CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƢỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC” NĂM 2009
Tên công trình: PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LUẬT
CỦA PHÁP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI
VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM
Nhóm ngành: XH2b Hà Nội, tháng 8 năm 2009
i
MỤC LỤC
Trang
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH ................................................................................................ 1
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................... 2
Chƣơng I. PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG
PHÁ SẢN ............................................................................................................................ 7
1. Phá sản và tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp ......................... 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của phá sản ......................................................................... 7
1.2. Những tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp ............................. 11
2. Sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản .............................................................................................................................. 16
2.1. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích tái tạo lại doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản .................................................................................................... 17
2.2. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của phá
sản đối với xã hội ........................................................................................................... 18
2.3. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp góp phần làm thay đổi nhận thức về
phá sản ........................................................................................................................... 18
3. Pháp luật về phá sản và những quy định về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp .................................................................................................................... 20
3.1. Pháp luật về phá sản ............................................................................................... 20
3.2. Những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật phá sản ...... 22
Chƣơng II. NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT CỦA PHÁP VỀ
PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG
PHÁ SẢN .......................................................................................................................... 24
1. Giới thiệu tổng quan về pháp luật phá sản của Pháp .............................................. 24
1.1. Sự hình thành và phát triển .................................................................................... 24
1.2. Vị trí vấn đề phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật về doanh nghiệp lâm
vào tình trạng khó khăn của Pháp .................................................................................. 29
2. Những quy định trong luật của Pháp về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp ................................................................................................................................ 32
http://svnckh.com.vn
ii
ii
2.1. Đối tượng áp dụng ................................................................................................. 32
2.2. Điều kiện để mở Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp .......................... 33
2.3. Các bước tiến hành thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản .................................................................................................................. 37
3. Những quy định trong pháp luật phá sản của Pháp về phƣơng án phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp .................................................................................................... 47
3.1. Vấn đề tài chính ..................................................................................................... 47
3.2. Vấn đề quản lý doanh nghiệp ................................................................................ 48
3.3. Vấn đề xã hội ......................................................................................................... 49
4. Nhận xét về các quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp .................................................................................................................... 50
Chƣơng III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA
VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP THÁO GỠ TRÊN CƠ SỞ
VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TỪ PHÁP ..................................................................... 52
1. Dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới ...... 52
1.1. Cơ sở để dự báo ..................................................................................................... 52
1.2. Các con số dự báo .................................................................................................. 54
2. Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam ............................... 56
2.1. Những bất cập trong các quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp ....... 56
2.2. Việc thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo quy định của Luật Phá
sản năm 2004 trong thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn ..................................................... 64
3. Đề xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp .......................... 69
3.1. Khẳng định rõ mục tiêu của luật phá sản Việt Nam là phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp .................................................................. Error! Bookmark not defined.
3.2. Các giải pháp sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật Phá sản năm 2004 về
phục hồi doanh nghiệp ................................................................................................... 69
3.3. Các giải pháp tăng cường thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp trong
Luật Phá sản năm 2004 .................................................................................................. 71
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 78
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ I
Phụ lục 1 .......................................................................................................................... I
http://svnckh.com.vn
ii
iii
Phụ lục 2 ....................................................................................................................... IV
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Giải nghĩa
1. AGS Tổ chức Tổ chức quản lý chế độ bảo hiểm các khoản nợ
công nhân (Association pour la gestion du régime
d’assurance des créances des salariés)
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) 2.
GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product) 3.
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for 4.
Economic Co-operation and Development)
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade 5.
Organization)
Đô la Mỹ USD 6.
Đồng Việt Nam VNĐ 7.
http://svnckh.com.vn
iii
TNHH Trách nhiệm hữu hạn 8.
1
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
Ngày nay, pháp luật phá sản ở hầu hết các nước phát triển đều coi việc phục hồi
và tái tạo doanh nghiệp là mục tiêu quan trọng. Điều này lại không tồn tại ở Việt Nam.
Trải qua 16 năm thi hành, cho đến nay vẫn chưa có một doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản nào được phục hồi và tái tạo lại theo luật phá sản. Chính điều này đã làm giảm
sức sống của luật phá sản Việt Nam. Để làm rõ nguyên nhân và tìm kiếm giải pháp cho
thực trạng này, vấn đề “Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản theo luật của Pháp và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt
Nam” đã được lựa chọn làm đề tài tham dự cuộc thi “Sinh viên Nghiên cứu Khoa học
năm 2009”.
Với tổng số 78 trang, nội dung của công trình gồm 3 chương:
Chương I trình bày những vấn đề cơ bản như khái niệm, đặc điểm của phá sản và
pháp luật phá sản; sau khi phân tích tác động tích cực và tiêu cực của phá sản đối với
doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp là chủ nợ và doanh nghiệp là con nợ, cũng như đối với
nền kinh tế, chương I đã làm rõ sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp và
khẳng định tính ưu việt và xu thế chung của pháp luật phá sản ngày nay là cố gắng hướng
về mục tiêu tái tạo doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Chương II phân tích những nỗ lực của Cộng hòa Pháp trong việc hoàn thiện các
quy định trong luật phá sản về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Để thấy rõ điều này,
chương II tóm lược một số nét cơ bản về luật phá sản của Pháp từ thời Cổ đại mà điểm
nổi bật là trong giai đoạn này luật của pháp không coi trọng vấn đề phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp. Qua thời gian, với nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến nay, phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã trở thành mục tiêu chính của luật phá sản của Pháp
với nhiều quy định có tính ưu việt nhằm tạo cơ sở để các doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản tìm đường trở lại. Điều này đã được giới doanh nghiệp Pháp đón nhận và đây
cũng chính là những kinh nghiệm tốt để Việt Nam học tập.
Chương III, sau khi đưa ra dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt
Nam trong thời gian tới, đã nêu rõ những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam. Đó là 7 bất cập
của Luật phá sản năm 2004 và 4 khó khăn gặp phải trong quá trình thi hành thủ tục phục
hồi doanh nghiệp. Trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp, Chương III đề xuất các giải
pháp cụ thể nhằm loại bỏ bất cập và tăng cường sức sống của các quy định về phục hồi
doanh nghiệp trong Luật phá sản năm 2004, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vì sao Việt Nam
cần khẳng định rằng mục tiêu quan trọng nhất của Luật phá sản sửa đổi tới đây là phục
hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trên thị trường ngày càng lớn, sự rút lui, phá sản của một bộ phận
doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Đặc biệt, do những tác động tiêu cực
của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, tình trạng khó khăn của nền kinh
tế đã và đang dẫn tới sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp, kể cả các doanh
nghiệp ở các nước phát triển và các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Giới doanh nghiệp thế giới đã phải sửng sốt và bàng hoàng khi hay tin General
Motor - một đại gia trong ngành xe hơi Hoa Kỳ phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản
vào ngày 1/6/2009, với tổng trị giá tài sản là 82,3 tỷ USD trên số nợ tồn đọng là 172,81 tỷ USD 1. Còn ở Việt Nam, vào ngày 19/12/2008 Công ty TNHH Orion
Hanel - một công ty liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Hàn
Quốc được thành lập năm 1993 và từng là một trong các doanh nghiệp FDI dẫn
đầu tại Hà Nội trong việc sản xuất đèn hình màu và phụ kiện tivi, đã nộp đơn lên Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội xin mở thủ tục phá sản 2.
Doanh nghiệp bị phá sản sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực cho xã hội. Để
hạn chế và giảm thiểu các tác động đó, pháp luật về phá sản đã được ban hành với
nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng
phục hồi hoạt động của doanh nghiệp như thế nào? Luật pháp của các nước khác
nhau quy định không hoàn toàn giống nhau về vấn đề này. Luật phá sản đầu tiên
của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, có tên gọi là Luật phá sản Doanh
nghiệp, được thông qua ngày 30/12/1993 (có hiệu lực từ ngày 1/7/1994) nhằm
hình thành khung pháp lý bảo đảm sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với
hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mục tiêu quan trọng nhất
của Luật này là nhắc nhở, cảnh báo các doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động
1 Website: http://money.cnn.com/2009/06/01/news/companies/gm_bankruptcy/index.htm 2 Website: http://www.vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/2008/12/3BA09C61/
kinh doanh và hướng dẫn thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản.
3
Những quy định trong Luật thiên về bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và hầu như
không đặt ra mục tiêu tái tạo lại doanh nghiệp. Vì vậy, Luật phá sản Doanh nghiệp
năm 1993 không có quy định nào về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.
Ngày 15/6/2004, Luật phá sản mới được ban hành. Luật này có tên gọi là
Luật Phá sản năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 15/10/2004). Một trong những điểm
mới của Luật Phá sản năm 2004 so với Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993 là
Luật Phá sản năm 2004 đã bổ sung những quy định về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Với 10 điều khoản cụ thể trong luật (xem
phụ lục 1), tưởng như Luật Phá sản năm 2004 sẽ được áp dụng tốt trong thực tế.
Nhưng thực tiễn lại không như vậy. Kể từ ngày 15/10/2004 - ngày Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2008 Tòa án đã thụ lý 195 vụ phá sản 3,
nhưng lại không có trường hợp nào trong số đó được phục hồi hoạt động.
Vì sao lại như vậy? Phải chăng vì các quy định về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành vẫn tỏ ra chưa phù hợp? Pháp luật của các
nước phát triển quy định như thế nào về vấn đề này? Những câu hỏi này đã thôi
thúc chúng tôi tìm hiểu sâu về vấn đề này theo quy định của pháp luật một nước
phát triển. Nhưng tìm hiểu pháp luật nước nào? Là những sinh viên chuyên ngành
Pháp ngữ, chúng tôi quyết định chọn Cộng hòa Pháp là nước để nghiên cứu. Đó là
lý do để vấn đề “Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản theo luật của Pháp và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của
Việt Nam” được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học tham dự Cuộc thi “Sinh
viên nghiên cứu khoa học năm 2009”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Luật phá sản của Việt Nam đã được khá nhiều tác giả phân tích từ nhiều
Cuốn sách “Những nội dung cơ bản của Luật Phá sản” do Vụ Công tác lập
góc độ khác nhau. Trong số đó có các công trình tiêu biểu như:
pháp của Bộ Tư pháp biên soạn (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2005). Cuốn
3 Bộ Tư Pháp, Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004, ngày 29/12/2008.
sách này tổng hợp những nội dung cơ bản của Luật Phá sản năm 2004 trên cơ sở
4
so sánh với Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993. Tuy nhiên, tài liệu này không
phân tích cụ thể những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào
Bài viết của tác giả Trần Minh Sơn đăng trên tạp chí Nghề Luật (số 4/2007)
tình trạng phá sản và cũng không so sánh với luật của Pháp.
có tựa đề “Luật Phá sản có nguy cơ tiếp tục phá sản”. Bài viết này chỉ nêu lên
những bất cập cơ bản nhất của Luật Phá sản năm 2004 nhưng cũng chưa phân tích
Bài viết của PGS.TS.Dương Đăng Huệ: “Luật Phá sản Việt Nam năm 2004
những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.
với việc cải thiện môi trường kinh doanh”, đăng trong Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, số 3 năm 2005. Bài viết này phân tích Luật Phá sản năm 2004 từ góc độ môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp, không phân tích vấn đề phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp.
Có thể khẳng định đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu vấn đề phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp bị phá sản nói chung và những quy định của pháp luật Việt
Nam, pháp luật Cộng hoà Pháp về vấn đề này nói riêng.
3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật về phá sản và những quy định
về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành của Việt nam và
của Cộng hoà Pháp.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm cả những vấn đề khó khăn
phát sinh khi thực thi pháp luật phá sản của Việt Nam nói chung và thực thi các
quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 nói
riêng.
Làm rõ sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích những quy định của luật phá sản Pháp về phục hồi hoạt động của
trạng phá sản trong nền kinh tế thị trường hiện nay;
5
doanh nghiệp để thấy rõ những ưu điểm trong luật phá sản của Pháp về vấn đề
Nêu bật những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam và đề
này;
xuất giải pháp loại bỏ những bất cập của Luật phá sản năm 2004 trên cơ sở vận
dụng kinh nghiệm của Pháp về quy định và thi hành các quy định về phục hồi
hoạt động của doanh nghiệp.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, các phương pháp nghiên cứu tổng hợp dưới đây đã
Phương pháp đọc, dịch tài liệu để hệ thống hoá, tổng hợp và phân tích
được áp dụng:
Phương pháp thống kê, luận giải và đưa ra những nhận xét, những bình
những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu;
Phương pháp dẫn chiếu luật để phân tích, đối chiếu và so sánh;
Phương pháp so sánh luật học để làm rõ những điểm khác biệt, những
luận;
điểm khuyết và bất cập trong luật phá sản hiện hành của Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian: phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong khoảng
thời gian từ khi pháp luật phá sản đầu tiên của Việt Nam được ban hành (Luật phá
Về mặt nội dung: khi nghiên cứu những quy định của pháp luật phá sản, đề
sản Doanh nghiệp), tức là từ năm 1993 cho đến nay và tầm nhìn xa hơn.
tài không phân tích mọi nội dung của luật phá sản mà đặt trong tâm phân tích
những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản theo Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 và những
quy định hiện hành trong luật phá sản của Pháp năm 2009. Việc phân tích tình
hình thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo Luật phá sản năm 2004
cũng là nội dung nghiên cứu của đề tài.
6
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng I: Phá sản, pháp luật về phá sản và sự cần thiết phải phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Chƣơng II: Những quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Chƣơng III: Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam và đề
xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp
7
Chƣơng I
PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO
TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
1. Phá sản và tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm và đặc điểm của phá sản
1.1.1. Khái niệm về phá sản
Phá sản là một khái niệm được sử dụng để chỉ tình trạng làm ăn thua lỗ,
kém hiệu quả của một thương gia, một nhà buôn (theo cách quan niệm truyền
thống) và của công ty, của doanh nghiệp (theo quan niệm hiện nay).
Về mặt ngôn ngữ, phá sản hay bị phá sản là thuật ngữ được dùng để chỉ sự
chấm dứt hoạt động kinh doanh do làm ăn thua lỗ đi kèm với thanh lý tài sản và
nghĩa vụ trả nợ của một chủ thể cụ thể trong nền kinh tế. Nó được đánh dấu bởi
việc chủ thể đó không có khả năng thanh toán cho các chủ nợ những khoản nợ mà
người này đã và đang vay.
Về mặt kinh tế, phá sản là khái niệm được dùng để chỉ tình trạng mất cân
đối giữa thu và chi (giữa tài sản có và tài sản nợ) của một doanh nghiệp mà điều
nhận thấy rõ nhất là doanh nghiệp này lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán
những khoản nợ đến hạn. Tình trạng mất khả năng thanh toán này không phải là
tình trạng nhất thời, không phải chỉ mất khả năng thanh toán đối với một chủ nợ
mà ngược lại, mất khả năng thanh toán đồng loạt đối với tất cả các chủ nợ.
Về mặt pháp luật, phá sản là một chế định vừa liên quan đến nghĩa vụ, vừa
liên quan đến quyền của doanh nghiệp, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp và được luật pháp bảo vệ. Nghĩa là doanh nghiệp có quyền tự do
kinh doanh thì cũng có nghĩa vụ thực hiện các quy định liên quan đến mở thủ tục
phá sản. Không chỉ có nghĩa vụ, doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán có quyền được pháp luật bảo vệ bằng cách đưa ra các biện pháp để
phục hồi hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, muốn được pháp luật bảo vệ
thì doanh nghiệp gặp thua lỗ trong kinh doanh, phải tuân theo những quy định liên
8
quan đến phá sản. Vì vậy, dưới góc độ pháp luật, phá sản không chỉ là một khái
niệm, một thuật ngữ mà là một thủ tục pháp lý gồm nhiều bước, nhiều quy trình,
liên quan đến chủ nợ, con nợ, đến Tòa án, đến tổ quản lý, thanh lý tài sản…và
trong nhiều trường hợp, liên quan đến cả chính sách của Nhà nước với hàng hoạt
quy định, quy tắc hết sức phức tạp.
Về mặt xã hội, phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội có nhiều đặc
điểm, chi phối nhiều mối quan hệ xã hội, liên quan đến lợi ích của nhiều người. Vì
vậy, cần phải tìm hiểu đặc điểm của phá sản để xem xét mọi góc độ của nó.
1.1.2. Đặc điểm của phá sản
Phá sản có ba đặc điểm cơ bản: Phá sản mang tính lịch sử, phá sản mang
tính khách quan và phá sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật.
Tính chất lịch sử của phá sản
Phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với nền kinh tế thị
trường, bởi vậy nó mang tính chất lịch sử rất rõ rệt. Trong những giai đoạn phát
triển của lịch sử xã hội loài người, khi xã hội không tồn tại nền kinh tế thị trường
thì phá sản cũng không có cơ sở để tồn tại. Ngay cả khi có nền kinh tế hàng hóa là
mức độ thấp của kinh tế thị trường thì phá sản cũng không tồn tại. Chẳng hạn phá
sản không phát sinh ở nền kinh tế tiểu thủ công nghiệp của các nước phương Tây
thời kỳ tiền Tư bản. Với nền sản xuất thấp kém, năng suất lao động thấp dẫn tới
cầu luôn cao hơn cung, các nhà sản xuất hầu như không gặp bất cứ khó khăn nào
trong quá trình tiêu thụ hàng hóa và vì vậy, việc họ bị phá sản là không thể xảy ra.
Hoặc như trong thời kỳ đầu sau giải phóng, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp. Về bản chất, đây vẫn là nền kinh tế hàng hóa tuy
nhiên do sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quá trình sản xuất cũng như phân
phối dẫn đến tình trạng các khoản nợ đối với doanh nghiệp gần như “biến mất”. Lỗ
đâu nhà nước bù đó, doanh nghiệp tồn tại dựa vào ý muốn và sự chỉ đạo từ phía
nhà nước. Không có thị trường với đúng nghĩa của nó và không có cạnh tranh. Phá
sản cũng không tồn tại trong nền kinh tế như vậy.
Tính chất khách quan của phá sản
Đặc điểm này muốn nói rằng phá sản không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
9
của bất cứ ai trong xã hội. Ngược lại, nó là kết quả của quá trình kinh doanh không
hiệu quả kéo dài của doanh nghiệp. Quá trình kinh doanh không hiệu quả đó lại
được lý giải bởi hai nguyên nhân cũng mang tính khách quan sau đây:
Nguyên nhân đầu tiên dựa trên cơ sở lý thuyết về vòng đời của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp nào cũng có một vòng đời trải qua 3 giai đoạn: khởi nghiệp
(lancement), chín muồi (maturité) và khủng hoảng (crise). Ba giai đoạn này được
hình tượng hóa trong sơ đồ 1 (xem thêm sơ đồ 1).
Sơ đồ 1: Sơ đồ vòng đời của doanh nghiệp
Phục hồi hoạt động
Tốc độ phát triển
Thanh lý tài sản
Giai đoạn 3: Khủng hoảng
Giai đoạn 1: Khởi nghiệp
Giai đoạn 2: Chín muồi
Nguồn: http://www.pax.fr/fr_cycle_vie.php
Thời gian
Nhìn từ sơ đồ 1 ta có thể thấy rõ vòng đời của doanh nghiệp. Trong nền
kinh tế, doanh nghiệp cũng như một thực thể sống, sinh ra, phát triển rồi chết đi.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn cũng như quy luật biến đổi và
tồn tại của sự vật, hiện tượng. Là một phần của giai đoạn khủng hoảng, phá sản vì
thế, mang tính khách quan, độc lập với ý chí của con người.
Trong thực tế, nguyên nhân dẫn đến phá sản, tức là nguyên nhân khiến một
thương gia, một doanh nghiệp lâm vào tình trạng không đủ khả năng thanh toán
các khoản nợ thường rất khác nhau. Có trường hợp là do chính sách của Nhà nước
thay đổi khiến doanh nghiệp trở tay không kịp: giới ngân hàng thương mại thế giới
đã từng chứng kiến hệ thống ngân hàng của Argentina bị phá sản hàng loạt vào
năm 2001 mà nguyên nhân là do Chính phủ Argentina đã ban hành Luật Corralito,
10
theo đó mọi tài khoản ngân hàng trên toàn quốc bị đóng băng trong 12 tháng nhằm giải quyết tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài muốn tháo chạy khỏi Argentina 4.
Cũng có khi do sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế ở trong nước hoặc ở
phạm vi quốc tế; và cũng không loại trừ do doanh nghiệp quản lý kém hiệu quả
hoặc xây dựng chiến lược kinh doanh không phù hợp mà điển hình nhất là trường
hợp của hãng sản xuất xe hơi General Motor. Các nhà phân tích kinh tế cho rằng
một trong những nguyên nhân làm cho General Motor phá sản là do sự chậm chạp,
kém năng động và sự rối rắm về quản trị với những thủ tục phức tạp trong phong cách lãnh đạo của giới lãnh đạo Hãng này 5.
Nguyên nhân thứ hai dựa trên đặc điểm của nền kinh tế thị trường. Kinh tế
thị trường là mức phát triển cao của kinh tế hàng hóa, nơi mà sự phân công lao
động, chuyên môn hóa trong sản xuất đã đạt trình độ cao. Cùng với sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, năng suất lao động tăng lên làm cho của cải sản xuất ra ngày
một nhiều hơn và vì thế cạnh tranh giữa các nhà cung ứng sản phẩm và dịch vụ
cũng ngày càng trở nên khốc liệt. Đã có thời gian “thương trường là chiến trường”
trở thành câu nói cửa miệng, bài học nhắc nhở cho mọi nhà quản lý doanh nghiệp.
Trong cuộc chiến sống còn như vậy, việc có những doanh nghiệp yếu thế hơn, làm
ăn kém hiệu quả hơn dẫn tới thua lỗ và phá sản là điều tất yếu. Ngoài ra, ngày nay,
chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy một thực tế là chính nền kinh tế thị trường với
mục tiêu hướng mạnh về lợi nhuận đã làm cho nhiều doanh nghiệp chỉ chạy theo
lợi ích trước mắt mà đem vốn đầu tư vào các hoạt động thương mại ẩn chứa nhiều
rủi ro nhưng lại không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Khi thị trường đổ vỡ,
những khoản vốn đầu tư ồ ạt đã không thể thu về được, đẩy doanh nghiệp đến tình
trạng mất khả năng chi trả và lâm vào tình trạng phá sản. Điều này cũng có nghĩa
là kinh tế thị trường khuyến khích doanh nghiệp làm giàu nhưng cũng chính kinh
tế thị trường đẩy doanh nghiệp vào tình trạng phá sản.
Không phải ngẫu nhiên mà các nhà kinh tế ở các nước phương Tây cho
4 Website: http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Kinh-nghiem/2008/10/3BA0692A/ 5 Website: http://www.vnexpress.net/GL/Oto-Xe-may/2009/06/3BA10102/
rằng trong nền kinh tế thị trường, phá sản cũng cũng gắn liền với hoạt động kinh
11
doanh như lợi nhuận. Phá sản cùng với lợi nhuận tạo thành “cái gậy” và “củ cà rốt”
theo đuổi các thương gia, các doanh nghiệp trong suốt cuộc đời kinh doanh của họ.
Điều này cho thấy tính chất khách quan của phá sản.
Phá sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật
Là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với nền kinh tế thị trường, phá sản
chịu sự điều chỉnh của pháp luật - pháp luật về phá sản. Lúc đầu những quy định
về phá sản chỉ là những nguyên tắc pháp lý, những chế định được quy định trong
các văn bản pháp luật về thương mại, trong các quy định điều chỉnh hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Sau này, do những tác động và ảnh hưởng mang
tính xã hội của phá sản, nhiều nước đã ban hành đạo luật riêng về phá sản. Tuy
nhiên, có một thực tế là những nước Xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, do pháp luật
phá sản ra đời muộn nên thường gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng và thi
hành luật phá sản. Trong khi đó, các nước có nền kinh tế thị trường sớm phát triển
như Hoa Kỳ, Úc, Pháp … là những nước có nhiều kinh nghiệm trong việc xây
dựng và thực thi luật phá sản, đặc biệt là trong việc phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ
đang diễn ra hiện nay, nhiều doanh nghiệp, ngân hàng của Hoa Kỳ đã và đang bị
phá sản và việc xử lý doanh nghiệp bị phá sản theo chương 7 và chương 11 của
Luật Phá sản Hoa Kỳ năm 2005 đang thu hút sự chú ý của giới doanh nghiệp trên thế giới 6. Điều này có nghĩa là, từ thời cổ đại cho đến nay, phá sản luôn luôn chịu
sự điều chỉnh của pháp luật. Điều này cũng đòi hỏi mọi doanh nghiệp, ngay khi có
ý tưởng thành lập, đã phải tìm hiểu những quy định của pháp luật về phá sản song
song với việc tìm hiểu những quy định của pháp luật về tự do kinh doanh, tự do
thương mại trong cả quá trình tồn tại, phát triển, hưng thịnh và tiêu vong của mình.
1.2. Những tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp
Phá sản, như đã phân tích, là hiện tượng gắn liền với sự làm ăn kém hiệu
quả của doanh nghiệp.Vì vậy, phá sản có những tác động nhất định đến hoạt động
6 Chương 7 là chương quy định về đóng cửa doanh nghiệp và chương 11 điều chỉnh việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
của doanh nghiệp. Những tác động này vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu
12
cực. Những tác động đó là:
1.2.1. Tác động tích cực
Trên khía cạnh kinh tế - xã hội, phá sản là quá trình thanh lọc các công ty
làm ăn thua lỗ. Bởi vậy nó cho phép xã hội tổ chức lại nguồn lực kinh tế theo
hướng ngày càng hiệu quả hơn. Có thể nói các doanh nghiệp bị phá sản là những
doanh nghiệp yếu kém không đủ sức đứng vững trên thị trường. Nếu các doanh
nghiệp này tiếp tục lay lắt tồn tại, một mặt sẽ chiếm dụng một phần thị trường của
các doanh nghiệp khác, mặt khác, người lao động mà đáng ra phải được đào tạo và
sử dụng đúng cách thì lại không được giải phóng dẫn tới nghèo đói, thất nghiệp,
tay nghề giảm. Cơ hội về mặt bằng, máy móc, các phương tiện sản xuất và cung
ứng dịch vụ cũng như cơ hội về các yếu tố đầu vào khác không được các công ty
làm ăn tốt tận dụng. Nếu cứ để tình trạng trì trệ như vậy tiếp tục diễn ra thì nền
kinh tế sẽ như một cơ thể đau ốm; các nguồn lực không được phát huy tối đa và
dần trở nên tụt hậu. Điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội mà ảnh
hưởng tiêu cực đến ngay cả doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp chủ nợ hay bản thân
doanh nghiệp bị phá sản. Có thể lấy ví dụ như một số doanh nghiệp nhà nước của
Việt Nam ở thời kỳ bao cấp. Nền kinh tế chỉ đạo tập trung, bao cấp là một nền
kinh tế mà ở đó, các doanh nghiệp tồn tại dựa vào ý muốn chủ quan của nhà nước.
Phá sản và các quy định của pháp luật về phá sản không có ý nghĩa gì trong một
nền kinh tế như vậy bởi nếu các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, nhà nước sẽ có các
biện pháp hỗ trợ, bù lỗ. Kết quả là chính sự thiếu vắng những công cụ mạnh tay để
gạt bỏ những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả lại chính là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự ỷ lại, thiếu động cơ sáng tạo để đổi mới và vươn lên của
chính các doanh nghiệp này, từ đó, dẫn đến sự trì trệ và tụt hậu của cả nền kinh tế
trong những năm đầu sau giải phóng. Phá sản và những quy định về phá sản do
vậy, đóng vai trò như phương thuốc giúp cho toàn bộ cơ thể là nền kinh tế khỏe
mạnh và vận hành trơn tru bằng cách loại bỏ tất cả các tế bào đã chết, tức là các
doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, hoặc tìm cách tái tạo chúng.
Nếu đứng từ góc độ của chủ nợ để nhìn nhận về tác động tích cực của phá
sản và pháp luật phá sản thì bên cạnh những yếu tố xã hội như đã đề cập ở phần
13
trên, chúng ta còn thấy nhiều lợi ích thiết thực khác. Phá sản cũng đồng nghĩa với
việc con nợ phải thanh lý tài sản để trả nợ. Vì vậy, đứng ở góc độ của người cho
vay, phá sản giúp họ có thể thu hồi lượng vốn tồn đọng từ quá lâu ở chỗ con nợ.
Qua đó, có thể chọn một khu vực đầu tư được đánh giá là hiệu quả để đầu tư mới.
Như vậy, phá sản không những góp phần đẩy nhanh quá trình lưu chuyển vốn của
các doanh nghiệp có vốn - các doanh nghiệp chủ nợ - đang tồn đọng ở các doanh
nghiệp bị phá sản mà còn giúp cho lượng vốn này có thể được sử dụng hiệu quả
hơn nhờ những kinh nghiệm đánh giá hiệu quả đầu tư cũng như kinh nghiệm dự
báo, dự đoán tích lũy được. Như vậy có thể thấy phá sản và những quy định về phá
sản sẽ trở thành một công cụ hữu ích và hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của các nhà
đầu tư.
Từ góc độ của con nợ để nhìn nhận về tác động tích cực của phá sản, có thể
thấy rằng mặc dù không một doanh nghiệp nào thích phá sản nhưng phá sản thực
sự là một lối thoát cho các doanh nghiệp này. Khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì
việc kéo dài sự tồn tại lay lắt của doanh nghiệp là không hiệu quả bởi vì kết cục
của việc kéo dài là những nguồn chi phí bị đội lên, những khoản nợ không thể
thanh toán, những khoản tiền không thể chi trả, sự quẫn bách không lối thoát và
đặc biệt là lòng tự hào nghề nghiệp có thể đẩy các nhà lãnh đạo của các doanh
nghiệp này tới các hành vi tiêu cực như lừa đảo, gian lận hoặc thậm chí có thể tự
vẫn. Phá sản sẽ là một cánh cửa mở, là cứu cánh cho doanh nghiệp trong tình thế
như vậy. Thông qua việc mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp có thể thoát hoàn toàn
khỏi tình trạng nợ nần chồng chất. Phá sản và các quy định về phá sản trong
trường hợp này đóng vai trò là một công cụ bảo vệ hoàn hảo cho con nợ bởi sau
khi thủ tục thanh lý kết thúc, mọi khoản nợ sẽ biến mất và con nợ thật sự được tự
do. Tất nhiên, đứng ở vị trí của nhà quản lý doanh nghiệp bị phá sản, cái giá phải
trả là bị tước quyền làm giám đốc hoặc quyền quản lý một doanh nghiệp khác
trong một khoảng thời gian nào đó. Nhưng lợi ích đem lại còn lớn hơn nhiều: Bên
cạnh sự giải phóng về tinh thần cho chủ doanh nghiệp, phá sản còn cho các doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ cơ hội bắt đầu lại từ đầu thay vì tiếp tục lún sâu vào sai lầm
và nợ nần ngày một tăng thêm.
14
1.2.2. Tác động tiêu cực
Phá sản có thể đem lại nhiều lợi ích cho xã hội cũng như bản thân doanh
nghiệp bị phá sản. Song trên thực tế, các doanh nghiệp vẫn thường trốn tránh mở
thủ tục phá sản. Điều này được giải thích một phần bởi những tác động tiêu cực cả
về kinh tế - xã hội mà phá sản gây ra.
Về mặt xã hội, phá sản một doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc sẽ có
một bộ phận người lao động của doanh nghiệp đó không có việc làm, nghĩa là tỷ lệ
thất nghiệp gia tăng. Mặc dù phá sản không phải là nguyên nhân giải thích toàn bộ
tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế nhưng nó vẫn là một trong những nguyên nhân
trực tiếp và có ảnh hưởng nhanh nhất tới người lao động. Có thể lấy ví dụ về vụ
phá sản trong năm 2008 vừa qua của Ngân hàng Lehman Brothers của Hoa Kỳ
(thành lập năm 1850 bởi ba anh em Henry, Emanuel và Mayer Lehman - người Do
Thái từ Đức di cư sang). Đây là ngân hàng lớn thứ 4 và là ngân hàng tư nhân lâu
đời nhất của Hoa Kỳ với 158 năm tồn tại cho đến khi bị phá sản. Lĩnh vực chính
của Lehman Brothers là tín dụng tư nhân, buôn bán cổ phiếu, trái phiếu, nghiên
cứu thị trường, quản lý đầu tư … Ngày 15 tháng 9 năm 2008, Lehman Brothers bị
tuyên bố phá sản với khoản nợ 613 tỷ USD sau khi không có công ty nào chấp
nhận mua lại. Đây là vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Lehman
Brothers phá sản đã tác động tiêu cực đến xã hội Hoa Kỳ vì có đến 26.200 nhân viên bị mất việc chưa kể hàng loạt chủ nợ và các dự án đầu tư khác cũng bị đổ bể7.
Doanh nghiệp dừng hoạt động thì điều tất yếu là lao động của doanh nghiệp
mất việc làm và nền kinh tế luôn đòi hỏi phải có thời gian mới có thể hấp thụ và
giải quyết được tình trạng này. Nghĩa là tình trạng thất nghiệp nảy sinh và trong
một khoảng thời gian tìm việc nhất định, cuộc sống của người lao động cũng như
gia đình của họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Đối với bất kỳ nền kinh tế nào, thất
nghiệp là một mối lo lắng thường trực không chỉ của các nhà quản trị doanh
nghiệp mà còn của nhà nước, của toàn xã hội. Thất nghiệp là bạn đường của nghèo
đói, của bất bình đẳng và của các tệ nạn xã hội - những vấn đề nóng bỏng của tất
cả các nền kinh tế - dù là nền kinh tế phát triển hay kém phát triển. 7 Website: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.shtml
15
Về mặt kinh tế, phá sản gây ra nhiều tác động xấu đến sự phát triển ổn định
của nền kinh tế. Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì doanh nghiệp khác là bạn
hàng của doanh nghiệp cũng phải chịu ảnh hưởng theo kiểu dây chuyền - không
bán được hàng, không cung cấp được sản phẩm (nếu doanh nghiệp bị phá sản
trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc không có nguyên vật liệu cho sản xuất
(nếu doanh nghiệp bị phá sản là doanh nghiệp bán nguyên vật liệu cho họ) … Một
doanh nghiệp phá sản còn là tác nhân gây ảnh hưởng đến tâm lý của người tiêu
dùng, nhà đầu tư, từ đó làm toàn bộ thị trường trở nên bất ổn. Tác động đó sẽ càng
trầm trọng nếu doanh nghiệp bị phá sản là một doanh nghiệp lớn. Ví dụ, vụ phá
sản của ngân hàng Lehman Brothers không chỉ khiến hàng ngàn người lao động
mất việc mà nghiêm trọng hơn là tác động của nó tới thị trường chứng khoán toàn
cầu. Ngay sau khi có tin Lehman Brothers phá sản, các thị thường chứng khoán
đều đồng loạt giảm giá: chỉ số Down Jones Mỹ sụt giảm 2,6%; chỉ số FTSE tại thị
trường chứng khoán London giảm 3%; các thị trường chứng khoán Pháp và Đức
cũng giảm hơn 3%; chỉ số Nikkei của Nhật đã giảm tới 4,7%; đặc biệt là thị trường Nga đã phải tạm ngừng giao dịch sau khi chỉ số giảm tới 16% 8. Chỉ số chứng
khoán giảm mạnh đe doạ đến sự sụp đổ của hàng loạt các công ty khác và tiếp tục
đẩy hàng nghìn người trên toàn thế giới vào tình trạng thất nghiệp.
Từ góc độ của chủ nợ để quan sát, sự phá sản của con nợ mặc dù đồng
nghĩa với việc chủ nợ có thể thu hồi được khoản nợ đó nhưng lại là một khoản tiền
dưới giá trị. Việc giảm giá trị của khoản nợ bị tồn đọng tại doanh nghiệp bị phá sản
có thể được giải thích bởi hai nguyên nhân sau:
Thứ nhất, con nợ khi phá sản không chỉ mắc nợ với một chủ nợ. Có nghĩa là
khi tình trạng không thể thanh toán nợ xảy ra, con nợ đã mắc nợ với rất nhiều chủ
nợ và buộc lòng phải thanh lý tài sản để trả nợ. Khi đó, giá trị thu được từ tài sản
bị chia cho nhiều chủ nợ dẫn đến một hiện trạng là khoản nợ phải thu lớn hơn các
khoản nợ nhận về của các chủ nợ. Hơn nữa, sau khi phá sản, việc phát mại thanh lý
8 Website: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.shtml
tài sản của doanh nghiệp bị phá sản là không dễ dàng. Thường thì trong các phiên
16
phát mại như vậy, tài sản được định giá rất rẻ so với giá trị thực và làm cho số tiền
thu về dùng để trả nợ là rất thấp. Ví dụ như trường hợp phá sản Công ty thủy sản
khu vực II Đà Nẵng: Số nợ phải thu là 10.479.775.313 VNĐ; số nợ phải trả 50.498.514.864 VNĐ; số nợ đã thu là 100.000.000đ đạt tỉ lệ 0,95% 9. Nếu số nợ
thu về chỉ đạt tỉ lệ chưa đầy 1% so với số phải thu thì khoản tiền mà các doanh
nghiệp chủ nợ phải chia nhau sẽ ít ỏi đến thế nào.
Thứ hai, nguồn vốn đọng tại doanh nghiệp của con nợ không những không
sinh lời mà còn bị trượt giá. Với tình hình biến đổi giá tiêu dùng như hiện nay, mặc
dù chính phủ đã có những biện pháp để kiềm chế lạm phát và ổn định môi trường
đầu tư nhưng độ trượt giá qua thời gian làm cho đồng tiền mất giá là điều không
thể tránh khỏi. Hơn nữa, vốn cho vay còn tồn đọng tại doanh nghiệp phá sản không
phải chỉ trong một khoảng thời gian ngắn là có thể lấy lại được. Bao giờ cũng vậy,
khi mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, điều đầu tiên mà con nợ nghĩ tới không
phải là tuyên bố phá sản mà là làm sao đó để kéo dài “sự sống” cho mình. Có
nghĩa là dù có trả được nợ hay không, con nợ vẫn sẽ bằng mọi giá trì hoãn thời
gian, khất lần để tìm phương án trả hoặc trốn nợ. Chưa kể, quá trình phá sản kéo
dài cũng khiến cho chủ nợ càng bị thiệt hại về kinh tế nhiều hơn. Theo kết quả
công bố trong Doing Business Ranking 2008, Việt Nam xếp thứ 124 trên tổng số
178 nước trên thế giới do có thời gian giải quyết phá sản rất dài với mức trung bình là 5 năm 10. Thời gian giải quyết một vụ phá sản lâu như vậy, chưa kể khoảng
thời gian trước khi mở thủ tục phá sản, thực sự là một khoản “thất thu” rất lớn đối
với bất cứ một doanh nghiệp chủ nợ nào.
2. Sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản
Những tác động tích cực và tiêu cực của phá sản đối với doanh nghiệp cũng
như đối với nền kinh tế cho thấy sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của các
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Sự cần thiết này được giải thích bởi các
9 Bộ Tư Pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004”, ngày 29/12/2008 10 Website: http://www.doingbusiness.org/EconomyRankings/
lý do dưới đây:
17
2.1. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích tái tạo lại doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp bị phá sản nghĩa là trợ giúp doanh
nghiệp đó, có thể bằng tài chính hoặc cố vấn về phương án hoạt động kinh doanh,
để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể tự mình đứng dậy. Một cách so
sánh hình tượng, phục hồi doanh nghiệp giống như một trong những phương thuốc
của phá sản nhưng không nhằm loại bỏ tế bào chết mà nhằm giúp cho các tế bào
ốm yếu khỏe lại và phục hồi được chức năng vốn có. Bằng cách đó nó giúp cho
“cơ thể” là nền kinh tế mạnh khỏe trở lại.
Thông thường, khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán, để không bị tuyên bố phá sản mà thay vào đó, để được phục hồi, doanh
nghiệp này phải thực hiện nhiều thủ tục. Thủ tục phục hồi doanh nghiệp là một
bước trước khi tiến hành thủ tục thanh lý. Có nghĩa là sau khi quá trình phục hồi
doanh nghiệp thành công, doanh nghiệp sẽ trả được nợ cho chủ nợ. Điều khác biệt
là doanh nghiệp khi đó sẽ có đủ tiền trả nợ và việc trả nợ không còn khó khăn đến
mức không thể như trước khi phục hồi. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
sẽ không cần phải thanh lý tất cả tài sản để trả nợ nữa. Đồng thời, sau khi trả xong
nợ, doanh nghiệp này có thể sẽ hồi sinh, sẽ được tái tạo và do đó sẽ tiếp tục phát
triển mạnh lên với những phương án hoạt động hiệu quả hơn.
Đứng từ góc độ của chủ nợ, sau khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản được
phục hồi, chủ nợ có cơ hội thu hồi lại được 100% khoản nợ còn tồn đọng. Trong
các tác động tiêu cực của phá sản có tác động về giảm giá trị của các khoản mà chủ
nợ cho doanh nghiệp vay. Phục hồi doanh nghiệp bị phá sản cho phép “chữa lành”
một trong hai nguyên nhân gây ra sự thiệt hại về kinh tế đó cho chủ nợ. Mặc dù
không thể ngăn chặn một cách tuyệt đối quá trình suy giảm giá trị của số vốn qua
thời gian nhưng ít nhất, số tiền mà chủ nợ thu được cũng tương ứng với số tiền mà
họ phải thu. Điều này chỉ có thể đạt được khi doanh nghiệp được tái tạo, được
phục hồi, được sống lại nhờ những biện pháp hỗ trợ tích cực của pháp luật, của
Nhà nước, của các doanh nghiệp chủ nợ và của cả Tòa án.
18
2.2. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm giảm thiểu tác động tiêu
cực của phá sản đối với xã hội
Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp tiếp tục kinh
doanh một cách bình thường nhưng với phương án hoạt động mới, được nghiên
cứu và tính toán một cách tỉ mỉ dựa trên tình hình và thực trạng kinh doanh hiện tại
của doanh nghiệp nhằm tìm kiếm giải pháp tối ưu (như cắt giảm các bộ phận dôi
dư, đổi mới công nghệ, cải cách bộ máy quản lý, phát động tinh thần thi đua…) để
nhanh chóng phục hồi thành công và đưa doanh nghiệp trở lại hoạt động. Điều này
cho phép giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực của phá sản. Thay vì dừng hoạt
động và sa thải hàng loạt người lao động, quá trình phục hồi doanh nghiệp chỉ phải
cân nhắc tính toán chi phí dành cho người lao động sao cho phù hợp với tình hình
của doanh nghiệp. Nói vậy có nghĩa là vẫn có thể xảy ra việc cắt giảm biên chế, sa
thải lao động nhưng không phải là sa thải 100% lao động mà chỉ loại bỏ những bộ
phận thừa hoặc những bộ phận làm việc không hiệu quả. Số lao động được giữ lại
sẽ là số lao động tối ưu đối với doanh nghiệp. Dựa vào số lao động này, doanh
nghiệp sẽ tiếp tục vòng đời của mình. Số người lao động được giữ lại đương nhiên
sẽ tiếp tục cuộc sống bình thường của họ và của gia đình họ. Bên cạnh đó, số
người lao động bị sa thải lại được thủ tục phục hồi hỗ trợ một phần, gián tiếp qua
doanh nghiệp. Doanh nghiệp được phục hồi sẽ có chính sách đảm bảo cho người
lao động hưởng lương cần thiết trong giai đoạn chưa có việc cũng như hỗ trợ tìm
việc làm mới cho họ.
Có thể nói, mặc dù phục hồi doanh nghiệp không triệt tiêu hoàn toàn nguy
cơ tỷ lệ thất nghiệp đột ngột tăng lên do phá sản nhưng nó lại giải quyết được bài
toán kinh tế cho người lao động. Qua đó nó hạn chế gia tăng tỉ lệ đói nghèo, bất
bình đẳng cũng như tệ nạn xã hội.
2.3. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp góp phần làm thay đổi nhận
thức về phá sản
Trước đây, khi chưa có thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, phá
sản chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ chính của nó: Loại bỏ các doanh nghiệp làm ăn
19
thua lỗ. Bởi vậy, nhắc đến hai chữ phá sản là nhắc đến sự kết thúc vòng đời của
một doanh nghiệp. Điều này làm cho các thương nhân cũng như các doanh nghiệp,
các nhà sản xuất cũng như các nhà cung ứng dịch vụ đều rất sợ hai chữ này. Phá
sản trở thành một hình phạt quá nặng đối với mọi chủ thể của nền kinh tế. Đã có
những giai đoạn trong lịch sử, việc gây ra phá sản cấu thành tội phạm trong pháp luật hình sự của các nước 11. Có nghĩa là không những phá sản làm cho người chủ
doanh nghiệp phải xấu hổ, không thể tiếp tục kinh doanh mà còn làm cho họ bị kết
tội. Trong những giai đoạn ít căng thẳng hơn thì người gây ra phá sản không bị coi
là tội phạm nữa, nhưng người ta vẫn thường thấy chủ doanh nghiệp nhảy lầu tự
vẫn hoặc bằng cách nào đó khác, kết thúc cuộc đời mình vì phá sản. Phá sản đồng
nghĩa với biến mất, chết chóc hay hủy diệt. Ở Liên bang Đức, phá sản bị coi còn tệ
hơn một sự sỉ nhục, vì vậy các doanh nghiệp Đức thường ghép mình bên trong các
công ty lớn như Siemens, hơn là rời bỏ để thiết lập các doanh nghiệp thuộc sở hữu
riêng của mình.
Từ khi thủ tục phục hồi doanh nghiệp ra đời, nó đã làm thay đổi hoàn toàn
quan niệm về phá sản. Phá sản đúng là nơi kết thúc, là nơi biến mất nhưng đó là
đối với sự phi hiệu quả hoặc phi kinh tế. Một mặt khác, nó trở thành nơi bắt đầu
của một doanh nghiệp khỏe mạnh trên nền tảng doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản đã được phục hồi. Ngày nay, chúng ta chứng kiến rất nhiều vụ phá sản mà
sự chủ động hoàn toàn thuộc về doanh nghiệp. Doanh nghiệp nộp đơn xin mở thủ
tục phá sản, nộp bản phương án phục hồi kinh doanh, nhận sự trợ giúp hoặc những
chính sách ưu đãi của Nhà nước và sau đó “sống dậy”. Có thể kể đến vụ phá sản
của Kmart năm 2002 hay hai lần phá sản của hãng hàng không Continental
Airlines (Hoa Kỳ) năm 1983 và năm 1990 như những ví dụ điển hình. Kể từ ngày
Kmart tự đứng dậy, sau khi lâm vào tình trạng phá sản năm 2002, từ tháng 5/2003, giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến 700% tính đến mùa xuân năm 2005 12 còn với
11 Luật Phá sản đầu tiên của Anh (do Vua Henry VIII phê chuẩn năm 1542) là đạo luật có mục tiêu chống lại các cá nhân gây ra phá sản, theo đó, nước Anh đã bỏ tù các con nợ. (Nguồn: Viên Nghiên cứu Khoa học thị trường và giá cả. Luật Phá sản của Trung Quốc và một số nước Tây Âu, Hà Nội năm 1990, tr. 97) 12 Website: http://money.cnn.com/2002/01/22/companies/kmart/
Continental Airlines, hai năm rưỡi sau khi phá sản, công ty này trở thành một hãng
20
hàng không độc lập và hiện là hãng hàng không lớn thứ 9 trên thế giới 13. Phá sản
không còn là tội ác hay hình phạt nữa, trái lại, phá sản đang dần trở thành một
phương án chiến lược của những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ muốn tìm đường
quay lại để hoạt động một cách hiệu quả và thành công hơn.
3. Pháp luật về phá sản và những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
3.1. Pháp luật về phá sản
3.1.1. Khái niệm về pháp luật phá sản
Pháp luật về phá sản là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những
mối quan hệ xã hội phát sinh từ hoặc liên quan đến tình trạng phá sản của doanh
nghiệp.
Một doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, như đã phân
tích ở trên, thường trải qua nhiều giai đoạn từ hình thành, phát triển, hưng thịnh và
tiêu vong. Khi gặp khó khăn, doanh nghiệp nào cũng phải tìm kiếm giải pháp tháo
gỡ để vượt qua. Để hạn chế những tác động tiêu cực cho xã hội, cho chủ nợ, cho
người lao động …, pháp luật phải đưa ra những quy định, những nguyên tắc hướng
dẫn doanh nghiệp sao cho tình trạng phá sản được giải quyết theo một trật tự đã
được luật hóa. Như vậy, pháp luật về phá sản là hệ thống các quy định, các nguyên
tắc, các thủ tục pháp lý đã được luật hóa nhằm điều chỉnh những mối quan hệ xã
hội phát sinh liên quan đến toàn bộ quy trình phá sản của một doanh nghiệp.
Với cách hiểu này, pháp luật về phá sản thường có nội dung là đưa ra những
quy định xác định rõ khái niệm về phá sản, về đối tượng áp dụng luật phá sản, về
điều kiện để bị tuyên bố phá sản, về mở thủ tục phá sản, về giải quyết hậu quả
pháp lý liên quan đến phá sản, về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chủ nợ, của Tòa
án, của tổ quản lý, thanh lý tài sản và về thủ tục, điều kiện phục hồi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản …
Từ cách tiếp cận đó, giờ đây khái niệm về phá sản được xác định rõ trong
luật phá sản với nội dung đầy đủ hơn. Tuy nhiên, cũng như pháp luật nói chung,
13 Website: http://www.continental.com/web/en-US/content/company/history/1978-1990.aspx
pháp luật phá sản các nước thường có nội dung không hoàn toàn giống nhau. Do
21
đó, cách hiểu về phá sản theo luật các nước cũng khác nhau. Một cách bao quát
nhất, phá sản được hiểu là một quy trình, một thủ tục pháp lý, một trường hợp mà,
khi có một doanh nghiệp lâm vào tình trạng quẫn bách về mặt kinh doanh, theo
yêu cầu của chủ nợ (hoặc có khi là theo yêu cầu của bản thân con nợ hoặc của các
chủ thể khác), Tòa án tuyên bố doanh nghiệp đó bị phá sản. Sau khi tuyên bố như
vậy, Tòa án sẽ cử ra một Thẩm phán hoặc một số cán bộ chuyên trách thay mặt
cho Tòa án quản lý toàn bộ tài sản của doanh nghiệp này và tập hợp các chủ nợ để
yêu cầu họ xem xét và có biện pháp, có phương án để “xử lý” doanh nghiệp và tài
sản của doanh nghiệp đó để đem chia cho các chủ nợ.
Với cách hiểu như trên về phá sản, rõ ràng pháp luật về phá sản sẽ phải giải
quyết hàng loạt vấn đề, từ khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, nộp đơn
đề nghị Tòa án mở thủ tục phá sản … cho đến khi thanh lý xong tài sản của doanh
nghiệp đó. Nói cách khác, một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nếu chưa được Tòa án
mở thủ tục phá sản thì những quy định của pháp luật phá sản chưa ảnh hưởng đến
doanh nghiệp này. Điều này có nghĩa là khi chưa mở thủ tục phá sản thì doanh
nghiệp này vẫn có thể bị chủ nợ bắt giữ, truy đòi tài sản và thậm chí có thể bị chủ
nợ áp dụng cả “luật rừng” để trừng trị. Chỉ khi được Tòa án mở thủ tục phá sản,
doanh nghiệp con nợ mới chính thức được pháp luật bảo vệ.
3.1.2. Vai trò của pháp luật phá sản
Như vậy, pháp luật phá sản ra đời là một tất yếu khách quan. Bằng việc ban
hành pháp luật về phá sản, tất cả những vấn đề liên quan đến tình trạng phá sản của
doanh nghiệp sẽ được pháp luật điều chỉnh. Pháp luật phá sản là công cụ, là vũ khí
sắc bén của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế thị trường nói chung và quản
lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng.
Cùng với sự phát triển của pháp luật nói chung, pháp luật về phá sản qua
các giai đoạn phát triển của nền kinh tế - xã hội cũng có sự thay đổi, hoàn thiện về
mặt nội dung. Do đó, pháp luật về phá sản của một nước cũng có những thay đổi
về nội dung qua năm tháng. Pháp luật về phá sản của các nước khác nhau cũng có
sự khác nhau về mục tiêu, về nội dung cũng như về thủ tục. Ví dụ, Luật phá sản
đầu tiên của Anh năm 1542 có mục tiêu là trừng phạt con nợ và vào thời kỳ này,
22
Tòa án Anh đã từng bỏ tù những thương gia bị phá sản. Trong khi đó, Luật Phá sản
năm 1898 của Mỹ lại có mục tiêu là tìm cách để doanh nghiệp có thể tái tạo lại khả
năng kinh doanh của họ. Đến năm 1966, nước Anh đã ban hành luật phá sản mới,
theo đó, các công ty của Anh có thể yêu cầu Tòa án phá sản của Anh đặt họ vào “sự quản lý của Tòa án” thay vì bị bỏ tù 14.
3.2. Những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật
phá sản
Như đã trình bày ở trên, không phải luật phá sản nào cũng có mục tiêu là
phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong luật phá
sản cổ đại, chỉ có Luật phá sản của Hoa Kỳ là có mục tiêu này. Ngày nay, pháp
Luật phá sản hiện hành của Hoa Kỳ rất nổi tiếng với chương 7 và chương 11.
Chương 7 đưa ra những quy định, theo đó, nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ tới
mức không thể cứu vãn được thì Tòa án sẽ tuyên bố doanh nghiệp đó bị phá sản và
xóa tên nó khỏi danh sách cộng đồng doanh nghiệp. Trong khi đó, chương 11 sẽ
cho phép doanh nghiệp tái tạo bằng các thủ tục pháp lý mà chỉ những doanh
nghiệp thỏa mãn những điều kiện nhất định do chương 11 này quy định thì mới
được phục hồi hoạt động. Những doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của chương 11
là những doanh nghiệp có những điều kiện, biện pháp để tái tạo và hồi sinh thành
công.
Khi mới ra đời, hầu hết pháp luật về phá sản của các nước trên thế giới
không đưa ra những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Nguyên
nhân là bởi vì pháp luật phá sản, đặc biệt pháp luật phá sản cổ đại, đặt mục tiêu là
răn đe và trừng phạt con nợ. Vì vậy, nội dung của pháp luật phá sản thời kỳ này
chủ yếu là cố gắng đưa ra những quy định, nguyên tắc, chế định pháp lý cứng rắn
nhất để tước quyền sở hữu của con nợ đối với tài sản và tăng cường khả năng chi
trả cho các chủ nợ. Ngoài ra, pháp luật về phá sản ở thời kỳ này cũng không quan
tâm đến số phận của con nợ, của người lao động. Vì vậy, tác động tiêu cực của một
doanh nghiệp bị phá sản thường rất lớn với hiệu ứng lan tỏa khó lường.
14 Viện Nghiên cứu Khoa học thị trường và giá cả, Sách đã dẫn, tr. 101
Pháp luật về phá sản hiện đại ngày nay, mặc dù có những quy định rất khác
23
nhau trong luật mỗi nước, đã cố gắng đặt ra mục tiêu ưu tiên phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp thay vì trừng phạt doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu này,
phục hồi hoạt động của doanh nghiệp được coi là một thủ tục trong thủ tục phá
sản. Đây là một trong những điểm mới của pháp luật phá sản của hầu hết các nước
hiện nay, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật của các nước khác nhau quy
định về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
không hoàn toàn giống nhau.
Cộng hòa Pháp là một nước theo hệ thống Civil Law, vì vậy, các quy định
về phá sản được ban hành tương đối sớm và được hệ thống hóa trong các văn bản
luật và dưới luật. Các quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp chiếm vị
trí quan trọng trong luật phá sản Pháp. Những quy định này cũng thường xuyên
được sửa đổi, bổ sung để làm cho chúng phù hợp với thực tiễn kinh doanh của
doanh nghiệp Pháp. Chương II sẽ phân tích cụ thể về những quy định trong Luật
phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.
24
Chƣơng II
NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT CỦA PHÁP VỀ
PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO
TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
1. Giới thiệu tổng quan về pháp luật phá sản của Pháp
1.1. Sự hình thành và phát triển
Nghiên cứu tiến trình phát triển của vấn đề phá sản, người ta nhận thấy rằng
ở Pháp cũng có 3 xu hướng đã lần lượt xảy ra trong lịch sử. Thời kỳ đầu, các nhà
lập pháp thường có xu hướng xử phạt các nhà buôn (lúc đó là cá nhân) vì họ đã
không thể trả được nợ như cam kết của mình. Sau đó một thời gian, người ta lại
muốn bảo vệ các chủ nợ không đòi được tiền. Và cuối cùng, vào thời kỳ gần đây
hơn, các nhà làm luật lại quan tâm đến việc đảm bảo phục hồi hoạt động cho những doanh nghiệp xứng đáng 15.
Khái niệm phá sản và nội hàm của nó xuất hiện vào cuối thế kỷ XV tại Ý.
Vào thời kỳ này, thủ tục phá sản mang nặng tính hình sự và tính nghiệp đoàn. Một
mặt, các nhà buôn không trả được nợ trong đúng thời hạn quy định sẽ bị coi như
những tên tội phạm và việc không trả nợ được xem như hành động lừa đảo. Kết
quả là họ sẽ bị xử phạt nặng, thậm chí là bị bỏ tù, chiếc ghế của họ tại hội đồng các
nhà buôn sẽ bị tước mất, còn toàn bộ tài sản sẽ bị tịch thu và đem đi thanh lý để trả
nợ. Mặt khác, tại thời kỳ này, thủ tục phá sản chưa được luật hóa, mà nó chỉ là các
hoạt động giữa các nhà buôn này với các nhà buôn khác bởi vì chính các chủ nợ là
những người cầm cân nảy mực trong thủ tục phá sản.
Pháp luật cổ của Pháp về vấn đề phá sản bị ảnh hưởng nhiều bởi thủ tục phá
sản của Ý, song luật của Pháp, cụ thể là Pháp lệnh năm 1536 và năm 1673 có sự
phân biệt rõ ràng hơn về nguyên nhân của việc phá sản, do rủi ro, bất cẩn hay lừa
R. Szramkiewicz, “Histoire du droit des affaires”, Édition LGDJ, Paris Montchrétien 1989
đảo. Trong trường hợp cuối cùng, người bị phá sản sẽ phải chịu những hình phạt 15 J. Hilaire, “Introduction historique au droit commercial”, Édition PUF, 1986 ;
25
nghiêm khắc tùy mức độ nghiêm trọng của hành động lừa đảo, nặng nhất có thể
phải chịu án khổ sai hoặc bị tước hết tài sản. Tuy nhiên, người bị phá sản cũng có
nhiều cách để tránh những biện pháp hà khắc của pháp luật. Họ có thể thỏa thuận
với chủ nợ thông qua các biện pháp riêng nhằm chứng minh tư cách chính trực của
mình trước các nhà lập pháp. Ngoài ra, họ cũng có thể xin cấp một “thư giãn nợ”
(lettre de répit) để kéo dài thời gian trả nợ trước khi phải tiến hành thủ tục phá sản. Tuy nhiên trên thực tế, hệ thống này đã hoạt động không hiệu quả 16.
Vấn đề phá sản chính thức được đề cập trong Bộ luật Thương mại năm
1807 của Pháp. Những quy đinh về phá sản trong Bộ luật Thương mại năm 1807
này vẫn mang tính hà khắc cao do nó được ban hành đúng vào lúc diễn ra vụ bê
bối thương mại giữa một số nhà buôn với quân đội của Napoléon. Bộ luật này đưa
ra cùng lúc với hai hệ thống thủ tục được áp dụng cho các nhà buôn đã lâm vào
tình trạng mất khả năng thanh toán. Thứ nhất, trên quan điểm dân sự, thủ tục phá
sản có mục đích tổ chức hoạt động thanh lý các tài sản của con nợ và chia cho các
chủ nợ. Thứ hai, trên quan điểm hình sự, người bị phá sản sẽ phải chịu các hình
phạt hình sự dù việc không trả nợ là do vô tình hay cố ý. Phá sản đơn giản bị coi
như một tội và bị phạt từ 1 tháng đến 2 năm tù, phá sản có liên quan đến lừa đảo
được coi như trọng tội, bị đưa ra Tòa hình sự và phải chịu án khổ sai. Như vậy, các
quy định về phá sản trong Bộ luật Thương mại năm 1807 còn rất nhiều điểm hạn
chế: nó quá nghiêm khắc đối với con nợ và dễ dẫn đến các hành động tiêu cực
nhằm che giấu tình trạng mất khả năng thanh toán; nó cũng không có hiệu quả đối
với chủ nợ do Bộ luật Thương mại đưa ra các chi phí và thủ tục rắc rối và thời gian
tiến hành thủ tục bị kéo dài; cuối cùng, luật không có các biện pháp đảm bảo bởi vì
người bị phá sản hoàn toàn có thể tiếp tục kinh doanh và làm đảo lộn thị trường.
Đến thế kỷ XIX, các quy định về phá sản được sửa đổi theo hướng thông
thoáng, mềm dẻo hơn. Thời kỳ này, giai cấp tư sản Pháp ngày càng có ảnh hưởng
trong xã hội, vì lợi ích của mình, họ đã yêu cầu bãi bỏ các quy định hà khắc trong
Bộ luật Thương mại năm 1807. Việc thay đổi các quy định này được tiến hành một
cách tuần tự thông qua việc ban hành các đạo luật năm 1838 và năm 1889. Đạo 16 Yves Guyon, “Entreprise en difficulté: Redressement judiciaire – Faillite”, Édition Economica, 1991
26
luật ngày 28/05/1838 đã cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Thương mại năm
1807 theo hướng mềm dẻo hơn bằng cách đơn giản hóa các thủ tục phá sản và quy
định người đại diện cho chủ nợ sẽ được chỉ định bởi Tòa án, chứ không phải bởi
bản thân các chủ nợ như trước đây. Đặc biệt, đạo luật ngày 04/03/1889 đã đưa ra
một thủ tục mới - thủ tục thanh lý tư pháp (La liquidation judiciaire) - được xem
như một đặc ân dành cho các nhà kinh doanh xấu số nhưng thiện chí. Các biện
pháp tước quyền sở hữu của con nợ đối với tài sản được giảm nhẹ và con nợ vẫn
có quyền định đoạt các tài sản của mình. Họ được trợ giúp (chứ không phải là thay
mặt) bởi một nhân viên thanh lý với nhiệm vụ giúp họ phục hồi hoạt động.
Năm 1935, Sắc lệnh mới về phá sản ra đời nhằm đối mặt với tình trạng khó
khăn về tài chính và tình trạng phá sản liên tục của các doanh nghiệp. Sự điều
chỉnh này được thể hiện qua hai văn bản: Sắc lệnh ngày 8/8 lần đầu tiên đề cập đến
phá sản doanh nghiệp bên cạnh việc phá sản của các nhà buôn như trước đây. Sắc
lệnh ngày 30/10 tăng cường và đơn giản hóa một số thủ tục, nó nâng cao quyền
hạn của Tòa án và giảm bớt quyền hạn của các chủ nợ. Điều này là hoàn toàn đúng
đắn vì việc phá sản không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ mà còn liên
quan đến lợi ích chung của toàn xã hội.
Một cuộc cải cách mới được tiến hành vào năm 1955 thông qua Sắc lệnh
ngày 20/5/1955 và được đưa vào Bộ luật Thương mại bởi Pháp lệnh ngày
30/12/1958. Sắc lệnh năm 1955 lần đầu tiên phân biệt hai thủ tục: thủ tục thanh
toán tư pháp (le règlement judiciaire) và thủ tục phá sản (la faillite). Thủ tục thanh
toán tư pháp sẽ dẫn đến một thỏa ước mà theo đó, con nợ sẽ thanh toán cho các
chủ nợ theo khả năng tốt nhất của mình và họ sẽ không phải chịu một hình phạt
nào cả. Thủ tục phá sản dành cho các nhà buôn không có tư cách tốt, thủ tục này sẽ
kết thúc bởi việc tập hợp tất cả các tài sản của nhà buôn bị phá sản để đưa ra thanh
lý, nhà buôn sẽ phải chấm dứt mọi hoạt động kinh doanh, đóng cửa doanh nghiệp
và phải chịu các hình phạt dân sự và hình sự khác. Cho đến lần cải cách này, Pháp
lệnh vẫn tỏ ra còn nhiều thiếu sót: Một mặt, nó chỉ áp dụng cho nhà buôn mà
không áp dụng cho doanh nghiệp, đôi lúc còn nhầm lẫn hai khái niệm này với
nhau; mặt khác thủ tục thanh toán được mở ra quá chậm trễ khi doanh nghiệp đã
27
mất khả năng thanh toán, vì vậy việc phục hồi hoạt động trở nên hết sức khó khăn.
Năm 1967, pháp luật phá sản hiện đại ra đời thông qua việc ban hành Luật
ngày 13/07/1967 và Pháp lệnh ngày 23/ 9/1967. Các văn bản này đã phân biệt rõ
ràng bốn thủ tục: Thủ tục thanh toán (Le règlement judiciaire) quy định sau khi kết
toán các khoản nợ, doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động bình thường; Thủ tục
thanh lý tài sản (La liquidation des biens) nhằm loại bỏ các doanh nghiệp không có
khả năng phục hồi, thủ tục này tương tự như thủ tục phá sản năm 1955 nhưng chỉ
liên quan đến tài sản chứ không liên quan đến con người; Thủ tục phá sản cá nhân
(La faillite personnelle) là một hình phạt dân sự cho chủ doanh nghiệp do đã vi
phạm pháp luật; cuối cùng Thủ tục tạm ngừng truy tố (La suspension provisoire
des poursuites) dành cho các doanh nghiệp lớn đang trong giai đoạn khó khăn
nhưng chưa đến mức mất khả năng thanh toán. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử
pháp luật phá sản của Pháp, người ta đã phân biệt giữa cá nhân với doanh nghiệp
và đưa ra các biện pháp chế tài khác nhau cho các đối tượng này. Luật phá sản
năm 1967 cũng đã có một bước tiến quan trọng trong việc xem xét mức độ khác
nhau về tình trạng khó khăn của doanh nghiệp dựa trên tiêu chí mất khả năng
thanh toán, từ đó áp dụng các biện pháp, thủ tục, quy trình khác nhau.
Luật và Pháp lệnh về phá sản năm 1967 đã tỏ ra hết sức hiệu quả trong giai
đoạn tăng trưởng kinh tế, giai đoạn mà phá sản chỉ diễn ra đối với một vài công ty
do năng lực quản lý kém, và công ty đó dễ dàng được mua lại toàn bộ bởi một
công ty khác có năng lực cao hơn. Tuy nhiên, khi nền kinh tế lâm vào suy thoái,
tình trạng khó khăn sẽ không chỉ dừng lại ở một hay một vài công ty mà nó đã lan
rộng đến mọi thành phần kinh tế dẫn đến kết quả phá sản hàng loạt các công ty và tình trạng trì trệ, đi xuống của nền kinh tế 17. Trong bối cảnh như vậy, vấn đề quan
trọng đối với cả nền kinh tế không còn là việc thanh toán các khoản nợ hay xử phạt
các con nợ mà là cứu các doanh nghiệp, là phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
và ngăn chặn việc sa thải người lao động dẫn tới tình trạng thất nghiệp hàng loạt.
Luật và Pháp lệnh năm 1967 đã không đáp ứng được những yêu cầu này. Để khắc
phục những thiếu sót này, nước Pháp đã lần lượt ban hành thêm hai đạo luật mới. 17 Yves Guyon, “Entreprises en difficultés: Redressement judiciaire – Faillite”, Édition Economica 1991
28
Đó là Luật ngày 01/03/1984 về thủ tục phòng ngừa các khó khăn (Prévention des
difficultés) và giải quyết thông qua thỏa thuận (Règlement amiable) và Luật ngày
25/01/1985 về thủ tục phục hồi hoạt động (Redressement judiciaire) và thanh lý
doanh nghiệp bị phá sản (Liquidation judiciaire).
Năm 1994, Luật phá sản của Pháp tiếp tục được cải cách theo hướng củng
cố các quyền lợi của các chủ nợ cũ cũng như tình trạng của những người có quyền
đòi nợ trong giai đoạn quan sát. Ngày 10/06/1994, Pháp ban hành Luật số 94-975
nhằm mục đích đơn giản hóa thủ tục phá sản theo đó, Tòa án có thể tuyên bố quá
trình phục hồi doanh nghiệp mà không cần tiến hành giai đoạn giám sát.
Đạo luật 2005-845 về doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn được ban
hành vào ngày 26/07/2005 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát
triển của pháp luật phá sản Pháp. Một mặt, Luật năm 2005 vẫn giữ nguyên những
quy định cơ bản về phá sản đã được đặt ra trong Luật năm 1985. Thủ tục giải quyết
thông qua thỏa thuận với chủ nợ được quy định trong Luật năm 1984 từ nay được
đổi thành Thủ tục hòa giải (Conciliation) và được tiến hành ngay cả khi doanh
nghiệp đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nhưng chưa vượt quá 45 ngày 18. Đối với thủ tục giải quyết theo pháp luật, Luật năm 2005 đưa ra ba thủ tục
để doanh nghiệp có thể tiến hành nhằm giải quyết tình trạng khó khăn của mình:
Thủ tục cứu doanh nghiệp (Sauvegarde), Thủ tục phục hồi hoạt động
(Redressement judiciaire) và Thủ tục thanh lý tài sản (Liquidation judiciaire). Như
vậy so với Luật năm 1985, Luật năm 2005 đã đưa ra thêm thủ tục cứu doanh
nghiệp theo đó cho phép doanh nghiệp có thể tiến hành mở thủ tục phá sản ngay
khi có dấu hiệu của việc mất khả năng thanh toán, chứ chưa cần doanh nghiệp thật
sự lâm vào tình trạng đó. Đối với thủ tục phục hồi doanh nghiệp và thanh lý tài
sản, con nợ chỉ được áp dụng khi đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Riêng về thủ tục thanh lý tài sản, Luật 2005 đã có một số quy định đổi mới so với
các quy định trước đây. Theo các quy định mới này, kết quả của thủ tục thanh lý sẽ
không chỉ dừng lại ở việc thanh toán nợ cho các chủ nợ, mà thủ tục thanh lý tài sản
còn có thể kết thúc bởi việc nhượng lại một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. 18 Điều 5 Đạo luật 2005-845 về Doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn
29
Hiện nay, Luật năm 2005 về doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn vẫn là
một trong những văn bản chính điều chỉnh vấn đề phá sản của Pháp. Bên cạnh đó,
Chính phủ Pháp mới ban hành thêm Pháp lệnh số 2008-1345 ngày 18/12/2008 sửa
đổi Luật về doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn và Nghị định số 2009-160
ngày 12/2/2009 hướng dẫn áp dụng Pháp lệnh số 2008-1345. Hai văn bản này có
một số sửa đổi bổ sung về các thủ tục dự báo và giải quyết tình trạng khó khăn của
doanh nghiệp song vẫn giữ lại các nội dung cơ bản đã được đề cập trong Luật năm
2005. Cả Luật năm 2005 và Pháp lệnh số 2008-1345 đều đã được đưa vào Bộ luật
Thương mại Pháp năm 2009, quyển VI, về “Tình trạng khó khăn của doanh
nghiệp”.
1.2. Vị trí vấn đề phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật về doanh
nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn của Pháp
Những phân tích ở trên đây cho thấy, pháp luật phá sản của Pháp cho đến
nay đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần và cho đến nay, Pháp đã xây dựng được
một hệ thống pháp luật phá sản đồng bộ, đầy đủ, hiện đại với nhiều thủ tục, quy
định áp dụng cho các trường hợp khác nhau tùy thuộc vào tình trạng khó khăn của
từng doanh nghiệp. Thủ tục phá sản hiện hành được đề cập tại quyển VI của Bộ
luật Thương mại năm 2009, trong phần pháp luật về các doanh nghiệp trong tình
trạng khó khăn. Phần này không chỉ bao gồm những quy định về thủ tục phá sản
mà còn bao gồm cả cơ chế phòng ngừa tình trạng khó khăn của doanh nghiệp.
Riêng các quy định về phá sản, Luật của Pháp đưa ra ba thủ tục có thể áp dụng tùy
theo mức độ nghiêm trọng của tình hình hoạt động của doanh nghiệp: Thủ tục cứu
doanh nghiệp, Thủ tục phục hồi doanh nghiệp và Thủ tục thanh lý ( xem sơ đồ 2 ).
Thủ tục cứu doanh nghiệp là một điểm khác biệt trong luật của Pháp so với
luật Việt Nam bởi vì Luật phá sản của Việt Nam năm 2004 không có quy định nào
về thủ tục này. Đây là thủ tục được áp dụng đối với các doanh nghiệp chưa thực sự
rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán nhưng tình trạng của doanh nghiệp đã ở
mức rất xấu, việc mất khả năng thanh toán là không thể tránh khỏi và sớm muộn gì
cũng xảy ra. Kể từ khi ra đời, Thủ tục cứu doanh nghiệp đã được các doanh nghiệp
Pháp chào đón và số vụ áp dụng thủ tục này không ngừng tăng lên.
30
Sơ đồ 2: Phác thảo sơ đồ thủ tục phá sản của Pháp
Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
Quyết định của Tòa án
Phục hồi doanh nghiệp Cứu doanh nghiệp (1%) Thanh lý tài sản (65%)
(34%)
Giai đoạn quan sát (<6 tháng, có khả năng có gia hạn thêm)
Tòa án từ chối cho Doanh nghiệp tiếp tục hoạt động Quyết định của Tòa án về việc tiếp tục hoạt động của Doanh nghiệp
Kế hoạch phục hồi doanh nghiệp Kế hoạch nhượng tài sản
Thi hành các kế hoạch trên? Xử lý nợ?
Có Không Có Không Hủy kế hoạch và chuyển đổi quyết định của Tòa án
Kết thúc thủ tục do hoàn tất trả nợ
Tòa có thể ra bản án truy cứu trách nhiệm của Lãnh đạo Công ty (phá sản cá nhân, cấm điều hành doanh nghiệp…)
Kết thúc thủ tục do không có tài sản trả nợ
Nguồn: http://www.infolegale.fr/jugements.html
31
Năm 2008 có 694 vụ được mở Thủ tục cứu doanh nghiệp, tăng khoảng 35%
so với năm 2006 và 2007. Tuy nhiên, trên thực tế, do mới xuất hiện kể từ năm
2005 (quy định bởi Luật 2005-845) nên tỉ lệ áp dụng Thủ tục cứu doanh nghiệp
trong các Thủ tục phá sản còn chưa cao, chỉ chiếm 1,26% (năm 2008) trong số các Thủ tục phá sản được mở tại Pháp 19.
Thủ tục phục hồi doanh nghiệp và Thủ tục thanh lý là hai thủ tục phá sản
được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán. Tùy từng trường hợp, doanh nghiệp có thể áp dụng thủ tục phục hồi
trước và chuyển sang thủ tục thanh lý nếu việc phục hồi không thành công, hoặc
áp dụng ngay thủ tục thanh lý nếu xét thấy doanh nghiệp đã ở trong tình trạng
không thể cứu vãn. Tại Pháp, tình hình áp dụng hai thủ tục này là khá khả quan.
Chỉ tính riêng năm 2007, nếu như ở Việt Nam, số vụ phá sản được thụ lý mới chỉ là 175 20 vụ thì con số đó tại Pháp là 49 700 vụ 21.
Riêng về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, số vụ được mở thủ
tục này ở Pháp đã không ngừng tăng trong giai đoạn 2005-2008 (xem bảng 1). Tỷ
lệ Thủ tục phục hồi doanh nghiệp trong thủ tục phá sản cũng luôn giữ ở mức từ 32 đến 35% 22. Đây là một điều đáng học tập đối với Việt Nam, khi mà tại Việt Nam
cho tới thời điểm hiện tại, chưa có một vụ phá sản nào của doanh nghiệp Việt Nam được áp dụng Thủ tục phục hồi 23.
Bảng 1: Số vụ mở Thủ tục phục hồi tại Pháp giai đoạn 2005 - 2008
17453
16046
17108
17940
Năm 2005 2006 2007 2008
Số vụ
34,1%
35,4%
34,4%
32,7%
Tỷ lệ so với tổng số thủ tục phá sản đƣợc mở Nguồn: Deloitte, nghiên cứu về “Doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn tại Pháp - Ảnh hương của cuộc
khủng hoảng kinh tế-tài chính”, tháng 3-2009, tr15 19 Deloitte, nghiên cứu về “Doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn tại Pháp - Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính”, tháng 3-2009, tr6 20 Bộ Tư Pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004”, ngày 29/12/2008 21 Deloitte, sách đã dẫn, tr15 22 Deloitte, nghiên cứu về “Doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn tại Pháp - Ảnh hương của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính”, tháng 3-2009, tr15 23 Bộ Tư Pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004”, ngày 29/12/2008
32
Những phân tích ở trên đây cho thấy những quy định về phục hồi doanh
nghiệp là một trong ba thủ tục liên quan đến phá sản theo luật phá sản hiện hành
của Pháp. Theo quy định của Pháp, trước khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán, có thể áp dụng thủ tục cứu doanh nghiệp. Điều này có nghĩa
là doanh nghiệp sẽ phải áp dụng mọi khả năng có thể để tránh rơi vào tình trạng
mất khả năng thanh toán. Nếu không tránh được tình trạng này thì cho phép lựa
chọn hai tình huống: hoặc là thi hành thủ tục phục hồi, hoặc là thanh lý tài sản.
Trong phạm vi của đề tài này, nhóm tác giả sẽ chỉ đi sâu nghiên cứu các vấn đề
liên quan đến thủ tục phục hồi doanh nghiệp theo luật phá sản Pháp và từ đó so
sánh để tìm kiếm bài học đối với Việt Nam. Vấn đề cứu doanh nghiệp và vấn đề
thanh lý tài sản không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, bởi vì vấn đề cứu
doanh nghiệp không có trong quy định của pháp luật về phá sản của Việt Nam còn
vấn đề thanh lý tài sản là vấn đề có mục tiêu khác, không phải là mục tiêu tái tạo
doanh nghiệp - mục tiêu là đối tượng nghiên cứu của đề tài này.
2. Những quy định trong luật của Pháp về thủ tục phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp
2.1. Đối tƣợng áp dụng
Tại khoản 2 điều 631, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009 khẳng định đối
tượng cụ thể được áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động. Đó là tất cả các cá nhân và
pháp nhân thực hiện một hoạt động thương mại hoặc những người làm nghề thủ
công, những người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, và mọi cá nhân và pháp
nhân thực hiện một hoạt động nghề nghiệp độc lập bao gồm cả các ngành nghề tự
do theo một điều lệ hợp pháp hoặc các cá nhân, pháp nhân mà bằng cấp, tên
thương mại, nhãn hiệu đã được bảo hộ.
Như vậy, đối tượng được áp dụng các quy định về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp theo Luật Thương mại của Pháp năm 2009 là khá rộng. Đối tượng
của Thủ tục phục hồi không chỉ là doanh nghiệp mà còn mở rộng ra cho cá nhân.
Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi vì trên thực tế, các cá nhân hoạt động trong một
nghề nghiệp độc lập hoàn toàn có khả năng rơi vào tình trạng phá sản, không trả
được nợ và cần được mở thủ tục phá sản. Đây là một điểm đáng học tập đối với
33
luật phá sản của Việt Nam khi đối tượng áp dụng Thủ tục phục hồi theo Luật phá sản năm 2004 chỉ là các doanh nghiệp, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã 24.
2.2. Điều kiện để mở Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
Sau khi nêu rõ những đối tượng được áp dụng các quy định về phục hồi
hoạt động, Bộ luật Thương mại năm 2009 quy định khá chi tiết những vấn đề liên
quan đến thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Việc phục hồi hoạt động
đòi hỏi phải đáp ứng cả các điều kiện về nội dung và hình thức.
2.2.1. Điều kiện về nội dung
Điều kiện về nội dung bao gồm các vấn đề liên quan đến tình hình tài chính
của con nợ.
Tình trạng mất khả năng thanh toán
Luật phá sản của Pháp lựa chọn tiêu chí “mất khả năng thanh toán” làm
mốc cho phép mở thủ tục phục hồi hoạt động. Điều L631-1 của Bộ luật Thương
mại Pháp năm 2009 quy định: “Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
được tiến hành đối với các doanh nghiệp khi các tài sản có sẵn không thể để bù
đắp các tài sản nợ phải trả, nói một cách khác, khi doanh nghiệp đã lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán” (xem nguyên bản tiếng Pháp tại phụ lục 2).
Như vậy, tất cả các con nợ nếu có tài khoản dự trữ đủ để bù đắp các khoản nợ hoặc
đã được chủ nợ gia hạn trả nợ đều không phải là đối tượng áp dụng của thủ tục
này.
Khi xem xét tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp theo điều
L631-1 nêu trên, cần làm rõ một số thuật ngữ được sử dụng trong điều khoản này,
Tài sản có sẵn
đó là:
Tài sản có sẵn là các tài sản hiện có mà doanh nghiệp có thể huy động ngay
khi cần. Hiểu một cách đơn giản, tài sản có sẵn chính là số tiền mặt thực tế mà con
nợ nắm giữ và các khoản tiền khác mà con nợ có thể chuyển thành tiền mặt một
cách dễ dàng và nhanh chóng. Ở đây cần phân biệt “tài sản có sẵn” với “tài sản
có”. “Tài sản có” là khái niệm bao gồm cả các tài sản cố định và lưu động, nghĩa là 24 Điều 2 của Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam
34
ngoài tiền mặt ra, “tài sản có” còn bao gồm cả nhà cửa, hàng hóa, các khoản phải
thu và các tài sản khác … Như vậy, theo luật phá sản của Pháp, con nợ có quyền
yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoạt động ngay khi số tiền mặt thực tế mà họ có thể
huy động không đủ bù đắp cho các khoản nợ phải trả cho dù tài sản có như nhà
cửa, hàng hóa vẫn còn. Điều này tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho con nợ vì khi
đó, các tài sản có của con nợ vẫn còn và đó là cơ sở để thực hiện thành công các
phương án phục hồi hoạt động mà doanh nghiệp đề xuất.
“Tài sản nợ”
Tài sản nợ là những khoản nợ bằng tiền và có thể đo lường được. Các
khoản nợ được tính vào mục này là những khoản nợ đã đến hạn hoặc quá hạn, còn
các khoản nợ chưa đến hạn thì không được tính. Cách xác định như vậy là có lợi
cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, bởi vì nếu tính cả
các khoản nợ chưa đến hạn, doanh nghiệp sẽ phải chịu một khối lượng tài sản nợ
quá lớn và điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho việc phục hồi hoạt động của doanh
“Không thể bù đắp”
nghiệp.
Yếu tố thứ ba muốn khẳng định tính khách quan của tình trạng mất khả
năng thanh toán là tính không thể bù đắp. Việc tài sản có sẵn không thể bù đắp tài
sản nợ là một sự thật hiển nhiên và khách quan chứ không phải do chủ ý của con
nợ. Quy định này muốn nhấn mạnh thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi
doanh nghiệp nói riêng không dành cho các hoạt động lừa đảo và gian lận của các
nhà kinh doanh.
Những quy định ở trên cho thấy việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
theo quy định của Pháp, chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất
khả năng thanh toán. Việc xác định tình trạng mất khả năng thanh toán là thủ tục
đầu tiên phải thực hiện nếu muốn phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.
Thời điểm mất khả năng thanh toán
Sau khi xác định tình trạng mất khả năng thanh toán, bước tiếp theo là cần
xác định thời điểm mất khả năng thanh toán. Theo điều L631-8 Bộ luật Thương
mại năm 2009, “Tòa án sẽ đưa ra quyết định về thời điểm mất khả năng thanh
35
toán. Nếu không xác định được thời điểm này, việc mất khả năng thanh toán sẽ
được tính từ ngày quyết định mở thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp”
(xem nguyên bản tiếng Pháp tại phụ lục 2).
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, theo yêu cầu của người quản lý,
Tòa án, người được ủy quyền tư pháp hoặc Viện kiểm sát, có quyền lùi thời điểm
mất khả năng thanh toán một hoặc nhiều lần, với điều kiện Tòa án đã nghe ý kiến
hoặc đã triệu tập con nợ một cách hợp pháp. Yêu cầu thay đổi thời điểm mất khả
năng thanh toán phải được đệ trình lên Tòa án trong vòng một năm kể từ ngày
quyết định mở thủ tục phục hồi, tuy nhiên quyết định thay đổi phải đảm bảo:
- Thời điểm mất khả năng thanh toán không được xảy ra trước thời điểm
quyết định mở thủ tục phá sản nhiều hơn 18 tháng;
- Thời điểm mất khả năng thanh toán cũng không được xảy ra trước thời điểm
ra quyết định cuối cùng của thỏa thuận hòa giải.
Trách nhiệm chứng minh tình trạng mất khả năng thanh toán thuộc về
người yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoạt động, có thể là doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, chủ nợ, viện trưởng Viện kiểm sát hoặc chính bản thân Tòa án trong trường hợp Tòa án tự mở thủ tục 25.
2.2.2. Điều kiện về hình thức
Điều kiện về hình thức xoay quanh các vấn đề về mở thủ tục phá sản và
phục hồi hoạt động.
Để phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, doanh nghiệp đang lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán phải làm đơn đề nghị mở thủ tục phục hồi. Theo
điều L631-3 của Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009, việc nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phục hồi hoạt động là bắt buộc. Đơn này phải được gửi tới Tòa án. Điều
L631-3 quy định những đối tượng được quyền nộp đơn xin mở Thủ tục phục hồi
gồm: doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, chủ nợ, viện trưởng Viện kiểm sát
hoặc Tòa án tự mở thủ tục. Việc nộp đơn đề nghị mở Thủ tục phục hồi hoạt động
25 Điều L631-8, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009
của doanh nghiệp được quy định rất chi tiết. Cụ thể:
36
Trường hợp nộp đơn của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản phải được thực hiện chậm nhất sau 15 ngày kể từ thời điểm mất khả năng thanh toán 26. Trong thời gian này, con nợ vẫn có quyền yêu cầu mở thủ tục
hòa giải.
Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không chỉ là quyền mà còn là
một nghĩa vụ bắt buộc đối với con nợ nếu họ muốn phục hồi hoạt động. Nếu con
nợ cố tình không tuyên bố tình trạng mất khả năng thanh toán, Tòa án có thể tuyên
bố “phá sản cá nhân”, theo đó “cấm con nợ không được tham gia quản lý, điều
hành, lãnh đạo, dù là gián tiếp hay trực tiếp, bất kỳ một hoạt động kinh doanh, thủ công, nông nghiệp hoặc bất kỳ một hoạt động nghề nghiệp độc lập nào” 27 (xem
nguyên bản tiếng Pháp tại phụ lục 2). Hình phạt này áp dụng đối với con nợ là
các cá nhân hoặc lãnh đạo của một pháp nhân.
Việc yêu cầu mở thủ tục phá sản và thủ tục phục hồi phải được đưa lên Tòa
án có thẩm quyền và phải nộp kèm theo các giấy tờ, văn bản cần thiết, trong số đó
có các giấy tờ về tình trạng tài sản có sẵn, tài sản có và tài sản nợ của con nợ và
giấy tờ liên quan đến số tiền trong tài khoản của doanh nghiệp được lập trong vòng không quá một tháng 28.
Trường hợp chủ nợ nộp đơn đề nghị phục hồi hoạt động
Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoạt động doanh nghiệp của
chủ nợ được quy định trong khoản 5 điều L631 Bộ luật Thương mại Pháp năm
2009, theo đó “thủ tục phục hồi hoạt động có thể được mở theo yêu cầu của chủ
nợ, không phụ thuộc vào bản chất của khoản cho vay” (xem nguyên bản tiếng
Pháp tại phụ lục 2). Tuy nhiên trong trường hợp con nợ đã ngừng hoạt động nghề
nghiệp đó, đơn yêu cầu phải được thực hiện trong vòng một năm kể từ ngày con
nợ bị xóa tên trong “Sổ Thương mại và Doanh nghiệp” (Registre du commerce et
des sociétés) đối với pháp nhân có đăng ký; hoặc kể từ ngày ra quyết định kết thúc
thủ tục thanh lý đối với pháp nhân không đăng ký; hoặc kể từ ngày ngừng hoạt 26 Điều L631, Bộ Luật Thương mại Pháp năm 2009 27 Điều L653-8, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009 28 Điều L653-8, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009
37
động đối với các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thủ công, nông nghiệp hoặc
hoạt động nghề nghiệp độc lập.
Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi mang hình thức của một đơn
kiện ra tòa. Trong trường hợp này, việc chứng minh tình trạng mất khả năng thanh
toán của con nợ thuộc về trách nhiệm của chủ nợ. Tuy nhiên, chủ nợ sẽ không có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi nếu hai bên đang thực hiện thủ tục hòa
giải.
Trường hợp Viện kiểm sát nộp đơn đề nghị phục hồi hoạt động
Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và thủ tục phục hồi của Viện
kiểm sát được nêu trong điều L631-5 của Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009.
Viện trưởng Viện kiểm sát sẽ nộp đơn yêu cầu đó cho Tòa án, trong đó thể hiện rõ
những lý do của yêu cầu này. Sau đó, Tòa án sẽ triệu tập cả con nợ kèm theo đơn
yêu cầu của Viện kiểm sát.
Cũng giống như đối với chủ nợ, Viện kiểm sát không thể yêu cầu mở thủ
tục phá sản khi con nợ đang thực hiện thủ tục hòa giải.
Trường hợp Tòa án tự mở Thủ tục phục hồi hoạt động
Luật phá sản cũng cho phép Tòa án tự mở thủ tục phục hồi hoạt động một cách mặc nhiên mà không cần yêu cầu từ phía các bên 29. Để thực hiện điều này,
Tòa án phải nắm được các thông tin về tình trạng tài chính của doanh nghiệp,
những thông tin này có thể được công bố bởi chính con nợ hoặc bởi bên thứ ba.
Tòa án bắt buộc phải triệu tập con nợ trước khi tuyên bố mở thủ tục phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp.
2.3. Các bƣớc tiến hành thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản
Thủ tục tiến hành phục hồi hoạt động của doanh nghiệp gồm 3 giai đoạn:
giai đoạn mở thủ tục, giai đoạn quan sát và giai đoạn quyết định.
2.3.1. Giai đoạn mở thủ tục phục hồi
Sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi và xem xét sự đầy đủ về
các điều kiện về mở thủ tục phục hồi, Tòa án sẽ ra quyết định mở Thủ tục phục hồi 29 Điều L631-5, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009
38
hoạt động của doanh nghiệp và thành lập các cơ quan liên quan đến giai đoạn mở
thủ tục này.
Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp bắt buộc phải đưa ra rất nhiều
quyết định phức tạp: quyền quản lý doanh nghiệp, thanh toán các khoản nợ, tìm ra
một giải pháp quyết định cho doanh nghiệp (phục hồi hay thanh lý) … , chính vì
vậy, thủ tục phục hồi đòi hỏi sự tham gia của rất nhiều cơ quan với sự phân công
rõ ràng về nhiệm vụ và công việc phải thực hiện. Theo luật của Pháp, hệ thống các
cơ quan tham gia vào quá trình này được phân chia làm hai bộ phận: Cơ quan ra
quyết định và Cơ quan giám sát. Mỗi cơ quan lại có các bộ phận khác nhau, đảm
trách các chức năng khác nhau trong quá trình tiến hành các thủ tục (xem sơ đồ 3).
Sơ đồ 3:
Hệ thống các cơ quan tham gia vào quá trình phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp theo luật của Pháp
Faillite”, Yves Guyon, édition Economica, 1991
Nguồn: Tác giả tự sơ đồ hóa từ việc tham khảo sách: “Entreprise en difficultés - Redressement judiciaire -
39
Sơ đồ 3 cho thấy sự tham gia của rất nhiều cơ quan vào quá trình phục hồi
hoạt động của doanh nghiệp. Đó là:
Cơ quan ra quyết định
Cơ quan ra quyết định về việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp gồm có
các cơ quan pháp luật và cơ quan chuyên môn trợ giúp.
Cơ quan pháp luật
Thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
nói riêng là một thủ tục pháp lý, chính vì vậy, các cơ quan pháp luật tham gia vào
thủ tục này đóng vai trò quan trọng nhất. Hơn nữa, quá trình phục hồi doanh
nghiệp luôn gặp phải sự mâu thuẫn về lợi ích của các đối tượng khác nhau, vì vậy,
chỉ có các cơ quan pháp luật, với các công cụ riêng của mình, mới có thể đưa ra
quyết định cuối cùng và cưỡng chế thi hành các quyết định đó. Tùy trường hợp cụ
thể, các quyết định có thể được đưa ra bởi Tòa án (Tribunal), Chánh án Tòa án
(Président du Tribunal) hoặc Thẩm phán-giám sát (Juge-commissaire).
Tòa án có thẩm quyền ra quyết định mở thủ tục phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp và trong suốt quá trình thực hiện thủ tục, Tòa án có quyền quyết định
cao nhất. Tòa án chỉ định, giao nhiệm vụ và đình chỉ hoạt động của các cơ quan
chính tham gia vào quá trình phục hồi doanh nghiệp, đặc biệt là Thẩm phán - giám
sát, người quản lý tư pháp, người đại diện tư pháp. Tòa án cũng có thể chỉ định
một hoặc một vài giám định viên để trợ giúp cho người quản lý tư pháp trong quá
trình tiến hành thủ tục. Bên cạnh đó, Tòa án cũng có thẩm quyền đưa ra các quyết
định quan trọng nhất như quyết định ban hành kế hoạch phục hồi, hủy bỏ kế hoạch
phục hồi và tuyên bố thanh lý công ty.
Chánh án Tòa án được trao cho một số thẩm quyền riêng để có thể đẩy
nhanh quá trình thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn
một khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, hội đồng doanh
nghiệp hoặc các người đại diện nhân sự của doanh nghiệp có thể gặp trực tiếp
Chánh án để trình bày các vấn đề của doanh nghiệp. Từ đó, Chánh án có quyền
đưa ra các quyết định mở thủ tục phục hồi hay thanh lý.
Thẩm phán - giám sát được chỉ định trong quyết định mở thủ tục phục hồi
40
hoạt động. Tòa án có thể chỉ định nhiều hơn một Thẩm phán - giám sát tùy theo sự
phức tạp của vụ việc. Theo điều L621-9 của Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009,
nhiệm vụ của Thẩm phán - giám sát là theo dõi quá trình diễn ra thủ tục phục hồi
doanh nghiệp và bảo vệ các lợi ích trước mắt. Thẩm phán - giám sát đóng vai trò
trung gian giữa Tòa án và các cơ quan chuyên môn trợ giúp, là người có quyền chỉ
định các chủ nợ giám sát để kiểm tra quá trình thực hiện thủ tục phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp.
Cơ quan chuyên môn trợ giúp
Cơ quan chuyên môn trợ giúp bao gồm những người trực tiếp tiếp xúc với
các bên của thủ tục phục hồi là con nợ và chủ nợ. Người trực tiếp làm việc và phụ
trách con nợ là Người quản lý tư pháp (Administrateur judiciaire) và Người phụ
trách các vấn đề liên quan đến chủ nợ là Người được ủy quyền tư pháp
(Mandataire judiciaire).
Người quản lý tư pháp được chỉ định bởi Tòa án theo quyết định mở thủ tục
phục hồi hoạt động. Nhiệm vụ của Người quản lý tư pháp là theo dõi và trợ giúp
con nợ trong quá trình điều hành doanh nghiệp. Nếu tham gia điều hành hoạt động,
Người quản lý bắt buộc phải tôn trọng các nghĩa vụ theo pháp luật và hợp đồng mà
con nợ có nhiệm vụ phải thực hiện. Người quản lý cũng có quyền dùng tư cách của
mình để sử dụng các tài khoản bị phong tỏa của con nợ. Nhiệm vụ quan trọng nhất
của Người quản lý là soạn thảo kế hoạch phục hồi doanh nghiệp trong giai đoạn
quan sát và đưa kế hoạch này vào thực hiện trong giai đoạn phục hồi.
Người được ủy quyền tư pháp cũng được chỉ định bởi Tòa án và hành động
vì lợi ích chung của các chủ nợ. Người được ủy quyền tư pháp là trung gian giữa
các chủ nợ giám sát với các cơ quan khác của thủ tục phục hồi doanh nghiệp, họ có
nghĩa vụ gửi các kết quả giám sát của các chủ nợ giám sát cho Thẩm phán - giám
sát và cho Viện kiểm sát. Tất cả số tiền mà Người được ủy quyền theo pháp luật
hoặc các Chủ nợ giám sát thu hồi được sẽ được chuyển vào tài khoản của con nợ.
Cơ quan giám sát
Cơ quan giám sát (như sơ đồ 3 đã cho thấy) gồm có các chủ nợ, đại diện
người lao động và Viện kiểm sát.
41
Các chủ nợ giám sát là người có quyền lợi trực tiếp từ việc phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp, chính vì vậy họ có quyền được kiểm tra, giám sát quá
trình diễn ra thủ tục này. Thông thường sẽ có 5 chủ nợ được Thẩm phán - giám sát
chỉ định làm các Chủ nợ giám sát. Theo điều L621-11, các Chủ nợ giám sát sẽ trợ
giúp Người được ủy quyền tư pháp và Thẩm phán - giám sát trong việc theo dõi
việc quản lý doanh nghiệp. Họ được xem xét mọi tài liệu gửi cho Người quản lý và
Người được ủy quyền với điều kiện họ phải giữ bí mật về các tài liệu này.
Viện kiểm sát luôn có quyền tham gia mọi thủ tục phá sản vì họ có thể phát
hiện ra sai phạm của các bên, hơn nữa theo quy định của điều L425 Luật tố tụng
dân sự Pháp năm 2009, Viện kiểm sát có nhiệm vụ phải nắm bắt thông tin về tất cả
các thủ tục dân sự, trong đó có thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Theo pháp luật về
phá sản, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu mở thủ tục phục hồi, có quyền giới thiệu
các cơ quan tham gia thủ tục hay yêu cầu bãi miễn họ, góp ý hay yêu cầu bác bỏ
các quyết định liên quan đến thủ tục phục hồi doanh nghiệp.
Đại diện người lao động được bầu ra bởi hội đồng công ty hoặc đại diện
nhân sự hoặc bởi chính những người lao động của công ty. Nhiệm vụ của Đại diện
người lao động là xem xét và kiểm tra tất cả các khoản nợ lương và cung cấp thông
tin cho Người được ủy quyền. Đại diện người lao động sẽ là người bảo vệ lợi ích
của người lao động trước Người ủy quyền theo pháp luật.
2.3.2. Giai đoạn quan sát
Giai đoạn quan sát lần đầu tiên được quy định trong Luật ngày 25/01/1985
và được coi như một sự đổi mới cơ bản trong pháp luật về phá sản của Pháp. Thủ
tục phục hồi hoạt động sẽ được bắt đầu bằng bước chuẩn bị, giúp thiết lập một bản
tổng kết kinh tế và xã hội của doanh nghiệp và từ đó xem xét khả năng phục hồi
hoạt động của doanh nghiệp. Trong giai đoạn quan sát này, các nghĩa vụ của doanh
nghiệp con nợ đối với chủ nợ sẽ được tạm dừng. Kết quả của giai đoạn quan sát là
khác nhau tùy từng trường hợp, có thể là tiếp tục hoạt động, nhượng lại một phần
hay toàn bộ doanh nghiệp hoặc thanh lý tài sản.
Về thời gian mở và tiến hành giai đoạn quan sát
Theo khoản L631-15 của Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009, giai đoạn
42
quan sát phải được Tòa án ra quyết định tiến hành muộn nhất sau hai tháng kể từ
ngày công bố quyết định mở thủ tục phá sản. Riêng đối với các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp thì thời hạn này có thể được điều chỉnh đề phụ
hợp với các mùa vụ.
Thời gian thực hiện giai đoạn quan sát thông thường là 6 tháng, có thể gia
hạn một lần 6 tháng nữa theo yêu cầu của Người quản lý, của con nợ hay của Viện
kiểm sát. Trong trường hợp đặc biệt, giai đoạn quan sát có thể được gia hạn thêm
một lần nữa theo yêu cầu riêng của Viện kiểm sát. Như vậy, thời hạn tiến hành giai
đoạn quan sát nhiều nhất là 18 tháng. Riêng đối với thủ tục giản đơn áp dụng cho
các công ty quy mô nhỏ, giai đoạn quan sát chỉ được phép kéo dài 4 tháng có gia
hạn thêm 1 lần và 1 lần đặc biệt (mỗi lần 4 tháng) tương tự như giai đoạn quan sát
thông thường.
Về thẩm quyền của Tòa án
Trong giai đoạn quan sát, nếu nhận thấy tình trạng không thể phục hồi của
doanh nghiệp, Tòa án có thể ra lệnh dừng hoạt động và tuyên bố ngay thủ tục
thanh lý theo yêu cầu của con nợ, Người quản lý, Người được ủy quyền, Viện
kiểm sát hay chính bản thân Tòa án. Tòa án cũng có thể tuyên bố kết thúc sớm giai
đoạn quan sát nếu doanh nghiệp đã tích lũy đủ để thanh toán cho các chủ nợ.
Về tình trạng của doanh nghiệp trong giai đoạn quan sát
Giai đoạn quan sát là giai đoạn mà trong đó hoạt động của doanh nghiệp
vẫn được tiếp tục tiến hành nhằm tạo thuận lợi cho quá trình phục hồi hoạt động.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà người ta có thể bỏ qua tình trạng mất khả năng
thanh toán cũng như việc doanh nghiệp đang phải tiến hành một thủ tục pháp lý.
Chính bởi vậy mà con nợ phải chịu một số ràng buộc tạm thời trong một thời gian
Bảo toàn vốn
nhất định. Những ràng buộc đó là:
Các biện pháp bảo toàn vốn bắt buộc được quy định tại điều L631-10 của
Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009, theo đó “Kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục
phá sản, các cổ phần, giấy chứng nhận góp vốn hoặc các giá trị động sản thuộc
vốn của pháp nhân là đối tượng của quyết định mở thủ tục và thuộc quyền nắm
43
giữ, trực tiếp hoặc gián tiếp, của các nhà điều hành theo luật hoặc trên thực tế, dù
được trả thù lao hay không, chỉ được chuyển nhượng trong các trường hợp do Tòa
án quy định, nếu không sẽ bị vô hiệu”(xem nguyên bản tiếng Pháp tại phụ lục 2).
Các loại vốn này sẽ được phong tỏa tại một tài khoản do Người quản lý tư pháp
mở dưới tên doanh nghiệp. Mọi hoạt động liên quan đến tài khoản này đều phải có
Điều hành doanh nghiệp
sự cho phép của Thẩm phán - giám sát.
Trong giai đoạn quan sát, doanh nghiệp con nợ sẽ được trợ giúp bởi một
người điều hành theo pháp luật do Tòa án chỉ định. Người điều hành này sẽ trợ
giúp doanh nghiệp con nợ một phần hoặc toàn bộ công việc quản lý hoạt động của
doanh nghiệp. Nhiệm vụ cụ thể cũng như mức lương của người điều hành do Tòa
Hiệu lực của những hợp đồng đang thực hiện
án xác định.
Đối với những hợp đồng mà doanh nghiệp con nợ đang thực hiện và chưa
hết hạn hiệu lực, luật của Pháp quy định rằng những hợp đồng này vẫn có giá trị
trong giai đoạn quan sát. Điều L622-13 Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009 quy
định, “không một sự hủy bỏ hợp đồng đang thực hiện nào là kết quả của thủ tục
phục hồi trong giai đoạn quan sát”. Như vậy, đối tác của con nợ vẫn có nghĩa vụ
phải thực hiện các quy định đã thỏa thuận trong hợp đồng. Về phần con nợ, người
quản lý tư pháp, trong chừng mực của mình, sẽ cố gắng đảm bảo việc thực hiện
các hợp đồng này. Hợp đồng chỉ có thể bị hủy bỏ bởi Thẩm phán-giám sát theo
yêu cầu của người quản lý tư pháp.
Về các chủ nợ trong giai đoạn quan sát
Trong giai đoạn quan sát, hoạt động của doanh nghiệp con nợ vẫn được tiếp
tục tiến hành. Các doanh nghiệp này cần có các khoản tín dụng để duy trì công
việc kinh doanh, chính vì vậy, ngay trong giai đoạn quan sát - giai đoạn mà quyền
lợi của các chủ nợ cũ đang bị tạm ngừng, vẫn có các chủ nợ mới xuất hiện và cho
doanh nghiệp vay vốn. Như vậy, khái niệm chủ nợ sẽ được phân thành chủ nợ cũ
và chủ nợ mới, phân biệt với nhau thông qua thời điểm ra quyết định tiến hành thủ
tục phục hồi hoạt động. Hai loại chủ nợ này có tính chất không giống nhau, vì vậy
44
họ được hưởng các quyền lợi hoàn toàn khác nhau. Đây là điểm rất đặc biệt của
luật phá sản của Pháp so với luật phá sản của Việt Nam. Việc quy định về chủ nợ
mới của doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán sẽ tạo điều kiện
cho việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn.
Chủ nợ cũ
Nghiên cứu các quy định của Pháp về chủ nợ mới và chủ nợ cũ sẽ thấy rõ điều này.
Do mục tiêu chính của giai đoạn quan sát là tìm cách cứu doanh nghiệp nên
quyền lợi của các chủ nợ cũ trong giai đoạn này bị giảm đi. Thứ nhất, các quyền
lợi cá nhân của chủ nợ đều bị tạm dừng và ngay cả các biện pháp để giành lại
quyền lợi đó cũng bị ngăn cản. Điều L622-22 của Bộ luật Thương mại Pháp năm
2009 quy định rằng chủ nợ cũ phải tạm ngừng quyền bắt con nợ phải thanh toán
khoản nợ hay thực hiện một hợp đồng thay vì thanh toán khoản nợ đó. Thứ hai,
Luật cũng tạm thời hủy bỏ quyền kiện các con nợ ra tòa. Thứ ba, trong giai đoạn
quan sát, dòng chảy lãi suất theo pháp luật hoặc theo các hợp đồng, kể cả các
khoản lãi phạt do trả chậm của các khoản cho vay thời hạn từ một năm trở lên đều
bị dừng lại. Thứ tư, theo điều L622-29, các chủ nợ mà khoản nợ chưa đến hạn sẽ
không được xem xét đến. Như vậy, các chủ nợ này chưa thể đòi tiền ngay mà phải
chờ đến khi khoản vay của mình đến hạn như thỏa thuận đã giao kết.
Tuy nhiên, bên cạnh việc bị mất các quyền lợi nêu trên, Luật vẫn dành cho
các chủ nợ cũ này quyền đòi lại các tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Việc này
được quy định tại Điều L624 Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009. Các quy định
này nhằm mục đích bảo vệ quyền sở hữu tài sản hơn là bảo vệ các khoản nợ. Điều
này có nghĩa là các chủ nợ cũ thực hiện quyền này với tư cách của một chủ sở hữu
chứ không phải với tư cách của một chủ nợ.
Các chủ nợ có nghĩa vụ phải kê khai các khoản cho vay của mình đúng thời
hạn quy định. Nếu quá thời hạn này mà chủ nợ vẫn chưa kê khai thì sẽ mất quyền
Chủ nợ mới
hưởng phần phân chia tài sản của doanh nghiệp con nợ, trừ phi có lý do hợp lý.
Chủ nợ mới là những chủ nợ xuất hiện sau khi có quyết định mở thủ tục
phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Họ là người đã biết rõ tình trạng khó khăn
45
của doanh nghiệp và biết những rủi ro mà mình có thể gặp phải, song họ vẫn quyết
định cho doanh nghiệp vay vốn. Sự xuất hiện của các chủ nợ mới là điều kiện quan
trọng quyết định khả năng phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Hơn nữa, các
khoản vay mới cũng góp phần quan trọng trong việc giải quyết các khoản nợ cũ.
Chính vì vậy, để khuyến khích các khoản vay mới, về nguyên tắc, Luật phá
sản của Pháp cho phép các chủ nợ mới được hưởng một số quyền ưu tiên so với
chủ nợ cũ: “Các chủ nợ xuất hiện sau quyết định tiến hành thủ tục do yêu cầu của
việc tiến hành thủ tục hay giai đoạn quan sát, hoặc để tạo thêm một khoản tiền cho
con nợ trong giai đoạn này, sẽ được trả theo đúng thời hạn. Trong trường hợp
không thể trả theo đúng thời hạn, họ sẽ được ưu tiên trả nợ trước tất cả các chủ nợ khác, dù là chủ nợ có đảm bảo hay không” 30 (xem nguyên bản tiếng Pháp tại
phụ lục 2)
Theo quy định này, các chủ nợ mới muốn được hưởng quyền ưu tiên phải
đảm bảo hai tiêu chí: Thứ nhất, các chủ nợ mới phải xuất hiện sau thời điểm ra
quyết định mở thủ tục phục hồi; thứ hai, các khoản cho vay phải nhằm mục đích
giúp tiến hành các thủ tục phục hồi doanh nghiệp chứ không phải vào bất kỳ mục
đích nào khác. Đảm bảo được các điều kiện như vậy, các chủ nợ mới sẽ được
hưởng sự đảm bảo thời hạn trả nợ cũng như thời gian trả nợ. Điều này sẽ tạo động
lực khuyến khích sự xuất hiện của các chủ nợ mới, nhờ đó mà doanh nghiệp có
thêm điều kiện vật chất để tiến hành phục hồi hoạt động.
Về tình trạng của người lao động trong giai đoạn quan sát
Người lao động hoàn toàn không phải người hưởng lợi từ giai đoạn quan
sát, mặc dù thiệt hại của họ là ít hơn các chủ nợ. Song, họ đứng trước hai mối quan
Về việc trả lương cho người lao động
tâm: được trả lương và giữ được công việc.
Người lao động cần tiền lương để đảm bảo cuộc sống. Vì vậy, không thể
nào ấn định một thời hạn trả tiền cho họ trong giai đoạn quan sát như đối với các
chủ nợ. Họ có quyền được trả lương và được hưởng một sự đảm bảo cho tương lai
bởi vì trong giai đoạn quan sát, họ vẫn tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp. 30 Điều L622-17, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009
46
Thông thường việc trả lương cho công nhân sẽ được thực hiện bởi chủ
doanh nghiệp, song trong trường hợp doanh nghiệp đang thực hiện thủ tục phục
hồi và tài sản có của doanh nghiệp không đáp ứng được việc trả lương cho người
Về việc sa thải người lao động
lao động thì khoản tiền này sẽ được trả bởi Tổ chức quản lý chế độ bảo hiểm các khoản nợ công nhân (AGS) nhưng chỉ trong giới hạn một tháng rưỡi tiền lương 31.
Trong giai đoạn quan sát, nếu việc sa thải người lao động nhằm một mục
đích kinh tế nào đó mà việc sa thải này là bắt buộc và khẩn cấp, Người quản lý tư
pháp có thể quyết định việc sa thải với sự cho phép của Thẩm phán - giám sát.
Trước khi hỏi ý kiến Thẩm phán - giám sát, người quản lý tư pháp phải hỏi ý kiến
của Hội đồng công ty hoặc đại diện nhân sự.
2.3.3. Giai đoạn quyết định
Khi giai đoạn quan sát kết thúc, người quản lý tư pháp có nghĩa vụ phải đệ
trình lên Tòa án bản tổng kết về tình trạng của doanh nghiệp, đồng thời đưa ra kế
hoạch phục hồi doanh nghiệp. Nếu xét thấy doanh nghiệp có khả năng phục hồi,
Tòa án sẽ ra quyết định tiến hành phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Ngược lại,
Tòa án có thể đưa ra quyết định thanh lý doanh nghiệp. Trong mọi trường hợp,
Tòa án là người duy nhất có thẩm quyền đưa ra quyết định.
Thời hạn tiến hành quá trình phục hồi hoạt động được quy định tại khoản 12
điều L626 Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009, theo đó, kế hoạch phục hồi hoạt
động không được vượt quá 10 năm. Thời hạn này có thể kéo dài đến 15 năm đối
với con nợ hoạt động trong ngành nông nghiệp.
Nếu con nợ không thực hiện đúng các cam kết trong thời gian đã được quy
định bởi Bản kế hoạch phục hồi, Tòa án có quyền tuyên bố hủy kế hoạch phục hồi
hoạt động sau khi được sự chấp thuận của Viện kiểm sát. Trường hợp này coi như
việc phục hồi hoạt động không thành công và doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố phá sản,
31 Yves Guyon, “Entreprise en difficultés : Redressement judiciaire – Faillite”, Édition Economica 1991
kéo theo đó là thủ tục thanh lý.
47
3. Những quy định trong pháp luật phá sản của Pháp về phƣơng án
phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
Phương án phục hồi hoạt động có mục đích phục hồi hoạt động dựa vào
chính tiềm lực của doanh nghiệp. Đây là phương án được mong chờ nhiều nhất.
Các biện pháp cụ thể nhằm đưa doanh nghiệp tiếp tục hoạt động được đề cập trong
Bản kế hoạch phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Tòa án cũng có thể cử một Ủy
viên để giám sát quá trình thực hiện kế hoạch phục hồi, đó có thể là người điều
hành theo pháp luật hoặc người đại diện cho người lao động. Chính Tòa án sẽ xác
định nhiệm vụ cụ thể của Ủy viên giám sát này.
Thông thường, kế hoạch phục hồi hoạt động của doanh nghiệp đề cập đến
ba vấn đề: Vấn đề tài chính, vấn đề pháp lý và vấn đề xã hội.
3.1. Vấn đề tài chính
Về vấn đề tài chính, Bản kế hoạch phải nêu rõ các biện pháp để kết toán các
Về kết toán các khoản nợ
khoản nợ và tổ chức tài chính của công ty trong giai đoạn thực hiện kế hoạch.
Để có thể giải quyết các khoản nợ của mình, doanh nghiệp lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán có thể tìm sự trợ giúp từ phía các chủ nợ để yêu cầu
giãn nợ hoặc xóa nợ. Người được ủy quyền tư pháp sẽ làm nhiệm vụ thu thập ý
kiến của các chủ nợ về việc lùi thời hạn trả nợ hoặc xóa nợ mà doanh nghiệp đề
nghị. Nếu sau 30 ngày kể từ ngày nhận được thư yêu cầu bằng văn bản của người
được ủy quyền mà chủ nợ không có phản hồi thì được coi như chấp thuận đề nghị.
Tất cả các điều này đều được đưa vào kế hoạch phục hồi hoạt động và chúng chỉ
được thực hiện nếu như kế hoạch này được Tòa án thông qua.
Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể nhờ vào sự can thiệp của Tòa án để giải
quyết các khoản nợ của mình. Theo điều L628-18 của Bộ luật Thương mại Pháp
năm 2009, Tòa án, ngoài việc ra quyết định giãn nợ hoặc xóa nợ đối với các khoản
nợ đã được chủ nợ chấp thuận, còn có thể “ấn định thời hạn trả nợ” đối với các
khoản nợ khác. Cần lưu ý ở đây, Tòa án chỉ có quyền thay đổi thời hạn trả nợ chứ
không có quyền quyết định xóa nợ.
48
Về tổ chức tài chính của công ty
Việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc thanh
toán các khoản nợ mà mục đích của nó là tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp tục
hoạt động và phát triển tốt. Để làm được điều này, doanh nghiệp bắt buộc phải tìm
kiếm được các nguồn lực mới. Các nguồn lực này có thể đến từ bản thân nội bộ
doanh nghiệp hoặc có thể đến từ bên ngoài. Tất cả các kế hoạch huy động vốn
cũng như huy động nguồn lực mới đều phải được đề cập và làm rõ trong Bản kế
hoạch phục hồi doanh nghiệp.
Trong số các nguồn lực mới, nguồn lực đến từ bản thân doanh nghiệp đóng
một vai trò thiết yếu, bởi vì, sự phục hồi dựa vào số vốn vay ngoài quá lớn là một
sự phục hồi không bền vững và doanh nghiệp lại có thể rơi vào tình trạng khó khăn
bất kỳ lúc nào. Doanh nghiệp phải đưa ra kế hoạch tăng vốn nếu sau khi lâm vào
tình trạng khó khăn, vốn tự có tại thời điểm lập kế hoạch phục hồi nhỏ hơn một
nửa vốn pháp định. Trong mọi trường hợp, việc tăng vốn tự có của doanh nghiệp
luôn được khuyến khích. Kế hoạch tăng vốn sẽ được người quản lý đưa vào Bản
kế hoạch phục hồi doanh nghiệp.
Bên cạnh nguồn lực tự có, doanh nghiệp cũng có thể huy động các nguồn
lực từ bên ngoài dưới dạng các khoản vay từ các chủ nợ mới hoặc từ ngân hàng.
Luật phá sản của Pháp luôn tạo điều kiện khuyến khích sự xuất hiện của các chủ
nợ mới bằng cách trao cho họ các đặc quyền về đảm bảo thanh toán và thứ tự ưu
tiên trả nợ (như đã phân tích ở phần 2.3.2).
3.2. Vấn đề quản lý doanh nghiệp
Để có thể phục hồi hoạt động, hầu hết các doanh nghiệp lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán đều phải thay đổi bộ máy hoạt động của mình. Các biện
pháp này có thể được áp dụng trong việc đổi mới bộ máy, cấu trúc lại cơ cấu và tài
Về bộ máy của doanh nghiệp
sản của doanh nghiệp.
Trước hết, Bản kế hoạch phục hồi hoạt động có thể đưa ra dự thảo thay đổi
điều lệ của doanh nghiệp trong giai đoạn phục hồi. Để thực hiện điều này, người
quản lý tư pháp phải triệu tập và xin ý kiến Hội đồng cổ đông. Thông thường, việc
49
thay đổi điều lệ tập trung chủ yếu vào việc thay đổi vốn điều lệ của công ty, song
cũng không loại trừ trường hợp thay đổi bộ máy công ty, đặc biệt là khi hình thức
pháp lý hiện tại của doanh nghiệp không phù hợp với mục đích kinh doanh của nó.
Bản kế hoạch phục hồi cũng có thể đưa ra một số ràng buộc đối với người điều
hành doanh nghiệp trong trường hợp họ tỏ ra thiếu năng lực. Các biện pháp áp
dụng có thể là: thay thế người điều hành doanh nghiệp, bắt buộc người điều hành
Về tài sản của doanh nghiệp
không được hoặc phải nhượng lại các cổ phần, cổ phiếu của mình …
Nhằm mục đích đảm bảo thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ, Bản kế
hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh hầu như luôn đề cập đến việc dừng lại, thêm
vào hoặc chuyển nhượng một hoặc một vài hoạt động của doanh nghiệp.
Một mặt, Bản kế hoạch phục hồi có thể yêu cầu việc chuyển nhượng một
phần tài sản có của doanh nghiệp. Đôi khi, việc này giúp cho doanh nghiệp loại bỏ
được các tài sản không đem lại lợi ích để đổi lấy tiền mặt. Đối tượng của hoạt
động này có thể là các dụng cụ, đồ dùng trong hoạt động của doanh nghiệp như
nhà cửa, bàn ghế, vật dụng v.v…, hoặc hơn nữa, có thể là một bộ phận cấu thành
nên hoạt động kinh doanh, ví dụ như một nhà máy, một dây chuyền sản xuất độc
lập v.v…
Mặt khác, Bản kế hoạch phục hồi cũng có thể nêu rõ các tài sản không thể
chuyển nhượng. Đó là các tài sản quan trọng mang tính quyết định trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, vì thế nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phục hồi của
doanh nghiệp. Biện pháp này nhằm đảm bảo cho các tài sản quan trọng này không
bị chuyển nhượng một cách phung phí. Tòa án sẽ ấn định thời gian không chuyển
nhượng của tài sản, với điều kiện thời gian này không vượt quá thời gian thực hiện
cả quá trình phục hồi hoạt động.
3.3. Vấn đề xã hội
Vấn đề xã hội của Bản kế hoạch phục hồi doanh nghiệp chính là những biện
pháp liên quan đến người lao động của doanh nghiệp. Quá trình phục hồi doanh
nghiệp tất yếu gắn liền với quá trình cải tổ bộ máy, giúp tiết kiệm chi phí và làm
cho doanh nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả hơn. Chính vì vậy, việc cắt
50
giảm, sa thải người lao động thường xuyên xảy ra.
Thẩm quyền ra quyết định sa thải công nhân thuộc về Tòa án. Cũng như
trong giai đoạn quan sát, Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009 cho phép thực hiện
việc sa thải công nhân nếu việc này là thật sự cần thiết và khẩn cấp, nhưng chỉ sau
khi đã hỏi ý kiến Hội đồng công ty và các đại biểu nhân sự. Song, kế hoạch sa thải
công nhân phải được nộp lên Tòa án trong vòng một tháng kể từ ngày Tòa án ra
quyết định bắt đầu thực hiện kế hoạch phục hồi doanh nghiệp. Trong trường hợp
này, người quản lý tư pháp chỉ cần thông báo trước cho người lao động trong thời
gian như hợp đồng lao động hoặc pháp luật đã quy định.
4. Nhận xét về các quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi
hoạt động của doanh nghiệp
Những phân tích ở trên cho thấy, mặc dù việc phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán là mục tiêu của Luật phá sản
của Pháp hiện nay, tuy nhiên đây là công việc hết sức phức tạp với nhiều thủ tục,
nhiều quy định liên quan đến nhiều người, nhiều cơ quan. Một điều dễ nhận thấy,
theo Luật phá sản của Pháp, là những quy định về phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp mặc dù đã được sửa đồi nhiều lần nhưng những quy định này vẫn còn
nhược điểm là rườm rà, phức tạp với thời hạn để phục hồi lên đến 10 năm và chưa
có quy định về bảo vệ một cách tối ưu quyền và lợi ích của người lao động.
Song, không thể không thừa nhận những điểm tích cực trong các quy định
về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo luật phá sản của Pháp. Những quy
định tích cực đó là:
Thứ nhất, đối tượng được phục hồi không chỉ là các doanh nghiệp mà cả
các cá nhân làm nghề tự do trong lĩnh vực nông nghiệp, thủ công nghiệp ... Điều
này làm cho luật phá sản được cả xã hội đón nhận cũng như nâng cao vai trò của
pháp luật phá sản nói chung và tăng cường tác động của việc thi hành các quy định
về phục hồi hoạt động trong luật phá sản đối với các đối tượng khác nhau;
Thứ hai, việc xác định tình trạng mất khả năng thanh toán được quy định
khá cụ thể dựa trên sự phân biệt tài sản sẵn có và tài sản có. Điểm này sẽ tạo thuận
lợi cho các cơ quan, cho các bộ phận có liên quan trong việc dễ dàng xác định tình
51
trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp;
Thứ ba, vai trò của Tòa án rất quan trọng trong cả quá trình thực hiện thủ
tục phục hồi. Những phân tích ở trên cho thấy Tòa án không chỉ có vai trò quan
trọng trong việc mở thủ tục phá sản mà cả ở thủ tục phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp. Với ý nghĩa là cơ quan tư pháp, Tòa án được giao rất nhiều quyền, trong
giai đoạn phục hồi, so với chủ nợ. Chính điều này đã làm cho thủ tục phục hồi
doanh nghiệp được thực hiện hiệu quả hơn;
Thứ tư, những quy định về giai đoạn quan sát với sự ưu đãi dành cho chủ nợ
mới và phương án phục hồi chỉ cần sự “cầm cân nảy mực” của Tòa án đã làm cho
thủ tục phục hồi được quyết định nhanh và hiệu quả hơn. Nói cách khác, việc đưa
ra các quy định về quyền của chủ nợ mới trong giai đoạn phục hồi đã góp phần
thúc đẩy nhanh hơn thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.
52
Chƣơng III
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP THÁO GỠ
TRÊN CƠ SỞ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TỪ PHÁP
Nghiên cứu những quy định về phục hồi doanh nghiệp theo Luật phá sản
của Pháp cho thấy đây là vấn đề hết sức phức tạp. Ngay như Cộng hòa Pháp, một
nước châu Âu phát triển thuộc hệ thống pháp luật Civil Law mà cũng đã nhiều lần
thay đổi, bổ sung luật phá sản nói chung và những quy định về phục hồi doanh
nghiệp nói riêng để làm cho chúng phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp và từ
đó làm cho những quy định này có sức sống trong thực tiễn. Vậy pháp luật phá sản
của Việt Nam thì như thế nào, đặc biệt là những quy định về phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp? Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, nền kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn đầu (từ năm 1945 đến năm 1986) lại vận hành theo cơ
chế kế hoạch hóa, bao cấp, phi thị trường nên ở giai đoạn này không có luật phá
sản. Mãi đến năm 1993, luật phá sản đầu tiên mới được ban hành và cho đến nay
luật này cũng mới chỉ được sửa đổi 2 lần. Vì vậy, sẽ có rất nhiều vấn đề đặt ra cho
pháp luật phá sản của Việt Nam nói chung và cho những quy định về phục hồi
doanh nghiệp nói riêng.
Để phân tích những vấn đề đặt ra cho pháp luật phá sản của Việt Nam,
trước hết đề tài sẽ đưa ra dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam
trong thời gian tới.
1. Dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời
gian tới
1.1. Cơ sở để dự báo
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản. Đề tài chỉ tập trung xem xét, làm rõ hai yếu tố cơ bản có tác động chung
đến hoạt động kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Đó là
việc Việt Nam gia nhập WTO và tình hình suy thoái kinh tế thế giới có những tác
động như thế nào đến khả năng phá sản của doanh nghiệp. Đây là cơ sở để đề tài
53
đưa ra dự báo:
Thứ nhất, với việc gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với
cạnh tranh ngày càng gay gắt ngay trên sân nhà mà hậu quả tất yếu là doanh
nghiệp yếu kém sẽ bị phá sản nhiều hơn. Đã hơn hai năm kể từ khi Việt Nam trở
thành Thành viên chính thức của WTO (ngày 11/1/2007), bên cạnh những cơ hội
mà WTO mang lại thì doanh nghiệp Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều thách
thức. Thị trường mở cửa dẫn đến cạnh tranh tăng lên làm cho các doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ khó thích ứng. Thêm vào đó, các
doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều vấn đề như: thiếu kỹ năng và kiến thức
chuyên sâu về quản lý, những rào cản thương mại phi thuế quan ngày càng tinh vi,
vấn đề ngôn ngữ còn nhiều hạn chế, hạ tầng giao thông, viễn thông yếu kém, sức
cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ thấp, năng lực tài chính còn hạn hẹp, Nhà nước
phải xóa bỏ trợ cấp và bảo hộ theo cam kết trong WTO… Những khó khăn này
không được kịp thời giải quyết thì việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài sẽ trở nên khốc liệt và chắc chắn, tình trạng phá sản của các doanh nghiệp
Việt Nam sẽ gia tăng.
Thứ hai, tình hình suy thoái kinh tế thế giới sẽ có những tác động tiêu cực
đến tất cả các doanh nghiệp trên thế giới trong đó có doanh nghiệp Việt Nam.
Theo đánh giá của của các tổ chức và chuyên gia trên thế giới, kinh tế thế giới
đang bước vào một thời kì bất ổn với nhiều thách thức. Trong Báo cáo của Ngân
hàng Thế giới ngày 31/3/2009, kinh tế toàn cầu được dự báo là sẽ tăng trưởng âm
1,7% trong cả năm 2009, trong đó nền kinh tế thuộc khối OECD sẽ tăng trưởng âm 3%, các nước đang phát triển tăng trưởng khoảng 2,1% 32. Như vậy, xu thế sụt
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục diễn ra và Việt Nam cũng không
nằm ngoài những biến động đó. Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu 7
32 Website: http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/EXTDEC/EXTDECPROSPECTS/EXTGBLPROSPECT SAPRIL/0,,menuPK:659178~pagePK:64218926~piPK:64218953~theSitePK:659149,00.html 33 Phạm Đăng Thịnh, “Xuất khẩu chưa hết khó khăn”, Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 30/7/2009, tr.8
tháng đầu năm 2009 mới đạt 32,3 tỷ USD, giảm 13,5% so với cùng kỳ năm 2008 và chỉ bằng 50% kế hoạch đề ra 33. Xuất khẩu giảm sút vì thị trường xuất khẩu chủ
54
yếu của nước ta là Mỹ và châu Âu nên khi các thị trường này rơi vào suy thoái và
lâm vào khó khăn thì nhu cầu giảm sút là điều tất yếu. Việc giảm sút nhu cầu sẽ
làm cho việc xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam vào các thị trường này sẽ ít đi,
mà như thế sẽ tác động đáng kể làm giảm GDP.
Việc hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và các đối tác nước ngoài - nơi
chịu ảnh hưởng của khủng hoảng - sẽ bị gián đoạn hay ngưng trệ do phía bạn gặp
khó khăn trong tài chính. Điều này tác động xấu đến các dự án đầu tư của nhiều
doanh nghiệp Việt Nam. Các hợp đồng thương mại được ký kết với đối tác nước
ngoài đã hoặc đang bị ngưng trệ sẽ đẩy các doanh nghiệp Việt Nam rơi vào rủi ro
do không thu được tiền hàng là rất cao. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến tình hình
tài chính hiện tại của các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Đây sẽ là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những khó
khăn trong thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp và đẩy doanh
nghiệp rơi vào tình trạng phá sản. Theo báo cáo quí I năm 2009 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, giá trị sản xuất công nghiệp chỉ tăng trưởng ở mức rất thấp (2,1%) so
với cùng kỳ năm 2008, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước đã giảm so với
cùng kỳ, hai khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đầu tư nước ngoài chỉ đạt
tăng trưởng ở mức thấp. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp và các địa phương đều có mức tăng trưởng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm 2008 34. Như vậy, nếu
không có những biện pháp đủ mạnh và hiệu quả, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ
khó tránh khỏi tình trạng phá sản.
1.2. Các con số dự báo
Chiếm một số lượng rất lớn trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo số liệu mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện
cả nước có 349 309 doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký lên
đến 1 389 000 tỷ đồng (tương đương 84,1 tỷ USD). Trong số này, hơn 95% là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa tương đương với khoảng trên 331 843 doanh nghiệp. 34 Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư «Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp Quý I năm 2009» Website: http://www.mpi.gov.vn/portal/page/portal/bkhdt/ptktxh/16873/299064?p_page_id=412579&p_cateid=3535 55&item_id=2041211&article_details=1
55
Tuy nhiên trên thực tế, doanh nghiệp nhỏ và vừa không phải là các doanh nghiệp
mạnh; trái lại, các doanh nghiệp này lại là đối tượng dễ bị "tổn thương" nhất khi
nền kinh tế bị rơi vào suy thoái do những hạn chế về công nghệ, về năng lực quản
lý, điều hành, thiếu vốn và thiếu khả năng tiếp cận với thị trường bên ngoài. Chính
các hạn chế này sẽ đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa rơi vào tình trạng khó khăn,
thậm chí phá sản. Thống kê của Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa về tác động của
khủng hoảng kinh tế đối với các doanh nghiệp này cho thấy, trong tổng số các
doanh nghiệp đang hoạt động, doanh nghiệp gặp khó khăn chiếm trung bình
khoảng 70% (tương đương 232 290 doanh nghiệp), số doanh nghiệp rất khó khăn
chiếm đến khoảng 20% (tương đương trên 66 368 doanh nghiệp). Đến nay, trong
tổng số 20% doanh nghiệp nhỏ và vừa đứng bên bờ vực phá sản, đã có tới 7000
doanh nghiệp tuyên bố giải thể và hơn 3000 doanh nghiệp khác đã phải ngừng sản
xuất. Ngoài ra, tính mức trung bình chung cho cả khối doanh nghiệp nhỏ và vừa, mức suy giảm lên tới 30-50% so với trước đây 35.
Theo kết quả Kiểm toán 224/318 doanh nghiệp nhà nước, được Kiểm toán Nhà nước công bố vào ngày 23/7/2009 36, hiện có không ít các doanh nghiệp có
tên tuổi lớn (như Tổng Công ty Xây dựng Công trình giao thông 5, Tổng Công ty
Lắp máy….) có tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu cao hơn mức bình quân chung. Các
doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động bằng vốn vay, vốn chiếm dụng nên cơ cấu tài
chính bấp bênh, chi phí lãi vay cao nên khả năng thua lỗ là điều rất dễ nhận thấy.
Với các con số cảnh báo như vậy, có thể nói, nếu không được tiếp cận kịp thời với
các nguồn vốn và tài chính cần thiết, nếu không có một Luật phá sản với những
quy định phù hợp về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp
nhà nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, bộ phận doanh nghiệp chiếm tỉ trọng lớn
nhất trong nền kinh tế, sẽ có thể bị phá sản hàng loạt. Đây sẽ không chỉ là cú sốc
lớn cho nền kinh tế mà còn là cú sốc lớn đối với sự ổn định của cả nước nói chung
35 Website Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia, “Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp Quý I năm 2009”: http://ncseif.gov.vn/Default.aspx?mod=News&cat=33&nid=13389 36 Phương Quỳnh, “Vẫn là hiệu quả thấp”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 32 ngày 30/7/2009, tr.11
trên cả ba phương diện: kinh tế- chính trị- xã hội.
56
2. Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam
2.1. Những bất cập trong các quy định về phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp
Luật phá sản đầu tiên của Việt Nam, Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993,
không quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Những quy định về phục
hồi hoạt động của doanh nghiệp lần đầu tiên được đưa vào Luật Phá sản năm 2004.
Phân tích nội dung của những quy định này có thể nhận thấy những bất cập dưới
đây:
2.1.1. Những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong
Luật Phá sản năm 2004 còn chung chung và sơ sài
Không thể phủ nhận rằng so với Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993, theo
đó không có một quy định nào trong Luật này đề cập đến vấn đề phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp, Luật Phá sản năm 2004 đã có sự tiến bộ đáng kể khi dành
hẳn 1 chương - Chương 6 - với 10 điều khoản cụ thể (từ điều 68 đến điều 77) để
quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt, phục hồi doanh
nghiệp được Luật Phá sản năm 2004 coi là một thủ tục tư pháp đặc biệt trong thủ
tục phá sản. Nếu như Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993 chỉ quy định 3 thủ tục
phá sản là nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; Tuyên bố doanh nghiệp bị phá
sản và Thủ tục thanh toán tài sản của doanh nghiệp thì Luật Phá sản năm 2004 quy
định thủ tục phá sản bao gồm 4 thủ tục: a) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;
b) Phục hồi hoạt động kinh doanh; c) Thanh lý tài sản, các khoản nợ; d)Tuyên bố
doanh nghiệp bị phá sản. Cũng giống như ở Pháp, Luật Phá sản năm 2004 quy
định rằng sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, Tòa án (Thẩm phán) sẽ quyết
định áp dụng một trong hai thủ tục được quy định ở điểm b) và điểm c) hoặc quyết
định chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang thủ tục thanh
lý tài sản hoặc tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
Tuy nhiên, so với quy định trong Luật phá sản của Pháp, thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 được quy
định rất đơn giản và quá sơ sài. Thủ tục này chỉ gồm 7 bước ( xem sơ đồ 4 ).
57
Sơ đồ 4:
Sơ đồ thủ tục phục hồi doanh nghiệp theo Luật phá sản Việt Nam 2004
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Tòa án thụ lý đơn
Mở thủ tục thanh lý tài sản
Mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Phản đối
Họp hội nghị chủ nợ lần 1 về giải pháp tổ chức lại hoạt động của doanh nghiệp
Tán thành
Doanh nghiệp xây dựng phương án phục hồi
Phản đối
Tòa án triệu tập Hội nghị chủ nợ để thông qua phương án phục hồi
Tán thành
Thẩm phán ra quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi của doanh nghiệp
Tiến hành phục hồi (thời hạn 3 năm)
Thành công
Thất bại
Đình chỉ thủ tục
Nguồn: Tác giả tự sơ đồ hóa dựa trên các quy định của Luật Phá sản năm 2004
58
Nhìn từ sơ đồ 4 ở trên có thể thấy 7 bước đó là: (1) Họp Hội nghị chủ nợ
lần thứ nhất để thông qua Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp và kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ; (2)
Doanh nghiệp xây dựng phương án phục hồi và nộp cho Tòa án; (3) Thẩm phán
xem xét phương án phục hồi; (4) Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ để thông
qua phương án phục hồi do doanh nghiệp xây dựng; (5) Thẩm phán ra quyết định
công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi của doanh
nghiệp; (6) Quá trình phục hồi dưới sự giám sát của Hội nghị chủ nợ (với khoảng
thời gian tối đa là 3 năm); (7) Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi (khi thực hiện xong phương án phục hồi) 37.
So với luật của Pháp, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh theo Luật Phá
sản năm 2004 của Việt Nam còn quá chung chung, sơ sài vì thiếu hẳn những quy
định về bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi ở giai
đoạn thi hành thủ tục phục hồi; thiếu những quy định về vai trò giám sát của Tòa
án ở giai đoạn này với ý nghĩa là cơ quan tư pháp, thiếu những quy định xử lý sự
không thiện chí của Hội nghị chủ nợ khi được Thẩm phán triệu tập họp v.v…
Chính vì vậy, việc thi hành các quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam trong thực tế gặp rất
nhiều khó khăn.
2.1.2. Đối tượng được quyền nộp đơn xin mở thủ tục phá sản trong Luật
Phá sản năm 2004 chưa bám sát với thực tiễn hoạt động kinh doanh của Việt
Nam
Nếu như đối tượng được áp dụng thủ tục phá sản theo luật của Pháp là khá
bao quát, bao gồm cả các cá nhân và pháp nhân, thì đối tượng được quyền nộp đơn
xin mở thủ tục phá sản nói chung, và từ đó là thủ tục phục hồi nói riêng trong Luật
Phá sản năm 2004 của Việt Nam chỉ dừng lại ở doanh nghiệp, hợp tác xã và liên
hiệp hợp tác xã mà chưa mở rộng cho hộ gia đình, các cá nhân kinh doanh. Trong
37 Xem các quy định về vấn đề này ở điều 68 đến điều 77 của Luật Phá sản năm 2004
hoạt động của mình, các chủ thể kinh doanh này cũng có khả năng bị thua lỗ. Họ
59
cũng cần một cơ chế xử lý nợ và phục hồi hoạt động kinh doanh. Như đã phân tích
ở trên, phá sản không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi của các doanh nghiệp
gặp khó khăn trong kinh doanh. Quyền của những chủ thể là hộ gia đình và các cá
nhân kinh doanh trong nền kinh tế cũng cần được pháp luật bảo vệ. Chưa kể, đóng
góp của các chủ thể này vào tổng sản phẩm quốc nội là không nhỏ. Theo thống kê
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hộ kinh doanh cá thể và các cá nhân kinh doanh đóng
góp khoảng 13% GDP của cả nước (năm 2007) trong số đó chỉ có khoảng 30% hộ đăng ký và 30% hộ chưa đăng ký còn lại là không đăng ký kinh doanh 38. Với
những số liệu còn thiếu và chưa sát với thực tế mà số đóng góp của các cá nhân và
hộ kinh doanh cá thể đã lên tới 13% GDP của cả nước thì có thể khẳng định Luật
phá sản không thể xem nhẹ vai trò của loại hình chủ thể kinh doanh này. Các cá
thể, hộ gia đình kinh doanh là một mắt xích của nền kinh tế mà nếu phá vỡ một
cách không có sự kiểm soát do họ là đối tượng nằm ngoài sự điều chỉnh của luật
phá sản có thể dẫn tới sự bất ổn, từ đó gây khó khăn chung cho nền kinh tế. Rõ
ràng, Luật Phá sản năm 2004 đã bỏ sót một loại hình chủ thể kinh doanh quan
trọng. Điều này cho thấy những quy định này của Luật chưa bám sát thực tiễn kinh
doanh ở Việt Nam.
Kinh nghiệm của Pháp còn cho thấy, liên quan đến đối tượng được quyền
nộp đơn mở thủ tục phá sản, Luật của Pháp còn quy định cả Tòa án, Viện kiểm sát
cũng có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản và phục hồi. Đây là một điểm rất tiến
bộ trong công tác quản lý tình trạng phá sản mà pháp luật phá sản của Việt Nam
chưa đạt được. Điều đó cho thấy rằng ở Pháp, các cấp quản lý có thể nắm thông tin
về doanh nghiệp một cách tương đối rõ ràng. Nếu họ nhận ra quá trình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp không hiệu quả, dẫn tới mất khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn thì chính họ có thể yêu cầu mở thủ tục phá sản và phục hồi hoạt
động. Nếu đưa những quy định này vào luật phá sản của Việt Nam thì các doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản sẽ không thể trốn tránh mà bắt buộc
38 Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), tính toán từ số liệu thống kê điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2007 của Tổng cục Thống kê
phải mở thủ tục phá sản và thủ tục phục hồi. Bằng cách đó, Tòa án, với tư cách là
60
cơ quan tư pháp có thể tận dụng được nhiều hơn cơ hội tiến hành kịp thời thủ tục
phụ hồi hoạt động kinh doanh, cứu doanh nghiệp khỏi nguy cơ phá sản.
2.1.3. Quy định chưa hợp lý về số lượng thành viên và sự tham gia của
Tòa án vào thủ tục phục hồi hoạt động
Sự chưa hợp lý trong các quy định về vấn đề này thể hiện ở những điểm sau
đây:
Thứ nhất, Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao quy định rằng các trường hợp cần phải do tổ
Thẩm phán gồm 3 người tiến hành thủ tục phá sản trong trường hợp“…có nhiều
chủ nợ hoặc người mắc nợ tại nhiều tỉnh khác nhau hoặc ở nước ngoài”. Với quy
định như vậy, thủ tục phục hồi hoạt động hầu như sẽ chắc chắn phải do tổ Thẩm
phán gồm ba người đảm trách. Quy định này gây nhiều khó khăn cho các Tòa án vì
nó đòi hỏi phải có rất nhiều Thẩm phán tham gia. Tuy nhiên, ngay cả Tòa kinh tế
thuộc Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất đất nước cũng chỉ có 8
thẩm phán và nếu thành lập các tổ chuyên trách về thủ tục phá sản gồm 3 người thì
sẽ chỉ có chưa đầy 3 tổ. Trong khi đó, số vụ phá sản mà Tòa kinh tế thuộc Tòa án
nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý, tính từ ngày Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến cuối năm 2006, đã lên tới 22 vụ 39. Có nghĩa là nếu làm đúng Nghị
quyết số 03 nói trên thì một Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trung bình trên 8 vụ
phá sản. Trong khi đó, trên thực tế, chỉ có 1 Thẩm phán tiến hành tất cả số vụ việc trên 40. Việc quy định thành lập tổ Thẩm phán gồm 3 người như vậy là chưa phù
hợp với thực tiễn hoạt động của các Tòa án ở Việt Nam.
Thứ hai, vai trò của Tòa án trong thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục
hồi doanh nghiệp nói riêng chưa được đề cao. So sánh với Luật của Pháp, chúng ta
thấy có sự khác biệt rất rõ rệt. Theo Luật của Pháp như sơ đồ 3 tại chương 2 cho
thấy, Tòa án đóng vai trò quyết định cao nhất trong cả quá trình thực hiện thủ tục
phục hồi, từ việc chỉ định, giao nhiệm vụ cho đến đình chỉ hoạt động của các cơ 39 Bộ Tư Pháp, Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004, ngày 29/12/2008 40 Nguồn: Phạm Xuân Thọ - Chánh tòa kinh tế Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh,“Giải quyết phá sản tại thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng, vướng mắc và kiến nghị”- Bài phát biểu tại Hội thảo về Luật Phá sản năm 2004: những vướng mắc và giải pháp khắc phục, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006
61
quan tham gia vào quá trình phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Thậm chí, Tòa
án có thẩm quyền ra quyết định thông qua hoặc hủy bỏ phương án và kế hoạch
phục hồi doanh nghiệp. Điều này sẽ thúc đẩy mọi thủ tục phục hồi được diễn ra
nhanh chóng và hiệu quả. Trong khi đó, theo Luật Phá sản năm 2004 của Việt
Nam, vai trò quyết định việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lại thuộc về các
chủ nợ. Và các chủ nợ thì lại thường có xu hướng không hợp tác mà muốn xóa sổ
càng nhanh càng tốt những doanh nghiệp là con nợ của mình. Đây cũng chính là
nguyên nhân khiến cho việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp hầu như không
thể thực hiện ở Việt Nam trong thời gian qua.
2.1.4. Chưa quy định về giai đoạn quan sát trong thủ tục phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp
Luật Phá sản Việt Nam năm 2004 không quy định giai đoạn quan sát trong
thủ tục phục hồi (xem phụ lục 1). Trong khi đó, theo Luật của Pháp, thủ tục quan
sát được quy định rất chi tiết và cụ thể. Từ khi Tòa án Pháp bắt đầu giai đoạn quan
sát tới khi ra quyết định phục hồi doanh nghiệp, thời gian có thể kéo dài tới 18
tháng. Khoảng thời gian này theo Luật Việt Nam được tính từ khi hội nghị chủ nợ
lần thứ nhất thông qua quyết định công nhận Nghị quyết về phương án phục hồi
hoạt động đến khi Thẩm phán ra Nghị quyết chấp nhận phương án phục hồi hoạt
động của Doanh nghiệp. Khoảng thời gian đó chỉ kéo dài tối đa là 85 ngày, nghĩa
là chưa đầy ba tháng. Thời gian như vậy là quá ít để xem xét một phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh đặc biệt là khi doanh nghiệp vừa mới làm đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản. Thực tế, phương án phục hồi hoạt động kinh doanh giữ vai trò
quan trọng, là điều kiện để chữa lành bệnh cho doanh nghiệp trong thời kỳ khó
khăn này. Nó phải được cân nhắc về tính kinh tế, sự hiệu quả cũng như tính khả thi
để có thể phục hồi doanh nghiệp. Nếu như tính toán sai lầm trong bước này thì
chẳng những doanh nghiệp không thể phục hồi được mà có thể còn vấp phải những
khó khăn ngày càng trầm trọng hơn. Điều này đòi hỏi phải có thời gian. Vì vậy
giai đoạn quan sát là rất cần thiết. Một điều đáng tiếc là Luật Phá sản năm 2004 lại
không quy định về giai đoạn quan sát.
62
2.1.5. Chưa có quy định về chủ nợ mới phát sinh trong quá trình phục
hồi hoạt động của doanh nghiệp
Như đã phân tích ở trên, khi quá trình phục hồi doanh nghiệp diễn ra, về
bản chất, doanh nghiệp vẫn thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy,
những giao dịch mới, những quan hệ vay nợ mới phát sinh là điều đương nhiên và
dễ hiểu. Tuy nhiên, điểm bất cập trong Luật Phá sản năm 2004 thể hiện ở chỗ Luật
không có bất cứ quy định nào liên quan đến chủ nợ mới. Trong khi đó, theo Luật
phá sản của Pháp, các mối quan hệ với chủ nợ mới vẫn được pháp luật bảo vệ, theo
đó, chủ nợ mới sẽ được ưu tiên trả nợ đúng hạn hoặc ưu tiên trả nợ trước chủ nợ cũ
cho dù chủ nợ cũ là chủ nợ có đảm bảo hay không có đảm bảo. Bằng cách quy
định như vậy, các nhà làm luật của Pháp đã đảm bảo, bằng luật pháp, quyền lợi
cho các chủ nợ mới, giúp cho họ có thể yên tâm khi quyết định đặt quan hệ kinh
doanh với doanh nghiệp đang cần phục hồi. Thiếu những quy định như thế này
nghĩa là thiếu đi sự cam kết đối với các chủ nợ mới và làm cho quá trình phục hồi
doanh nghiệp không thể diễn ra một cách suôn sẻ bởi vì doanh nghiệp sẽ rất khó
khăn khi phải xoay xở với số vốn ít ỏi còn lại sau khi mở thủ tục phá sản. Ngược
lại, cách quy định trong Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam lại xây dựng quá
trình phục hồi doanh nghiệp theo hướng hầu như phụ thuộc quá nhiều vào các chủ
nợ cũ. Điều này sẽ khiến thủ tục phục hồi doanh nghiệp trở nên khó khăn vì các
chủ nợ cũ được quyền quyết định phương án phục hồi do doanh nghiệp đề xuất.
Trong thực tế, các chủ nợ cũ sẽ muốn cho doanh nghiệp này “sớm chết đi” để họ
còn vớt vát phần nào trong việc chia tài sản còn lại của doanh nghiệp đó, hơn là
phải tìm cách cho doanh nghiệp “sống lại” với nỗi lo âu tiếp diễn của các chủ nợ
cũ. Thủ tục phục hồi vì vậy sẽ không còn hiệu quả nếu không muốn nói là bất khả
thi.
2.1.6. Chưa có những quy định để giảm nhẹ khó khăn về tài chính cho
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Doanh nghiệp muốn hồi phục, ngoài ý chí chủ quan của các bên thể hiện
trong phương án phục hồi hoạt động, cần có những điều kiện cần thiết về khả năng
tài chính và cần có sự khuyến khích của Nhà nước. Một trong những chính sách
63
khuyến khích của Nhà nước có thể có ở đây là quy định không tính lãi đối với các
khoản nợ của doanh nghiệp khi họ đang ở giai đoạn phục hồi nhằm giảm nhẹ gánh
nặng tài chính cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên Luật Phá
sản năm 2004 không đưa ra quy định này ở thủ tục phục hồi mà lại áp dụng ở thủ
tục thanh lý (Điều 34). Điều này cho thấy Luật Phá sản năm 2004 chưa coi phục
hồi hoạt động kinh doanh là mục tiêu hướng tới. Và đây cũng là một trong những
nguyên nhân khiến cho việc thi hành các quy định về phục hồi hoạt động kinh
doanh trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Nói cách khác, nếu không có những
quy định hỗ trợ, khuyến khích của Luật để giảm nhẹ khó khăn về tài chính cho
doanh nghiệp thì thủ tục phục hồi rất khó thi hành. Đây là một điểm bất hợp lý của
Luật Phá sản Việt Nam. Trong khi đó, ở Pháp, việc phục hồi doanh nghiệp có
được rất nhiều sự hậu thuẫn từ những quy định của chính luật phá sản. Về vay nợ,
luật phá sản của Pháp không có bất cứ quy định nào giới hạn khả năng vay nợ của
các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như Luật Phá sản năm 2004 của Việt
Nam. Bên cạnh đó, luật phá sản của Pháp còn cho phép Thẩm phán được quyền
giãn nợ cho con nợ trong mọi trường hợp. Thẩm phán chỉ không có quyền xóa nợ
mà thôi. Đây là quy định có thể làm thay đổi toàn bộ tình hình phục hồi doanh
nghiệp. Với Luật Phá sản 2004 của Việt Nam, mọi quyết định đều phải dựa vào sự
thông qua của Hội nghị chủ nợ nên sự lệ thuộc của con nợ vào chủ nợ là rất lớn.
Nếu chủ nợ không có thiện chí thì sẽ rất khó khăn khi Tòa án muốn can thiệp tích
cực hơn vào quá trình phục hồi doanh nghiệp.
2.1.7. Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp còn quá lệ thuộc vào
chủ nợ và thời hạn để thực hiện phương án phục hồi quá ngắn
Một điều rất dễ nhận biết khi nghiên cứu những quy định trong Luật Phá sản
năm 2004 là thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào
chủ nợ. Ví dụ, điều 68 quy định rằng Thẩm phán ra quyết định áp dùng thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh “sau khi Hội nghị lần thứ nhất thông qua Nghị
quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh” (xem phụ lục 1). Sau khi có phương án phục hồi, Thẩm
phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thảo luận về phương án đó và
64
phương án đó “chỉ được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có đảm bảo có
mặt đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có đảm bảo trở lên biểu quyết tán thành”.41
Quy định này cho thấy chỉ cần số chủ nợ không có đảm bảo đến dự họp
không đủ thì phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ
không thể thông qua được. Việc đề cao vai trò của Hội nghị chủ nợ khi thi hành
thủ tục phục hồi doanh nghiệp đã giải thích vì sao trong cả quãng thời gian từ khi
Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến nay, hầu như không một trường hợp nào
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được phục hồi, được tái tạo. Đây là điểm
khác biệt của Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam so với Luật phá sản hiện hành
của Pháp. Luật phá sản của Pháp trao quyền ra quyết định các bước, các giai đoạn
trong quá trình phục hồi cho Tòa án với tư cách là cơ quan có thẩm quyền. Điều
này cho thấy thủ tục phục hồi hoạt động tại Pháp được thúc đẩy nhanh chóng và
hiệu quả hơn.
Ngoài ra, Luật Phá sản năm 2004 quy định thời hạn tối đa để thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh chỉ có 3 năm (điều 74), trong khi đó,
theo luật của Pháp là 10 năm. Để thực hiện phương án phục hồi 1 doanh nghiệp đã
lâm vào khó khăn thì 3 năm là khoảng thời gian quá ngắn và không hợp lý.
2.2. Việc thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo quy định
của Luật Phá sản năm 2004 trong thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn
Ngoài những bất cập trong quy định về phục hồi doanh nghiệp, một vấn đề
nổi cộm đặt ra khi nghiên cứu pháp luật phá sản của Việt Nam là việc thi hành các
quy định của luật về phục hồi doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn. Những
khó khăn đó là:
2.2.1. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn xa lạ với vấn đề phục hồi
doanh nghiệp
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập năm 1945. Cho đến tận
năm 1993, Việt Nam mới ban hành Luật phá sản Doanh nghiệp. Nghĩa là trong
suốt 27 năm trước đó, hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam hầu như không 41 Khoản 2, Điều 71, Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam
65
chịu sự tác động của luật phá sản. Những doanh nghiệp làm ăn kém, lúc này, chủ
yếu là doanh nghiệp nhà nước, chỉ bị sát nhập hoặc giải thể. So với phá sản, biện
pháp giải thể đơn giản hơn nhiều về mặt thủ tục. Doanh nghiệp chỉ cần phải gửi
quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong đó có cam kết chịu trách
nhiệm trước pháp luật về những tranh chấp phát sinh liên quan đến các khoản nợ
được kê khai trong quyết định giải thể là sẽ được giải quyết. Các tranh chấp liên
quan đến giải thể là tranh chấp dân sự và được Bộ luật Dân sự điều chỉnh. Bên
cạnh đó, ngay sau khi giải thể, chủ doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục thành lập một
doanh nghiệp mới hoặc điều hành một công ty khác còn phá sản thì không được
phép như vậy. Giải thể là một giải pháp đơn giản và tiết kiệm hơn so với thủ tục
phá sản. Vì vậy, phá sản và pháp luật về phá sản đã rất xa lạ với doanh nghiệp Việt
Nam nói chung và doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nói riêng trong nhiều năm.
Trong quan niệm của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khối doanh
nghiệp nhà nước, phá sản vẫn là một hình phạt nặng nề mang tính răn đe nhiều hơn
là mang tính tích cực; với nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, phá sản và bị tuyên bố
phá sản là xấu, là tiêu cực. Chính sự thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết chưa đầy đủ về
mục tiêu của luật phá sản cùng những lợi ích có phần không rõ ràng cho doanh
nghiệp trong những quy định về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
theo Luật Phá sản năm 2004 đã khiến doanh nghiệp thường tìm mọi cách để né
tránh việc áp dụng Luật. Thực tế này đã làm cho các doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản luôn bị động và thụ động trong việc nắm bắt và thực thi pháp luật về
phá sản.
Ngoài ra, như đã nói ở trên, Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993 lại không
quy định về phục hồi doanh nghiệp, do vậy, trong nhận thức của doanh nghiệp
Việt Nam, phá sản đồng nghĩa với “cái chết” của doanh nghiệp mà ít ai quan tâm
đến khả năng “sống” của nó để tìm cách phục hồi khả năng kinh doanh của các
doanh nghiệp này. Vì vậy, khi Luật Phá sản năm 2004 được ban hành, những quy
định về phục hồi doanh nghiệp và thủ tục phải tuân thủ khi muốn phục hồi doanh
nghiệp vẫn thật sự xa lạ đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, đối với các
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đối với các chủ nợ và thậm chí đối với các cơ quan
66
quản lý của Nhà nước, trong đó có Tòa án và Thẩm phán cùng tổ quản lý, thanh lý
tài sản nói riêng.
Tình trạng này tất yếu làm giảm hiệu quả thực thi Luật Phá sản năm 2004
nói chung và những quy định về phục hồi doanh nghiệp nói riêng. Trong Báo cáo
rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004 do Bộ Tư pháp trình
Thủ tướng Chính phủ ngày 29/12/2008 gồm 55 trang với nhiều nội dung đánh giá
nhưng lại không có một trang nào, đoạn nào, dòng nào phân tích về thực trạng thi hành các quy định (ở chương VI) của Luật về phục hồi doanh nghiệp 42. Điều này
cho thấy những quy định về phục hồi doanh nghiệp vẫn còn rất xa lạ với doanh
nghiệp Việt Nam, kể cả với Bộ Tư pháp Việt Nam.
Đây là những khó khăn rất đáng phải chú ý và phải có giải pháp tháo gỡ để
vấn đề phục hồi doanh nghiệp được quy định trong Luật Phá sản năm 2004 thật sự
có “đất sống” trong thời gian tới.
2.2.2. Chưa có sự tuyên truyền đầy đủ về mục tiêu tích cực trong các quy
định về phục hồi doanh nghiệp trong Luật Phá sản năm 2004
Luật Phá sản năm 2004 đã có hiệu lực 5 năm tính đến tháng 7/ 2009. Tuy
nhiên, việc tuyên truyền, giới thiệu về nội dung của Luật cũng như về mục tiêu của
vấn đề phục hồi doanh nghiệp còn chưa tích cực. Các quảng cáo trên các phương
tiện thông tin đại chúng chủ yếu mới chỉ là dành cho các chương trình phát triển
thương hiệu, giới thiệu sản phẩm, ca nhạc, cuộc thi hoa hậu…mà chưa có chương
trình giới thiệu về Luật Phá sản năm 2004 cũng như ý nghĩa của vấn đề phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thế giới ngày nay đang chứng kiến những vụ phá sản tầm cỡ của các doanh
nghiệp, ngân hàng Mỹ và những vụ phục hồi doanh nghiệp nối tiếp như vụ công ty
Kmart- một hãng bán lẻ giá rẻ của Mỹ, đã nộp đơn xin mở thủ tục phá sản vào
tháng 1 năm 2002 và đã phục hồi khi được sáp nhập với hãng bán lẻ Sears vào
42 Bộ Tư pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004” ngày 29/12/2008 43 Website: http://money.cnn.com/2004/11/17/news/fortune500/sears_kmart/
năm 2004, dẫn đến kết quả là giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến 700% vào năm 2005 43. Còn hãng KPMG, một hãng kế toàn tầm cỡ thế giới với 2000 chuyên gia
67
chuyên làm nhiệm vụ phục hồi các công ty đã và đang rất tự hào về công việc của mình 44. Giá như Việt Nam tuyên truyền sâu rộng về những trường hợp này thì
chắc chắn sẽ có tác động tích cực đến việc thi hành Luật phá sản nói chung và thực
hiện các quy định về phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng.
Nếu việc tuyên truyền về Luật phá sản không được chú trọng, nếu như việc
thi hành thủ tục phục hồi doanh nghiệp được quy định trong Luật Phá sản năm
2004 không được nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan thì tình trạng xa lạ
này sẽ vẫn tiếp tục tái diễn và một lần nữa có thể nói rằng, các doanh nghiệp, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản của Việt Nam vẫn có nhiều lý do để “không
thích” Luật Phá sản năm 2004 và điều này sẽ là một trong những quyên nhân để
“Luật Phá sản năm 2004 tiếp tục bị phá sản”.
2.2.3. Các doanh nghiệp là chủ nợ không thiện chí, không muốn thi hành
Luật phá sản và các quy định về phục hồi doanh nghiệp
Bản thân các chủ nợ là người có quyền đòi nợ cũng không mặn mà với việc
áp dụng luật Phá sản như một công cụ để tự bảo vệ lợi ích của mình. Nguyên nhân
là do theo quy định thì một doanh nghiệp khi mở thủ tục phá sản bắt buộc phải
thông báo công khai cho các tất cả các chủ nợ biết. Các chủ nợ hiểu điều này và họ
cũng hiểu rằng nếu như tất cả các con nợ cùng đến đòi nợ và cùng xếp hàng theo
thứ tự ưu tiên thì chưa chắc đã đến lượt mình. Điều này giải thích tại sao các chủ
nợ thường tìm một con đường ngắn hơn và trực tiếp hơn để có thể đòi được toàn
bộ khoản nợ từ con nợ như việc phát đơn kiện ra tòa để con nợ bồi hoàn khoản nợ
theo sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. Bằng cách này hay cách khác, chủ nợ cố
tình tránh việc áp dụng các quy định của Luật phá sản về phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Đây là một trong những khó khăn đối với việc thi hành
các quy định về phục hồi hoạt động trong Luật Phá sản năm 2004.
2.2.4. Vai trò của Tòa án còn mờ nhạt
Mặc dù Luật Phá sản năm 2004 quy định chức năng và nhiệm vụ của Tòa
44 Viện nghien cứu Khoa học thị trường và giá cả, “Luật phá sản của Trung Quốc và một số nước Tây Âu”, Hà Nội năm 1990, tr.104
án trong quá trình tiến hành phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, tuy nhiên,
68
những chức năng, nhiệm vụ này lại cho thấy vai trò của Tòa án là rất mờ nhạt so
với vai trò của Hội nghị chủ nợ. Hầu như Toàn án chỉ giữ vai trò thụ động trong
việc thi hành thủ tục này. Ví dụ, điều 68 quy định rằng Tòa án (Thẩm phán) ra
quyết định phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ nợ đã thông qua
Nghị quyết đồng ý với giải pháp phục hồi của doanh nghiệp .Tuy nhiên, Luật lại
không quy định cách xử lý hay vai trò của Tòa án trong trường hợp Hội nghị chủ
nợ không thông qua phương án phục hồi của doanh nghiệp. Hoặc, điều 70 quy
định trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được phương án phục hồi, Tòa án
(Thẩm phán) phải xem xét để ra một trong hai quyết định: hoặc đưa phương án ra
Hội nghị chủ nợ xem xét để quyết định, hoặc cho sửa đổi, bổ sung phương án. Như
vậy, hầu như các ý kiến quyết định cuối cùng là Hội nghị chủ nợ chứ không phải là
Tòa án. Cách quy định như trên đã làm giảm vai trò của Tòa án trong quá trình
phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.
Một điểm nữa cho thấy vai trò mờ nhạt của Tòa án trong quá trình phục
hồi hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến vai trò của Tòa án đối với hội nghị
chủ nợ đó là : Hội nghị chủ nợ được quy định là do Thẩm phán triệu tập. Đây là
quy định làm giảm vai trò quyết định của Tòa án và làm cho các quyết định đưa ra
có thể bị chậm trễ. Theo quy định tại khoản 2 và 3, điều 73 Luật Phá sản năm
2004, chủ nợ có nghĩa vụ giám sát thực hiện phương án phục hồi còn Tòa án chỉ
nhận được bản báo cáo về tình hình thực hiện phương án phục hồi 6 tháng một lần.
Có nghĩa là 6 tháng một lần, Tòa án hay chính xác hơn là Thẩm phán, người có
tiếng nói quyết định trong việc triệu tập hội nghị chủ nợ mới có được thông tin về
tình hình thực hiện phục hồi doanh nghiệp. Trong vòng 6 tháng đó, có thể có
những lần mà đáng ra hội nghị chủ nợ cần phải họp để ra quyết định thì lại bị bỏ
qua và Tòa án phải chờ đợi một cách thụ động. Điều này dẫn tới việc chậm trễ
trong thay đổi phương án phục hồi hoạt động và có thể trở thành nguyên nhân trực
tiếp ảnh hưởng đến chất lượng cũng như hiệu quả của thủ tục phục hồi doanh
nghiệp.
69
3. Đề xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp
3.1. Khẳng định rõ mục tiêu của luật phá sản Việt Nam là phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp
Bài học đầu tiên rút ra từ kinh nghiệp của Pháp là cần khẳng định rõ mục
tiêu của luật phá sản là phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên
cứu lịch sử luật phá sản của Pháp cho thấy, bản thân pháp luật của Pháp đã từng có
quan điểm rất bảo thủ khi ban hành luật phá sản thời kỳ trước đây, theo đó, mục
tiêu của luật phá sản thời kỳ này là bảo vệ chủ nợ và trừng phạt con nợ. Cùng với
năm tháng, tư duy này đã thay đổi và trong vòng 20 năm trở lại đây, Pháp đã xác
định rõ mục tiêu của luật phá sản ngày nay của Pháp là phục hồi và tái tạo doanh
nghiệp. Những vụ phá sản trở nên ít hơn nhờ hàng loạt các quy định mới về thủ tục
cứu doanh nghiệp, về bảo hộ doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán… Đây chính là kinh nghiệm mà Việt Nam cần tham khảo.
Nếu như Luật phá sản đầu tiên của Việt Nam không quy định về phục hồi
doanh nghiệp thì Luật Phá sản năm 2004 tiến bộ hơn khi đưa vào 10 điều khoản cụ
thể về thủ tục phục hồi. Tuy nhiên, nghiên cứu 10 điều khoản này có thể thấy
chúng vẫn chỉ là những thủ tục pháp lý đơn lẻ, chưa phải là mục tiêu chính mà
Luật Phá sản năm 2004 hướng tới. Vì vậy, đề tài cho rằng, các nhà làm luật của
Việt Nam phải đổi mới tư duy, phải thay đổi cách tiếp cận khi xây dựng, sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện luật phá sản Việt Nam. Phải coi việc phục hồi hoạt động
kinh doanh nhằm tái tạo doanh nghiệp là mục tiêu quan trọng nhất của luật phá
sản. Chỉ có như vậy, luật phá sản hiện hành của Việt Nam mới không tiếp tục “phá
sản”.
3.2. Các giải pháp sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật Phá sản năm
2004 về phục hồi doanh nghiệp
Bài học thứ hai từ Pháp là cần tiếp tục sửa đổi các quy định của Luật Phá
sản năm 2004 về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Từ việc nghiên cứu kinh
nghiệm của Pháp trong việc hoàn thiện các quy định về phục hồi doanh nghiệp và
cũng để Luật Phá sản năm 2004 mang tính thực tiễn cao hơn, đề tài đề xuất các
giải pháp cụ thể sau đây:
70
3.2.1. Mở rộng đối tượng áp dụng tại điều 2 của Luật Phá sản năm 2004
Vận dụng kinh nghiệm từ Pháp, để mở rộng đối tượng tại điều 2 này, cần bổ
sung những quy định mới về phục hồi doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Đề tài cho
rằng, cần phải bổ sung đối tượng áp dụng của Luật thêm 2 đối tượng là cá nhân và
hộ kinh doanh cá thể. Theo Luật Phá sản năm 2004, đối tượng áp dụng là doanh
nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhưng không
có cá nhân và hộ kinh doanh cá thể. Từ kinh nghiệm của Pháp, đề tài cho rằng cần
bổ sung hai đối tượng này vào Luật. Đưa thêm 2 đối tượng này vào Luật phá sản
thì sau này, trong quá trình hoạt động, nếu bị phá sản, họ cũng sẽ được áp dụng các
quy định về phục hồi hoạt động kinh doanh của mình. Việc bổ sung hai đối tượng
này sẽ làm cho Luật phá sản Việt Nam năm 2004 phù hợp với thực tiễn hoạt động
kinh doanh của Việt Nam cũng như tương thích với luật của Pháp và luật của các
nước khác.
3.2.2. Bổ sung những quy định tại chương VI, mục 1 của Luật Phá sản
năm 2004 về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Như đã phân tích ở phần trên, với 10 điều từ điều 68 đến điều 77, những
quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trong Luật Phá sản năm 2004
là quá sơ sài và thiếu tính khả thi. Vì vậy, từ kinh nghiệm của Pháp, đề tài cho rằng
cần có sự bổ sung, sửa đổi để những quy định này mang tính thực tiễn cao hơn. Cụ
thể, cần bổ sung những quy định dưới đây vào chương VI, mục 1 của Luật Phá sản
năm 2004:
Thứ nhất, Bổ sung các quy định tăng cường vai trò của Tòa án trong quá
trình phục hồi doanh nghiệp. Có thể nói, Luật phá sản của Việt Nam cần thay đổi
tư duy nhìn nhận về vai trò của Tòa án trong cả quá trình phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp. Là một nước phát triển ở Châu Âu, các doanh nghiệp của Pháp là
các doanh nghiệp có thế mạnh về vốn, về công nghệ, về năng lực quản lý…Tuy
vậy, khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, để được phục hồi hoạt động,
các doanh nghiệp này vẫn cần sự hỗ trợ rất nhiều của Tòa án thông qua Chánh án,
Thẩm phán, ủy viên (xem thêm sơ đồ 3) với rất nhiều quyền lực. Vì vậy, đề tài cho
rằng cần tăng cường hơn nữa vai trò của Tòa án Việt Nam trong quá trình thực
71
hiện thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp: Tòa án phải là người kiểm tra,
giám sát và toàn quyền ra quyết định. Hội nghị chủ nợ chỉ nên có ý kiến đề xuất.
Thứ hai, bổ sung giai đoạn giám sát và cơ quan giám sát vào quá tình thực
hiện thủ tục phục hồi. Kinh nghiệm của Pháp cho thấy, giai đoạn giám sát có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Vì
vậy, đề tài cho rằng cần học tập kinh nghiệm của Pháp về vấn đề này. Nghĩa là cần
bổ sung giai đoạn giám sát vào thủ tục phục hồi doanh nghiệp, như Luật phá sản
của Pháp quy định. Để giai đoạn giám sát có thể được thực hiện hiệu quả, cần đưa
vào chương VI những quy định cho phép thành lập cơ quan giám sát. Đó là các
chủ nợ nhưng bên cạnh các chủ nợ này còn có Viện Kiểm sát và Đại diện người
lao động (như sơ đồ 3 đã trình bày). Đây là kinh nghiệm rất hay trong Luật của
Pháp và nó cũng dễ dàng thực thi ở Việt Nam. Chỉ có điều là cần phải bổ sung vào
chương VI, mục 1 của Luật Phá sản năm 2004 về chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan này trong giai đoạn giám sát.
Thứ ba, bổ sung những quy định về chủ nợ mới, trong đó phải quy định
quyền được ưu tiên thanh toán trước các khoản nợ của chủ nợ mới so với các chủ
nợ cũ. Kinh nghiệm của Pháp cho thấy việc quy định cho phép chủ nợ mới được
xuất hiện trong giai đoạn phục hồi sẽ làm cho việc phục hồi có tính khả thi cao
hơn. Chính vì vậy, Luật phá sản Việt Nam nên có những quy định về vị trí, vai trò,
quyền của chủ nợ mới trong quá trình phục hồi hoạt động doanh nghiệp .
Thứ tư, bổ sung vào Chương VI, mục 1 những quy định về các biện pháp
giảm nhẹ về tài chính cho doanh nghiệp đã mở thủ tục phá sản. Kinh nghiệm từ
Pháp cho thấy luật phá sản của Pháp trao quyền cho Thẩm phán được giãn nợ cho
con nợ đã được mở thủ tục phá sản. Đây là kinh nghiệm rất hay, vì vậy, đề tài kiến
nghị bổ sung những quy định này vào Luật Phá sản năm 2004.
3.3. Các giải pháp tăng cƣờng thi hành các quy định về phục hồi doanh
nghiệp trong Luật Phá sản năm 2004
3.3.1. Nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của Luật phá sản
Như đã nói, thủ tục phục hồi khiến cho pháp luật phá sản trở nên hợp lý
hơn, không đơn giản chỉ dừng ở chỗ là cỗ “máy chém” các doanh nghiệp làm ăn
72
kém hiệu quả như trước nữa. Thực tế cho thấy “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, ở các
nước phát triển như Mỹ, Pháp, quá trình “cứu chữa” cho doanh nghiệp được bắt
đầu từ trước thời điểm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Nói cách khác thực
chất đó là quá trình “phòng bệnh” cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế. Để làm được
như vậy, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của pháp luật phá sản
và ý nghĩa của thủ tục phục hồi haotj động của doanh nghiệp trong Luật Phá sản
năm 2004. Đây không thể là việc làm một sớm một chiều mà nó phải bao gồm
nhiều hoạt động tuyên truyền, giáo dục.
Để nâng cao nhận thức của toàn xã hội, cần phải làm cho mọi công dân,
doanh nghiệp hiểu biết rõ về mục tiêu của luật phá sản. Ngày nay, mục tiêu của
luật phá sản không chỉ là bảo vệ quyền lợi cảu chủ nợ mà quan trọng hơn là bảo vệ
cả quyền lợi cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh, là phục hồi và tái
tạo doanh nghiệp. Một khi hiểu rõ được mục tiêu tích cực của luật phá sản, các
doanh nghiệp cũng như mọi cá nhân, mọi tổ chức, mọi cơ quan dễ dàng tự giác thi
hành luật phá sản.
3.3.2. Tăng cường giới thiệu và tuyên truyền về pháp luật phá sản và lợi
ích của việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
Như đã phân tích ở trên, một thực tế đáng buồn là ở Việt Nam, một trong
những đạo luật không có đất sống trong thực tiễn chính là Luật phá sản. Nguyên
nhân khách quan là do cơ chế nhưng nguyên nhân chủ quan là do sự thiếu hiểu biết
về Luật này. Vì vậy, việc tăng cường giới thiệu và tuyên truyền về pháp luật phá
sản nói chung và về phục hồi doanh nghiệp nói riêng là việc cần phải làm ngay,
đặc biệt là khi tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã bước sang giai
đoạn sâu, rộng. Cạnh tranh sẽ khốc liệt và tình trạng phá sản sẽ là hiển nhiên. Việc
tăng cường giới thiệu và tuyên truyền này có thể được thực hiện thông qua các
biện pháp như:
Trước mắt, phải phát động một cuộc thi tìm hiểu về Luật phá sản và các quy
định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại
chúng như truyền hình, đài phát thanh, giải thưởng doanh nghiệp, giải thưởng sinh
viên… Ngoài ra, phải đưa vào chương trình giảng dạy của các cơ sở đào tạo những
73
nội dung cơ bản về Luật phá sản thay vì nó chỉ được giảng dạy ở một vài cơ sở đào
tạo luật của Việt Nam.
Trong dài hạn, cần phải đưa một phần pháp luật phá sản vào trong chương
trình đào tạo cử nhân kinh tế, cử nhân quản trị kinh doanh, cử nhân ngành tài
chính, ngân hàng … hoặc đưa vào chương trình đào tạo thạc sỹ chuyên ngành luật
kinh doanh hoặc quản trị doanh nghiệp những vấn đề chuyên sâu hơn về pháp luật
phá sản Việt Nam và của các nước để thế hệ tương lai có thể nắm bắt được mọi
kiến thức cần thiết. Có như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới ý thức được vấn
đề phá sản để có biện pháp phòng ngừa. Và trong trường hợp bị phá sản, họ sẽ có
thể linh hoạt sử dụng Luật phá sản cũng như thủ tục phục hồi doanh nghiệp khi cần
thiết để biến phá sản và phục hồi doanh nghiệp trở thành một công cụ trợ giúp trực
tiếp và đắc lực cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế mở cửa, hội nhập với cạnh
tranh khốc liệt và đầy rủi ro này.
3.3.3. Thay đổi quan niệm của xã hội về thủ tục phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp
Cho đến bây giờ, ở Việt Nam, thủ tục phục hồi vẫn chưa được coi là một
thủ tục độc lập trong quá trình phá sản. Đối với quan niệm chung, phục hồi doanh
nghiệp vẫn chỉ là một bước đệm mang tính chất hành chính cần phải vượt qua
trước khi tiến hành thủ tục thanh lý. Đây là một quan niệm hết sức sai lầm và cần
phải được thay đổi. Quan niệm trên dẫn tới sự hời hợt của các nhà làm luật đồng
thời là sự hời hợt của những người thực thi luật pháp. Tầm quan trọng của thủ tục
phục hồi và những ích lợi mà nó mang lại phải được nhấn mạnh và quan tâm hàng
đầu trước cả quá trình thanh lý tài sản. Khi Luật Phá sản năm 2004 ra đời, quan
niệm về thủ tục phá sản đã có thay đổi. Các nhà làm luật đã nhìn nhận thủ tục phục
hồi trong thủ tục phá sản là một giai đoạn độc lập. Tuy nhiên, những quy định về
phục hồi doanh nghiệp trong Luật vẫn còn quá sơ sài. Các nhà làm luật cần phải
thay đổi nhận thức. Họ phải hiểu chính xác rằng quá trình phục hồi là một quá
trình đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Trong thực tế, quá trình phục hồi phát
sinh theo nó rất nhiều các tình huống khác nhau cho nên cần phải có những quy
định cụ thể hơn cho từng trường hợp riêng biệt. Bằng việc bổ sung thêm các quy
74
định dựa theo kinh nghiệm của Pháp, như đã đề xuất ở trên, về phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp vào Luật Phá sản năm 2004, nhận thức của xã hội về vấn đề này
chắc chắn sẽ có sự thay đổi theo hướng tích cực và điều này chính là động lực
quan trọng để thi hành hiệu quả Luật Phá sản trong thời gian tới.
3.3.4. Tăng cường tính chủ động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản
Đối với các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, bài toán khó là làm
sao để doanh nghiệp nhận thức được cơ hội có được từ thủ tục phục hồi doanh
nghiệp. Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp này vẫn chưa thoát khỏi nỗi sợ hãi của
hai từ “phá sản”. Bởi phá sản, nếu không phải là một điểm kết thúc của một doanh
nghiệp, thì tâm lý chung vẫn cho phá sản là một vết đen trong lý lịch của công ty.
Một công ty, một khi bị “mang tiếng” phá sản thì sẽ rất khó để vươn lên trở lại
trong hoạt động kinh doanh. Thực ra nỗi sợ hãi này xuất phát từ sự thiếu hiểu biết
khi chưa bao giờ phải trải qua thời kỳ phá sản của các doanh nghiệp. Từ góc độ
tiếp cận luật pháp, điều cần làm là giúp cho các doanh nghiệp này hiểu ý nghĩa và
mục đích thật sự của thủ tục phá sản để giúp cho các doanh nghiệp này không còn
ngại ngần khi chủ động nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, từ đó mới tiến tới thủ
tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, tự bản thân các doanh nghiệp
này cũng phải chủ động và nỗ lực trong việc đề xuất phương án phục hồi doanh
nghiệp nếu họ thật sự muốn được tái tạo lại. Bản thân họ phải nắm vững yêu cầu
khi đưa ra các biện pháp được luật cho phép để phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp. Trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn xa lạ với 7 biện pháp
phục hồi doanh nghiệp được quy định tại điều 69 của Luật Phá sản năm 2004.
Chính vì vậy, sự chủ động của chính các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
3.3.5. Giảm thiểu sự quá tải của Thẩm phán
Các Thẩm phán phải làm việc quá tải không chỉ bởi số lượng các vụ phá sản
mà họ phải thụ lý mà còn bởi có quá nhiều công việc đòi hỏi tính chuyên môn
trong ngành kinh tế chứ không phải là luật. Khó khăn này có thể được giải quyết
theo hai biện pháp không mâu thuẫn nhau nhưng có thể phát triển độc lập.
75
Thứ nhất là giảm dần gánh nặng cho Thẩm phán bằng cách chia công việc
cho các chuyên viên. Học tập kinh nghiệm từ Pháp, Thẩm phán chỉ phải lo một bộ
phận chuyên trách về luật, còn các nghiệp vụ khác đã có cơ quan chuyên môn phụ
trách (xem thêm sơ đồ 3). Với hướng giải quyết này, các Thẩm phán sẽ đỡ vất vả
hơn rất nhiều, không mất công đào tạo lại hoặc đào tạo thêm. Tuy nhiên chi phí
cho một vụ phục hồi hoạt động của doanh nghiệp thành công sẽ không nhỏ. Bởi so
với hiện tại, lực lượng chuyên gia được huy động vào giải quyết thủ tục phục hồi
sẽ nhiều hơn rất nhiều. Trong đó bao gồm cả những lực lượng mới như chuyên gia
kinh tế, chuyên gia phân tích dự án hoặc các chuyên gia, cố vấn chuyên môn nhằm
tạo ra được phương án phục hồi hiệu quả cũng như theo sát được doanh nghiệp
trong quá trình phục hồi.
Thứ hai là giữ nguyên quy định hiện tại và tăng dần số lượng Thẩm phán.
Bằng cách này, đầu công việc sẽ được chia cho nhiều Thẩm phán hơn và làm cho
gánh nặng trên vai mỗi Thẩm phán sẽ bớt đi. Từ đó cũng làm tăng hiệu quả của xử
lý các thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Tuy nhiên, đào tạo ra Thẩm phán có đủ tài
năng cũng như kinh nghiệm để đảm trách phục hồi các doanh nghiệp bị phá sản
không phải là điều đơn giản. Các Thẩm phán ngoài kiến thức về luật phá sản và
thủ tục phục hồi phá sản còn phải nắm rất vững các kiến thức kinh tế khác nhằm
đánh giá được doanh nghiệp nào có thể phục hồi và doanh nghiệp nào không thể
phục hồi. Nếu không đạt được như vậy, những vụ phục hồi không thành công sẽ là
những chi phí lãng phí rất lớn mà toàn xã hội phải gánh chịu.
76
KẾT LUẬN
Phá sản là hiện tượng kinh tế gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp và
xảy ra ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên pháp luật về phá
sản của các nước khác nhau lại có cách tiếp cận khác nhau về mục tiêu, đối tượng
điều chỉnh, nội dung và đặc biệt là về vấn đề phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Bằng phương pháp nghiên cứu so sánh luật học, đề tài đã lựa chọn
luật phá sản của Pháp để phân tích những quy định về phục hồi doanh nghiệp. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng phục hồi hoạt động nhằm tái tạo doanh nghiệp là mục
tiêu mà luật phá sản hiện đại của Pháp đã theo đuổi. Trải qua nhiều giai đoạn bổ
sung, sửa đổi, những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật
phá sản hiện hành của Pháp trở nên hoàn thiện hơn, mang tính khả thi hơn từ quy
trình, thủ tục đến chức năng, nhiệm vụ của Tòa án, của các chủ nợ cũng như của
các cơ quan hỗ trợ và của bản thân doanh nghiệp con nợ. Điều này đã làm thay đổi
những quan niệm cũ, bảo thủ về mục tiêu của luật phá sản. Điều này thật sự đã góp
phần làm cho mục tiêu tái tạo doanh nghiệp được thi hành ngày càng tốt hơn trong
thực tiễn xem xét các vụ phá sản ở Pháp. Tuy nhiên, để có những quy định phù
hợp, vấn đề thật không đơn giản. Nghiên cứu những quy định về phục hồi doanh
nghiệp theo luật phá sản của Pháp cho thấy đây là vấn đề khó ngay cả đối với một
nước phát triển như Cộng hòa Pháp. Tuy nhiên, những gì là mặt tích cực trong các
quy định của luật phá sản của Pháp sẽ là kinh nghiệm bổ ích đối với Việt Nam.
Là một nước đi sau, Việt Nam chỉ mới có trên dưới 10 năm kinh nghiệm, để
học hỏi từ luật phá sản nước ngoài và đặc biệt là từ luật phá sản của Pháp. Do đó,
những hạn chế trong quy định của luật phá sản Việt Nam là không thể tránh khỏi.
Hạn chế đó thể hiện ở chỗ Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993 – đạo luật đầu
tiên của Việt Nam về phá sản - đã không nhằm mục tiêu tái tạo doanh nghiệp. Luật
Phá sản năm 2004 tiến bộ hơn vì đã đưa 10 điều khoản cụ thể về phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, những quy định này vẫn tỏ ra bất
cập. Đứng từ góc độ của các sinh viên năm cuối chuyên ngành kinh tế, suy nghĩ và
77
hành động dựa trên sự lo lắng về “sức khỏe” của thị trường nói chung và của
doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, nhóm nghiên cứu sau khi đưa một số cơ sở để
dự báo về khả năng phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, đã làm
rõ có 2 vấn đề đặt ra cho luật phá sản Việt Nam. Đó là 7 bất cập của Luật Phá sản
năm 2004 và 4 khó khăn gặp phải trong quá trình thi hành Luật này. Từ đó, nhóm
nghiên cứu đề xuất một số giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp.
Đây là những giải pháp đầu tiên nhằm sửa đổi, bổ sung để làm cho luật phá sản
của Việt Nam trở nên hoàn thiện hơn và có tính khả thi hơn. Tuy nhiên, nhóm
nghiên cứu hiểu rằng những giải pháp nêu trên là chưa thể hoàn hảo. Để có được
những giải pháp mang tính khả thi hơn nữa, cần phải có sự nghiên cứu tiếp tục về
cả 4 thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2004. Với cách tiếp cận
này, những kết quả nghiên cứu ở đề tài thuộc công trình dự thi lần này không phải
là điểm cuối. Ngược lại, nó là điểm khởi đầu cho một quá trình tiếp tục tìm tòi
phân tích tiếp theo.
Với sinh viên ngành kinh tế, việc nghiên cứu pháp luật đã rất khó khăn
nhưng việc phân tích và đánh giá những vấn đề cụ thể của Luật phá sản như vấn đề
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại càng khó khăn hơn. Mặc dù
vậy, nhóm nghiên cứu sẽ vẫn tiếp tục theo đuổi những nghiên cứu này để góp phần
thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Không có việc gì khó” và lời dạy của V.I.Lênin:
“Học, học nữa, học mãi” để tăng cường sự hiểu biết nhiều hơn về pháp luật, một
lĩnh vực vốn rất mới mẻ và khó đối sinh viên ngành kinh tế, nhưng lại là lĩnh vực
đòi hỏi các nhà kinh tế, các doanh nghiệp phải có sự hiểu biết đầy đủ.
78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
Các công trình nghiên cứu, bài viết, báo cáo
1. TS. Trương Hồng Hải, Đại học luật Hà Nội, Luận án “Luật phá sản doanh
nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện”
2. Dương Đăng Huệ, “Phá sản Việt Nam năm 2004 với việc cải thiện môi
trường kinh doanh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2005, tr26-31
3. Gòn ngày 30/7/2009, tr.8
Phạm Đăng Thịnh, “Xuất khẩu chưa hết khó khăn”, Thời báo kinh tế Sài
4. Phạm Xuân Thọ - Chánh tòa kinh tế Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh,“Giải quyết phá sản tại thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng, vướng mắc và
kiến nghị”- Bài phát biểu tại Hội thảo về Luật Phá sản năm 2004: những vướng
mắc và giải pháp khắc phục, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006
5. Vũ Thị Hồng Vân - Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Đánh giá thực trạng thi
hành Luật phá sản doanh nghiệp năm 2004”
6. Viện nghiên cứu khoa học thị trường và giá cả, “Luật phá sản của Trung
Quốc và một số nước Tây Âu”, Hà Nội năm 1990
7. Vụ Công tác lập pháp, Những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm 2004,
NXB Tư pháp, Hà Nội năm 2005
8. Bộ Tư Pháp, Báo cáo “Rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản
năm 2004”, ngày 29/12/2008
Các văn bản luật và dưới luật
9. Luật Phá sản số 21/2004/QH11 của Quốc hội
10. Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản
11. Nghị định 94/2005/NĐ-CP của Chính phủ về giải quyết quyền lợi của người
lao động ở doanh nghiệp và hợp tác xã bị phá sản
12. Thông tư liên tịch 19/2008/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư
pháp về hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
13. Công văn 7050/BTC-TCT của Bộ Tài chính về việc Quyết toán thuế đối với
79
doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản
14. Công văn 1977/VPCP-XDPL của Văn phòng Chính phủ về việc thực hiện
Luật phá sản
15. Nghị định 67/2006/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn việc áp dụng Luật
Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh
lý tài sản
16. Nghị định 10/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo Luật phá sản doanh nghiệp
năm 1993
17. Nghị định số 114/CP ban hành ngày 3/11/2008 của Chính phủ về việc
Hướng dẫn chi tiết ban hành một số điều luật của Luật phá sản đối với doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính
khác
18. Nghị định số 189/1994/NĐ-CP ban hành ngày 23/12/1994 về việc Hướng
dẫn thi hành luật phá sản doanh nghiệp
19. Quyết định số 01/2005 của Toà án nhân dân Tối cao về Quy chế làm việc
của Tổ thẩm phán phụ trách tiến hành làm thủ tục phá sản
Các công trình nghiên cứu, bài viết, báo cáo
B. Tài liệu tiếng Pháp
20. Deloitte, “L’entreprise en difficulté en France – L’impact de la crise
éconimique et financière”, 3/2009
21. Yves Guyon, “Entreprise en difficultés - Redressement judiciaire - Faillite”,
édition Economica, 1991
22. J.Hilaire, “Introduction historique au droit commercial”, Édition PUF, Paris
1986
23. M.B. Salvado, “Droit des entreprises en difficulté”, Édition Breal 2007
24. R. Szramkiewicz, “Histoire du droit des affaires”, Édition LGDJ, Paris
Montchrétien 1989
Các văn bản luật và dưới luật
25. Code de Commerce 2009
26. Code de Commerce 2005
27. Loi de sauvegarde des enterprises, n° 2005-845 du 26 juillet 2005
80
28. Ordonnance n° 2008-1345 du 18 décembre 2008 portant réforme du droit des
entreprises en difficulté
29. Décret n° 2009-160 du 12 février 2009 pris pour l'application de
l'ordonnance n° 2008-1345 du 18 décembre 2008 portant réforme du droit des
entreprises en difficulté et modifiant les procédures de saisie immobilière et de
distribution du prix d'un immeuble
C. Website
30. Le service public de la diffusion de droit: http://www.legifrance.gouv.fr/
31. Faculté de droit, Université Lyon 3: http://fdv.univ-lyon3.fr/
32. Les greffes des tribunaux de commerce: http://www.greffes.com/
33. Website của Ngân hàng Thế giới (World Bank): http://web.worldbank.org/
http://www.vcci.com.vn/
34. Website của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI):
35. Website của Tổng cục Thống kê: http://www.gso.gov.vn/
36. Website của hãng Continental Airlines:
http://www.continental.com/web/en-S/content/company/history/1978-1990.aspx
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.
shtml
37. Website của BBC:
38. Website của CNN Company:
http://money.cnn.com/2004/11/17/news/fortune500/sears_kmart/
http://money.cnn.com/2002/01/22/companies/kmart/
39. Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
http://www.mpi.gov.vn/portal/page/portal/bkhdt/ptktxh/16873/299064?p_page_id
=412579&p_cateid=353555&item_id=2041211&article_details=1
40. Website Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia:
http://ncseif.gov.vn/Default.aspx?mod=News&cat=33&nid=133
41. Báo điện tử Tin nhanh Việt Nam:
http://www.vnexpress.net/GL/Oto-Xe-may/2009/06/3BA10102/
http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Kinh-nghiem/2008/10/3BA0692A/
I
PHỤ LỤC 1 Một số quy định trong pháp luật Việt Nam
về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp bị phá sản
(Trích Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam)
Chƣơng VI
THỦ TỤC PHỤC HỒI THỦ TỤC THANH LÝ
Mục 1
THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
Điều 68. Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ
nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh,
kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
2. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết,
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của mình và nộp cho Toà án; nếu thấy cần phải có thời gian dài hơn thì phải có văn
bản đề nghị Thẩm phán gia hạn. Thời hạn gia hạn không quá ba mươi ngày.
Trong thời hạn nói trên, bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã đều có quyền xây dựng dự thảo phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nộp cho Toà án.
Điều 69. Nội dung phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản phải nêu rõ các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh; các điều kiện, thời hạn
và kế hoạch thanh toán các khoản nợ.
2. Các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh gồm có:
a) Huy động vốn mới;
b) Thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh;
c) Đổi mới công nghệ sản xuất;
d) Tổ chức lại bộ máy quản lý; sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng sản xuất;
đ) Bán lại cổ phần cho chủ nợ;
e) Bán hoặc cho thuê tài sản không cần thiết;
II
g) Các biện pháp khác không trái pháp luật.
3. Trước khi bắt đầu hoặc tại Hội nghị chủ nợ, phương án phục hồi hoạt động kinh doanh có thể
được sửa đổi, bổ sung theo sự thoả thuận của các bên.
Điều 70. Xem xét phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh trƣớc khi đƣa ra Hội nghị chủ
nợ
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh,
Thẩm phán phải xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh để ra một trong các quyết
định:
1. Đưa phương án ra Hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định;
2. Đề nghị sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh nếu thấy phương án đó
chưa bảo đảm các nội dung quy định tại Điều 69 của Luật này.
Điều 71. Xem xét, thông qua phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày quyết định đưa phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ra Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán
phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương án phục hồi.
2. Hội nghị chủ nợ xem xét, thoả luận phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã được
thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt đại diện cho từ hai phần ba tổng số
nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành.
Điều 72. Công nhận Nghị quyết về phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Nghị quyết này có
hiệu lực đối với tất c các bên có liên quan.
2. Toà án phải gửi quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ
trong thời hạn by ngày, kể từ ngày ra quyết định.
Điều 73. Giám sát thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Sau khi Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, Tổ quản
lý, thanh lý tài sản giải thể.
2. Sáu tháng một lần, doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi cho Toà án báo cáo về tình hình thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp, hợp tác xã.
3. Chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã.
III
Điều 74. Thời hạn thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
Thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản là ba năm, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của Toà án
công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã.
Điều 75. Sửa đổi, bổ sung phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, các chủ nợ và doanh
nghiệp, hợp tác xã có quyền thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh.
2. Thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã được chấp nhận khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ
hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên đồng ý.
3. Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên và gửi quyết định đó cho doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ trong thời hạn by ngày, kể từ ngày ra
quyết định.
Điều 76. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nếu có một trong các trường hợp sau đây:
a) Doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh;
b) Được quá nửa số phiếu của các chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số
nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý đình chỉ.
2. Toà án phải gửi và thông báo công khai quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định tại Điều 29 của Luật này.
Điều 77. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
1. Trường hợp Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã đó được coi
không còn lâm vào tình trạng phá sản.
2. Trường hợp việc thi hành án dân sự hoặc việc giải quyết vụ án bị đình chỉ theo quy định tại
Điều 57 của Luật này chưa được thi hành hoặc chưa được giải quyết thì ngay sau khi ra quyết
định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản, việc thi hành án dân sự hoặc việc giải quyết vụ án được tiếp tục. Toà án ra quyết
định đình chỉ thủ tục phục hồi phải gửi trả lại hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền để giải quyết
vụ án theo quy định của pháp luật.
IV
PHỤ LỤC 2
Một số quy định trong luật của Pháp
về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
(trích Quyển VI – Bộ luật Thương mại Pháp năm 2009)
Trích điều L622-17
I.-Les créances nées régulièrement après le jugement d'ouverture pour les besoins du déroulement
de la procédure ou de la période d'observation, ou en contrepartie d'une prestation fournie au
débiteur pendant cette période, sont payées à leur échéance.
II.-Lorsqu'elles ne sont pas payées à l'échéance, ces créances sont payées par privilège avant
toutes les autres créances, assorties ou non de privilèges ou sûretés.
Trích điều L631-1
Il est institué une procédure de redressement judiciaire ouverte à tout débiteur mentionné aux
articles L. 631-2 ou L. 631-3 qui, dans l'impossibilité de faire face au passif exigible avec son
actif disponible, est en cessation des paiements. Le débiteur qui établit que les réserves de crédit
ou les moratoires dont il bénéficie de la part de ses créanciers lui permettent de faire face au passif
exigible avec son actif disponible n'est pas en cessation des paiements.
Trích điều L631-2
La procédure de redressement judiciaire est applicable à toute personne exerçant une activité
commerciale ou artisanale, à tout agriculteur, à toute autre personne physique exerçant une
activité professionnelle indépendante y compris une profession libérale soumise à un statut
législatif ou réglementaire ou dont le titre est protégé, ainsi qu'à toute personne morale de droit
privé
Trích điều L631-4
L'ouverture de cette procédure doit être demandée par le débiteur au plus tard dans les quarante-
cinq jours qui suivent la cessation des paiements s'il n'a pas, dans ce délai, demandé l'ouverture
d'une procédure de conciliation.
En cas d'échec de la procédure de conciliation, lorsqu'il ressort du rapport du conciliateur que le
débiteur est en cessation des paiements, le tribunal, d'office, se saisit afin de statuer sur l'ouverture
d'une procédure de redressement judiciaire.
Trích điều L631-5
Lorsqu'il n'y a pas de procédure de conciliation en cours, le tribunal peut également se saisir
d'office ou être saisi sur requête du ministère public aux fins d'ouverture de la procédure de
redressement judiciaire.
V
Sous cette même réserve, la procédure peut aussi être ouverte sur l'assignation d'un créancier,
quelle que soit la nature de sa créance.
Trích điều L631-8
Le tribunal fixe la date de cessation des paiements.A défaut de détermination de cette date, la
cessation des paiements est réputée être intervenue à la date du jugement d'ouverture de la
procédure.
Trích điều L631-10
A compter du jugement d'ouverture, les parts sociales, titres de capital ou valeurs mobilières
donnant accès au capital de la personne morale qui a fait l'objet du jugement d'ouverture et qui
sont détenus, directement ou indirectement par les dirigeants de droit ou de fait, rémunérés ou
non, ne peuvent être cédés, à peine de nullité, que dans les conditions fixées par le tribunal.
Trích điều L653-8
Dans les cas prévus aux articles L. 653-3 à L. 653-6, le tribunal peut prononcer, à la place de la
faillite personnelle, l'interdiction de diriger, gérer, administrer ou contrôler, directement ou
indirectement, soit toute entreprise commerciale ou artisanale, toute exploitation agricole et toute
personne morale, soit une ou plusieurs de celles-ci.