việc chủ thể đó không có khả năng thanh toán cho các chủ nợ những khoản nợ mà

người này đã và đang vay.

Về mặt kinh tế, phá sản là khái niệm được dùng để chỉ tình trạng mất cân

đối giữa thu và chi (giữa tài sản có và tài sản nợ) của một doanh nghiệp mà điều

nhận thấy rõ nhất là doanh nghiệp này lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán

những khoản nợ đến hạn. Tình trạng mất khả năng thanh toán này không phải là

tình trạng nhất thời, không phải chỉ mất khả năng thanh toán đối với một chủ nợ

mà ngược lại, mất khả năng thanh toán đồng loạt đối với tất cả các chủ nợ.

Về mặt pháp luật, phá sản là một chế định vừa liên quan đến nghĩa vụ, vừa

liên quan đến quyền của doanh nghiệp, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh của

doanh nghiệp và được luật pháp bảo vệ. Nghĩa là doanh nghiệp có quyền tự do

kinh doanh thì cũng có nghĩa vụ thực hiện các quy định liên quan đến mở thủ tục

phá sản. Không chỉ có nghĩa vụ, doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng

thanh toán có quyền được pháp luật bảo vệ bằng cách đưa ra các biện pháp để

phục hồi hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, muốn được pháp luật bảo vệ

thì doanh nghiệp gặp thua lỗ trong kinh doanh, phải tuân theo những quy định liên

8

quan đến phá sản. Vì vậy, dưới góc độ pháp luật, phá sản không chỉ là một khái

niệm, một thuật ngữ mà là một thủ tục pháp lý gồm nhiều bước, nhiều quy trình,

liên quan đến chủ nợ, con nợ, đến Tòa án, đến tổ quản lý, thanh lý tài sản…và

trong nhiều trường hợp, liên quan đến cả chính sách của Nhà nước với hàng hoạt

quy định, quy tắc hết sức phức tạp.

Về mặt xã hội, phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội có nhiều đặc

điểm, chi phối nhiều mối quan hệ xã hội, liên quan đến lợi ích của nhiều người. Vì

vậy, cần phải tìm hiểu đặc điểm của phá sản để xem xét mọi góc độ của nó.

1.1.2. Đặc điểm của phá sản

Phá sản có ba đặc điểm cơ bản: Phá sản mang tính lịch sử, phá sản mang

tính khách quan và phá sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật.

 Tính chất lịch sử của phá sản

Phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với nền kinh tế thị

trường, bởi vậy nó mang tính chất lịch sử rất rõ rệt. Trong những giai đoạn phát

triển của lịch sử xã hội loài người, khi xã hội không tồn tại nền kinh tế thị trường

thì phá sản cũng không có cơ sở để tồn tại. Ngay cả khi có nền kinh tế hàng hóa là

mức độ thấp của kinh tế thị trường thì phá sản cũng không tồn tại. Chẳng hạn phá

sản không phát sinh ở nền kinh tế tiểu thủ công nghiệp của các nước phương Tây

thời kỳ tiền Tư bản. Với nền sản xuất thấp kém, năng suất lao động thấp dẫn tới

cầu luôn cao hơn cung, các nhà sản xuất hầu như không gặp bất cứ khó khăn nào

trong quá trình tiêu thụ hàng hóa và vì vậy, việc họ bị phá sản là không thể xảy ra.

Hoặc như trong thời kỳ đầu sau giải phóng, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế kế

hoạch hóa tập trung, bao cấp. Về bản chất, đây vẫn là nền kinh tế hàng hóa tuy

nhiên do sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quá trình sản xuất cũng như phân

phối dẫn đến tình trạng các khoản nợ đối với doanh nghiệp gần như “biến mất”. Lỗ

đâu nhà nước bù đó, doanh nghiệp tồn tại dựa vào ý muốn và sự chỉ đạo từ phía

nhà nước. Không có thị trường với đúng nghĩa của nó và không có cạnh tranh. Phá

sản cũng không tồn tại trong nền kinh tế như vậy.

 Tính chất khách quan của phá sản

Đặc điểm này muốn nói rằng phá sản không phụ thuộc vào ý chí chủ quan

9

của bất cứ ai trong xã hội. Ngược lại, nó là kết quả của quá trình kinh doanh không

hiệu quả kéo dài của doanh nghiệp. Quá trình kinh doanh không hiệu quả đó lại

được lý giải bởi hai nguyên nhân cũng mang tính khách quan sau đây:

Nguyên nhân đầu tiên dựa trên cơ sở lý thuyết về vòng đời của doanh

nghiệp. Doanh nghiệp nào cũng có một vòng đời trải qua 3 giai đoạn: khởi nghiệp

(lancement), chín muồi (maturité) và khủng hoảng (crise). Ba giai đoạn này được

hình tượng hóa trong sơ đồ 1 (xem thêm sơ đồ 1).

Sơ đồ 1: Sơ đồ vòng đời của doanh nghiệp

Phục hồi hoạt động

Tốc độ phát triển

Thanh lý tài sản

Giai đoạn 3: Khủng hoảng

Giai đoạn 1: Khởi nghiệp

Giai đoạn 2: Chín muồi

Nguồn: http://www.pax.fr/fr_cycle_vie.php

Thời gian

Nhìn từ sơ đồ 1 ta có thể thấy rõ vòng đời của doanh nghiệp. Trong nền

kinh tế, doanh nghiệp cũng như một thực thể sống, sinh ra, phát triển rồi chết đi.

Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn cũng như quy luật biến đổi và

tồn tại của sự vật, hiện tượng. Là một phần của giai đoạn khủng hoảng, phá sản vì

thế, mang tính khách quan, độc lập với ý chí của con người.

Trong thực tế, nguyên nhân dẫn đến phá sản, tức là nguyên nhân khiến một

thương gia, một doanh nghiệp lâm vào tình trạng không đủ khả năng thanh toán

các khoản nợ thường rất khác nhau. Có trường hợp là do chính sách của Nhà nước

thay đổi khiến doanh nghiệp trở tay không kịp: giới ngân hàng thương mại thế giới

đã từng chứng kiến hệ thống ngân hàng của Argentina bị phá sản hàng loạt vào

năm 2001 mà nguyên nhân là do Chính phủ Argentina đã ban hành Luật Corralito,

10

theo đó mọi tài khoản ngân hàng trên toàn quốc bị đóng băng trong 12 tháng nhằm giải quyết tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài muốn tháo chạy khỏi Argentina 4.

Cũng có khi do sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế ở trong nước hoặc ở

phạm vi quốc tế; và cũng không loại trừ do doanh nghiệp quản lý kém hiệu quả

hoặc xây dựng chiến lược kinh doanh không phù hợp mà điển hình nhất là trường

hợp của hãng sản xuất xe hơi General Motor. Các nhà phân tích kinh tế cho rằng

một trong những nguyên nhân làm cho General Motor phá sản là do sự chậm chạp,

kém năng động và sự rối rắm về quản trị với những thủ tục phức tạp trong phong cách lãnh đạo của giới lãnh đạo Hãng này 5.

Nguyên nhân thứ hai dựa trên đặc điểm của nền kinh tế thị trường. Kinh tế

thị trường là mức phát triển cao của kinh tế hàng hóa, nơi mà sự phân công lao

động, chuyên môn hóa trong sản xuất đã đạt trình độ cao. Cùng với sự tiến bộ của

khoa học kỹ thuật, năng suất lao động tăng lên làm cho của cải sản xuất ra ngày

một nhiều hơn và vì thế cạnh tranh giữa các nhà cung ứng sản phẩm và dịch vụ

cũng ngày càng trở nên khốc liệt. Đã có thời gian “thương trường là chiến trường”

trở thành câu nói cửa miệng, bài học nhắc nhở cho mọi nhà quản lý doanh nghiệp.

Trong cuộc chiến sống còn như vậy, việc có những doanh nghiệp yếu thế hơn, làm

ăn kém hiệu quả hơn dẫn tới thua lỗ và phá sản là điều tất yếu. Ngoài ra, ngày nay,

chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy một thực tế là chính nền kinh tế thị trường với

mục tiêu hướng mạnh về lợi nhuận đã làm cho nhiều doanh nghiệp chỉ chạy theo

lợi ích trước mắt mà đem vốn đầu tư vào các hoạt động thương mại ẩn chứa nhiều

rủi ro nhưng lại không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Khi thị trường đổ vỡ,

những khoản vốn đầu tư ồ ạt đã không thể thu về được, đẩy doanh nghiệp đến tình

trạng mất khả năng chi trả và lâm vào tình trạng phá sản. Điều này cũng có nghĩa

là kinh tế thị trường khuyến khích doanh nghiệp làm giàu nhưng cũng chính kinh

tế thị trường đẩy doanh nghiệp vào tình trạng phá sản.

Không phải ngẫu nhiên mà các nhà kinh tế ở các nước phương Tây cho

4 Website: http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Kinh-nghiem/2008/10/3BA0692A/ 5 Website: http://www.vnexpress.net/GL/Oto-Xe-may/2009/06/3BA10102/

rằng trong nền kinh tế thị trường, phá sản cũng cũng gắn liền với hoạt động kinh

11

doanh như lợi nhuận. Phá sản cùng với lợi nhuận tạo thành “cái gậy” và “củ cà rốt”

theo đuổi các thương gia, các doanh nghiệp trong suốt cuộc đời kinh doanh của họ.

Điều này cho thấy tính chất khách quan của phá sản.

 Phá sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật

Là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với nền kinh tế thị trường, phá sản

chịu sự điều chỉnh của pháp luật - pháp luật về phá sản. Lúc đầu những quy định

về phá sản chỉ là những nguyên tắc pháp lý, những chế định được quy định trong

các văn bản pháp luật về thương mại, trong các quy định điều chỉnh hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp. Sau này, do những tác động và ảnh hưởng mang

tính xã hội của phá sản, nhiều nước đã ban hành đạo luật riêng về phá sản. Tuy

nhiên, có một thực tế là những nước Xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, do pháp luật

phá sản ra đời muộn nên thường gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng và thi

hành luật phá sản. Trong khi đó, các nước có nền kinh tế thị trường sớm phát triển

như Hoa Kỳ, Úc, Pháp … là những nước có nhiều kinh nghiệm trong việc xây

dựng và thực thi luật phá sản, đặc biệt là trong việc phục hồi hoạt động của doanh

nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ

đang diễn ra hiện nay, nhiều doanh nghiệp, ngân hàng của Hoa Kỳ đã và đang bị

phá sản và việc xử lý doanh nghiệp bị phá sản theo chương 7 và chương 11 của

Luật Phá sản Hoa Kỳ năm 2005 đang thu hút sự chú ý của giới doanh nghiệp trên thế giới 6. Điều này có nghĩa là, từ thời cổ đại cho đến nay, phá sản luôn luôn chịu

sự điều chỉnh của pháp luật. Điều này cũng đòi hỏi mọi doanh nghiệp, ngay khi có

ý tưởng thành lập, đã phải tìm hiểu những quy định của pháp luật về phá sản song

song với việc tìm hiểu những quy định của pháp luật về tự do kinh doanh, tự do

thương mại trong cả quá trình tồn tại, phát triển, hưng thịnh và tiêu vong của mình.

1.2. Những tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp

Phá sản, như đã phân tích, là hiện tượng gắn liền với sự làm ăn kém hiệu

quả của doanh nghiệp.Vì vậy, phá sản có những tác động nhất định đến hoạt động

6 Chương 7 là chương quy định về đóng cửa doanh nghiệp và chương 11 điều chỉnh việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp

của doanh nghiệp. Những tác động này vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu

12

cực. Những tác động đó là:

1.2.1. Tác động tích cực

Trên khía cạnh kinh tế - xã hội, phá sản là quá trình thanh lọc các công ty

làm ăn thua lỗ. Bởi vậy nó cho phép xã hội tổ chức lại nguồn lực kinh tế theo

hướng ngày càng hiệu quả hơn. Có thể nói các doanh nghiệp bị phá sản là những

doanh nghiệp yếu kém không đủ sức đứng vững trên thị trường. Nếu các doanh

nghiệp này tiếp tục lay lắt tồn tại, một mặt sẽ chiếm dụng một phần thị trường của

các doanh nghiệp khác, mặt khác, người lao động mà đáng ra phải được đào tạo và

sử dụng đúng cách thì lại không được giải phóng dẫn tới nghèo đói, thất nghiệp,

tay nghề giảm. Cơ hội về mặt bằng, máy móc, các phương tiện sản xuất và cung

ứng dịch vụ cũng như cơ hội về các yếu tố đầu vào khác không được các công ty

làm ăn tốt tận dụng. Nếu cứ để tình trạng trì trệ như vậy tiếp tục diễn ra thì nền

kinh tế sẽ như một cơ thể đau ốm; các nguồn lực không được phát huy tối đa và

dần trở nên tụt hậu. Điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội mà ảnh

hưởng tiêu cực đến ngay cả doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp chủ nợ hay bản thân

doanh nghiệp bị phá sản. Có thể lấy ví dụ như một số doanh nghiệp nhà nước của

Việt Nam ở thời kỳ bao cấp. Nền kinh tế chỉ đạo tập trung, bao cấp là một nền

kinh tế mà ở đó, các doanh nghiệp tồn tại dựa vào ý muốn chủ quan của nhà nước.

Phá sản và các quy định của pháp luật về phá sản không có ý nghĩa gì trong một

nền kinh tế như vậy bởi nếu các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, nhà nước sẽ có các

biện pháp hỗ trợ, bù lỗ. Kết quả là chính sự thiếu vắng những công cụ mạnh tay để

gạt bỏ những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả lại chính là một trong những

nguyên nhân dẫn đến sự ỷ lại, thiếu động cơ sáng tạo để đổi mới và vươn lên của

chính các doanh nghiệp này, từ đó, dẫn đến sự trì trệ và tụt hậu của cả nền kinh tế

trong những năm đầu sau giải phóng. Phá sản và những quy định về phá sản do

vậy, đóng vai trò như phương thuốc giúp cho toàn bộ cơ thể là nền kinh tế khỏe

mạnh và vận hành trơn tru bằng cách loại bỏ tất cả các tế bào đã chết, tức là các

doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, hoặc tìm cách tái tạo chúng.

Nếu đứng từ góc độ của chủ nợ để nhìn nhận về tác động tích cực của phá

sản và pháp luật phá sản thì bên cạnh những yếu tố xã hội như đã đề cập ở phần

13

trên, chúng ta còn thấy nhiều lợi ích thiết thực khác. Phá sản cũng đồng nghĩa với

việc con nợ phải thanh lý tài sản để trả nợ. Vì vậy, đứng ở góc độ của người cho

vay, phá sản giúp họ có thể thu hồi lượng vốn tồn đọng từ quá lâu ở chỗ con nợ.

Qua đó, có thể chọn một khu vực đầu tư được đánh giá là hiệu quả để đầu tư mới.

Như vậy, phá sản không những góp phần đẩy nhanh quá trình lưu chuyển vốn của

các doanh nghiệp có vốn - các doanh nghiệp chủ nợ - đang tồn đọng ở các doanh

nghiệp bị phá sản mà còn giúp cho lượng vốn này có thể được sử dụng hiệu quả

hơn nhờ những kinh nghiệm đánh giá hiệu quả đầu tư cũng như kinh nghiệm dự

báo, dự đoán tích lũy được. Như vậy có thể thấy phá sản và những quy định về phá

sản sẽ trở thành một công cụ hữu ích và hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của các nhà

đầu tư.

Từ góc độ của con nợ để nhìn nhận về tác động tích cực của phá sản, có thể

thấy rằng mặc dù không một doanh nghiệp nào thích phá sản nhưng phá sản thực

sự là một lối thoát cho các doanh nghiệp này. Khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì

việc kéo dài sự tồn tại lay lắt của doanh nghiệp là không hiệu quả bởi vì kết cục

của việc kéo dài là những nguồn chi phí bị đội lên, những khoản nợ không thể

thanh toán, những khoản tiền không thể chi trả, sự quẫn bách không lối thoát và

đặc biệt là lòng tự hào nghề nghiệp có thể đẩy các nhà lãnh đạo của các doanh

nghiệp này tới các hành vi tiêu cực như lừa đảo, gian lận hoặc thậm chí có thể tự

vẫn. Phá sản sẽ là một cánh cửa mở, là cứu cánh cho doanh nghiệp trong tình thế

như vậy. Thông qua việc mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp có thể thoát hoàn toàn

khỏi tình trạng nợ nần chồng chất. Phá sản và các quy định về phá sản trong

trường hợp này đóng vai trò là một công cụ bảo vệ hoàn hảo cho con nợ bởi sau

khi thủ tục thanh lý kết thúc, mọi khoản nợ sẽ biến mất và con nợ thật sự được tự

do. Tất nhiên, đứng ở vị trí của nhà quản lý doanh nghiệp bị phá sản, cái giá phải

trả là bị tước quyền làm giám đốc hoặc quyền quản lý một doanh nghiệp khác

trong một khoảng thời gian nào đó. Nhưng lợi ích đem lại còn lớn hơn nhiều: Bên

cạnh sự giải phóng về tinh thần cho chủ doanh nghiệp, phá sản còn cho các doanh

nghiệp làm ăn thua lỗ cơ hội bắt đầu lại từ đầu thay vì tiếp tục lún sâu vào sai lầm

và nợ nần ngày một tăng thêm.

14

1.2.2. Tác động tiêu cực

Phá sản có thể đem lại nhiều lợi ích cho xã hội cũng như bản thân doanh

nghiệp bị phá sản. Song trên thực tế, các doanh nghiệp vẫn thường trốn tránh mở

thủ tục phá sản. Điều này được giải thích một phần bởi những tác động tiêu cực cả

về kinh tế - xã hội mà phá sản gây ra.

Về mặt xã hội, phá sản một doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc sẽ có

một bộ phận người lao động của doanh nghiệp đó không có việc làm, nghĩa là tỷ lệ

thất nghiệp gia tăng. Mặc dù phá sản không phải là nguyên nhân giải thích toàn bộ

tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế nhưng nó vẫn là một trong những nguyên nhân

trực tiếp và có ảnh hưởng nhanh nhất tới người lao động. Có thể lấy ví dụ về vụ

phá sản trong năm 2008 vừa qua của Ngân hàng Lehman Brothers của Hoa Kỳ

(thành lập năm 1850 bởi ba anh em Henry, Emanuel và Mayer Lehman - người Do

Thái từ Đức di cư sang). Đây là ngân hàng lớn thứ 4 và là ngân hàng tư nhân lâu

đời nhất của Hoa Kỳ với 158 năm tồn tại cho đến khi bị phá sản. Lĩnh vực chính

của Lehman Brothers là tín dụng tư nhân, buôn bán cổ phiếu, trái phiếu, nghiên

cứu thị trường, quản lý đầu tư … Ngày 15 tháng 9 năm 2008, Lehman Brothers bị

tuyên bố phá sản với khoản nợ 613 tỷ USD sau khi không có công ty nào chấp

nhận mua lại. Đây là vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Lehman

Brothers phá sản đã tác động tiêu cực đến xã hội Hoa Kỳ vì có đến 26.200 nhân viên bị mất việc chưa kể hàng loạt chủ nợ và các dự án đầu tư khác cũng bị đổ bể7.

Doanh nghiệp dừng hoạt động thì điều tất yếu là lao động của doanh nghiệp

mất việc làm và nền kinh tế luôn đòi hỏi phải có thời gian mới có thể hấp thụ và

giải quyết được tình trạng này. Nghĩa là tình trạng thất nghiệp nảy sinh và trong

một khoảng thời gian tìm việc nhất định, cuộc sống của người lao động cũng như

gia đình của họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Đối với bất kỳ nền kinh tế nào, thất

nghiệp là một mối lo lắng thường trực không chỉ của các nhà quản trị doanh

nghiệp mà còn của nhà nước, của toàn xã hội. Thất nghiệp là bạn đường của nghèo

đói, của bất bình đẳng và của các tệ nạn xã hội - những vấn đề nóng bỏng của tất

cả các nền kinh tế - dù là nền kinh tế phát triển hay kém phát triển. 7 Website: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.shtml

15

Về mặt kinh tế, phá sản gây ra nhiều tác động xấu đến sự phát triển ổn định

của nền kinh tế. Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì doanh nghiệp khác là bạn

hàng của doanh nghiệp cũng phải chịu ảnh hưởng theo kiểu dây chuyền - không

bán được hàng, không cung cấp được sản phẩm (nếu doanh nghiệp bị phá sản

trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc không có nguyên vật liệu cho sản xuất

(nếu doanh nghiệp bị phá sản là doanh nghiệp bán nguyên vật liệu cho họ) … Một

doanh nghiệp phá sản còn là tác nhân gây ảnh hưởng đến tâm lý của người tiêu

dùng, nhà đầu tư, từ đó làm toàn bộ thị trường trở nên bất ổn. Tác động đó sẽ càng

trầm trọng nếu doanh nghiệp bị phá sản là một doanh nghiệp lớn. Ví dụ, vụ phá

sản của ngân hàng Lehman Brothers không chỉ khiến hàng ngàn người lao động

mất việc mà nghiêm trọng hơn là tác động của nó tới thị trường chứng khoán toàn

cầu. Ngay sau khi có tin Lehman Brothers phá sản, các thị thường chứng khoán

đều đồng loạt giảm giá: chỉ số Down Jones Mỹ sụt giảm 2,6%; chỉ số FTSE tại thị

trường chứng khoán London giảm 3%; các thị trường chứng khoán Pháp và Đức

cũng giảm hơn 3%; chỉ số Nikkei của Nhật đã giảm tới 4,7%; đặc biệt là thị trường Nga đã phải tạm ngừng giao dịch sau khi chỉ số giảm tới 16% 8. Chỉ số chứng

khoán giảm mạnh đe doạ đến sự sụp đổ của hàng loạt các công ty khác và tiếp tục

đẩy hàng nghìn người trên toàn thế giới vào tình trạng thất nghiệp.

Từ góc độ của chủ nợ để quan sát, sự phá sản của con nợ mặc dù đồng

nghĩa với việc chủ nợ có thể thu hồi được khoản nợ đó nhưng lại là một khoản tiền

dưới giá trị. Việc giảm giá trị của khoản nợ bị tồn đọng tại doanh nghiệp bị phá sản

có thể được giải thích bởi hai nguyên nhân sau:

Thứ nhất, con nợ khi phá sản không chỉ mắc nợ với một chủ nợ. Có nghĩa là

khi tình trạng không thể thanh toán nợ xảy ra, con nợ đã mắc nợ với rất nhiều chủ

nợ và buộc lòng phải thanh lý tài sản để trả nợ. Khi đó, giá trị thu được từ tài sản

bị chia cho nhiều chủ nợ dẫn đến một hiện trạng là khoản nợ phải thu lớn hơn các

khoản nợ nhận về của các chủ nợ. Hơn nữa, sau khi phá sản, việc phát mại thanh lý

8 Website: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.shtml

tài sản của doanh nghiệp bị phá sản là không dễ dàng. Thường thì trong các phiên

16

phát mại như vậy, tài sản được định giá rất rẻ so với giá trị thực và làm cho số tiền

thu về dùng để trả nợ là rất thấp. Ví dụ như trường hợp phá sản Công ty thủy sản

khu vực II Đà Nẵng: Số nợ phải thu là 10.479.775.313 VNĐ; số nợ phải trả 50.498.514.864 VNĐ; số nợ đã thu là 100.000.000đ đạt tỉ lệ 0,95% 9. Nếu số nợ

thu về chỉ đạt tỉ lệ chưa đầy 1% so với số phải thu thì khoản tiền mà các doanh

nghiệp chủ nợ phải chia nhau sẽ ít ỏi đến thế nào.

Thứ hai, nguồn vốn đọng tại doanh nghiệp của con nợ không những không

sinh lời mà còn bị trượt giá. Với tình hình biến đổi giá tiêu dùng như hiện nay, mặc

dù chính phủ đã có những biện pháp để kiềm chế lạm phát và ổn định môi trường

đầu tư nhưng độ trượt giá qua thời gian làm cho đồng tiền mất giá là điều không

thể tránh khỏi. Hơn nữa, vốn cho vay còn tồn đọng tại doanh nghiệp phá sản không

phải chỉ trong một khoảng thời gian ngắn là có thể lấy lại được. Bao giờ cũng vậy,

khi mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, điều đầu tiên mà con nợ nghĩ tới không

phải là tuyên bố phá sản mà là làm sao đó để kéo dài “sự sống” cho mình. Có

nghĩa là dù có trả được nợ hay không, con nợ vẫn sẽ bằng mọi giá trì hoãn thời

gian, khất lần để tìm phương án trả hoặc trốn nợ. Chưa kể, quá trình phá sản kéo

dài cũng khiến cho chủ nợ càng bị thiệt hại về kinh tế nhiều hơn. Theo kết quả

công bố trong Doing Business Ranking 2008, Việt Nam xếp thứ 124 trên tổng số

178 nước trên thế giới do có thời gian giải quyết phá sản rất dài với mức trung bình là 5 năm 10. Thời gian giải quyết một vụ phá sản lâu như vậy, chưa kể khoảng

thời gian trước khi mở thủ tục phá sản, thực sự là một khoản “thất thu” rất lớn đối

với bất cứ một doanh nghiệp chủ nợ nào.

2. Sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình

trạng phá sản

Những tác động tích cực và tiêu cực của phá sản đối với doanh nghiệp cũng

như đối với nền kinh tế cho thấy sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của các

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Sự cần thiết này được giải thích bởi các

9 Bộ Tư Pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004”, ngày 29/12/2008 10 Website: http://www.doingbusiness.org/EconomyRankings/

lý do dưới đây:

17

2.1. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích tái tạo lại doanh

nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp bị phá sản nghĩa là trợ giúp doanh

nghiệp đó, có thể bằng tài chính hoặc cố vấn về phương án hoạt động kinh doanh,

để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể tự mình đứng dậy. Một cách so

sánh hình tượng, phục hồi doanh nghiệp giống như một trong những phương thuốc

của phá sản nhưng không nhằm loại bỏ tế bào chết mà nhằm giúp cho các tế bào

ốm yếu khỏe lại và phục hồi được chức năng vốn có. Bằng cách đó nó giúp cho

“cơ thể” là nền kinh tế mạnh khỏe trở lại.

Thông thường, khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng

thanh toán, để không bị tuyên bố phá sản mà thay vào đó, để được phục hồi, doanh

nghiệp này phải thực hiện nhiều thủ tục. Thủ tục phục hồi doanh nghiệp là một

bước trước khi tiến hành thủ tục thanh lý. Có nghĩa là sau khi quá trình phục hồi

doanh nghiệp thành công, doanh nghiệp sẽ trả được nợ cho chủ nợ. Điều khác biệt

là doanh nghiệp khi đó sẽ có đủ tiền trả nợ và việc trả nợ không còn khó khăn đến

mức không thể như trước khi phục hồi. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

sẽ không cần phải thanh lý tất cả tài sản để trả nợ nữa. Đồng thời, sau khi trả xong

nợ, doanh nghiệp này có thể sẽ hồi sinh, sẽ được tái tạo và do đó sẽ tiếp tục phát

triển mạnh lên với những phương án hoạt động hiệu quả hơn.

Đứng từ góc độ của chủ nợ, sau khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản được

phục hồi, chủ nợ có cơ hội thu hồi lại được 100% khoản nợ còn tồn đọng. Trong

các tác động tiêu cực của phá sản có tác động về giảm giá trị của các khoản mà chủ

nợ cho doanh nghiệp vay. Phục hồi doanh nghiệp bị phá sản cho phép “chữa lành”

một trong hai nguyên nhân gây ra sự thiệt hại về kinh tế đó cho chủ nợ. Mặc dù

không thể ngăn chặn một cách tuyệt đối quá trình suy giảm giá trị của số vốn qua

thời gian nhưng ít nhất, số tiền mà chủ nợ thu được cũng tương ứng với số tiền mà

họ phải thu. Điều này chỉ có thể đạt được khi doanh nghiệp được tái tạo, được

phục hồi, được sống lại nhờ những biện pháp hỗ trợ tích cực của pháp luật, của

Nhà nước, của các doanh nghiệp chủ nợ và của cả Tòa án.

18

2.2. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm giảm thiểu tác động tiêu

cực của phá sản đối với xã hội

Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp tiếp tục kinh

doanh một cách bình thường nhưng với phương án hoạt động mới, được nghiên

cứu và tính toán một cách tỉ mỉ dựa trên tình hình và thực trạng kinh doanh hiện tại

của doanh nghiệp nhằm tìm kiếm giải pháp tối ưu (như cắt giảm các bộ phận dôi

dư, đổi mới công nghệ, cải cách bộ máy quản lý, phát động tinh thần thi đua…) để

nhanh chóng phục hồi thành công và đưa doanh nghiệp trở lại hoạt động. Điều này

cho phép giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực của phá sản. Thay vì dừng hoạt

động và sa thải hàng loạt người lao động, quá trình phục hồi doanh nghiệp chỉ phải

cân nhắc tính toán chi phí dành cho người lao động sao cho phù hợp với tình hình

của doanh nghiệp. Nói vậy có nghĩa là vẫn có thể xảy ra việc cắt giảm biên chế, sa

thải lao động nhưng không phải là sa thải 100% lao động mà chỉ loại bỏ những bộ

phận thừa hoặc những bộ phận làm việc không hiệu quả. Số lao động được giữ lại

sẽ là số lao động tối ưu đối với doanh nghiệp. Dựa vào số lao động này, doanh

nghiệp sẽ tiếp tục vòng đời của mình. Số người lao động được giữ lại đương nhiên

sẽ tiếp tục cuộc sống bình thường của họ và của gia đình họ. Bên cạnh đó, số

người lao động bị sa thải lại được thủ tục phục hồi hỗ trợ một phần, gián tiếp qua

doanh nghiệp. Doanh nghiệp được phục hồi sẽ có chính sách đảm bảo cho người

lao động hưởng lương cần thiết trong giai đoạn chưa có việc cũng như hỗ trợ tìm

việc làm mới cho họ.

Có thể nói, mặc dù phục hồi doanh nghiệp không triệt tiêu hoàn toàn nguy

cơ tỷ lệ thất nghiệp đột ngột tăng lên do phá sản nhưng nó lại giải quyết được bài

toán kinh tế cho người lao động. Qua đó nó hạn chế gia tăng tỉ lệ đói nghèo, bất

bình đẳng cũng như tệ nạn xã hội.

2.3. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp góp phần làm thay đổi nhận

thức về phá sản

Trước đây, khi chưa có thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, phá

sản chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ chính của nó: Loại bỏ các doanh nghiệp làm ăn

19

thua lỗ. Bởi vậy, nhắc đến hai chữ phá sản là nhắc đến sự kết thúc vòng đời của

một doanh nghiệp. Điều này làm cho các thương nhân cũng như các doanh nghiệp,

các nhà sản xuất cũng như các nhà cung ứng dịch vụ đều rất sợ hai chữ này. Phá

sản trở thành một hình phạt quá nặng đối với mọi chủ thể của nền kinh tế. Đã có

những giai đoạn trong lịch sử, việc gây ra phá sản cấu thành tội phạm trong pháp luật hình sự của các nước 11. Có nghĩa là không những phá sản làm cho người chủ

doanh nghiệp phải xấu hổ, không thể tiếp tục kinh doanh mà còn làm cho họ bị kết

tội. Trong những giai đoạn ít căng thẳng hơn thì người gây ra phá sản không bị coi

là tội phạm nữa, nhưng người ta vẫn thường thấy chủ doanh nghiệp nhảy lầu tự

vẫn hoặc bằng cách nào đó khác, kết thúc cuộc đời mình vì phá sản. Phá sản đồng

nghĩa với biến mất, chết chóc hay hủy diệt. Ở Liên bang Đức, phá sản bị coi còn tệ

hơn một sự sỉ nhục, vì vậy các doanh nghiệp Đức thường ghép mình bên trong các

công ty lớn như Siemens, hơn là rời bỏ để thiết lập các doanh nghiệp thuộc sở hữu

riêng của mình.

Từ khi thủ tục phục hồi doanh nghiệp ra đời, nó đã làm thay đổi hoàn toàn

quan niệm về phá sản. Phá sản đúng là nơi kết thúc, là nơi biến mất nhưng đó là

đối với sự phi hiệu quả hoặc phi kinh tế. Một mặt khác, nó trở thành nơi bắt đầu

của một doanh nghiệp khỏe mạnh trên nền tảng doanh nghiệp lâm vào tình trạng

phá sản đã được phục hồi. Ngày nay, chúng ta chứng kiến rất nhiều vụ phá sản mà

sự chủ động hoàn toàn thuộc về doanh nghiệp. Doanh nghiệp nộp đơn xin mở thủ

tục phá sản, nộp bản phương án phục hồi kinh doanh, nhận sự trợ giúp hoặc những

chính sách ưu đãi của Nhà nước và sau đó “sống dậy”. Có thể kể đến vụ phá sản

của Kmart năm 2002 hay hai lần phá sản của hãng hàng không Continental

Airlines (Hoa Kỳ) năm 1983 và năm 1990 như những ví dụ điển hình. Kể từ ngày

Kmart tự đứng dậy, sau khi lâm vào tình trạng phá sản năm 2002, từ tháng 5/2003, giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến 700% tính đến mùa xuân năm 2005 12 còn với

11 Luật Phá sản đầu tiên của Anh (do Vua Henry VIII phê chuẩn năm 1542) là đạo luật có mục tiêu chống lại các cá nhân gây ra phá sản, theo đó, nước Anh đã bỏ tù các con nợ. (Nguồn: Viên Nghiên cứu Khoa học thị trường và giá cả. Luật Phá sản của Trung Quốc và một số nước Tây Âu, Hà Nội năm 1990, tr. 97) 12 Website: http://money.cnn.com/2002/01/22/companies/kmart/

Continental Airlines, hai năm rưỡi sau khi phá sản, công ty này trở thành một hãng

20

hàng không độc lập và hiện là hãng hàng không lớn thứ 9 trên thế giới 13. Phá sản

không còn là tội ác hay hình phạt nữa, trái lại, phá sản đang dần trở thành một

phương án chiến lược của những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ muốn tìm đường

quay lại để hoạt động một cách hiệu quả và thành công hơn.

3. Pháp luật về phá sản và những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp

3.1. Pháp luật về phá sản

3.1.1. Khái niệm về pháp luật phá sản

Pháp luật về phá sản là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những

mối quan hệ xã hội phát sinh từ hoặc liên quan đến tình trạng phá sản của doanh

nghiệp.

Một doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, như đã phân

tích ở trên, thường trải qua nhiều giai đoạn từ hình thành, phát triển, hưng thịnh và

tiêu vong. Khi gặp khó khăn, doanh nghiệp nào cũng phải tìm kiếm giải pháp tháo

gỡ để vượt qua. Để hạn chế những tác động tiêu cực cho xã hội, cho chủ nợ, cho

người lao động …, pháp luật phải đưa ra những quy định, những nguyên tắc hướng

dẫn doanh nghiệp sao cho tình trạng phá sản được giải quyết theo một trật tự đã

được luật hóa. Như vậy, pháp luật về phá sản là hệ thống các quy định, các nguyên

tắc, các thủ tục pháp lý đã được luật hóa nhằm điều chỉnh những mối quan hệ xã

hội phát sinh liên quan đến toàn bộ quy trình phá sản của một doanh nghiệp.

Với cách hiểu này, pháp luật về phá sản thường có nội dung là đưa ra những

quy định xác định rõ khái niệm về phá sản, về đối tượng áp dụng luật phá sản, về

điều kiện để bị tuyên bố phá sản, về mở thủ tục phá sản, về giải quyết hậu quả

pháp lý liên quan đến phá sản, về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chủ nợ, của Tòa

án, của tổ quản lý, thanh lý tài sản và về thủ tục, điều kiện phục hồi doanh nghiệp

lâm vào tình trạng phá sản …

Từ cách tiếp cận đó, giờ đây khái niệm về phá sản được xác định rõ trong

luật phá sản với nội dung đầy đủ hơn. Tuy nhiên, cũng như pháp luật nói chung,

13 Website: http://www.continental.com/web/en-US/content/company/history/1978-1990.aspx

pháp luật phá sản các nước thường có nội dung không hoàn toàn giống nhau. Do

21

đó, cách hiểu về phá sản theo luật các nước cũng khác nhau. Một cách bao quát

nhất, phá sản được hiểu là một quy trình, một thủ tục pháp lý, một trường hợp mà,

khi có một doanh nghiệp lâm vào tình trạng quẫn bách về mặt kinh doanh, theo

yêu cầu của chủ nợ (hoặc có khi là theo yêu cầu của bản thân con nợ hoặc của các

chủ thể khác), Tòa án tuyên bố doanh nghiệp đó bị phá sản. Sau khi tuyên bố như

vậy, Tòa án sẽ cử ra một Thẩm phán hoặc một số cán bộ chuyên trách thay mặt

cho Tòa án quản lý toàn bộ tài sản của doanh nghiệp này và tập hợp các chủ nợ để

yêu cầu họ xem xét và có biện pháp, có phương án để “xử lý” doanh nghiệp và tài

sản của doanh nghiệp đó để đem chia cho các chủ nợ.

Với cách hiểu như trên về phá sản, rõ ràng pháp luật về phá sản sẽ phải giải

quyết hàng loạt vấn đề, từ khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, nộp đơn

đề nghị Tòa án mở thủ tục phá sản … cho đến khi thanh lý xong tài sản của doanh

nghiệp đó. Nói cách khác, một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nếu chưa được Tòa án

mở thủ tục phá sản thì những quy định của pháp luật phá sản chưa ảnh hưởng đến

doanh nghiệp này. Điều này có nghĩa là khi chưa mở thủ tục phá sản thì doanh

nghiệp này vẫn có thể bị chủ nợ bắt giữ, truy đòi tài sản và thậm chí có thể bị chủ

nợ áp dụng cả “luật rừng” để trừng trị. Chỉ khi được Tòa án mở thủ tục phá sản,

doanh nghiệp con nợ mới chính thức được pháp luật bảo vệ.

3.1.2. Vai trò của pháp luật phá sản

Như vậy, pháp luật phá sản ra đời là một tất yếu khách quan. Bằng việc ban

hành pháp luật về phá sản, tất cả những vấn đề liên quan đến tình trạng phá sản của

doanh nghiệp sẽ được pháp luật điều chỉnh. Pháp luật phá sản là công cụ, là vũ khí

sắc bén của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế thị trường nói chung và quản

lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng.

Cùng với sự phát triển của pháp luật nói chung, pháp luật về phá sản qua

các giai đoạn phát triển của nền kinh tế - xã hội cũng có sự thay đổi, hoàn thiện về

mặt nội dung. Do đó, pháp luật về phá sản của một nước cũng có những thay đổi

về nội dung qua năm tháng. Pháp luật về phá sản của các nước khác nhau cũng có

sự khác nhau về mục tiêu, về nội dung cũng như về thủ tục. Ví dụ, Luật phá sản

đầu tiên của Anh năm 1542 có mục tiêu là trừng phạt con nợ và vào thời kỳ này,

22

Tòa án Anh đã từng bỏ tù những thương gia bị phá sản. Trong khi đó, Luật Phá sản

năm 1898 của Mỹ lại có mục tiêu là tìm cách để doanh nghiệp có thể tái tạo lại khả

năng kinh doanh của họ. Đến năm 1966, nước Anh đã ban hành luật phá sản mới,

theo đó, các công ty của Anh có thể yêu cầu Tòa án phá sản của Anh đặt họ vào “sự quản lý của Tòa án” thay vì bị bỏ tù 14.

3.2. Những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật

phá sản

Như đã trình bày ở trên, không phải luật phá sản nào cũng có mục tiêu là

phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong luật phá

sản cổ đại, chỉ có Luật phá sản của Hoa Kỳ là có mục tiêu này. Ngày nay, pháp

Luật phá sản hiện hành của Hoa Kỳ rất nổi tiếng với chương 7 và chương 11.

Chương 7 đưa ra những quy định, theo đó, nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ tới

mức không thể cứu vãn được thì Tòa án sẽ tuyên bố doanh nghiệp đó bị phá sản và

xóa tên nó khỏi danh sách cộng đồng doanh nghiệp. Trong khi đó, chương 11 sẽ

cho phép doanh nghiệp tái tạo bằng các thủ tục pháp lý mà chỉ những doanh

nghiệp thỏa mãn những điều kiện nhất định do chương 11 này quy định thì mới

được phục hồi hoạt động. Những doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của chương 11

là những doanh nghiệp có những điều kiện, biện pháp để tái tạo và hồi sinh thành

công.

Khi mới ra đời, hầu hết pháp luật về phá sản của các nước trên thế giới

không đưa ra những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Nguyên

nhân là bởi vì pháp luật phá sản, đặc biệt pháp luật phá sản cổ đại, đặt mục tiêu là

răn đe và trừng phạt con nợ. Vì vậy, nội dung của pháp luật phá sản thời kỳ này

chủ yếu là cố gắng đưa ra những quy định, nguyên tắc, chế định pháp lý cứng rắn

nhất để tước quyền sở hữu của con nợ đối với tài sản và tăng cường khả năng chi

trả cho các chủ nợ. Ngoài ra, pháp luật về phá sản ở thời kỳ này cũng không quan

tâm đến số phận của con nợ, của người lao động. Vì vậy, tác động tiêu cực của một

doanh nghiệp bị phá sản thường rất lớn với hiệu ứng lan tỏa khó lường.

14 Viện Nghiên cứu Khoa học thị trường và giá cả, Sách đã dẫn, tr. 101

Pháp luật về phá sản hiện đại ngày nay, mặc dù có những quy định rất khác

23

nhau trong luật mỗi nước, đã cố gắng đặt ra mục tiêu ưu tiên phục hồi hoạt động

của doanh nghiệp thay vì trừng phạt doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu này,

phục hồi hoạt động của doanh nghiệp được coi là một thủ tục trong thủ tục phá

sản. Đây là một trong những điểm mới của pháp luật phá sản của hầu hết các nước

hiện nay, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật của các nước khác nhau quy

định về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

không hoàn toàn giống nhau.

Cộng hòa Pháp là một nước theo hệ thống Civil Law, vì vậy, các quy định

về phá sản được ban hành tương đối sớm và được hệ thống hóa trong các văn bản

luật và dưới luật. Các quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp chiếm vị

trí quan trọng trong luật phá sản Pháp. Những quy định này cũng thường xuyên

được sửa đổi, bổ sung để làm cho chúng phù hợp với thực tiễn kinh doanh của

doanh nghiệp Pháp. Chương II sẽ phân tích cụ thể về những quy định trong Luật

phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.

24

Chƣơng II

NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT CỦA PHÁP VỀ

PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO

TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN

1. Giới thiệu tổng quan về pháp luật phá sản của Pháp

1.1. Sự hình thành và phát triển

Nghiên cứu tiến trình phát triển của vấn đề phá sản, người ta nhận thấy rằng

ở Pháp cũng có 3 xu hướng đã lần lượt xảy ra trong lịch sử. Thời kỳ đầu, các nhà

lập pháp thường có xu hướng xử phạt các nhà buôn (lúc đó là cá nhân) vì họ đã

không thể trả được nợ như cam kết của mình. Sau đó một thời gian, người ta lại

muốn bảo vệ các chủ nợ không đòi được tiền. Và cuối cùng, vào thời kỳ gần đây

hơn, các nhà làm luật lại quan tâm đến việc đảm bảo phục hồi hoạt động cho những doanh nghiệp xứng đáng 15.

Khái niệm phá sản và nội hàm của nó xuất hiện vào cuối thế kỷ XV tại Ý.

Vào thời kỳ này, thủ tục phá sản mang nặng tính hình sự và tính nghiệp đoàn. Một

mặt, các nhà buôn không trả được nợ trong đúng thời hạn quy định sẽ bị coi như

những tên tội phạm và việc không trả nợ được xem như hành động lừa đảo. Kết

quả là họ sẽ bị xử phạt nặng, thậm chí là bị bỏ tù, chiếc ghế của họ tại hội đồng các

nhà buôn sẽ bị tước mất, còn toàn bộ tài sản sẽ bị tịch thu và đem đi thanh lý để trả

nợ. Mặt khác, tại thời kỳ này, thủ tục phá sản chưa được luật hóa, mà nó chỉ là các

hoạt động giữa các nhà buôn này với các nhà buôn khác bởi vì chính các chủ nợ là

những người cầm cân nảy mực trong thủ tục phá sản.

Pháp luật cổ của Pháp về vấn đề phá sản bị ảnh hưởng nhiều bởi thủ tục phá

sản của Ý, song luật của Pháp, cụ thể là Pháp lệnh năm 1536 và năm 1673 có sự

phân biệt rõ ràng hơn về nguyên nhân của việc phá sản, do rủi ro, bất cẩn hay lừa

R. Szramkiewicz, “Histoire du droit des affaires”, Édition LGDJ, Paris Montchrétien 1989

đảo. Trong trường hợp cuối cùng, người bị phá sản sẽ phải chịu những hình phạt 15 J. Hilaire, “Introduction historique au droit commercial”, Édition PUF, 1986 ;

25

nghiêm khắc tùy mức độ nghiêm trọng của hành động lừa đảo, nặng nhất có thể

phải chịu án khổ sai hoặc bị tước hết tài sản. Tuy nhiên, người bị phá sản cũng có

nhiều cách để tránh những biện pháp hà khắc của pháp luật. Họ có thể thỏa thuận

với chủ nợ thông qua các biện pháp riêng nhằm chứng minh tư cách chính trực của

mình trước các nhà lập pháp. Ngoài ra, họ cũng có thể xin cấp một “thư giãn nợ”

(lettre de répit) để kéo dài thời gian trả nợ trước khi phải tiến hành thủ tục phá sản. Tuy nhiên trên thực tế, hệ thống này đã hoạt động không hiệu quả 16.

Vấn đề phá sản chính thức được đề cập trong Bộ luật Thương mại năm

1807 của Pháp. Những quy đinh về phá sản trong Bộ luật Thương mại năm 1807

này vẫn mang tính hà khắc cao do nó được ban hành đúng vào lúc diễn ra vụ bê

bối thương mại giữa một số nhà buôn với quân đội của Napoléon. Bộ luật này đưa

ra cùng lúc với hai hệ thống thủ tục được áp dụng cho các nhà buôn đã lâm vào

tình trạng mất khả năng thanh toán. Thứ nhất, trên quan điểm dân sự, thủ tục phá

sản có mục đích tổ chức hoạt động thanh lý các tài sản của con nợ và chia cho các

chủ nợ. Thứ hai, trên quan điểm hình sự, người bị phá sản sẽ phải chịu các hình

phạt hình sự dù việc không trả nợ là do vô tình hay cố ý. Phá sản đơn giản bị coi

như một tội và bị phạt từ 1 tháng đến 2 năm tù, phá sản có liên quan đến lừa đảo

được coi như trọng tội, bị đưa ra Tòa hình sự và phải chịu án khổ sai. Như vậy, các

quy định về phá sản trong Bộ luật Thương mại năm 1807 còn rất nhiều điểm hạn

chế: nó quá nghiêm khắc đối với con nợ và dễ dẫn đến các hành động tiêu cực

nhằm che giấu tình trạng mất khả năng thanh toán; nó cũng không có hiệu quả đối

với chủ nợ do Bộ luật Thương mại đưa ra các chi phí và thủ tục rắc rối và thời gian

tiến hành thủ tục bị kéo dài; cuối cùng, luật không có các biện pháp đảm bảo bởi vì

người bị phá sản hoàn toàn có thể tiếp tục kinh doanh và làm đảo lộn thị trường.

Đến thế kỷ XIX, các quy định về phá sản được sửa đổi theo hướng thông

thoáng, mềm dẻo hơn. Thời kỳ này, giai cấp tư sản Pháp ngày càng có ảnh hưởng

trong xã hội, vì lợi ích của mình, họ đã yêu cầu bãi bỏ các quy định hà khắc trong

Bộ luật Thương mại năm 1807. Việc thay đổi các quy định này được tiến hành một

cách tuần tự thông qua việc ban hành các đạo luật năm 1838 và năm 1889. Đạo 16 Yves Guyon, “Entreprise en difficulté: Redressement judiciaire – Faillite”, Édition Economica, 1991

26

luật ngày 28/05/1838 đã cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Thương mại năm

1807 theo hướng mềm dẻo hơn bằng cách đơn giản hóa các thủ tục phá sản và quy

định người đại diện cho chủ nợ sẽ được chỉ định bởi Tòa án, chứ không phải bởi

bản thân các chủ nợ như trước đây. Đặc biệt, đạo luật ngày 04/03/1889 đã đưa ra

một thủ tục mới - thủ tục thanh lý tư pháp (La liquidation judiciaire) - được xem

như một đặc ân dành cho các nhà kinh doanh xấu số nhưng thiện chí. Các biện

pháp tước quyền sở hữu của con nợ đối với tài sản được giảm nhẹ và con nợ vẫn

có quyền định đoạt các tài sản của mình. Họ được trợ giúp (chứ không phải là thay

mặt) bởi một nhân viên thanh lý với nhiệm vụ giúp họ phục hồi hoạt động.

Năm 1935, Sắc lệnh mới về phá sản ra đời nhằm đối mặt với tình trạng khó

khăn về tài chính và tình trạng phá sản liên tục của các doanh nghiệp. Sự điều

chỉnh này được thể hiện qua hai văn bản: Sắc lệnh ngày 8/8 lần đầu tiên đề cập đến

phá sản doanh nghiệp bên cạnh việc phá sản của các nhà buôn như trước đây. Sắc

lệnh ngày 30/10 tăng cường và đơn giản hóa một số thủ tục, nó nâng cao quyền

hạn của Tòa án và giảm bớt quyền hạn của các chủ nợ. Điều này là hoàn toàn đúng

đắn vì việc phá sản không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ mà còn liên

quan đến lợi ích chung của toàn xã hội.

Một cuộc cải cách mới được tiến hành vào năm 1955 thông qua Sắc lệnh

ngày 20/5/1955 và được đưa vào Bộ luật Thương mại bởi Pháp lệnh ngày

30/12/1958. Sắc lệnh năm 1955 lần đầu tiên phân biệt hai thủ tục: thủ tục thanh

toán tư pháp (le règlement judiciaire) và thủ tục phá sản (la faillite). Thủ tục thanh

toán tư pháp sẽ dẫn đến một thỏa ước mà theo đó, con nợ sẽ thanh toán cho các

chủ nợ theo khả năng tốt nhất của mình và họ sẽ không phải chịu một hình phạt

nào cả. Thủ tục phá sản dành cho các nhà buôn không có tư cách tốt, thủ tục này sẽ

kết thúc bởi việc tập hợp tất cả các tài sản của nhà buôn bị phá sản để đưa ra thanh

lý, nhà buôn sẽ phải chấm dứt mọi hoạt động kinh doanh, đóng cửa doanh nghiệp

và phải chịu các hình phạt dân sự và hình sự khác. Cho đến lần cải cách này, Pháp

lệnh vẫn tỏ ra còn nhiều thiếu sót: Một mặt, nó chỉ áp dụng cho nhà buôn mà

không áp dụng cho doanh nghiệp, đôi lúc còn nhầm lẫn hai khái niệm này với

nhau; mặt khác thủ tục thanh toán được mở ra quá chậm trễ khi doanh nghiệp đã

27

mất khả năng thanh toán, vì vậy việc phục hồi hoạt động trở nên hết sức khó khăn.

Năm 1967, pháp luật phá sản hiện đại ra đời thông qua việc ban hành Luật

ngày 13/07/1967 và Pháp lệnh ngày 23/ 9/1967. Các văn bản này đã phân biệt rõ

ràng bốn thủ tục: Thủ tục thanh toán (Le règlement judiciaire) quy định sau khi kết

toán các khoản nợ, doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động bình thường; Thủ tục

thanh lý tài sản (La liquidation des biens) nhằm loại bỏ các doanh nghiệp không có

khả năng phục hồi, thủ tục này tương tự như thủ tục phá sản năm 1955 nhưng chỉ

liên quan đến tài sản chứ không liên quan đến con người; Thủ tục phá sản cá nhân

(La faillite personnelle) là một hình phạt dân sự cho chủ doanh nghiệp do đã vi

phạm pháp luật; cuối cùng Thủ tục tạm ngừng truy tố (La suspension provisoire

des poursuites) dành cho các doanh nghiệp lớn đang trong giai đoạn khó khăn

nhưng chưa đến mức mất khả năng thanh toán. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử

pháp luật phá sản của Pháp, người ta đã phân biệt giữa cá nhân với doanh nghiệp

và đưa ra các biện pháp chế tài khác nhau cho các đối tượng này. Luật phá sản

năm 1967 cũng đã có một bước tiến quan trọng trong việc xem xét mức độ khác

nhau về tình trạng khó khăn của doanh nghiệp dựa trên tiêu chí mất khả năng

thanh toán, từ đó áp dụng các biện pháp, thủ tục, quy trình khác nhau.

Luật và Pháp lệnh về phá sản năm 1967 đã tỏ ra hết sức hiệu quả trong giai

đoạn tăng trưởng kinh tế, giai đoạn mà phá sản chỉ diễn ra đối với một vài công ty

do năng lực quản lý kém, và công ty đó dễ dàng được mua lại toàn bộ bởi một

công ty khác có năng lực cao hơn. Tuy nhiên, khi nền kinh tế lâm vào suy thoái,

tình trạng khó khăn sẽ không chỉ dừng lại ở một hay một vài công ty mà nó đã lan

rộng đến mọi thành phần kinh tế dẫn đến kết quả phá sản hàng loạt các công ty và tình trạng trì trệ, đi xuống của nền kinh tế 17. Trong bối cảnh như vậy, vấn đề quan

trọng đối với cả nền kinh tế không còn là việc thanh toán các khoản nợ hay xử phạt

các con nợ mà là cứu các doanh nghiệp, là phục hồi hoạt động của doanh nghiệp

và ngăn chặn việc sa thải người lao động dẫn tới tình trạng thất nghiệp hàng loạt.

Luật và Pháp lệnh năm 1967 đã không đáp ứng được những yêu cầu này. Để khắc

phục những thiếu sót này, nước Pháp đã lần lượt ban hành thêm hai đạo luật mới. 17 Yves Guyon, “Entreprises en difficultés: Redressement judiciaire – Faillite”, Édition Economica 1991

28

Đó là Luật ngày 01/03/1984 về thủ tục phòng ngừa các khó khăn (Prévention des

difficultés) và giải quyết thông qua thỏa thuận (Règlement amiable) và Luật ngày

25/01/1985 về thủ tục phục hồi hoạt động (Redressement judiciaire) và thanh lý

doanh nghiệp bị phá sản (Liquidation judiciaire).

Năm 1994, Luật phá sản của Pháp tiếp tục được cải cách theo hướng củng

cố các quyền lợi của các chủ nợ cũ cũng như tình trạng của những người có quyền

đòi nợ trong giai đoạn quan sát. Ngày 10/06/1994, Pháp ban hành Luật số 94-975

nhằm mục đích đơn giản hóa thủ tục phá sản theo đó, Tòa án có thể tuyên bố quá

trình phục hồi doanh nghiệp mà không cần tiến hành giai đoạn giám sát.

Đạo luật 2005-845 về doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn được ban

hành vào ngày 26/07/2005 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát

triển của pháp luật phá sản Pháp. Một mặt, Luật năm 2005 vẫn giữ nguyên những

quy định cơ bản về phá sản đã được đặt ra trong Luật năm 1985. Thủ tục giải quyết

thông qua thỏa thuận với chủ nợ được quy định trong Luật năm 1984 từ nay được

đổi thành Thủ tục hòa giải (Conciliation) và được tiến hành ngay cả khi doanh

nghiệp đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nhưng chưa vượt quá 45 ngày 18. Đối với thủ tục giải quyết theo pháp luật, Luật năm 2005 đưa ra ba thủ tục

để doanh nghiệp có thể tiến hành nhằm giải quyết tình trạng khó khăn của mình:

Thủ tục cứu doanh nghiệp (Sauvegarde), Thủ tục phục hồi hoạt động

(Redressement judiciaire) và Thủ tục thanh lý tài sản (Liquidation judiciaire). Như

vậy so với Luật năm 1985, Luật năm 2005 đã đưa ra thêm thủ tục cứu doanh

nghiệp theo đó cho phép doanh nghiệp có thể tiến hành mở thủ tục phá sản ngay

khi có dấu hiệu của việc mất khả năng thanh toán, chứ chưa cần doanh nghiệp thật

sự lâm vào tình trạng đó. Đối với thủ tục phục hồi doanh nghiệp và thanh lý tài

sản, con nợ chỉ được áp dụng khi đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán.

Riêng về thủ tục thanh lý tài sản, Luật 2005 đã có một số quy định đổi mới so với

các quy định trước đây. Theo các quy định mới này, kết quả của thủ tục thanh lý sẽ

không chỉ dừng lại ở việc thanh toán nợ cho các chủ nợ, mà thủ tục thanh lý tài sản

còn có thể kết thúc bởi việc nhượng lại một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. 18 Điều 5 Đạo luật 2005-845 về Doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn

29

Hiện nay, Luật năm 2005 về doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn vẫn là

một trong những văn bản chính điều chỉnh vấn đề phá sản của Pháp. Bên cạnh đó,

Chính phủ Pháp mới ban hành thêm Pháp lệnh số 2008-1345 ngày 18/12/2008 sửa

đổi Luật về doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn và Nghị định số 2009-160

ngày 12/2/2009 hướng dẫn áp dụng Pháp lệnh số 2008-1345. Hai văn bản này có

một số sửa đổi bổ sung về các thủ tục dự báo và giải quyết tình trạng khó khăn của

doanh nghiệp song vẫn giữ lại các nội dung cơ bản đã được đề cập trong Luật năm

2005. Cả Luật năm 2005 và Pháp lệnh số 2008-1345 đều đã được đưa vào Bộ luật

Thương mại Pháp năm 2009, quyển VI, về “Tình trạng khó khăn của doanh

nghiệp”.

1.2. Vị trí vấn đề phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật về doanh

nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn của Pháp

Những phân tích ở trên đây cho thấy, pháp luật phá sản của Pháp cho đến

nay đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần và cho đến nay, Pháp đã xây dựng được

một hệ thống pháp luật phá sản đồng bộ, đầy đủ, hiện đại với nhiều thủ tục, quy

định áp dụng cho các trường hợp khác nhau tùy thuộc vào tình trạng khó khăn của

từng doanh nghiệp. Thủ tục phá sản hiện hành được đề cập tại quyển VI của Bộ

luật Thương mại năm 2009, trong phần pháp luật về các doanh nghiệp trong tình

trạng khó khăn. Phần này không chỉ bao gồm những quy định về thủ tục phá sản

mà còn bao gồm cả cơ chế phòng ngừa tình trạng khó khăn của doanh nghiệp.

Riêng các quy định về phá sản, Luật của Pháp đưa ra ba thủ tục có thể áp dụng tùy

theo mức độ nghiêm trọng của tình hình hoạt động của doanh nghiệp: Thủ tục cứu

doanh nghiệp, Thủ tục phục hồi doanh nghiệp và Thủ tục thanh lý ( xem sơ đồ 2 ).

Thủ tục cứu doanh nghiệp là một điểm khác biệt trong luật của Pháp so với

luật Việt Nam bởi vì Luật phá sản của Việt Nam năm 2004 không có quy định nào

về thủ tục này. Đây là thủ tục được áp dụng đối với các doanh nghiệp chưa thực sự

rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán nhưng tình trạng của doanh nghiệp đã ở

mức rất xấu, việc mất khả năng thanh toán là không thể tránh khỏi và sớm muộn gì

cũng xảy ra. Kể từ khi ra đời, Thủ tục cứu doanh nghiệp đã được các doanh nghiệp

Pháp chào đón và số vụ áp dụng thủ tục này không ngừng tăng lên.

30

Sơ đồ 2: Phác thảo sơ đồ thủ tục phá sản của Pháp

Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục

Quyết định của Tòa án

Phục hồi doanh nghiệp Cứu doanh nghiệp (1%) Thanh lý tài sản (65%)

(34%)

Giai đoạn quan sát (<6 tháng, có khả năng có gia hạn thêm)

Tòa án từ chối cho Doanh nghiệp tiếp tục hoạt động Quyết định của Tòa án về việc tiếp tục hoạt động của Doanh nghiệp

Kế hoạch phục hồi doanh nghiệp Kế hoạch nhượng tài sản

Thi hành các kế hoạch trên? Xử lý nợ?

Có Không Có Không Hủy kế hoạch và chuyển đổi quyết định của Tòa án

Kết thúc thủ tục do hoàn tất trả nợ

Tòa có thể ra bản án truy cứu trách nhiệm của Lãnh đạo Công ty (phá sản cá nhân, cấm điều hành doanh nghiệp…)

Kết thúc thủ tục do không có tài sản trả nợ

Nguồn: http://www.infolegale.fr/jugements.html

31

Năm 2008 có 694 vụ được mở Thủ tục cứu doanh nghiệp, tăng khoảng 35%

so với năm 2006 và 2007. Tuy nhiên, trên thực tế, do mới xuất hiện kể từ năm

2005 (quy định bởi Luật 2005-845) nên tỉ lệ áp dụng Thủ tục cứu doanh nghiệp

trong các Thủ tục phá sản còn chưa cao, chỉ chiếm 1,26% (năm 2008) trong số các Thủ tục phá sản được mở tại Pháp 19.

Thủ tục phục hồi doanh nghiệp và Thủ tục thanh lý là hai thủ tục phá sản

được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng mất khả năng

thanh toán. Tùy từng trường hợp, doanh nghiệp có thể áp dụng thủ tục phục hồi

trước và chuyển sang thủ tục thanh lý nếu việc phục hồi không thành công, hoặc

áp dụng ngay thủ tục thanh lý nếu xét thấy doanh nghiệp đã ở trong tình trạng

không thể cứu vãn. Tại Pháp, tình hình áp dụng hai thủ tục này là khá khả quan.

Chỉ tính riêng năm 2007, nếu như ở Việt Nam, số vụ phá sản được thụ lý mới chỉ là 175 20 vụ thì con số đó tại Pháp là 49 700 vụ 21.

Riêng về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, số vụ được mở thủ

tục này ở Pháp đã không ngừng tăng trong giai đoạn 2005-2008 (xem bảng 1). Tỷ

lệ Thủ tục phục hồi doanh nghiệp trong thủ tục phá sản cũng luôn giữ ở mức từ 32 đến 35% 22. Đây là một điều đáng học tập đối với Việt Nam, khi mà tại Việt Nam

cho tới thời điểm hiện tại, chưa có một vụ phá sản nào của doanh nghiệp Việt Nam được áp dụng Thủ tục phục hồi 23.

Bảng 1: Số vụ mở Thủ tục phục hồi tại Pháp giai đoạn 2005 - 2008

17453

16046

17108

17940

Năm 2005 2006 2007 2008

Số vụ

34,1%

35,4%

34,4%

32,7%

Tỷ lệ so với tổng số thủ tục phá sản đƣợc mở Nguồn: Deloitte, nghiên cứu về “Doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn tại Pháp - Ảnh hương của cuộc

khủng hoảng kinh tế-tài chính”, tháng 3-2009, tr15 19 Deloitte, nghiên cứu về “Doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn tại Pháp - Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính”, tháng 3-2009, tr6 20 Bộ Tư Pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004”, ngày 29/12/2008 21 Deloitte, sách đã dẫn, tr15 22 Deloitte, nghiên cứu về “Doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn tại Pháp - Ảnh hương của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính”, tháng 3-2009, tr15 23 Bộ Tư Pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004”, ngày 29/12/2008

32

Những phân tích ở trên đây cho thấy những quy định về phục hồi doanh

nghiệp là một trong ba thủ tục liên quan đến phá sản theo luật phá sản hiện hành

của Pháp. Theo quy định của Pháp, trước khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất

khả năng thanh toán, có thể áp dụng thủ tục cứu doanh nghiệp. Điều này có nghĩa

là doanh nghiệp sẽ phải áp dụng mọi khả năng có thể để tránh rơi vào tình trạng

mất khả năng thanh toán. Nếu không tránh được tình trạng này thì cho phép lựa

chọn hai tình huống: hoặc là thi hành thủ tục phục hồi, hoặc là thanh lý tài sản.

Trong phạm vi của đề tài này, nhóm tác giả sẽ chỉ đi sâu nghiên cứu các vấn đề

liên quan đến thủ tục phục hồi doanh nghiệp theo luật phá sản Pháp và từ đó so

sánh để tìm kiếm bài học đối với Việt Nam. Vấn đề cứu doanh nghiệp và vấn đề

thanh lý tài sản không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, bởi vì vấn đề cứu

doanh nghiệp không có trong quy định của pháp luật về phá sản của Việt Nam còn

vấn đề thanh lý tài sản là vấn đề có mục tiêu khác, không phải là mục tiêu tái tạo

doanh nghiệp - mục tiêu là đối tượng nghiên cứu của đề tài này.

2. Những quy định trong luật của Pháp về thủ tục phục hồi hoạt động

của doanh nghiệp

2.1. Đối tƣợng áp dụng

Tại khoản 2 điều 631, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009 khẳng định đối

tượng cụ thể được áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động. Đó là tất cả các cá nhân và

pháp nhân thực hiện một hoạt động thương mại hoặc những người làm nghề thủ

công, những người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, và mọi cá nhân và pháp

nhân thực hiện một hoạt động nghề nghiệp độc lập bao gồm cả các ngành nghề tự

do theo một điều lệ hợp pháp hoặc các cá nhân, pháp nhân mà bằng cấp, tên

thương mại, nhãn hiệu đã được bảo hộ.

Như vậy, đối tượng được áp dụng các quy định về phục hồi hoạt động của

doanh nghiệp theo Luật Thương mại của Pháp năm 2009 là khá rộng. Đối tượng

của Thủ tục phục hồi không chỉ là doanh nghiệp mà còn mở rộng ra cho cá nhân.

Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi vì trên thực tế, các cá nhân hoạt động trong một

nghề nghiệp độc lập hoàn toàn có khả năng rơi vào tình trạng phá sản, không trả

được nợ và cần được mở thủ tục phá sản. Đây là một điểm đáng học tập đối với

33

luật phá sản của Việt Nam khi đối tượng áp dụng Thủ tục phục hồi theo Luật phá sản năm 2004 chỉ là các doanh nghiệp, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã 24.

2.2. Điều kiện để mở Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp

Sau khi nêu rõ những đối tượng được áp dụng các quy định về phục hồi

hoạt động, Bộ luật Thương mại năm 2009 quy định khá chi tiết những vấn đề liên

quan đến thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Việc phục hồi hoạt động

đòi hỏi phải đáp ứng cả các điều kiện về nội dung và hình thức.

2.2.1. Điều kiện về nội dung

Điều kiện về nội dung bao gồm các vấn đề liên quan đến tình hình tài chính

của con nợ.

 Tình trạng mất khả năng thanh toán

Luật phá sản của Pháp lựa chọn tiêu chí “mất khả năng thanh toán” làm

mốc cho phép mở thủ tục phục hồi hoạt động. Điều L631-1 của Bộ luật Thương

mại Pháp năm 2009 quy định: “Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp

được tiến hành đối với các doanh nghiệp khi các tài sản có sẵn không thể để bù

đắp các tài sản nợ phải trả, nói một cách khác, khi doanh nghiệp đã lâm vào tình

trạng mất khả năng thanh toán” (xem nguyên bản tiếng Pháp tại phụ lục 2).

Như vậy, tất cả các con nợ nếu có tài khoản dự trữ đủ để bù đắp các khoản nợ hoặc

đã được chủ nợ gia hạn trả nợ đều không phải là đối tượng áp dụng của thủ tục

này.

Khi xem xét tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp theo điều

L631-1 nêu trên, cần làm rõ một số thuật ngữ được sử dụng trong điều khoản này,

 Tài sản có sẵn

đó là:

Tài sản có sẵn là các tài sản hiện có mà doanh nghiệp có thể huy động ngay

khi cần. Hiểu một cách đơn giản, tài sản có sẵn chính là số tiền mặt thực tế mà con

nợ nắm giữ và các khoản tiền khác mà con nợ có thể chuyển thành tiền mặt một

cách dễ dàng và nhanh chóng. Ở đây cần phân biệt “tài sản có sẵn” với “tài sản

có”. “Tài sản có” là khái niệm bao gồm cả các tài sản cố định và lưu động, nghĩa là 24 Điều 2 của Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam

34

ngoài tiền mặt ra, “tài sản có” còn bao gồm cả nhà cửa, hàng hóa, các khoản phải

thu và các tài sản khác … Như vậy, theo luật phá sản của Pháp, con nợ có quyền

yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoạt động ngay khi số tiền mặt thực tế mà họ có thể

huy động không đủ bù đắp cho các khoản nợ phải trả cho dù tài sản có như nhà

cửa, hàng hóa vẫn còn. Điều này tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho con nợ vì khi

đó, các tài sản có của con nợ vẫn còn và đó là cơ sở để thực hiện thành công các

phương án phục hồi hoạt động mà doanh nghiệp đề xuất.

“Tài sản nợ”

Tài sản nợ là những khoản nợ bằng tiền và có thể đo lường được. Các

khoản nợ được tính vào mục này là những khoản nợ đã đến hạn hoặc quá hạn, còn

các khoản nợ chưa đến hạn thì không được tính. Cách xác định như vậy là có lợi

cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, bởi vì nếu tính cả

các khoản nợ chưa đến hạn, doanh nghiệp sẽ phải chịu một khối lượng tài sản nợ

quá lớn và điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho việc phục hồi hoạt động của doanh

 “Không thể bù đắp”

nghiệp.

Yếu tố thứ ba muốn khẳng định tính khách quan của tình trạng mất khả

năng thanh toán là tính không thể bù đắp. Việc tài sản có sẵn không thể bù đắp tài

sản nợ là một sự thật hiển nhiên và khách quan chứ không phải do chủ ý của con

nợ. Quy định này muốn nhấn mạnh thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi

doanh nghiệp nói riêng không dành cho các hoạt động lừa đảo và gian lận của các

nhà kinh doanh.

Những quy định ở trên cho thấy việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp

theo quy định của Pháp, chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất

khả năng thanh toán. Việc xác định tình trạng mất khả năng thanh toán là thủ tục

đầu tiên phải thực hiện nếu muốn phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.

 Thời điểm mất khả năng thanh toán

Sau khi xác định tình trạng mất khả năng thanh toán, bước tiếp theo là cần

xác định thời điểm mất khả năng thanh toán. Theo điều L631-8 Bộ luật Thương

mại năm 2009, “Tòa án sẽ đưa ra quyết định về thời điểm mất khả năng thanh

35

toán. Nếu không xác định được thời điểm này, việc mất khả năng thanh toán sẽ

được tính từ ngày quyết định mở thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp”

(xem nguyên bản tiếng Pháp tại phụ lục 2).

Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, theo yêu cầu của người quản lý,

Tòa án, người được ủy quyền tư pháp hoặc Viện kiểm sát, có quyền lùi thời điểm

mất khả năng thanh toán một hoặc nhiều lần, với điều kiện Tòa án đã nghe ý kiến

hoặc đã triệu tập con nợ một cách hợp pháp. Yêu cầu thay đổi thời điểm mất khả

năng thanh toán phải được đệ trình lên Tòa án trong vòng một năm kể từ ngày

quyết định mở thủ tục phục hồi, tuy nhiên quyết định thay đổi phải đảm bảo:

- Thời điểm mất khả năng thanh toán không được xảy ra trước thời điểm

quyết định mở thủ tục phá sản nhiều hơn 18 tháng;

- Thời điểm mất khả năng thanh toán cũng không được xảy ra trước thời điểm

ra quyết định cuối cùng của thỏa thuận hòa giải.

Trách nhiệm chứng minh tình trạng mất khả năng thanh toán thuộc về

người yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoạt động, có thể là doanh nghiệp lâm vào tình

trạng phá sản, chủ nợ, viện trưởng Viện kiểm sát hoặc chính bản thân Tòa án trong trường hợp Tòa án tự mở thủ tục 25.

2.2.2. Điều kiện về hình thức

Điều kiện về hình thức xoay quanh các vấn đề về mở thủ tục phá sản và

phục hồi hoạt động.

Để phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, doanh nghiệp đang lâm vào tình

trạng mất khả năng thanh toán phải làm đơn đề nghị mở thủ tục phục hồi. Theo

điều L631-3 của Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009, việc nộp đơn yêu cầu mở

thủ tục phục hồi hoạt động là bắt buộc. Đơn này phải được gửi tới Tòa án. Điều

L631-3 quy định những đối tượng được quyền nộp đơn xin mở Thủ tục phục hồi

gồm: doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, chủ nợ, viện trưởng Viện kiểm sát

hoặc Tòa án tự mở thủ tục. Việc nộp đơn đề nghị mở Thủ tục phục hồi hoạt động

25 Điều L631-8, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009

của doanh nghiệp được quy định rất chi tiết. Cụ thể:

36

 Trường hợp nộp đơn của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình

trạng phá sản phải được thực hiện chậm nhất sau 15 ngày kể từ thời điểm mất khả năng thanh toán 26. Trong thời gian này, con nợ vẫn có quyền yêu cầu mở thủ tục

hòa giải.

Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không chỉ là quyền mà còn là

một nghĩa vụ bắt buộc đối với con nợ nếu họ muốn phục hồi hoạt động. Nếu con

nợ cố tình không tuyên bố tình trạng mất khả năng thanh toán, Tòa án có thể tuyên

bố “phá sản cá nhân”, theo đó “cấm con nợ không được tham gia quản lý, điều

hành, lãnh đạo, dù là gián tiếp hay trực tiếp, bất kỳ một hoạt động kinh doanh, thủ công, nông nghiệp hoặc bất kỳ một hoạt động nghề nghiệp độc lập nào” 27 (xem

nguyên bản tiếng Pháp tại phụ lục 2). Hình phạt này áp dụng đối với con nợ là

các cá nhân hoặc lãnh đạo của một pháp nhân.

Việc yêu cầu mở thủ tục phá sản và thủ tục phục hồi phải được đưa lên Tòa

án có thẩm quyền và phải nộp kèm theo các giấy tờ, văn bản cần thiết, trong số đó

có các giấy tờ về tình trạng tài sản có sẵn, tài sản có và tài sản nợ của con nợ và

giấy tờ liên quan đến số tiền trong tài khoản của doanh nghiệp được lập trong vòng không quá một tháng 28.

 Trường hợp chủ nợ nộp đơn đề nghị phục hồi hoạt động

Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoạt động doanh nghiệp của

chủ nợ được quy định trong khoản 5 điều L631 Bộ luật Thương mại Pháp năm

2009, theo đó “thủ tục phục hồi hoạt động có thể được mở theo yêu cầu của chủ

nợ, không phụ thuộc vào bản chất của khoản cho vay” (xem nguyên bản tiếng

Pháp tại phụ lục 2). Tuy nhiên trong trường hợp con nợ đã ngừng hoạt động nghề

nghiệp đó, đơn yêu cầu phải được thực hiện trong vòng một năm kể từ ngày con

nợ bị xóa tên trong “Sổ Thương mại và Doanh nghiệp” (Registre du commerce et

des sociétés) đối với pháp nhân có đăng ký; hoặc kể từ ngày ra quyết định kết thúc

thủ tục thanh lý đối với pháp nhân không đăng ký; hoặc kể từ ngày ngừng hoạt 26 Điều L631, Bộ Luật Thương mại Pháp năm 2009 27 Điều L653-8, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009 28 Điều L653-8, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009

37

động đối với các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thủ công, nông nghiệp hoặc

hoạt động nghề nghiệp độc lập.

Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi mang hình thức của một đơn

kiện ra tòa. Trong trường hợp này, việc chứng minh tình trạng mất khả năng thanh

toán của con nợ thuộc về trách nhiệm của chủ nợ. Tuy nhiên, chủ nợ sẽ không có

quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi nếu hai bên đang thực hiện thủ tục hòa

giải.

 Trường hợp Viện kiểm sát nộp đơn đề nghị phục hồi hoạt động

Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và thủ tục phục hồi của Viện

kiểm sát được nêu trong điều L631-5 của Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009.

Viện trưởng Viện kiểm sát sẽ nộp đơn yêu cầu đó cho Tòa án, trong đó thể hiện rõ

những lý do của yêu cầu này. Sau đó, Tòa án sẽ triệu tập cả con nợ kèm theo đơn

yêu cầu của Viện kiểm sát.

Cũng giống như đối với chủ nợ, Viện kiểm sát không thể yêu cầu mở thủ

tục phá sản khi con nợ đang thực hiện thủ tục hòa giải.

 Trường hợp Tòa án tự mở Thủ tục phục hồi hoạt động

Luật phá sản cũng cho phép Tòa án tự mở thủ tục phục hồi hoạt động một cách mặc nhiên mà không cần yêu cầu từ phía các bên 29. Để thực hiện điều này,

Tòa án phải nắm được các thông tin về tình trạng tài chính của doanh nghiệp,

những thông tin này có thể được công bố bởi chính con nợ hoặc bởi bên thứ ba.

Tòa án bắt buộc phải triệu tập con nợ trước khi tuyên bố mở thủ tục phục hồi hoạt

động của doanh nghiệp.

2.3. Các bƣớc tiến hành thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm

vào tình trạng phá sản

Thủ tục tiến hành phục hồi hoạt động của doanh nghiệp gồm 3 giai đoạn:

giai đoạn mở thủ tục, giai đoạn quan sát và giai đoạn quyết định.

2.3.1. Giai đoạn mở thủ tục phục hồi

Sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi và xem xét sự đầy đủ về

các điều kiện về mở thủ tục phục hồi, Tòa án sẽ ra quyết định mở Thủ tục phục hồi 29 Điều L631-5, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009

38

hoạt động của doanh nghiệp và thành lập các cơ quan liên quan đến giai đoạn mở

thủ tục này.

Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp bắt buộc phải đưa ra rất nhiều

quyết định phức tạp: quyền quản lý doanh nghiệp, thanh toán các khoản nợ, tìm ra

một giải pháp quyết định cho doanh nghiệp (phục hồi hay thanh lý) … , chính vì

vậy, thủ tục phục hồi đòi hỏi sự tham gia của rất nhiều cơ quan với sự phân công

rõ ràng về nhiệm vụ và công việc phải thực hiện. Theo luật của Pháp, hệ thống các

cơ quan tham gia vào quá trình này được phân chia làm hai bộ phận: Cơ quan ra

quyết định và Cơ quan giám sát. Mỗi cơ quan lại có các bộ phận khác nhau, đảm

trách các chức năng khác nhau trong quá trình tiến hành các thủ tục (xem sơ đồ 3).

Sơ đồ 3:

Hệ thống các cơ quan tham gia vào quá trình phục hồi hoạt động

của doanh nghiệp theo luật của Pháp

Faillite”, Yves Guyon, édition Economica, 1991

Nguồn: Tác giả tự sơ đồ hóa từ việc tham khảo sách: “Entreprise en difficultés - Redressement judiciaire -

39

Sơ đồ 3 cho thấy sự tham gia của rất nhiều cơ quan vào quá trình phục hồi

hoạt động của doanh nghiệp. Đó là:

 Cơ quan ra quyết định

Cơ quan ra quyết định về việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp gồm có

các cơ quan pháp luật và cơ quan chuyên môn trợ giúp.

 Cơ quan pháp luật

Thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp

nói riêng là một thủ tục pháp lý, chính vì vậy, các cơ quan pháp luật tham gia vào

thủ tục này đóng vai trò quan trọng nhất. Hơn nữa, quá trình phục hồi doanh

nghiệp luôn gặp phải sự mâu thuẫn về lợi ích của các đối tượng khác nhau, vì vậy,

chỉ có các cơ quan pháp luật, với các công cụ riêng của mình, mới có thể đưa ra

quyết định cuối cùng và cưỡng chế thi hành các quyết định đó. Tùy trường hợp cụ

thể, các quyết định có thể được đưa ra bởi Tòa án (Tribunal), Chánh án Tòa án

(Président du Tribunal) hoặc Thẩm phán-giám sát (Juge-commissaire).

Tòa án có thẩm quyền ra quyết định mở thủ tục phục hồi hoạt động của

doanh nghiệp và trong suốt quá trình thực hiện thủ tục, Tòa án có quyền quyết định

cao nhất. Tòa án chỉ định, giao nhiệm vụ và đình chỉ hoạt động của các cơ quan

chính tham gia vào quá trình phục hồi doanh nghiệp, đặc biệt là Thẩm phán - giám

sát, người quản lý tư pháp, người đại diện tư pháp. Tòa án cũng có thể chỉ định

một hoặc một vài giám định viên để trợ giúp cho người quản lý tư pháp trong quá

trình tiến hành thủ tục. Bên cạnh đó, Tòa án cũng có thẩm quyền đưa ra các quyết

định quan trọng nhất như quyết định ban hành kế hoạch phục hồi, hủy bỏ kế hoạch

phục hồi và tuyên bố thanh lý công ty.

Chánh án Tòa án được trao cho một số thẩm quyền riêng để có thể đẩy

nhanh quá trình thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn

một khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, hội đồng doanh

nghiệp hoặc các người đại diện nhân sự của doanh nghiệp có thể gặp trực tiếp

Chánh án để trình bày các vấn đề của doanh nghiệp. Từ đó, Chánh án có quyền

đưa ra các quyết định mở thủ tục phục hồi hay thanh lý.

Thẩm phán - giám sát được chỉ định trong quyết định mở thủ tục phục hồi

40

hoạt động. Tòa án có thể chỉ định nhiều hơn một Thẩm phán - giám sát tùy theo sự

phức tạp của vụ việc. Theo điều L621-9 của Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009,

nhiệm vụ của Thẩm phán - giám sát là theo dõi quá trình diễn ra thủ tục phục hồi

doanh nghiệp và bảo vệ các lợi ích trước mắt. Thẩm phán - giám sát đóng vai trò

trung gian giữa Tòa án và các cơ quan chuyên môn trợ giúp, là người có quyền chỉ

định các chủ nợ giám sát để kiểm tra quá trình thực hiện thủ tục phục hồi hoạt

động của doanh nghiệp.

 Cơ quan chuyên môn trợ giúp

Cơ quan chuyên môn trợ giúp bao gồm những người trực tiếp tiếp xúc với

các bên của thủ tục phục hồi là con nợ và chủ nợ. Người trực tiếp làm việc và phụ

trách con nợ là Người quản lý tư pháp (Administrateur judiciaire) và Người phụ

trách các vấn đề liên quan đến chủ nợ là Người được ủy quyền tư pháp

(Mandataire judiciaire).

Người quản lý tư pháp được chỉ định bởi Tòa án theo quyết định mở thủ tục

phục hồi hoạt động. Nhiệm vụ của Người quản lý tư pháp là theo dõi và trợ giúp

con nợ trong quá trình điều hành doanh nghiệp. Nếu tham gia điều hành hoạt động,

Người quản lý bắt buộc phải tôn trọng các nghĩa vụ theo pháp luật và hợp đồng mà

con nợ có nhiệm vụ phải thực hiện. Người quản lý cũng có quyền dùng tư cách của

mình để sử dụng các tài khoản bị phong tỏa của con nợ. Nhiệm vụ quan trọng nhất

của Người quản lý là soạn thảo kế hoạch phục hồi doanh nghiệp trong giai đoạn

quan sát và đưa kế hoạch này vào thực hiện trong giai đoạn phục hồi.

Người được ủy quyền tư pháp cũng được chỉ định bởi Tòa án và hành động

vì lợi ích chung của các chủ nợ. Người được ủy quyền tư pháp là trung gian giữa

các chủ nợ giám sát với các cơ quan khác của thủ tục phục hồi doanh nghiệp, họ có

nghĩa vụ gửi các kết quả giám sát của các chủ nợ giám sát cho Thẩm phán - giám

sát và cho Viện kiểm sát. Tất cả số tiền mà Người được ủy quyền theo pháp luật

hoặc các Chủ nợ giám sát thu hồi được sẽ được chuyển vào tài khoản của con nợ.

 Cơ quan giám sát

Cơ quan giám sát (như sơ đồ 3 đã cho thấy) gồm có các chủ nợ, đại diện

người lao động và Viện kiểm sát.

41

Các chủ nợ giám sát là người có quyền lợi trực tiếp từ việc phục hồi hoạt

động của doanh nghiệp, chính vì vậy họ có quyền được kiểm tra, giám sát quá

trình diễn ra thủ tục này. Thông thường sẽ có 5 chủ nợ được Thẩm phán - giám sát

chỉ định làm các Chủ nợ giám sát. Theo điều L621-11, các Chủ nợ giám sát sẽ trợ

giúp Người được ủy quyền tư pháp và Thẩm phán - giám sát trong việc theo dõi

việc quản lý doanh nghiệp. Họ được xem xét mọi tài liệu gửi cho Người quản lý và

Người được ủy quyền với điều kiện họ phải giữ bí mật về các tài liệu này.

Viện kiểm sát luôn có quyền tham gia mọi thủ tục phá sản vì họ có thể phát

hiện ra sai phạm của các bên, hơn nữa theo quy định của điều L425 Luật tố tụng

dân sự Pháp năm 2009, Viện kiểm sát có nhiệm vụ phải nắm bắt thông tin về tất cả

các thủ tục dân sự, trong đó có thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Theo pháp luật về

phá sản, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu mở thủ tục phục hồi, có quyền giới thiệu

các cơ quan tham gia thủ tục hay yêu cầu bãi miễn họ, góp ý hay yêu cầu bác bỏ

các quyết định liên quan đến thủ tục phục hồi doanh nghiệp.

Đại diện người lao động được bầu ra bởi hội đồng công ty hoặc đại diện

nhân sự hoặc bởi chính những người lao động của công ty. Nhiệm vụ của Đại diện

người lao động là xem xét và kiểm tra tất cả các khoản nợ lương và cung cấp thông

tin cho Người được ủy quyền. Đại diện người lao động sẽ là người bảo vệ lợi ích

của người lao động trước Người ủy quyền theo pháp luật.

2.3.2. Giai đoạn quan sát

Giai đoạn quan sát lần đầu tiên được quy định trong Luật ngày 25/01/1985

và được coi như một sự đổi mới cơ bản trong pháp luật về phá sản của Pháp. Thủ

tục phục hồi hoạt động sẽ được bắt đầu bằng bước chuẩn bị, giúp thiết lập một bản

tổng kết kinh tế và xã hội của doanh nghiệp và từ đó xem xét khả năng phục hồi

hoạt động của doanh nghiệp. Trong giai đoạn quan sát này, các nghĩa vụ của doanh

nghiệp con nợ đối với chủ nợ sẽ được tạm dừng. Kết quả của giai đoạn quan sát là

khác nhau tùy từng trường hợp, có thể là tiếp tục hoạt động, nhượng lại một phần

hay toàn bộ doanh nghiệp hoặc thanh lý tài sản.

 Về thời gian mở và tiến hành giai đoạn quan sát

Theo khoản L631-15 của Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009, giai đoạn

42

quan sát phải được Tòa án ra quyết định tiến hành muộn nhất sau hai tháng kể từ

ngày công bố quyết định mở thủ tục phá sản. Riêng đối với các doanh nghiệp hoạt

động trong lĩnh vực nông nghiệp thì thời hạn này có thể được điều chỉnh đề phụ

hợp với các mùa vụ.

Thời gian thực hiện giai đoạn quan sát thông thường là 6 tháng, có thể gia

hạn một lần 6 tháng nữa theo yêu cầu của Người quản lý, của con nợ hay của Viện

kiểm sát. Trong trường hợp đặc biệt, giai đoạn quan sát có thể được gia hạn thêm

một lần nữa theo yêu cầu riêng của Viện kiểm sát. Như vậy, thời hạn tiến hành giai

đoạn quan sát nhiều nhất là 18 tháng. Riêng đối với thủ tục giản đơn áp dụng cho

các công ty quy mô nhỏ, giai đoạn quan sát chỉ được phép kéo dài 4 tháng có gia

hạn thêm 1 lần và 1 lần đặc biệt (mỗi lần 4 tháng) tương tự như giai đoạn quan sát

thông thường.

 Về thẩm quyền của Tòa án

Trong giai đoạn quan sát, nếu nhận thấy tình trạng không thể phục hồi của

doanh nghiệp, Tòa án có thể ra lệnh dừng hoạt động và tuyên bố ngay thủ tục

thanh lý theo yêu cầu của con nợ, Người quản lý, Người được ủy quyền, Viện

kiểm sát hay chính bản thân Tòa án. Tòa án cũng có thể tuyên bố kết thúc sớm giai

đoạn quan sát nếu doanh nghiệp đã tích lũy đủ để thanh toán cho các chủ nợ.

 Về tình trạng của doanh nghiệp trong giai đoạn quan sát

Giai đoạn quan sát là giai đoạn mà trong đó hoạt động của doanh nghiệp

vẫn được tiếp tục tiến hành nhằm tạo thuận lợi cho quá trình phục hồi hoạt động.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà người ta có thể bỏ qua tình trạng mất khả năng

thanh toán cũng như việc doanh nghiệp đang phải tiến hành một thủ tục pháp lý.

Chính bởi vậy mà con nợ phải chịu một số ràng buộc tạm thời trong một thời gian

 Bảo toàn vốn

nhất định. Những ràng buộc đó là:

Các biện pháp bảo toàn vốn bắt buộc được quy định tại điều L631-10 của

Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009, theo đó “Kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục

phá sản, các cổ phần, giấy chứng nhận góp vốn hoặc các giá trị động sản thuộc

vốn của pháp nhân là đối tượng của quyết định mở thủ tục và thuộc quyền nắm

43

giữ, trực tiếp hoặc gián tiếp, của các nhà điều hành theo luật hoặc trên thực tế, dù

được trả thù lao hay không, chỉ được chuyển nhượng trong các trường hợp do Tòa

án quy định, nếu không sẽ bị vô hiệu”(xem nguyên bản tiếng Pháp tại phụ lục 2).

Các loại vốn này sẽ được phong tỏa tại một tài khoản do Người quản lý tư pháp

mở dưới tên doanh nghiệp. Mọi hoạt động liên quan đến tài khoản này đều phải có

 Điều hành doanh nghiệp

sự cho phép của Thẩm phán - giám sát.

Trong giai đoạn quan sát, doanh nghiệp con nợ sẽ được trợ giúp bởi một

người điều hành theo pháp luật do Tòa án chỉ định. Người điều hành này sẽ trợ

giúp doanh nghiệp con nợ một phần hoặc toàn bộ công việc quản lý hoạt động của

doanh nghiệp. Nhiệm vụ cụ thể cũng như mức lương của người điều hành do Tòa

 Hiệu lực của những hợp đồng đang thực hiện

án xác định.

Đối với những hợp đồng mà doanh nghiệp con nợ đang thực hiện và chưa

hết hạn hiệu lực, luật của Pháp quy định rằng những hợp đồng này vẫn có giá trị

trong giai đoạn quan sát. Điều L622-13 Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009 quy

định, “không một sự hủy bỏ hợp đồng đang thực hiện nào là kết quả của thủ tục

phục hồi trong giai đoạn quan sát”. Như vậy, đối tác của con nợ vẫn có nghĩa vụ

phải thực hiện các quy định đã thỏa thuận trong hợp đồng. Về phần con nợ, người

quản lý tư pháp, trong chừng mực của mình, sẽ cố gắng đảm bảo việc thực hiện

các hợp đồng này. Hợp đồng chỉ có thể bị hủy bỏ bởi Thẩm phán-giám sát theo

yêu cầu của người quản lý tư pháp.

 Về các chủ nợ trong giai đoạn quan sát

Trong giai đoạn quan sát, hoạt động của doanh nghiệp con nợ vẫn được tiếp

tục tiến hành. Các doanh nghiệp này cần có các khoản tín dụng để duy trì công

việc kinh doanh, chính vì vậy, ngay trong giai đoạn quan sát - giai đoạn mà quyền

lợi của các chủ nợ cũ đang bị tạm ngừng, vẫn có các chủ nợ mới xuất hiện và cho

doanh nghiệp vay vốn. Như vậy, khái niệm chủ nợ sẽ được phân thành chủ nợ cũ

và chủ nợ mới, phân biệt với nhau thông qua thời điểm ra quyết định tiến hành thủ

tục phục hồi hoạt động. Hai loại chủ nợ này có tính chất không giống nhau, vì vậy

44

họ được hưởng các quyền lợi hoàn toàn khác nhau. Đây là điểm rất đặc biệt của

luật phá sản của Pháp so với luật phá sản của Việt Nam. Việc quy định về chủ nợ

mới của doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán sẽ tạo điều kiện

cho việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn.

 Chủ nợ cũ

Nghiên cứu các quy định của Pháp về chủ nợ mới và chủ nợ cũ sẽ thấy rõ điều này.

Do mục tiêu chính của giai đoạn quan sát là tìm cách cứu doanh nghiệp nên

quyền lợi của các chủ nợ cũ trong giai đoạn này bị giảm đi. Thứ nhất, các quyền

lợi cá nhân của chủ nợ đều bị tạm dừng và ngay cả các biện pháp để giành lại

quyền lợi đó cũng bị ngăn cản. Điều L622-22 của Bộ luật Thương mại Pháp năm

2009 quy định rằng chủ nợ cũ phải tạm ngừng quyền bắt con nợ phải thanh toán

khoản nợ hay thực hiện một hợp đồng thay vì thanh toán khoản nợ đó. Thứ hai,

Luật cũng tạm thời hủy bỏ quyền kiện các con nợ ra tòa. Thứ ba, trong giai đoạn

quan sát, dòng chảy lãi suất theo pháp luật hoặc theo các hợp đồng, kể cả các

khoản lãi phạt do trả chậm của các khoản cho vay thời hạn từ một năm trở lên đều

bị dừng lại. Thứ tư, theo điều L622-29, các chủ nợ mà khoản nợ chưa đến hạn sẽ

không được xem xét đến. Như vậy, các chủ nợ này chưa thể đòi tiền ngay mà phải

chờ đến khi khoản vay của mình đến hạn như thỏa thuận đã giao kết.

Tuy nhiên, bên cạnh việc bị mất các quyền lợi nêu trên, Luật vẫn dành cho

các chủ nợ cũ này quyền đòi lại các tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Việc này

được quy định tại Điều L624 Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009. Các quy định

này nhằm mục đích bảo vệ quyền sở hữu tài sản hơn là bảo vệ các khoản nợ. Điều

này có nghĩa là các chủ nợ cũ thực hiện quyền này với tư cách của một chủ sở hữu

chứ không phải với tư cách của một chủ nợ.

Các chủ nợ có nghĩa vụ phải kê khai các khoản cho vay của mình đúng thời

hạn quy định. Nếu quá thời hạn này mà chủ nợ vẫn chưa kê khai thì sẽ mất quyền

 Chủ nợ mới

hưởng phần phân chia tài sản của doanh nghiệp con nợ, trừ phi có lý do hợp lý.

Chủ nợ mới là những chủ nợ xuất hiện sau khi có quyết định mở thủ tục

phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Họ là người đã biết rõ tình trạng khó khăn

45

của doanh nghiệp và biết những rủi ro mà mình có thể gặp phải, song họ vẫn quyết

định cho doanh nghiệp vay vốn. Sự xuất hiện của các chủ nợ mới là điều kiện quan

trọng quyết định khả năng phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Hơn nữa, các

khoản vay mới cũng góp phần quan trọng trong việc giải quyết các khoản nợ cũ.

Chính vì vậy, để khuyến khích các khoản vay mới, về nguyên tắc, Luật phá

sản của Pháp cho phép các chủ nợ mới được hưởng một số quyền ưu tiên so với

chủ nợ cũ: “Các chủ nợ xuất hiện sau quyết định tiến hành thủ tục do yêu cầu của

việc tiến hành thủ tục hay giai đoạn quan sát, hoặc để tạo thêm một khoản tiền cho

con nợ trong giai đoạn này, sẽ được trả theo đúng thời hạn. Trong trường hợp

không thể trả theo đúng thời hạn, họ sẽ được ưu tiên trả nợ trước tất cả các chủ nợ khác, dù là chủ nợ có đảm bảo hay không” 30 (xem nguyên bản tiếng Pháp tại

phụ lục 2)

Theo quy định này, các chủ nợ mới muốn được hưởng quyền ưu tiên phải

đảm bảo hai tiêu chí: Thứ nhất, các chủ nợ mới phải xuất hiện sau thời điểm ra

quyết định mở thủ tục phục hồi; thứ hai, các khoản cho vay phải nhằm mục đích

giúp tiến hành các thủ tục phục hồi doanh nghiệp chứ không phải vào bất kỳ mục

đích nào khác. Đảm bảo được các điều kiện như vậy, các chủ nợ mới sẽ được

hưởng sự đảm bảo thời hạn trả nợ cũng như thời gian trả nợ. Điều này sẽ tạo động

lực khuyến khích sự xuất hiện của các chủ nợ mới, nhờ đó mà doanh nghiệp có

thêm điều kiện vật chất để tiến hành phục hồi hoạt động.

 Về tình trạng của người lao động trong giai đoạn quan sát

Người lao động hoàn toàn không phải người hưởng lợi từ giai đoạn quan

sát, mặc dù thiệt hại của họ là ít hơn các chủ nợ. Song, họ đứng trước hai mối quan

 Về việc trả lương cho người lao động

tâm: được trả lương và giữ được công việc.

Người lao động cần tiền lương để đảm bảo cuộc sống. Vì vậy, không thể

nào ấn định một thời hạn trả tiền cho họ trong giai đoạn quan sát như đối với các

chủ nợ. Họ có quyền được trả lương và được hưởng một sự đảm bảo cho tương lai

bởi vì trong giai đoạn quan sát, họ vẫn tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp. 30 Điều L622-17, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009

46

Thông thường việc trả lương cho công nhân sẽ được thực hiện bởi chủ

doanh nghiệp, song trong trường hợp doanh nghiệp đang thực hiện thủ tục phục

hồi và tài sản có của doanh nghiệp không đáp ứng được việc trả lương cho người

 Về việc sa thải người lao động

lao động thì khoản tiền này sẽ được trả bởi Tổ chức quản lý chế độ bảo hiểm các khoản nợ công nhân (AGS) nhưng chỉ trong giới hạn một tháng rưỡi tiền lương 31.

Trong giai đoạn quan sát, nếu việc sa thải người lao động nhằm một mục

đích kinh tế nào đó mà việc sa thải này là bắt buộc và khẩn cấp, Người quản lý tư

pháp có thể quyết định việc sa thải với sự cho phép của Thẩm phán - giám sát.

Trước khi hỏi ý kiến Thẩm phán - giám sát, người quản lý tư pháp phải hỏi ý kiến

của Hội đồng công ty hoặc đại diện nhân sự.

2.3.3. Giai đoạn quyết định

Khi giai đoạn quan sát kết thúc, người quản lý tư pháp có nghĩa vụ phải đệ

trình lên Tòa án bản tổng kết về tình trạng của doanh nghiệp, đồng thời đưa ra kế

hoạch phục hồi doanh nghiệp. Nếu xét thấy doanh nghiệp có khả năng phục hồi,

Tòa án sẽ ra quyết định tiến hành phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Ngược lại,

Tòa án có thể đưa ra quyết định thanh lý doanh nghiệp. Trong mọi trường hợp,

Tòa án là người duy nhất có thẩm quyền đưa ra quyết định.

Thời hạn tiến hành quá trình phục hồi hoạt động được quy định tại khoản 12

điều L626 Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009, theo đó, kế hoạch phục hồi hoạt

động không được vượt quá 10 năm. Thời hạn này có thể kéo dài đến 15 năm đối

với con nợ hoạt động trong ngành nông nghiệp.

Nếu con nợ không thực hiện đúng các cam kết trong thời gian đã được quy

định bởi Bản kế hoạch phục hồi, Tòa án có quyền tuyên bố hủy kế hoạch phục hồi

hoạt động sau khi được sự chấp thuận của Viện kiểm sát. Trường hợp này coi như

việc phục hồi hoạt động không thành công và doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố phá sản,

31 Yves Guyon, “Entreprise en difficultés : Redressement judiciaire – Faillite”, Édition Economica 1991

kéo theo đó là thủ tục thanh lý.

47

3. Những quy định trong pháp luật phá sản của Pháp về phƣơng án

phục hồi hoạt động của doanh nghiệp

Phương án phục hồi hoạt động có mục đích phục hồi hoạt động dựa vào

chính tiềm lực của doanh nghiệp. Đây là phương án được mong chờ nhiều nhất.

Các biện pháp cụ thể nhằm đưa doanh nghiệp tiếp tục hoạt động được đề cập trong

Bản kế hoạch phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Tòa án cũng có thể cử một Ủy

viên để giám sát quá trình thực hiện kế hoạch phục hồi, đó có thể là người điều

hành theo pháp luật hoặc người đại diện cho người lao động. Chính Tòa án sẽ xác

định nhiệm vụ cụ thể của Ủy viên giám sát này.

Thông thường, kế hoạch phục hồi hoạt động của doanh nghiệp đề cập đến

ba vấn đề: Vấn đề tài chính, vấn đề pháp lý và vấn đề xã hội.

3.1. Vấn đề tài chính

Về vấn đề tài chính, Bản kế hoạch phải nêu rõ các biện pháp để kết toán các

 Về kết toán các khoản nợ

khoản nợ và tổ chức tài chính của công ty trong giai đoạn thực hiện kế hoạch.

Để có thể giải quyết các khoản nợ của mình, doanh nghiệp lâm vào tình

trạng mất khả năng thanh toán có thể tìm sự trợ giúp từ phía các chủ nợ để yêu cầu

giãn nợ hoặc xóa nợ. Người được ủy quyền tư pháp sẽ làm nhiệm vụ thu thập ý

kiến của các chủ nợ về việc lùi thời hạn trả nợ hoặc xóa nợ mà doanh nghiệp đề

nghị. Nếu sau 30 ngày kể từ ngày nhận được thư yêu cầu bằng văn bản của người

được ủy quyền mà chủ nợ không có phản hồi thì được coi như chấp thuận đề nghị.

Tất cả các điều này đều được đưa vào kế hoạch phục hồi hoạt động và chúng chỉ

được thực hiện nếu như kế hoạch này được Tòa án thông qua.

Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể nhờ vào sự can thiệp của Tòa án để giải

quyết các khoản nợ của mình. Theo điều L628-18 của Bộ luật Thương mại Pháp

năm 2009, Tòa án, ngoài việc ra quyết định giãn nợ hoặc xóa nợ đối với các khoản

nợ đã được chủ nợ chấp thuận, còn có thể “ấn định thời hạn trả nợ” đối với các

khoản nợ khác. Cần lưu ý ở đây, Tòa án chỉ có quyền thay đổi thời hạn trả nợ chứ

không có quyền quyết định xóa nợ.

48

 Về tổ chức tài chính của công ty

Việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc thanh

toán các khoản nợ mà mục đích của nó là tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp tục

hoạt động và phát triển tốt. Để làm được điều này, doanh nghiệp bắt buộc phải tìm

kiếm được các nguồn lực mới. Các nguồn lực này có thể đến từ bản thân nội bộ

doanh nghiệp hoặc có thể đến từ bên ngoài. Tất cả các kế hoạch huy động vốn

cũng như huy động nguồn lực mới đều phải được đề cập và làm rõ trong Bản kế

hoạch phục hồi doanh nghiệp.

Trong số các nguồn lực mới, nguồn lực đến từ bản thân doanh nghiệp đóng

một vai trò thiết yếu, bởi vì, sự phục hồi dựa vào số vốn vay ngoài quá lớn là một

sự phục hồi không bền vững và doanh nghiệp lại có thể rơi vào tình trạng khó khăn

bất kỳ lúc nào. Doanh nghiệp phải đưa ra kế hoạch tăng vốn nếu sau khi lâm vào

tình trạng khó khăn, vốn tự có tại thời điểm lập kế hoạch phục hồi nhỏ hơn một

nửa vốn pháp định. Trong mọi trường hợp, việc tăng vốn tự có của doanh nghiệp

luôn được khuyến khích. Kế hoạch tăng vốn sẽ được người quản lý đưa vào Bản

kế hoạch phục hồi doanh nghiệp.

Bên cạnh nguồn lực tự có, doanh nghiệp cũng có thể huy động các nguồn

lực từ bên ngoài dưới dạng các khoản vay từ các chủ nợ mới hoặc từ ngân hàng.

Luật phá sản của Pháp luôn tạo điều kiện khuyến khích sự xuất hiện của các chủ

nợ mới bằng cách trao cho họ các đặc quyền về đảm bảo thanh toán và thứ tự ưu

tiên trả nợ (như đã phân tích ở phần 2.3.2).

3.2. Vấn đề quản lý doanh nghiệp

Để có thể phục hồi hoạt động, hầu hết các doanh nghiệp lâm vào tình trạng

mất khả năng thanh toán đều phải thay đổi bộ máy hoạt động của mình. Các biện

pháp này có thể được áp dụng trong việc đổi mới bộ máy, cấu trúc lại cơ cấu và tài

 Về bộ máy của doanh nghiệp

sản của doanh nghiệp.

Trước hết, Bản kế hoạch phục hồi hoạt động có thể đưa ra dự thảo thay đổi

điều lệ của doanh nghiệp trong giai đoạn phục hồi. Để thực hiện điều này, người

quản lý tư pháp phải triệu tập và xin ý kiến Hội đồng cổ đông. Thông thường, việc

49

thay đổi điều lệ tập trung chủ yếu vào việc thay đổi vốn điều lệ của công ty, song

cũng không loại trừ trường hợp thay đổi bộ máy công ty, đặc biệt là khi hình thức

pháp lý hiện tại của doanh nghiệp không phù hợp với mục đích kinh doanh của nó.

Bản kế hoạch phục hồi cũng có thể đưa ra một số ràng buộc đối với người điều

hành doanh nghiệp trong trường hợp họ tỏ ra thiếu năng lực. Các biện pháp áp

dụng có thể là: thay thế người điều hành doanh nghiệp, bắt buộc người điều hành

 Về tài sản của doanh nghiệp

không được hoặc phải nhượng lại các cổ phần, cổ phiếu của mình …

Nhằm mục đích đảm bảo thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ, Bản kế

hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh hầu như luôn đề cập đến việc dừng lại, thêm

vào hoặc chuyển nhượng một hoặc một vài hoạt động của doanh nghiệp.

Một mặt, Bản kế hoạch phục hồi có thể yêu cầu việc chuyển nhượng một

phần tài sản có của doanh nghiệp. Đôi khi, việc này giúp cho doanh nghiệp loại bỏ

được các tài sản không đem lại lợi ích để đổi lấy tiền mặt. Đối tượng của hoạt

động này có thể là các dụng cụ, đồ dùng trong hoạt động của doanh nghiệp như

nhà cửa, bàn ghế, vật dụng v.v…, hoặc hơn nữa, có thể là một bộ phận cấu thành

nên hoạt động kinh doanh, ví dụ như một nhà máy, một dây chuyền sản xuất độc

lập v.v…

Mặt khác, Bản kế hoạch phục hồi cũng có thể nêu rõ các tài sản không thể

chuyển nhượng. Đó là các tài sản quan trọng mang tính quyết định trong hoạt động

sản xuất kinh doanh, vì thế nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phục hồi của

doanh nghiệp. Biện pháp này nhằm đảm bảo cho các tài sản quan trọng này không

bị chuyển nhượng một cách phung phí. Tòa án sẽ ấn định thời gian không chuyển

nhượng của tài sản, với điều kiện thời gian này không vượt quá thời gian thực hiện

cả quá trình phục hồi hoạt động.

3.3. Vấn đề xã hội

Vấn đề xã hội của Bản kế hoạch phục hồi doanh nghiệp chính là những biện

pháp liên quan đến người lao động của doanh nghiệp. Quá trình phục hồi doanh

nghiệp tất yếu gắn liền với quá trình cải tổ bộ máy, giúp tiết kiệm chi phí và làm

cho doanh nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả hơn. Chính vì vậy, việc cắt

50

giảm, sa thải người lao động thường xuyên xảy ra.

Thẩm quyền ra quyết định sa thải công nhân thuộc về Tòa án. Cũng như

trong giai đoạn quan sát, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009 cho phép thực hiện

việc sa thải công nhân nếu việc này là thật sự cần thiết và khẩn cấp, nhưng chỉ sau

khi đã hỏi ý kiến Hội đồng công ty và các đại biểu nhân sự. Song, kế hoạch sa thải

công nhân phải được nộp lên Tòa án trong vòng một tháng kể từ ngày Tòa án ra

quyết định bắt đầu thực hiện kế hoạch phục hồi doanh nghiệp. Trong trường hợp

này, người quản lý tư pháp chỉ cần thông báo trước cho người lao động trong thời

gian như hợp đồng lao động hoặc pháp luật đã quy định.

4. Nhận xét về các quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi

hoạt động của doanh nghiệp

Những phân tích ở trên cho thấy, mặc dù việc phục hồi hoạt động của doanh

nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán là mục tiêu của Luật phá sản

của Pháp hiện nay, tuy nhiên đây là công việc hết sức phức tạp với nhiều thủ tục,

nhiều quy định liên quan đến nhiều người, nhiều cơ quan. Một điều dễ nhận thấy,

theo Luật phá sản của Pháp, là những quy định về phục hồi hoạt động của doanh

nghiệp mặc dù đã được sửa đồi nhiều lần nhưng những quy định này vẫn còn

nhược điểm là rườm rà, phức tạp với thời hạn để phục hồi lên đến 10 năm và chưa

có quy định về bảo vệ một cách tối ưu quyền và lợi ích của người lao động.

Song, không thể không thừa nhận những điểm tích cực trong các quy định

về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo luật phá sản của Pháp. Những quy

định tích cực đó là:

Thứ nhất, đối tượng được phục hồi không chỉ là các doanh nghiệp mà cả

các cá nhân làm nghề tự do trong lĩnh vực nông nghiệp, thủ công nghiệp ... Điều

này làm cho luật phá sản được cả xã hội đón nhận cũng như nâng cao vai trò của

pháp luật phá sản nói chung và tăng cường tác động của việc thi hành các quy định

về phục hồi hoạt động trong luật phá sản đối với các đối tượng khác nhau;

Thứ hai, việc xác định tình trạng mất khả năng thanh toán được quy định

khá cụ thể dựa trên sự phân biệt tài sản sẵn có và tài sản có. Điểm này sẽ tạo thuận

lợi cho các cơ quan, cho các bộ phận có liên quan trong việc dễ dàng xác định tình

51

trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp;

Thứ ba, vai trò của Tòa án rất quan trọng trong cả quá trình thực hiện thủ

tục phục hồi. Những phân tích ở trên cho thấy Tòa án không chỉ có vai trò quan

trọng trong việc mở thủ tục phá sản mà cả ở thủ tục phục hồi hoạt động của doanh

nghiệp. Với ý nghĩa là cơ quan tư pháp, Tòa án được giao rất nhiều quyền, trong

giai đoạn phục hồi, so với chủ nợ. Chính điều này đã làm cho thủ tục phục hồi

doanh nghiệp được thực hiện hiệu quả hơn;

Thứ tư, những quy định về giai đoạn quan sát với sự ưu đãi dành cho chủ nợ

mới và phương án phục hồi chỉ cần sự “cầm cân nảy mực” của Tòa án đã làm cho

thủ tục phục hồi được quyết định nhanh và hiệu quả hơn. Nói cách khác, việc đưa

ra các quy định về quyền của chủ nợ mới trong giai đoạn phục hồi đã góp phần

thúc đẩy nhanh hơn thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.

52

Chƣơng III

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP THÁO GỠ

TRÊN CƠ SỞ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TỪ PHÁP

Nghiên cứu những quy định về phục hồi doanh nghiệp theo Luật phá sản

của Pháp cho thấy đây là vấn đề hết sức phức tạp. Ngay như Cộng hòa Pháp, một

nước châu Âu phát triển thuộc hệ thống pháp luật Civil Law mà cũng đã nhiều lần

thay đổi, bổ sung luật phá sản nói chung và những quy định về phục hồi doanh

nghiệp nói riêng để làm cho chúng phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp và từ

đó làm cho những quy định này có sức sống trong thực tiễn. Vậy pháp luật phá sản

của Việt Nam thì như thế nào, đặc biệt là những quy định về phục hồi hoạt động

của doanh nghiệp? Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, nền kinh tế

Việt Nam trong giai đoạn đầu (từ năm 1945 đến năm 1986) lại vận hành theo cơ

chế kế hoạch hóa, bao cấp, phi thị trường nên ở giai đoạn này không có luật phá

sản. Mãi đến năm 1993, luật phá sản đầu tiên mới được ban hành và cho đến nay

luật này cũng mới chỉ được sửa đổi 2 lần. Vì vậy, sẽ có rất nhiều vấn đề đặt ra cho

pháp luật phá sản của Việt Nam nói chung và cho những quy định về phục hồi

doanh nghiệp nói riêng.

Để phân tích những vấn đề đặt ra cho pháp luật phá sản của Việt Nam,

trước hết đề tài sẽ đưa ra dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam

trong thời gian tới.

1. Dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời

gian tới

1.1. Cơ sở để dự báo

Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng

phá sản. Đề tài chỉ tập trung xem xét, làm rõ hai yếu tố cơ bản có tác động chung

đến hoạt động kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Đó là

việc Việt Nam gia nhập WTO và tình hình suy thoái kinh tế thế giới có những tác

động như thế nào đến khả năng phá sản của doanh nghiệp. Đây là cơ sở để đề tài

53

đưa ra dự báo:

Thứ nhất, với việc gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với

cạnh tranh ngày càng gay gắt ngay trên sân nhà mà hậu quả tất yếu là doanh

nghiệp yếu kém sẽ bị phá sản nhiều hơn. Đã hơn hai năm kể từ khi Việt Nam trở

thành Thành viên chính thức của WTO (ngày 11/1/2007), bên cạnh những cơ hội

mà WTO mang lại thì doanh nghiệp Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều thách

thức. Thị trường mở cửa dẫn đến cạnh tranh tăng lên làm cho các doanh nghiệp,

đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ khó thích ứng. Thêm vào đó, các

doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều vấn đề như: thiếu kỹ năng và kiến thức

chuyên sâu về quản lý, những rào cản thương mại phi thuế quan ngày càng tinh vi,

vấn đề ngôn ngữ còn nhiều hạn chế, hạ tầng giao thông, viễn thông yếu kém, sức

cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ thấp, năng lực tài chính còn hạn hẹp, Nhà nước

phải xóa bỏ trợ cấp và bảo hộ theo cam kết trong WTO… Những khó khăn này

không được kịp thời giải quyết thì việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước

ngoài sẽ trở nên khốc liệt và chắc chắn, tình trạng phá sản của các doanh nghiệp

Việt Nam sẽ gia tăng.

Thứ hai, tình hình suy thoái kinh tế thế giới sẽ có những tác động tiêu cực

đến tất cả các doanh nghiệp trên thế giới trong đó có doanh nghiệp Việt Nam.

Theo đánh giá của của các tổ chức và chuyên gia trên thế giới, kinh tế thế giới

đang bước vào một thời kì bất ổn với nhiều thách thức. Trong Báo cáo của Ngân

hàng Thế giới ngày 31/3/2009, kinh tế toàn cầu được dự báo là sẽ tăng trưởng âm

1,7% trong cả năm 2009, trong đó nền kinh tế thuộc khối OECD sẽ tăng trưởng âm 3%, các nước đang phát triển tăng trưởng khoảng 2,1% 32. Như vậy, xu thế sụt

giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục diễn ra và Việt Nam cũng không

nằm ngoài những biến động đó. Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu 7

32 Website: http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/EXTDEC/EXTDECPROSPECTS/EXTGBLPROSPECT SAPRIL/0,,menuPK:659178~pagePK:64218926~piPK:64218953~theSitePK:659149,00.html 33 Phạm Đăng Thịnh, “Xuất khẩu chưa hết khó khăn”, Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 30/7/2009, tr.8

tháng đầu năm 2009 mới đạt 32,3 tỷ USD, giảm 13,5% so với cùng kỳ năm 2008 và chỉ bằng 50% kế hoạch đề ra 33. Xuất khẩu giảm sút vì thị trường xuất khẩu chủ

54

yếu của nước ta là Mỹ và châu Âu nên khi các thị trường này rơi vào suy thoái và

lâm vào khó khăn thì nhu cầu giảm sút là điều tất yếu. Việc giảm sút nhu cầu sẽ

làm cho việc xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam vào các thị trường này sẽ ít đi,

mà như thế sẽ tác động đáng kể làm giảm GDP.

Việc hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và các đối tác nước ngoài - nơi

chịu ảnh hưởng của khủng hoảng - sẽ bị gián đoạn hay ngưng trệ do phía bạn gặp

khó khăn trong tài chính. Điều này tác động xấu đến các dự án đầu tư của nhiều

doanh nghiệp Việt Nam. Các hợp đồng thương mại được ký kết với đối tác nước

ngoài đã hoặc đang bị ngưng trệ sẽ đẩy các doanh nghiệp Việt Nam rơi vào rủi ro

do không thu được tiền hàng là rất cao. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến tình hình

tài chính hiện tại của các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp

vừa và nhỏ. Đây sẽ là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những khó

khăn trong thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp và đẩy doanh

nghiệp rơi vào tình trạng phá sản. Theo báo cáo quí I năm 2009 của Bộ Kế hoạch

và Đầu tư, giá trị sản xuất công nghiệp chỉ tăng trưởng ở mức rất thấp (2,1%) so

với cùng kỳ năm 2008, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước đã giảm so với

cùng kỳ, hai khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đầu tư nước ngoài chỉ đạt

tăng trưởng ở mức thấp. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp và các địa phương đều có mức tăng trưởng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm 2008 34. Như vậy, nếu

không có những biện pháp đủ mạnh và hiệu quả, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ

khó tránh khỏi tình trạng phá sản.

1.2. Các con số dự báo

Chiếm một số lượng rất lớn trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam là các

doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo số liệu mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện

cả nước có 349 309 doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký lên

đến 1 389 000 tỷ đồng (tương đương 84,1 tỷ USD). Trong số này, hơn 95% là các

doanh nghiệp nhỏ và vừa tương đương với khoảng trên 331 843 doanh nghiệp. 34 Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư «Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp Quý I năm 2009» Website: http://www.mpi.gov.vn/portal/page/portal/bkhdt/ptktxh/16873/299064?p_page_id=412579&p_cateid=3535 55&item_id=2041211&article_details=1

55

Tuy nhiên trên thực tế, doanh nghiệp nhỏ và vừa không phải là các doanh nghiệp

mạnh; trái lại, các doanh nghiệp này lại là đối tượng dễ bị "tổn thương" nhất khi

nền kinh tế bị rơi vào suy thoái do những hạn chế về công nghệ, về năng lực quản

lý, điều hành, thiếu vốn và thiếu khả năng tiếp cận với thị trường bên ngoài. Chính

các hạn chế này sẽ đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa rơi vào tình trạng khó khăn,

thậm chí phá sản. Thống kê của Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa về tác động của

khủng hoảng kinh tế đối với các doanh nghiệp này cho thấy, trong tổng số các

doanh nghiệp đang hoạt động, doanh nghiệp gặp khó khăn chiếm trung bình

khoảng 70% (tương đương 232 290 doanh nghiệp), số doanh nghiệp rất khó khăn

chiếm đến khoảng 20% (tương đương trên 66 368 doanh nghiệp). Đến nay, trong

tổng số 20% doanh nghiệp nhỏ và vừa đứng bên bờ vực phá sản, đã có tới 7000

doanh nghiệp tuyên bố giải thể và hơn 3000 doanh nghiệp khác đã phải ngừng sản

xuất. Ngoài ra, tính mức trung bình chung cho cả khối doanh nghiệp nhỏ và vừa, mức suy giảm lên tới 30-50% so với trước đây 35.

Theo kết quả Kiểm toán 224/318 doanh nghiệp nhà nước, được Kiểm toán Nhà nước công bố vào ngày 23/7/2009 36, hiện có không ít các doanh nghiệp có

tên tuổi lớn (như Tổng Công ty Xây dựng Công trình giao thông 5, Tổng Công ty

Lắp máy….) có tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu cao hơn mức bình quân chung. Các

doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động bằng vốn vay, vốn chiếm dụng nên cơ cấu tài

chính bấp bênh, chi phí lãi vay cao nên khả năng thua lỗ là điều rất dễ nhận thấy.

Với các con số cảnh báo như vậy, có thể nói, nếu không được tiếp cận kịp thời với

các nguồn vốn và tài chính cần thiết, nếu không có một Luật phá sản với những

quy định phù hợp về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp

nhà nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, bộ phận doanh nghiệp chiếm tỉ trọng lớn

nhất trong nền kinh tế, sẽ có thể bị phá sản hàng loạt. Đây sẽ không chỉ là cú sốc

lớn cho nền kinh tế mà còn là cú sốc lớn đối với sự ổn định của cả nước nói chung

35 Website Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia, “Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp Quý I năm 2009”: http://ncseif.gov.vn/Default.aspx?mod=News&cat=33&nid=13389 36 Phương Quỳnh, “Vẫn là hiệu quả thấp”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 32 ngày 30/7/2009, tr.11

trên cả ba phương diện: kinh tế- chính trị- xã hội.

56

2. Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam

2.1. Những bất cập trong các quy định về phục hồi hoạt động của doanh

nghiệp

Luật phá sản đầu tiên của Việt Nam, Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993,

không quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Những quy định về phục

hồi hoạt động của doanh nghiệp lần đầu tiên được đưa vào Luật Phá sản năm 2004.

Phân tích nội dung của những quy định này có thể nhận thấy những bất cập dưới

đây:

2.1.1. Những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong

Luật Phá sản năm 2004 còn chung chung và sơ sài

Không thể phủ nhận rằng so với Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993, theo

đó không có một quy định nào trong Luật này đề cập đến vấn đề phục hồi hoạt

động của doanh nghiệp, Luật Phá sản năm 2004 đã có sự tiến bộ đáng kể khi dành

hẳn 1 chương - Chương 6 - với 10 điều khoản cụ thể (từ điều 68 đến điều 77) để

quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt, phục hồi doanh

nghiệp được Luật Phá sản năm 2004 coi là một thủ tục tư pháp đặc biệt trong thủ

tục phá sản. Nếu như Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993 chỉ quy định 3 thủ tục

phá sản là nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; Tuyên bố doanh nghiệp bị phá

sản và Thủ tục thanh toán tài sản của doanh nghiệp thì Luật Phá sản năm 2004 quy

định thủ tục phá sản bao gồm 4 thủ tục: a) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;

b) Phục hồi hoạt động kinh doanh; c) Thanh lý tài sản, các khoản nợ; d)Tuyên bố

doanh nghiệp bị phá sản. Cũng giống như ở Pháp, Luật Phá sản năm 2004 quy

định rằng sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, Tòa án (Thẩm phán) sẽ quyết

định áp dụng một trong hai thủ tục được quy định ở điểm b) và điểm c) hoặc quyết

định chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang thủ tục thanh

lý tài sản hoặc tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.

Tuy nhiên, so với quy định trong Luật phá sản của Pháp, thủ tục phục hồi

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 được quy

định rất đơn giản và quá sơ sài. Thủ tục này chỉ gồm 7 bước ( xem sơ đồ 4 ).

57

Sơ đồ 4:

Sơ đồ thủ tục phục hồi doanh nghiệp theo Luật phá sản Việt Nam 2004

Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Tòa án thụ lý đơn

Mở thủ tục thanh lý tài sản

Mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

Phản đối

Họp hội nghị chủ nợ lần 1 về giải pháp tổ chức lại hoạt động của doanh nghiệp

Tán thành

Doanh nghiệp xây dựng phương án phục hồi

Phản đối

Tòa án triệu tập Hội nghị chủ nợ để thông qua phương án phục hồi

Tán thành

Thẩm phán ra quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi của doanh nghiệp

Tiến hành phục hồi (thời hạn 3 năm)

Thành công

Thất bại

Đình chỉ thủ tục

Nguồn: Tác giả tự sơ đồ hóa dựa trên các quy định của Luật Phá sản năm 2004

58

Nhìn từ sơ đồ 4 ở trên có thể thấy 7 bước đó là: (1) Họp Hội nghị chủ nợ

lần thứ nhất để thông qua Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp và kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ; (2)

Doanh nghiệp xây dựng phương án phục hồi và nộp cho Tòa án; (3) Thẩm phán

xem xét phương án phục hồi; (4) Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ để thông

qua phương án phục hồi do doanh nghiệp xây dựng; (5) Thẩm phán ra quyết định

công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi của doanh

nghiệp; (6) Quá trình phục hồi dưới sự giám sát của Hội nghị chủ nợ (với khoảng

thời gian tối đa là 3 năm); (7) Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi (khi thực hiện xong phương án phục hồi) 37.

So với luật của Pháp, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh theo Luật Phá

sản năm 2004 của Việt Nam còn quá chung chung, sơ sài vì thiếu hẳn những quy

định về bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi ở giai

đoạn thi hành thủ tục phục hồi; thiếu những quy định về vai trò giám sát của Tòa

án ở giai đoạn này với ý nghĩa là cơ quan tư pháp, thiếu những quy định xử lý sự

không thiện chí của Hội nghị chủ nợ khi được Thẩm phán triệu tập họp v.v…

Chính vì vậy, việc thi hành các quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam trong thực tế gặp rất

nhiều khó khăn.

2.1.2. Đối tượng được quyền nộp đơn xin mở thủ tục phá sản trong Luật

Phá sản năm 2004 chưa bám sát với thực tiễn hoạt động kinh doanh của Việt

Nam

Nếu như đối tượng được áp dụng thủ tục phá sản theo luật của Pháp là khá

bao quát, bao gồm cả các cá nhân và pháp nhân, thì đối tượng được quyền nộp đơn

xin mở thủ tục phá sản nói chung, và từ đó là thủ tục phục hồi nói riêng trong Luật

Phá sản năm 2004 của Việt Nam chỉ dừng lại ở doanh nghiệp, hợp tác xã và liên

hiệp hợp tác xã mà chưa mở rộng cho hộ gia đình, các cá nhân kinh doanh. Trong

37 Xem các quy định về vấn đề này ở điều 68 đến điều 77 của Luật Phá sản năm 2004

hoạt động của mình, các chủ thể kinh doanh này cũng có khả năng bị thua lỗ. Họ

59

cũng cần một cơ chế xử lý nợ và phục hồi hoạt động kinh doanh. Như đã phân tích

ở trên, phá sản không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi của các doanh nghiệp

gặp khó khăn trong kinh doanh. Quyền của những chủ thể là hộ gia đình và các cá

nhân kinh doanh trong nền kinh tế cũng cần được pháp luật bảo vệ. Chưa kể, đóng

góp của các chủ thể này vào tổng sản phẩm quốc nội là không nhỏ. Theo thống kê

của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hộ kinh doanh cá thể và các cá nhân kinh doanh đóng

góp khoảng 13% GDP của cả nước (năm 2007) trong số đó chỉ có khoảng 30% hộ đăng ký và 30% hộ chưa đăng ký còn lại là không đăng ký kinh doanh 38. Với

những số liệu còn thiếu và chưa sát với thực tế mà số đóng góp của các cá nhân và

hộ kinh doanh cá thể đã lên tới 13% GDP của cả nước thì có thể khẳng định Luật

phá sản không thể xem nhẹ vai trò của loại hình chủ thể kinh doanh này. Các cá

thể, hộ gia đình kinh doanh là một mắt xích của nền kinh tế mà nếu phá vỡ một

cách không có sự kiểm soát do họ là đối tượng nằm ngoài sự điều chỉnh của luật

phá sản có thể dẫn tới sự bất ổn, từ đó gây khó khăn chung cho nền kinh tế. Rõ

ràng, Luật Phá sản năm 2004 đã bỏ sót một loại hình chủ thể kinh doanh quan

trọng. Điều này cho thấy những quy định này của Luật chưa bám sát thực tiễn kinh

doanh ở Việt Nam.

Kinh nghiệm của Pháp còn cho thấy, liên quan đến đối tượng được quyền

nộp đơn mở thủ tục phá sản, Luật của Pháp còn quy định cả Tòa án, Viện kiểm sát

cũng có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản và phục hồi. Đây là một điểm rất tiến

bộ trong công tác quản lý tình trạng phá sản mà pháp luật phá sản của Việt Nam

chưa đạt được. Điều đó cho thấy rằng ở Pháp, các cấp quản lý có thể nắm thông tin

về doanh nghiệp một cách tương đối rõ ràng. Nếu họ nhận ra quá trình hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp không hiệu quả, dẫn tới mất khả năng thanh toán các

khoản nợ đến hạn thì chính họ có thể yêu cầu mở thủ tục phá sản và phục hồi hoạt

động. Nếu đưa những quy định này vào luật phá sản của Việt Nam thì các doanh

nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản sẽ không thể trốn tránh mà bắt buộc

38 Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), tính toán từ số liệu thống kê điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2007 của Tổng cục Thống kê

phải mở thủ tục phá sản và thủ tục phục hồi. Bằng cách đó, Tòa án, với tư cách là

60

cơ quan tư pháp có thể tận dụng được nhiều hơn cơ hội tiến hành kịp thời thủ tục

phụ hồi hoạt động kinh doanh, cứu doanh nghiệp khỏi nguy cơ phá sản.

2.1.3. Quy định chưa hợp lý về số lượng thành viên và sự tham gia của

Tòa án vào thủ tục phục hồi hoạt động

Sự chưa hợp lý trong các quy định về vấn đề này thể hiện ở những điểm sau

đây:

Thứ nhất, Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng

Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao quy định rằng các trường hợp cần phải do tổ

Thẩm phán gồm 3 người tiến hành thủ tục phá sản trong trường hợp“…có nhiều

chủ nợ hoặc người mắc nợ tại nhiều tỉnh khác nhau hoặc ở nước ngoài”. Với quy

định như vậy, thủ tục phục hồi hoạt động hầu như sẽ chắc chắn phải do tổ Thẩm

phán gồm ba người đảm trách. Quy định này gây nhiều khó khăn cho các Tòa án vì

nó đòi hỏi phải có rất nhiều Thẩm phán tham gia. Tuy nhiên, ngay cả Tòa kinh tế

thuộc Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất đất nước cũng chỉ có 8

thẩm phán và nếu thành lập các tổ chuyên trách về thủ tục phá sản gồm 3 người thì

sẽ chỉ có chưa đầy 3 tổ. Trong khi đó, số vụ phá sản mà Tòa kinh tế thuộc Tòa án

nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý, tính từ ngày Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến cuối năm 2006, đã lên tới 22 vụ 39. Có nghĩa là nếu làm đúng Nghị

quyết số 03 nói trên thì một Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trung bình trên 8 vụ

phá sản. Trong khi đó, trên thực tế, chỉ có 1 Thẩm phán tiến hành tất cả số vụ việc trên 40. Việc quy định thành lập tổ Thẩm phán gồm 3 người như vậy là chưa phù

hợp với thực tiễn hoạt động của các Tòa án ở Việt Nam.

Thứ hai, vai trò của Tòa án trong thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục

hồi doanh nghiệp nói riêng chưa được đề cao. So sánh với Luật của Pháp, chúng ta

thấy có sự khác biệt rất rõ rệt. Theo Luật của Pháp như sơ đồ 3 tại chương 2 cho

thấy, Tòa án đóng vai trò quyết định cao nhất trong cả quá trình thực hiện thủ tục

phục hồi, từ việc chỉ định, giao nhiệm vụ cho đến đình chỉ hoạt động của các cơ 39 Bộ Tư Pháp, Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004, ngày 29/12/2008 40 Nguồn: Phạm Xuân Thọ - Chánh tòa kinh tế Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh,“Giải quyết phá sản tại thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng, vướng mắc và kiến nghị”- Bài phát biểu tại Hội thảo về Luật Phá sản năm 2004: những vướng mắc và giải pháp khắc phục, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006

61

quan tham gia vào quá trình phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Thậm chí, Tòa

án có thẩm quyền ra quyết định thông qua hoặc hủy bỏ phương án và kế hoạch

phục hồi doanh nghiệp. Điều này sẽ thúc đẩy mọi thủ tục phục hồi được diễn ra

nhanh chóng và hiệu quả. Trong khi đó, theo Luật Phá sản năm 2004 của Việt

Nam, vai trò quyết định việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lại thuộc về các

chủ nợ. Và các chủ nợ thì lại thường có xu hướng không hợp tác mà muốn xóa sổ

càng nhanh càng tốt những doanh nghiệp là con nợ của mình. Đây cũng chính là

nguyên nhân khiến cho việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp hầu như không

thể thực hiện ở Việt Nam trong thời gian qua.

2.1.4. Chưa quy định về giai đoạn quan sát trong thủ tục phục hồi hoạt

động của doanh nghiệp

Luật Phá sản Việt Nam năm 2004 không quy định giai đoạn quan sát trong

thủ tục phục hồi (xem phụ lục 1). Trong khi đó, theo Luật của Pháp, thủ tục quan

sát được quy định rất chi tiết và cụ thể. Từ khi Tòa án Pháp bắt đầu giai đoạn quan

sát tới khi ra quyết định phục hồi doanh nghiệp, thời gian có thể kéo dài tới 18

tháng. Khoảng thời gian này theo Luật Việt Nam được tính từ khi hội nghị chủ nợ

lần thứ nhất thông qua quyết định công nhận Nghị quyết về phương án phục hồi

hoạt động đến khi Thẩm phán ra Nghị quyết chấp nhận phương án phục hồi hoạt

động của Doanh nghiệp. Khoảng thời gian đó chỉ kéo dài tối đa là 85 ngày, nghĩa

là chưa đầy ba tháng. Thời gian như vậy là quá ít để xem xét một phương án phục

hồi hoạt động kinh doanh đặc biệt là khi doanh nghiệp vừa mới làm đơn yêu cầu

mở thủ tục phá sản. Thực tế, phương án phục hồi hoạt động kinh doanh giữ vai trò

quan trọng, là điều kiện để chữa lành bệnh cho doanh nghiệp trong thời kỳ khó

khăn này. Nó phải được cân nhắc về tính kinh tế, sự hiệu quả cũng như tính khả thi

để có thể phục hồi doanh nghiệp. Nếu như tính toán sai lầm trong bước này thì

chẳng những doanh nghiệp không thể phục hồi được mà có thể còn vấp phải những

khó khăn ngày càng trầm trọng hơn. Điều này đòi hỏi phải có thời gian. Vì vậy

giai đoạn quan sát là rất cần thiết. Một điều đáng tiếc là Luật Phá sản năm 2004 lại

không quy định về giai đoạn quan sát.

62

2.1.5. Chưa có quy định về chủ nợ mới phát sinh trong quá trình phục

hồi hoạt động của doanh nghiệp

Như đã phân tích ở trên, khi quá trình phục hồi doanh nghiệp diễn ra, về

bản chất, doanh nghiệp vẫn thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy,

những giao dịch mới, những quan hệ vay nợ mới phát sinh là điều đương nhiên và

dễ hiểu. Tuy nhiên, điểm bất cập trong Luật Phá sản năm 2004 thể hiện ở chỗ Luật

không có bất cứ quy định nào liên quan đến chủ nợ mới. Trong khi đó, theo Luật

phá sản của Pháp, các mối quan hệ với chủ nợ mới vẫn được pháp luật bảo vệ, theo

đó, chủ nợ mới sẽ được ưu tiên trả nợ đúng hạn hoặc ưu tiên trả nợ trước chủ nợ cũ

cho dù chủ nợ cũ là chủ nợ có đảm bảo hay không có đảm bảo. Bằng cách quy

định như vậy, các nhà làm luật của Pháp đã đảm bảo, bằng luật pháp, quyền lợi

cho các chủ nợ mới, giúp cho họ có thể yên tâm khi quyết định đặt quan hệ kinh

doanh với doanh nghiệp đang cần phục hồi. Thiếu những quy định như thế này

nghĩa là thiếu đi sự cam kết đối với các chủ nợ mới và làm cho quá trình phục hồi

doanh nghiệp không thể diễn ra một cách suôn sẻ bởi vì doanh nghiệp sẽ rất khó

khăn khi phải xoay xở với số vốn ít ỏi còn lại sau khi mở thủ tục phá sản. Ngược

lại, cách quy định trong Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam lại xây dựng quá

trình phục hồi doanh nghiệp theo hướng hầu như phụ thuộc quá nhiều vào các chủ

nợ cũ. Điều này sẽ khiến thủ tục phục hồi doanh nghiệp trở nên khó khăn vì các

chủ nợ cũ được quyền quyết định phương án phục hồi do doanh nghiệp đề xuất.

Trong thực tế, các chủ nợ cũ sẽ muốn cho doanh nghiệp này “sớm chết đi” để họ

còn vớt vát phần nào trong việc chia tài sản còn lại của doanh nghiệp đó, hơn là

phải tìm cách cho doanh nghiệp “sống lại” với nỗi lo âu tiếp diễn của các chủ nợ

cũ. Thủ tục phục hồi vì vậy sẽ không còn hiệu quả nếu không muốn nói là bất khả

thi.

2.1.6. Chưa có những quy định để giảm nhẹ khó khăn về tài chính cho

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Doanh nghiệp muốn hồi phục, ngoài ý chí chủ quan của các bên thể hiện

trong phương án phục hồi hoạt động, cần có những điều kiện cần thiết về khả năng

tài chính và cần có sự khuyến khích của Nhà nước. Một trong những chính sách

63

khuyến khích của Nhà nước có thể có ở đây là quy định không tính lãi đối với các

khoản nợ của doanh nghiệp khi họ đang ở giai đoạn phục hồi nhằm giảm nhẹ gánh

nặng tài chính cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên Luật Phá

sản năm 2004 không đưa ra quy định này ở thủ tục phục hồi mà lại áp dụng ở thủ

tục thanh lý (Điều 34). Điều này cho thấy Luật Phá sản năm 2004 chưa coi phục

hồi hoạt động kinh doanh là mục tiêu hướng tới. Và đây cũng là một trong những

nguyên nhân khiến cho việc thi hành các quy định về phục hồi hoạt động kinh

doanh trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Nói cách khác, nếu không có những

quy định hỗ trợ, khuyến khích của Luật để giảm nhẹ khó khăn về tài chính cho

doanh nghiệp thì thủ tục phục hồi rất khó thi hành. Đây là một điểm bất hợp lý của

Luật Phá sản Việt Nam. Trong khi đó, ở Pháp, việc phục hồi doanh nghiệp có

được rất nhiều sự hậu thuẫn từ những quy định của chính luật phá sản. Về vay nợ,

luật phá sản của Pháp không có bất cứ quy định nào giới hạn khả năng vay nợ của

các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như Luật Phá sản năm 2004 của Việt

Nam. Bên cạnh đó, luật phá sản của Pháp còn cho phép Thẩm phán được quyền

giãn nợ cho con nợ trong mọi trường hợp. Thẩm phán chỉ không có quyền xóa nợ

mà thôi. Đây là quy định có thể làm thay đổi toàn bộ tình hình phục hồi doanh

nghiệp. Với Luật Phá sản 2004 của Việt Nam, mọi quyết định đều phải dựa vào sự

thông qua của Hội nghị chủ nợ nên sự lệ thuộc của con nợ vào chủ nợ là rất lớn.

Nếu chủ nợ không có thiện chí thì sẽ rất khó khăn khi Tòa án muốn can thiệp tích

cực hơn vào quá trình phục hồi doanh nghiệp.

2.1.7. Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp còn quá lệ thuộc vào

chủ nợ và thời hạn để thực hiện phương án phục hồi quá ngắn

Một điều rất dễ nhận biết khi nghiên cứu những quy định trong Luật Phá sản

năm 2004 là thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào

chủ nợ. Ví dụ, điều 68 quy định rằng Thẩm phán ra quyết định áp dùng thủ tục

phục hồi hoạt động kinh doanh “sau khi Hội nghị lần thứ nhất thông qua Nghị

quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, phương án phục

hồi hoạt động kinh doanh” (xem phụ lục 1). Sau khi có phương án phục hồi, Thẩm

phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thảo luận về phương án đó và

64

phương án đó “chỉ được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có đảm bảo có

mặt đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có đảm bảo trở lên biểu quyết tán thành”.41

Quy định này cho thấy chỉ cần số chủ nợ không có đảm bảo đến dự họp

không đủ thì phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ

không thể thông qua được. Việc đề cao vai trò của Hội nghị chủ nợ khi thi hành

thủ tục phục hồi doanh nghiệp đã giải thích vì sao trong cả quãng thời gian từ khi

Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến nay, hầu như không một trường hợp nào

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được phục hồi, được tái tạo. Đây là điểm

khác biệt của Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam so với Luật phá sản hiện hành

của Pháp. Luật phá sản của Pháp trao quyền ra quyết định các bước, các giai đoạn

trong quá trình phục hồi cho Tòa án với tư cách là cơ quan có thẩm quyền. Điều

này cho thấy thủ tục phục hồi hoạt động tại Pháp được thúc đẩy nhanh chóng và

hiệu quả hơn.

Ngoài ra, Luật Phá sản năm 2004 quy định thời hạn tối đa để thực hiện

phương án phục hồi hoạt động kinh doanh chỉ có 3 năm (điều 74), trong khi đó,

theo luật của Pháp là 10 năm. Để thực hiện phương án phục hồi 1 doanh nghiệp đã

lâm vào khó khăn thì 3 năm là khoảng thời gian quá ngắn và không hợp lý.

2.2. Việc thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo quy định

của Luật Phá sản năm 2004 trong thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn

Ngoài những bất cập trong quy định về phục hồi doanh nghiệp, một vấn đề

nổi cộm đặt ra khi nghiên cứu pháp luật phá sản của Việt Nam là việc thi hành các

quy định của luật về phục hồi doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn. Những

khó khăn đó là:

2.2.1. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn xa lạ với vấn đề phục hồi

doanh nghiệp

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập năm 1945. Cho đến tận

năm 1993, Việt Nam mới ban hành Luật phá sản Doanh nghiệp. Nghĩa là trong

suốt 27 năm trước đó, hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam hầu như không 41 Khoản 2, Điều 71, Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam

65

chịu sự tác động của luật phá sản. Những doanh nghiệp làm ăn kém, lúc này, chủ

yếu là doanh nghiệp nhà nước, chỉ bị sát nhập hoặc giải thể. So với phá sản, biện

pháp giải thể đơn giản hơn nhiều về mặt thủ tục. Doanh nghiệp chỉ cần phải gửi

quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong đó có cam kết chịu trách

nhiệm trước pháp luật về những tranh chấp phát sinh liên quan đến các khoản nợ

được kê khai trong quyết định giải thể là sẽ được giải quyết. Các tranh chấp liên

quan đến giải thể là tranh chấp dân sự và được Bộ luật Dân sự điều chỉnh. Bên

cạnh đó, ngay sau khi giải thể, chủ doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục thành lập một

doanh nghiệp mới hoặc điều hành một công ty khác còn phá sản thì không được

phép như vậy. Giải thể là một giải pháp đơn giản và tiết kiệm hơn so với thủ tục

phá sản. Vì vậy, phá sản và pháp luật về phá sản đã rất xa lạ với doanh nghiệp Việt

Nam nói chung và doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nói riêng trong nhiều năm.

Trong quan niệm của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khối doanh

nghiệp nhà nước, phá sản vẫn là một hình phạt nặng nề mang tính răn đe nhiều hơn

là mang tính tích cực; với nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, phá sản và bị tuyên bố

phá sản là xấu, là tiêu cực. Chính sự thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết chưa đầy đủ về

mục tiêu của luật phá sản cùng những lợi ích có phần không rõ ràng cho doanh

nghiệp trong những quy định về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

theo Luật Phá sản năm 2004 đã khiến doanh nghiệp thường tìm mọi cách để né

tránh việc áp dụng Luật. Thực tế này đã làm cho các doanh nghiệp lâm vào tình

trạng phá sản luôn bị động và thụ động trong việc nắm bắt và thực thi pháp luật về

phá sản.

Ngoài ra, như đã nói ở trên, Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993 lại không

quy định về phục hồi doanh nghiệp, do vậy, trong nhận thức của doanh nghiệp

Việt Nam, phá sản đồng nghĩa với “cái chết” của doanh nghiệp mà ít ai quan tâm

đến khả năng “sống” của nó để tìm cách phục hồi khả năng kinh doanh của các

doanh nghiệp này. Vì vậy, khi Luật Phá sản năm 2004 được ban hành, những quy

định về phục hồi doanh nghiệp và thủ tục phải tuân thủ khi muốn phục hồi doanh

nghiệp vẫn thật sự xa lạ đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, đối với các

doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đối với các chủ nợ và thậm chí đối với các cơ quan

66

quản lý của Nhà nước, trong đó có Tòa án và Thẩm phán cùng tổ quản lý, thanh lý

tài sản nói riêng.

Tình trạng này tất yếu làm giảm hiệu quả thực thi Luật Phá sản năm 2004

nói chung và những quy định về phục hồi doanh nghiệp nói riêng. Trong Báo cáo

rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004 do Bộ Tư pháp trình

Thủ tướng Chính phủ ngày 29/12/2008 gồm 55 trang với nhiều nội dung đánh giá

nhưng lại không có một trang nào, đoạn nào, dòng nào phân tích về thực trạng thi hành các quy định (ở chương VI) của Luật về phục hồi doanh nghiệp 42. Điều này

cho thấy những quy định về phục hồi doanh nghiệp vẫn còn rất xa lạ với doanh

nghiệp Việt Nam, kể cả với Bộ Tư pháp Việt Nam.

Đây là những khó khăn rất đáng phải chú ý và phải có giải pháp tháo gỡ để

vấn đề phục hồi doanh nghiệp được quy định trong Luật Phá sản năm 2004 thật sự

có “đất sống” trong thời gian tới.

2.2.2. Chưa có sự tuyên truyền đầy đủ về mục tiêu tích cực trong các quy

định về phục hồi doanh nghiệp trong Luật Phá sản năm 2004

Luật Phá sản năm 2004 đã có hiệu lực 5 năm tính đến tháng 7/ 2009. Tuy

nhiên, việc tuyên truyền, giới thiệu về nội dung của Luật cũng như về mục tiêu của

vấn đề phục hồi doanh nghiệp còn chưa tích cực. Các quảng cáo trên các phương

tiện thông tin đại chúng chủ yếu mới chỉ là dành cho các chương trình phát triển

thương hiệu, giới thiệu sản phẩm, ca nhạc, cuộc thi hoa hậu…mà chưa có chương

trình giới thiệu về Luật Phá sản năm 2004 cũng như ý nghĩa của vấn đề phục hồi

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Thế giới ngày nay đang chứng kiến những vụ phá sản tầm cỡ của các doanh

nghiệp, ngân hàng Mỹ và những vụ phục hồi doanh nghiệp nối tiếp như vụ công ty

Kmart- một hãng bán lẻ giá rẻ của Mỹ, đã nộp đơn xin mở thủ tục phá sản vào

tháng 1 năm 2002 và đã phục hồi khi được sáp nhập với hãng bán lẻ Sears vào

42 Bộ Tư pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004” ngày 29/12/2008 43 Website: http://money.cnn.com/2004/11/17/news/fortune500/sears_kmart/

năm 2004, dẫn đến kết quả là giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến 700% vào năm 2005 43. Còn hãng KPMG, một hãng kế toàn tầm cỡ thế giới với 2000 chuyên gia

67

chuyên làm nhiệm vụ phục hồi các công ty đã và đang rất tự hào về công việc của mình 44. Giá như Việt Nam tuyên truyền sâu rộng về những trường hợp này thì

chắc chắn sẽ có tác động tích cực đến việc thi hành Luật phá sản nói chung và thực

hiện các quy định về phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng.

Nếu việc tuyên truyền về Luật phá sản không được chú trọng, nếu như việc

thi hành thủ tục phục hồi doanh nghiệp được quy định trong Luật Phá sản năm

2004 không được nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan thì tình trạng xa lạ

này sẽ vẫn tiếp tục tái diễn và một lần nữa có thể nói rằng, các doanh nghiệp, hợp

tác xã lâm vào tình trạng phá sản của Việt Nam vẫn có nhiều lý do để “không

thích” Luật Phá sản năm 2004 và điều này sẽ là một trong những quyên nhân để

“Luật Phá sản năm 2004 tiếp tục bị phá sản”.

2.2.3. Các doanh nghiệp là chủ nợ không thiện chí, không muốn thi hành

Luật phá sản và các quy định về phục hồi doanh nghiệp

Bản thân các chủ nợ là người có quyền đòi nợ cũng không mặn mà với việc

áp dụng luật Phá sản như một công cụ để tự bảo vệ lợi ích của mình. Nguyên nhân

là do theo quy định thì một doanh nghiệp khi mở thủ tục phá sản bắt buộc phải

thông báo công khai cho các tất cả các chủ nợ biết. Các chủ nợ hiểu điều này và họ

cũng hiểu rằng nếu như tất cả các con nợ cùng đến đòi nợ và cùng xếp hàng theo

thứ tự ưu tiên thì chưa chắc đã đến lượt mình. Điều này giải thích tại sao các chủ

nợ thường tìm một con đường ngắn hơn và trực tiếp hơn để có thể đòi được toàn

bộ khoản nợ từ con nợ như việc phát đơn kiện ra tòa để con nợ bồi hoàn khoản nợ

theo sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. Bằng cách này hay cách khác, chủ nợ cố

tình tránh việc áp dụng các quy định của Luật phá sản về phục hồi hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp. Đây là một trong những khó khăn đối với việc thi hành

các quy định về phục hồi hoạt động trong Luật Phá sản năm 2004.

2.2.4. Vai trò của Tòa án còn mờ nhạt

Mặc dù Luật Phá sản năm 2004 quy định chức năng và nhiệm vụ của Tòa

44 Viện nghien cứu Khoa học thị trường và giá cả, “Luật phá sản của Trung Quốc và một số nước Tây Âu”, Hà Nội năm 1990, tr.104

án trong quá trình tiến hành phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, tuy nhiên,

68

những chức năng, nhiệm vụ này lại cho thấy vai trò của Tòa án là rất mờ nhạt so

với vai trò của Hội nghị chủ nợ. Hầu như Toàn án chỉ giữ vai trò thụ động trong

việc thi hành thủ tục này. Ví dụ, điều 68 quy định rằng Tòa án (Thẩm phán) ra

quyết định phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ nợ đã thông qua

Nghị quyết đồng ý với giải pháp phục hồi của doanh nghiệp .Tuy nhiên, Luật lại

không quy định cách xử lý hay vai trò của Tòa án trong trường hợp Hội nghị chủ

nợ không thông qua phương án phục hồi của doanh nghiệp. Hoặc, điều 70 quy

định trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được phương án phục hồi, Tòa án

(Thẩm phán) phải xem xét để ra một trong hai quyết định: hoặc đưa phương án ra

Hội nghị chủ nợ xem xét để quyết định, hoặc cho sửa đổi, bổ sung phương án. Như

vậy, hầu như các ý kiến quyết định cuối cùng là Hội nghị chủ nợ chứ không phải là

Tòa án. Cách quy định như trên đã làm giảm vai trò của Tòa án trong quá trình

phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.

Một điểm nữa cho thấy vai trò mờ nhạt của Tòa án trong quá trình phục

hồi hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến vai trò của Tòa án đối với hội nghị

chủ nợ đó là : Hội nghị chủ nợ được quy định là do Thẩm phán triệu tập. Đây là

quy định làm giảm vai trò quyết định của Tòa án và làm cho các quyết định đưa ra

có thể bị chậm trễ. Theo quy định tại khoản 2 và 3, điều 73 Luật Phá sản năm

2004, chủ nợ có nghĩa vụ giám sát thực hiện phương án phục hồi còn Tòa án chỉ

nhận được bản báo cáo về tình hình thực hiện phương án phục hồi 6 tháng một lần.

Có nghĩa là 6 tháng một lần, Tòa án hay chính xác hơn là Thẩm phán, người có

tiếng nói quyết định trong việc triệu tập hội nghị chủ nợ mới có được thông tin về

tình hình thực hiện phục hồi doanh nghiệp. Trong vòng 6 tháng đó, có thể có

những lần mà đáng ra hội nghị chủ nợ cần phải họp để ra quyết định thì lại bị bỏ

qua và Tòa án phải chờ đợi một cách thụ động. Điều này dẫn tới việc chậm trễ

trong thay đổi phương án phục hồi hoạt động và có thể trở thành nguyên nhân trực

tiếp ảnh hưởng đến chất lượng cũng như hiệu quả của thủ tục phục hồi doanh

nghiệp.

69

3. Đề xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp

3.1. Khẳng định rõ mục tiêu của luật phá sản Việt Nam là phục hồi hoạt

động của doanh nghiệp

Bài học đầu tiên rút ra từ kinh nghiệp của Pháp là cần khẳng định rõ mục

tiêu của luật phá sản là phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên

cứu lịch sử luật phá sản của Pháp cho thấy, bản thân pháp luật của Pháp đã từng có

quan điểm rất bảo thủ khi ban hành luật phá sản thời kỳ trước đây, theo đó, mục

tiêu của luật phá sản thời kỳ này là bảo vệ chủ nợ và trừng phạt con nợ. Cùng với

năm tháng, tư duy này đã thay đổi và trong vòng 20 năm trở lại đây, Pháp đã xác

định rõ mục tiêu của luật phá sản ngày nay của Pháp là phục hồi và tái tạo doanh

nghiệp. Những vụ phá sản trở nên ít hơn nhờ hàng loạt các quy định mới về thủ tục

cứu doanh nghiệp, về bảo hộ doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh

toán… Đây chính là kinh nghiệm mà Việt Nam cần tham khảo.

Nếu như Luật phá sản đầu tiên của Việt Nam không quy định về phục hồi

doanh nghiệp thì Luật Phá sản năm 2004 tiến bộ hơn khi đưa vào 10 điều khoản cụ

thể về thủ tục phục hồi. Tuy nhiên, nghiên cứu 10 điều khoản này có thể thấy

chúng vẫn chỉ là những thủ tục pháp lý đơn lẻ, chưa phải là mục tiêu chính mà

Luật Phá sản năm 2004 hướng tới. Vì vậy, đề tài cho rằng, các nhà làm luật của

Việt Nam phải đổi mới tư duy, phải thay đổi cách tiếp cận khi xây dựng, sửa đổi,

bổ sung và hoàn thiện luật phá sản Việt Nam. Phải coi việc phục hồi hoạt động

kinh doanh nhằm tái tạo doanh nghiệp là mục tiêu quan trọng nhất của luật phá

sản. Chỉ có như vậy, luật phá sản hiện hành của Việt Nam mới không tiếp tục “phá

sản”.

3.2. Các giải pháp sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật Phá sản năm

2004 về phục hồi doanh nghiệp

Bài học thứ hai từ Pháp là cần tiếp tục sửa đổi các quy định của Luật Phá

sản năm 2004 về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Từ việc nghiên cứu kinh

nghiệm của Pháp trong việc hoàn thiện các quy định về phục hồi doanh nghiệp và

cũng để Luật Phá sản năm 2004 mang tính thực tiễn cao hơn, đề tài đề xuất các

giải pháp cụ thể sau đây:

70

3.2.1. Mở rộng đối tượng áp dụng tại điều 2 của Luật Phá sản năm 2004

Vận dụng kinh nghiệm từ Pháp, để mở rộng đối tượng tại điều 2 này, cần bổ

sung những quy định mới về phục hồi doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Đề tài cho

rằng, cần phải bổ sung đối tượng áp dụng của Luật thêm 2 đối tượng là cá nhân và

hộ kinh doanh cá thể. Theo Luật Phá sản năm 2004, đối tượng áp dụng là doanh

nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhưng không

có cá nhân và hộ kinh doanh cá thể. Từ kinh nghiệm của Pháp, đề tài cho rằng cần

bổ sung hai đối tượng này vào Luật. Đưa thêm 2 đối tượng này vào Luật phá sản

thì sau này, trong quá trình hoạt động, nếu bị phá sản, họ cũng sẽ được áp dụng các

quy định về phục hồi hoạt động kinh doanh của mình. Việc bổ sung hai đối tượng

này sẽ làm cho Luật phá sản Việt Nam năm 2004 phù hợp với thực tiễn hoạt động

kinh doanh của Việt Nam cũng như tương thích với luật của Pháp và luật của các

nước khác.

3.2.2. Bổ sung những quy định tại chương VI, mục 1 của Luật Phá sản

năm 2004 về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

Như đã phân tích ở phần trên, với 10 điều từ điều 68 đến điều 77, những

quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trong Luật Phá sản năm 2004

là quá sơ sài và thiếu tính khả thi. Vì vậy, từ kinh nghiệm của Pháp, đề tài cho rằng

cần có sự bổ sung, sửa đổi để những quy định này mang tính thực tiễn cao hơn. Cụ

thể, cần bổ sung những quy định dưới đây vào chương VI, mục 1 của Luật Phá sản

năm 2004:

Thứ nhất, Bổ sung các quy định tăng cường vai trò của Tòa án trong quá

trình phục hồi doanh nghiệp. Có thể nói, Luật phá sản của Việt Nam cần thay đổi

tư duy nhìn nhận về vai trò của Tòa án trong cả quá trình phục hồi hoạt động của

doanh nghiệp. Là một nước phát triển ở Châu Âu, các doanh nghiệp của Pháp là

các doanh nghiệp có thế mạnh về vốn, về công nghệ, về năng lực quản lý…Tuy

vậy, khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, để được phục hồi hoạt động,

các doanh nghiệp này vẫn cần sự hỗ trợ rất nhiều của Tòa án thông qua Chánh án,

Thẩm phán, ủy viên (xem thêm sơ đồ 3) với rất nhiều quyền lực. Vì vậy, đề tài cho

rằng cần tăng cường hơn nữa vai trò của Tòa án Việt Nam trong quá trình thực

71

hiện thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp: Tòa án phải là người kiểm tra,

giám sát và toàn quyền ra quyết định. Hội nghị chủ nợ chỉ nên có ý kiến đề xuất.

Thứ hai, bổ sung giai đoạn giám sát và cơ quan giám sát vào quá tình thực

hiện thủ tục phục hồi. Kinh nghiệm của Pháp cho thấy, giai đoạn giám sát có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Vì

vậy, đề tài cho rằng cần học tập kinh nghiệm của Pháp về vấn đề này. Nghĩa là cần

bổ sung giai đoạn giám sát vào thủ tục phục hồi doanh nghiệp, như Luật phá sản

của Pháp quy định. Để giai đoạn giám sát có thể được thực hiện hiệu quả, cần đưa

vào chương VI những quy định cho phép thành lập cơ quan giám sát. Đó là các

chủ nợ nhưng bên cạnh các chủ nợ này còn có Viện Kiểm sát và Đại diện người

lao động (như sơ đồ 3 đã trình bày). Đây là kinh nghiệm rất hay trong Luật của

Pháp và nó cũng dễ dàng thực thi ở Việt Nam. Chỉ có điều là cần phải bổ sung vào

chương VI, mục 1 của Luật Phá sản năm 2004 về chức năng, nhiệm vụ của các cơ

quan này trong giai đoạn giám sát.

Thứ ba, bổ sung những quy định về chủ nợ mới, trong đó phải quy định

quyền được ưu tiên thanh toán trước các khoản nợ của chủ nợ mới so với các chủ

nợ cũ. Kinh nghiệm của Pháp cho thấy việc quy định cho phép chủ nợ mới được

xuất hiện trong giai đoạn phục hồi sẽ làm cho việc phục hồi có tính khả thi cao

hơn. Chính vì vậy, Luật phá sản Việt Nam nên có những quy định về vị trí, vai trò,

quyền của chủ nợ mới trong quá trình phục hồi hoạt động doanh nghiệp .

Thứ tư, bổ sung vào Chương VI, mục 1 những quy định về các biện pháp

giảm nhẹ về tài chính cho doanh nghiệp đã mở thủ tục phá sản. Kinh nghiệm từ

Pháp cho thấy luật phá sản của Pháp trao quyền cho Thẩm phán được giãn nợ cho

con nợ đã được mở thủ tục phá sản. Đây là kinh nghiệm rất hay, vì vậy, đề tài kiến

nghị bổ sung những quy định này vào Luật Phá sản năm 2004.

3.3. Các giải pháp tăng cƣờng thi hành các quy định về phục hồi doanh

nghiệp trong Luật Phá sản năm 2004

3.3.1. Nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của Luật phá sản

Như đã nói, thủ tục phục hồi khiến cho pháp luật phá sản trở nên hợp lý

hơn, không đơn giản chỉ dừng ở chỗ là cỗ “máy chém” các doanh nghiệp làm ăn

72

kém hiệu quả như trước nữa. Thực tế cho thấy “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, ở các

nước phát triển như Mỹ, Pháp, quá trình “cứu chữa” cho doanh nghiệp được bắt

đầu từ trước thời điểm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Nói cách khác thực

chất đó là quá trình “phòng bệnh” cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế. Để làm được

như vậy, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của pháp luật phá sản

và ý nghĩa của thủ tục phục hồi haotj động của doanh nghiệp trong Luật Phá sản

năm 2004. Đây không thể là việc làm một sớm một chiều mà nó phải bao gồm

nhiều hoạt động tuyên truyền, giáo dục.

Để nâng cao nhận thức của toàn xã hội, cần phải làm cho mọi công dân,

doanh nghiệp hiểu biết rõ về mục tiêu của luật phá sản. Ngày nay, mục tiêu của

luật phá sản không chỉ là bảo vệ quyền lợi cảu chủ nợ mà quan trọng hơn là bảo vệ

cả quyền lợi cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh, là phục hồi và tái

tạo doanh nghiệp. Một khi hiểu rõ được mục tiêu tích cực của luật phá sản, các

doanh nghiệp cũng như mọi cá nhân, mọi tổ chức, mọi cơ quan dễ dàng tự giác thi

hành luật phá sản.

3.3.2. Tăng cường giới thiệu và tuyên truyền về pháp luật phá sản và lợi

ích của việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp

Như đã phân tích ở trên, một thực tế đáng buồn là ở Việt Nam, một trong

những đạo luật không có đất sống trong thực tiễn chính là Luật phá sản. Nguyên

nhân khách quan là do cơ chế nhưng nguyên nhân chủ quan là do sự thiếu hiểu biết

về Luật này. Vì vậy, việc tăng cường giới thiệu và tuyên truyền về pháp luật phá

sản nói chung và về phục hồi doanh nghiệp nói riêng là việc cần phải làm ngay,

đặc biệt là khi tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã bước sang giai

đoạn sâu, rộng. Cạnh tranh sẽ khốc liệt và tình trạng phá sản sẽ là hiển nhiên. Việc

tăng cường giới thiệu và tuyên truyền này có thể được thực hiện thông qua các

biện pháp như:

Trước mắt, phải phát động một cuộc thi tìm hiểu về Luật phá sản và các quy

định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại

chúng như truyền hình, đài phát thanh, giải thưởng doanh nghiệp, giải thưởng sinh

viên… Ngoài ra, phải đưa vào chương trình giảng dạy của các cơ sở đào tạo những

73

nội dung cơ bản về Luật phá sản thay vì nó chỉ được giảng dạy ở một vài cơ sở đào

tạo luật của Việt Nam.

Trong dài hạn, cần phải đưa một phần pháp luật phá sản vào trong chương

trình đào tạo cử nhân kinh tế, cử nhân quản trị kinh doanh, cử nhân ngành tài

chính, ngân hàng … hoặc đưa vào chương trình đào tạo thạc sỹ chuyên ngành luật

kinh doanh hoặc quản trị doanh nghiệp những vấn đề chuyên sâu hơn về pháp luật

phá sản Việt Nam và của các nước để thế hệ tương lai có thể nắm bắt được mọi

kiến thức cần thiết. Có như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới ý thức được vấn

đề phá sản để có biện pháp phòng ngừa. Và trong trường hợp bị phá sản, họ sẽ có

thể linh hoạt sử dụng Luật phá sản cũng như thủ tục phục hồi doanh nghiệp khi cần

thiết để biến phá sản và phục hồi doanh nghiệp trở thành một công cụ trợ giúp trực

tiếp và đắc lực cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế mở cửa, hội nhập với cạnh

tranh khốc liệt và đầy rủi ro này.

3.3.3. Thay đổi quan niệm của xã hội về thủ tục phục hồi hoạt động của

doanh nghiệp

Cho đến bây giờ, ở Việt Nam, thủ tục phục hồi vẫn chưa được coi là một

thủ tục độc lập trong quá trình phá sản. Đối với quan niệm chung, phục hồi doanh

nghiệp vẫn chỉ là một bước đệm mang tính chất hành chính cần phải vượt qua

trước khi tiến hành thủ tục thanh lý. Đây là một quan niệm hết sức sai lầm và cần

phải được thay đổi. Quan niệm trên dẫn tới sự hời hợt của các nhà làm luật đồng

thời là sự hời hợt của những người thực thi luật pháp. Tầm quan trọng của thủ tục

phục hồi và những ích lợi mà nó mang lại phải được nhấn mạnh và quan tâm hàng

đầu trước cả quá trình thanh lý tài sản. Khi Luật Phá sản năm 2004 ra đời, quan

niệm về thủ tục phá sản đã có thay đổi. Các nhà làm luật đã nhìn nhận thủ tục phục

hồi trong thủ tục phá sản là một giai đoạn độc lập. Tuy nhiên, những quy định về

phục hồi doanh nghiệp trong Luật vẫn còn quá sơ sài. Các nhà làm luật cần phải

thay đổi nhận thức. Họ phải hiểu chính xác rằng quá trình phục hồi là một quá

trình đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Trong thực tế, quá trình phục hồi phát

sinh theo nó rất nhiều các tình huống khác nhau cho nên cần phải có những quy

định cụ thể hơn cho từng trường hợp riêng biệt. Bằng việc bổ sung thêm các quy

74

định dựa theo kinh nghiệm của Pháp, như đã đề xuất ở trên, về phục hồi hoạt động

của doanh nghiệp vào Luật Phá sản năm 2004, nhận thức của xã hội về vấn đề này

chắc chắn sẽ có sự thay đổi theo hướng tích cực và điều này chính là động lực

quan trọng để thi hành hiệu quả Luật Phá sản trong thời gian tới.

3.3.4. Tăng cường tính chủ động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng

phá sản

Đối với các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, bài toán khó là làm

sao để doanh nghiệp nhận thức được cơ hội có được từ thủ tục phục hồi doanh

nghiệp. Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp này vẫn chưa thoát khỏi nỗi sợ hãi của

hai từ “phá sản”. Bởi phá sản, nếu không phải là một điểm kết thúc của một doanh

nghiệp, thì tâm lý chung vẫn cho phá sản là một vết đen trong lý lịch của công ty.

Một công ty, một khi bị “mang tiếng” phá sản thì sẽ rất khó để vươn lên trở lại

trong hoạt động kinh doanh. Thực ra nỗi sợ hãi này xuất phát từ sự thiếu hiểu biết

khi chưa bao giờ phải trải qua thời kỳ phá sản của các doanh nghiệp. Từ góc độ

tiếp cận luật pháp, điều cần làm là giúp cho các doanh nghiệp này hiểu ý nghĩa và

mục đích thật sự của thủ tục phá sản để giúp cho các doanh nghiệp này không còn

ngại ngần khi chủ động nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, từ đó mới tiến tới thủ

tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, tự bản thân các doanh nghiệp

này cũng phải chủ động và nỗ lực trong việc đề xuất phương án phục hồi doanh

nghiệp nếu họ thật sự muốn được tái tạo lại. Bản thân họ phải nắm vững yêu cầu

khi đưa ra các biện pháp được luật cho phép để phục hồi hoạt động của doanh

nghiệp. Trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn xa lạ với 7 biện pháp

phục hồi doanh nghiệp được quy định tại điều 69 của Luật Phá sản năm 2004.

Chính vì vậy, sự chủ động của chính các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

3.3.5. Giảm thiểu sự quá tải của Thẩm phán

Các Thẩm phán phải làm việc quá tải không chỉ bởi số lượng các vụ phá sản

mà họ phải thụ lý mà còn bởi có quá nhiều công việc đòi hỏi tính chuyên môn

trong ngành kinh tế chứ không phải là luật. Khó khăn này có thể được giải quyết

theo hai biện pháp không mâu thuẫn nhau nhưng có thể phát triển độc lập.

75

Thứ nhất là giảm dần gánh nặng cho Thẩm phán bằng cách chia công việc

cho các chuyên viên. Học tập kinh nghiệm từ Pháp, Thẩm phán chỉ phải lo một bộ

phận chuyên trách về luật, còn các nghiệp vụ khác đã có cơ quan chuyên môn phụ

trách (xem thêm sơ đồ 3). Với hướng giải quyết này, các Thẩm phán sẽ đỡ vất vả

hơn rất nhiều, không mất công đào tạo lại hoặc đào tạo thêm. Tuy nhiên chi phí

cho một vụ phục hồi hoạt động của doanh nghiệp thành công sẽ không nhỏ. Bởi so

với hiện tại, lực lượng chuyên gia được huy động vào giải quyết thủ tục phục hồi

sẽ nhiều hơn rất nhiều. Trong đó bao gồm cả những lực lượng mới như chuyên gia

kinh tế, chuyên gia phân tích dự án hoặc các chuyên gia, cố vấn chuyên môn nhằm

tạo ra được phương án phục hồi hiệu quả cũng như theo sát được doanh nghiệp

trong quá trình phục hồi.

Thứ hai là giữ nguyên quy định hiện tại và tăng dần số lượng Thẩm phán.

Bằng cách này, đầu công việc sẽ được chia cho nhiều Thẩm phán hơn và làm cho

gánh nặng trên vai mỗi Thẩm phán sẽ bớt đi. Từ đó cũng làm tăng hiệu quả của xử

lý các thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Tuy nhiên, đào tạo ra Thẩm phán có đủ tài

năng cũng như kinh nghiệm để đảm trách phục hồi các doanh nghiệp bị phá sản

không phải là điều đơn giản. Các Thẩm phán ngoài kiến thức về luật phá sản và

thủ tục phục hồi phá sản còn phải nắm rất vững các kiến thức kinh tế khác nhằm

đánh giá được doanh nghiệp nào có thể phục hồi và doanh nghiệp nào không thể

phục hồi. Nếu không đạt được như vậy, những vụ phục hồi không thành công sẽ là

những chi phí lãng phí rất lớn mà toàn xã hội phải gánh chịu.

76

KẾT LUẬN

Phá sản là hiện tượng kinh tế gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp và

xảy ra ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên pháp luật về phá

sản của các nước khác nhau lại có cách tiếp cận khác nhau về mục tiêu, đối tượng

điều chỉnh, nội dung và đặc biệt là về vấn đề phục hồi hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp. Bằng phương pháp nghiên cứu so sánh luật học, đề tài đã lựa chọn

luật phá sản của Pháp để phân tích những quy định về phục hồi doanh nghiệp. Kết

quả nghiên cứu chỉ ra rằng phục hồi hoạt động nhằm tái tạo doanh nghiệp là mục

tiêu mà luật phá sản hiện đại của Pháp đã theo đuổi. Trải qua nhiều giai đoạn bổ

sung, sửa đổi, những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật

phá sản hiện hành của Pháp trở nên hoàn thiện hơn, mang tính khả thi hơn từ quy

trình, thủ tục đến chức năng, nhiệm vụ của Tòa án, của các chủ nợ cũng như của

các cơ quan hỗ trợ và của bản thân doanh nghiệp con nợ. Điều này đã làm thay đổi

những quan niệm cũ, bảo thủ về mục tiêu của luật phá sản. Điều này thật sự đã góp

phần làm cho mục tiêu tái tạo doanh nghiệp được thi hành ngày càng tốt hơn trong

thực tiễn xem xét các vụ phá sản ở Pháp. Tuy nhiên, để có những quy định phù

hợp, vấn đề thật không đơn giản. Nghiên cứu những quy định về phục hồi doanh

nghiệp theo luật phá sản của Pháp cho thấy đây là vấn đề khó ngay cả đối với một

nước phát triển như Cộng hòa Pháp. Tuy nhiên, những gì là mặt tích cực trong các

quy định của luật phá sản của Pháp sẽ là kinh nghiệm bổ ích đối với Việt Nam.

Là một nước đi sau, Việt Nam chỉ mới có trên dưới 10 năm kinh nghiệm, để

học hỏi từ luật phá sản nước ngoài và đặc biệt là từ luật phá sản của Pháp. Do đó,

những hạn chế trong quy định của luật phá sản Việt Nam là không thể tránh khỏi.

Hạn chế đó thể hiện ở chỗ Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993 – đạo luật đầu

tiên của Việt Nam về phá sản - đã không nhằm mục tiêu tái tạo doanh nghiệp. Luật

Phá sản năm 2004 tiến bộ hơn vì đã đưa 10 điều khoản cụ thể về phục hồi hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, những quy định này vẫn tỏ ra bất

cập. Đứng từ góc độ của các sinh viên năm cuối chuyên ngành kinh tế, suy nghĩ và

77

hành động dựa trên sự lo lắng về “sức khỏe” của thị trường nói chung và của

doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, nhóm nghiên cứu sau khi đưa một số cơ sở để

dự báo về khả năng phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, đã làm

rõ có 2 vấn đề đặt ra cho luật phá sản Việt Nam. Đó là 7 bất cập của Luật Phá sản

năm 2004 và 4 khó khăn gặp phải trong quá trình thi hành Luật này. Từ đó, nhóm

nghiên cứu đề xuất một số giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp.

Đây là những giải pháp đầu tiên nhằm sửa đổi, bổ sung để làm cho luật phá sản

của Việt Nam trở nên hoàn thiện hơn và có tính khả thi hơn. Tuy nhiên, nhóm

nghiên cứu hiểu rằng những giải pháp nêu trên là chưa thể hoàn hảo. Để có được

những giải pháp mang tính khả thi hơn nữa, cần phải có sự nghiên cứu tiếp tục về

cả 4 thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2004. Với cách tiếp cận

này, những kết quả nghiên cứu ở đề tài thuộc công trình dự thi lần này không phải

là điểm cuối. Ngược lại, nó là điểm khởi đầu cho một quá trình tiếp tục tìm tòi

phân tích tiếp theo.

Với sinh viên ngành kinh tế, việc nghiên cứu pháp luật đã rất khó khăn

nhưng việc phân tích và đánh giá những vấn đề cụ thể của Luật phá sản như vấn đề

phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại càng khó khăn hơn. Mặc dù

vậy, nhóm nghiên cứu sẽ vẫn tiếp tục theo đuổi những nghiên cứu này để góp phần

thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Không có việc gì khó” và lời dạy của V.I.Lênin:

“Học, học nữa, học mãi” để tăng cường sự hiểu biết nhiều hơn về pháp luật, một

lĩnh vực vốn rất mới mẻ và khó đối sinh viên ngành kinh tế, nhưng lại là lĩnh vực

đòi hỏi các nhà kinh tế, các doanh nghiệp phải có sự hiểu biết đầy đủ.



78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tiếng Việt

 Các công trình nghiên cứu, bài viết, báo cáo

1. TS. Trương Hồng Hải, Đại học luật Hà Nội, Luận án “Luật phá sản doanh

nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện”

2. Dương Đăng Huệ, “Phá sản Việt Nam năm 2004 với việc cải thiện môi

trường kinh doanh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2005, tr26-31

3. Gòn ngày 30/7/2009, tr.8

Phạm Đăng Thịnh, “Xuất khẩu chưa hết khó khăn”, Thời báo kinh tế Sài

4. Phạm Xuân Thọ - Chánh tòa kinh tế Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí

Minh,“Giải quyết phá sản tại thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng, vướng mắc và

kiến nghị”- Bài phát biểu tại Hội thảo về Luật Phá sản năm 2004: những vướng

mắc và giải pháp khắc phục, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006

5. Vũ Thị Hồng Vân - Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Đánh giá thực trạng thi

hành Luật phá sản doanh nghiệp năm 2004”

6. Viện nghiên cứu khoa học thị trường và giá cả, “Luật phá sản của Trung

Quốc và một số nước Tây Âu”, Hà Nội năm 1990

7. Vụ Công tác lập pháp, Những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm 2004,

NXB Tư pháp, Hà Nội năm 2005

8. Bộ Tư Pháp, Báo cáo “Rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản

năm 2004”, ngày 29/12/2008

 Các văn bản luật và dưới luật

9. Luật Phá sản số 21/2004/QH11 của Quốc hội

10. Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối

cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản

11. Nghị định 94/2005/NĐ-CP của Chính phủ về giải quyết quyền lợi của người

lao động ở doanh nghiệp và hợp tác xã bị phá sản

12. Thông tư liên tịch 19/2008/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư

pháp về hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt

động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh

nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.

13. Công văn 7050/BTC-TCT của Bộ Tài chính về việc Quyết toán thuế đối với

79

doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản

14. Công văn 1977/VPCP-XDPL của Văn phòng Chính phủ về việc thực hiện

Luật phá sản

15. Nghị định 67/2006/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn việc áp dụng Luật

Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh

lý tài sản

16. Nghị định 10/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành

chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo Luật phá sản doanh nghiệp

năm 1993

17. Nghị định số 114/CP ban hành ngày 3/11/2008 của Chính phủ về việc

Hướng dẫn chi tiết ban hành một số điều luật của Luật phá sản đối với doanh

nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính

khác

18. Nghị định số 189/1994/NĐ-CP ban hành ngày 23/12/1994 về việc Hướng

dẫn thi hành luật phá sản doanh nghiệp

19. Quyết định số 01/2005 của Toà án nhân dân Tối cao về Quy chế làm việc

của Tổ thẩm phán phụ trách tiến hành làm thủ tục phá sản

 Các công trình nghiên cứu, bài viết, báo cáo

B. Tài liệu tiếng Pháp

20. Deloitte, “L’entreprise en difficulté en France – L’impact de la crise

éconimique et financière”, 3/2009

21. Yves Guyon, “Entreprise en difficultés - Redressement judiciaire - Faillite”,

édition Economica, 1991

22. J.Hilaire, “Introduction historique au droit commercial”, Édition PUF, Paris

1986

23. M.B. Salvado, “Droit des entreprises en difficulté”, Édition Breal 2007

24. R. Szramkiewicz, “Histoire du droit des affaires”, Édition LGDJ, Paris

Montchrétien 1989

 Các văn bản luật và dưới luật

25. Code de Commerce 2009

26. Code de Commerce 2005

27. Loi de sauvegarde des enterprises, n° 2005-845 du 26 juillet 2005

80

28. Ordonnance n° 2008-1345 du 18 décembre 2008 portant réforme du droit des

entreprises en difficulté

29. Décret n° 2009-160 du 12 février 2009 pris pour l'application de

l'ordonnance n° 2008-1345 du 18 décembre 2008 portant réforme du droit des

entreprises en difficulté et modifiant les procédures de saisie immobilière et de

distribution du prix d'un immeuble

C. Website

30. Le service public de la diffusion de droit: http://www.legifrance.gouv.fr/

31. Faculté de droit, Université Lyon 3: http://fdv.univ-lyon3.fr/

32. Les greffes des tribunaux de commerce: http://www.greffes.com/

33. Website của Ngân hàng Thế giới (World Bank): http://web.worldbank.org/

http://www.vcci.com.vn/

34. Website của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI):

35. Website của Tổng cục Thống kê: http://www.gso.gov.vn/

36. Website của hãng Continental Airlines:

http://www.continental.com/web/en-S/content/company/history/1978-1990.aspx

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.

shtml

37. Website của BBC:

38. Website của CNN Company:

http://money.cnn.com/2004/11/17/news/fortune500/sears_kmart/

http://money.cnn.com/2002/01/22/companies/kmart/

39. Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

http://www.mpi.gov.vn/portal/page/portal/bkhdt/ptktxh/16873/299064?p_page_id

=412579&p_cateid=353555&item_id=2041211&article_details=1

40. Website Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia:

http://ncseif.gov.vn/Default.aspx?mod=News&cat=33&nid=133

41. Báo điện tử Tin nhanh Việt Nam:

http://www.vnexpress.net/GL/Oto-Xe-may/2009/06/3BA10102/



http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Kinh-nghiem/2008/10/3BA0692A/

I

PHỤ LỤC 1 Một số quy định trong pháp luật Việt Nam

về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp bị phá sản

(Trích Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam)

Chƣơng VI

THỦ TỤC PHỤC HỒI THỦ TỤC THANH LÝ

Mục 1

THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

Điều 68. Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

1. Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ

nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh,

kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng

phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

2. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết,

doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động

kinh doanh của mình và nộp cho Toà án; nếu thấy cần phải có thời gian dài hơn thì phải có văn

bản đề nghị Thẩm phán gia hạn. Thời hạn gia hạn không quá ba mươi ngày.

Trong thời hạn nói trên, bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã đều có quyền xây dựng dự thảo phương án phục hồi hoạt

động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nộp cho Toà án.

Điều 69. Nội dung phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh

1. Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá

sản phải nêu rõ các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh; các điều kiện, thời hạn

và kế hoạch thanh toán các khoản nợ.

2. Các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh gồm có:

a) Huy động vốn mới;

b) Thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh;

c) Đổi mới công nghệ sản xuất;

d) Tổ chức lại bộ máy quản lý; sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng

suất, chất lượng sản xuất;

đ) Bán lại cổ phần cho chủ nợ;

e) Bán hoặc cho thuê tài sản không cần thiết;

II

g) Các biện pháp khác không trái pháp luật.

3. Trước khi bắt đầu hoặc tại Hội nghị chủ nợ, phương án phục hồi hoạt động kinh doanh có thể

được sửa đổi, bổ sung theo sự thoả thuận của các bên.

Điều 70. Xem xét phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh trƣớc khi đƣa ra Hội nghị chủ

nợ

Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh,

Thẩm phán phải xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh để ra một trong các quyết

định:

1. Đưa phương án ra Hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định;

2. Đề nghị sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh nếu thấy phương án đó

chưa bảo đảm các nội dung quy định tại Điều 69 của Luật này.

Điều 71. Xem xét, thông qua phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh

1. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày quyết định đưa phương án phục hồi hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ra Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán

phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương án phục hồi.

2. Hội nghị chủ nợ xem xét, thoả luận phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã được

thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt đại diện cho từ hai phần ba tổng số

nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành.

Điều 72. Công nhận Nghị quyết về phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh

1. Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Nghị quyết này có

hiệu lực đối với tất c các bên có liên quan.

2. Toà án phải gửi quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi

hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ

trong thời hạn by ngày, kể từ ngày ra quyết định.

Điều 73. Giám sát thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh

1. Sau khi Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án

phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, Tổ quản

lý, thanh lý tài sản giải thể.

2. Sáu tháng một lần, doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi cho Toà án báo cáo về tình hình thực hiện

phương án phục hồi hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp, hợp tác xã.

3. Chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp, hợp tác xã.

III

Điều 74. Thời hạn thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh

Thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác

xã lâm vào tình trạng phá sản là ba năm, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của Toà án

công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp, hợp tác xã.

Điều 75. Sửa đổi, bổ sung phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh

1. Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, các chủ nợ và doanh

nghiệp, hợp tác xã có quyền thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động

kinh doanh.

2. Thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp, hợp tác xã được chấp nhận khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ

hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên đồng ý.

3. Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên và gửi quyết định đó cho doanh

nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ trong thời hạn by ngày, kể từ ngày ra

quyết định.

Điều 76. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

1. Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,

hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nếu có một trong các trường hợp sau đây:

a) Doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh;

b) Được quá nửa số phiếu của các chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số

nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý đình chỉ.

2. Toà án phải gửi và thông báo công khai quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định tại Điều 29 của Luật này.

Điều 77. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

1. Trường hợp Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã đó được coi

không còn lâm vào tình trạng phá sản.

2. Trường hợp việc thi hành án dân sự hoặc việc giải quyết vụ án bị đình chỉ theo quy định tại

Điều 57 của Luật này chưa được thi hành hoặc chưa được giải quyết thì ngay sau khi ra quyết

định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình

trạng phá sản, việc thi hành án dân sự hoặc việc giải quyết vụ án được tiếp tục. Toà án ra quyết

định đình chỉ thủ tục phục hồi phải gửi trả lại hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền để giải quyết

vụ án theo quy định của pháp luật.

IV

PHỤ LỤC 2

Một số quy định trong luật của Pháp

về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

(trích Quyển VI – Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009)

Trích điều L622-17

I.-Les créances nées régulièrement après le jugement d'ouverture pour les besoins du déroulement

de la procédure ou de la période d'observation, ou en contrepartie d'une prestation fournie au

débiteur pendant cette période, sont payées à leur échéance.

II.-Lorsqu'elles ne sont pas payées à l'échéance, ces créances sont payées par privilège avant

toutes les autres créances, assorties ou non de privilèges ou sûretés.

Trích điều L631-1

Il est institué une procédure de redressement judiciaire ouverte à tout débiteur mentionné aux

articles L. 631-2 ou L. 631-3 qui, dans l'impossibilité de faire face au passif exigible avec son

actif disponible, est en cessation des paiements. Le débiteur qui établit que les réserves de crédit

ou les moratoires dont il bénéficie de la part de ses créanciers lui permettent de faire face au passif

exigible avec son actif disponible n'est pas en cessation des paiements.

Trích điều L631-2

La procédure de redressement judiciaire est applicable à toute personne exerçant une activité

commerciale ou artisanale, à tout agriculteur, à toute autre personne physique exerçant une

activité professionnelle indépendante y compris une profession libérale soumise à un statut

législatif ou réglementaire ou dont le titre est protégé, ainsi qu'à toute personne morale de droit

privé

Trích điều L631-4

L'ouverture de cette procédure doit être demandée par le débiteur au plus tard dans les quarante-

cinq jours qui suivent la cessation des paiements s'il n'a pas, dans ce délai, demandé l'ouverture

d'une procédure de conciliation.

En cas d'échec de la procédure de conciliation, lorsqu'il ressort du rapport du conciliateur que le

débiteur est en cessation des paiements, le tribunal, d'office, se saisit afin de statuer sur l'ouverture

d'une procédure de redressement judiciaire.

Trích điều L631-5

Lorsqu'il n'y a pas de procédure de conciliation en cours, le tribunal peut également se saisir

d'office ou être saisi sur requête du ministère public aux fins d'ouverture de la procédure de

redressement judiciaire.

V

Sous cette même réserve, la procédure peut aussi être ouverte sur l'assignation d'un créancier,

quelle que soit la nature de sa créance.

Trích điều L631-8

Le tribunal fixe la date de cessation des paiements.A défaut de détermination de cette date, la

cessation des paiements est réputée être intervenue à la date du jugement d'ouverture de la

procédure.

Trích điều L631-10

A compter du jugement d'ouverture, les parts sociales, titres de capital ou valeurs mobilières

donnant accès au capital de la personne morale qui a fait l'objet du jugement d'ouverture et qui

sont détenus, directement ou indirectement par les dirigeants de droit ou de fait, rémunérés ou

non, ne peuvent être cédés, à peine de nullité, que dans les conditions fixées par le tribunal.

Trích điều L653-8

Dans les cas prévus aux articles L. 653-3 à L. 653-6, le tribunal peut prononcer, à la place de la

faillite personnelle, l'interdiction de diriger, gérer, administrer ou contrôler, directement ou

indirectement, soit toute entreprise commerciale ou artisanale, toute exploitation agricole et toute

personne morale, soit une ou plusieurs de celles-ci.

