VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯU THỊ PHẤN
QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT
KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯU THỊ PHẤN
QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT
KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.BÙI NGỌC CƯỜNG
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan rằng đây là bài nghiên cứu của cá nhân em với sự hướng dẫn
của thầy giáo TS.Bùi Ngọc Cường. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là hoàn toàn trung thực, các thông tin trích dẫn trong bài luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 9 năm 2020
Học viên luận văn
Lưu Thị Phấn
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Luật – Học Viện Khoa Học Xã
Hội đã chỉ dạy cho em những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cần thiết trong
thời gian học tập vừa qua để em có thể thực hiện và hoàn thành đề tài luận văn của
mình. Đặc biệt em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo
TS.Bùi Ngọc Cường đã luôn quan tâm, đồng hành và giúp đỡ em rất nhiều trong quá
trình hoàn thành đề tài luận văn thạc sỹ này.
Với trình độ còn hạn chế nên bài luận văn của em không tránh khỏi nhiều thiếu
sót, em rất mong được các thầy cô giáo góp ý để em có điều kiện học hỏi cũng như
tiếp thu, trang bị thêm kiến thức pháp luật phục vụ cho công việc sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ TÀI
SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN .......... 100
1.1. Khái quát về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán ................................................................................................................... 100
1.2. Pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán ................................................................................................................... 212
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA
DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO LUẬT PHÁ
SẢN .................................................................................................................. 311
2.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển pháp luật Việt Nam về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ............................... 311
2.2. Các quy định pháp luật hiện hành về quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán ............................................................................ 334
2.3. Một số nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán tại Việt Nam ............................................ 49
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN ............................................................. 623
3.1. Quan điểm hoàn thiện ......................................................................... 623
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán .......................................................................................... 639
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán ........................................................................................ 6968
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 723
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 745
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT
VIẾT ÐẦY ÐỦ
Luật Phá sản
1 LPS
Xã hội chủ nghĩa
2 XHCN
Tòa án nhân dân
3 TAND
Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
4 DNQLTLTS
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Việt Nam, trong tiến trình đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường, pháp
luật về tham gia thị trường và rút khỏi thị trường của các chủ thể kinh doanh đã từng
bước đổi mới, góp phần quan trọng trong việc tạo khuôn khổ pháp lý cần thiết, tương
thích với các thông lệ quốc tế trong xu thế hội nhập. Tuy nhiên, cũng còn tồn tại nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình điều chỉnh pháp luật cần tiếp tục luận giải,
trong đó có vấn đề điều chỉnh pháp luật về phá sản.
Theo quy định pháp luật hiện hành, phá sản là tình huống diễn ra khi doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Mặc dù không
phải tất cả các tình huống doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn đều dẫn đến phá sản doanh nghiệp, tình trạng mất khả năng thanh toán
cho phép kích hoạt các thủ tục pháp lý về phá sản. Một trong những mục đích quan
trọng của thủ tục này là cho phép các chủ nợ có thể bảo vệ một cách tốt nhất quyền
lợi của mình khi con nợ mất khả năng thanh toán. Để thực hiện mục đích này, quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là một trong những bộ phận
quan trọng nhất của pháp luật về phá sản. Việc quản lý tài sản không chỉ có ý nghĩa
ngăn cản việc tẩu tán tài sản, đảm bảo sự phân chia một cách công bằng và hợp lý
cho các chủ nợ mà còn có ý nghĩa đảm bảo cho tài sản có thể được sử dụng một cách
hiệu quả trong quá trình tiến hành các bước của thủ tục phá sản, cho phép doanh
nghiệp có thể khôi phục lại hoạt động của mình nếu có khả năng.
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế về pháp luật phá sản, đặc biệt đối với
cơ chế quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Một số hạn chế có
thể kể ra như tình trạng thiếu văn bản hướng dẫn thi hành, các văn bản pháp luật có
liên quan chưa đồng bộ, chưa phù hợp. Đặc biệt, ngay cả đối với LPS năm 2014 là
đạo luật mới nhất được ban hành về phá sản và đã kế thừa những điểm tích cực, tiến
bộ của LPS năm 2004, đồng thời có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật về phá sản để phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước và quốc tế, thực
tiễn áp dụng các quy định LPS năm 2014 cũng cho thấy, một số quy định còn chưa
1
rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa bao quát toàn diện những phát sinh trong thực tiễn, ví dụ:
việc thực hiện thủ tục kiểm kê tài sản thường kéo dài, ảnh hưởng đến tâm lý mong
muốn phục hồi doanh nghiệp của các bên liên quan; các chủ thể thực hiện quản lý tài
sản có vị trí, vai trò, năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu; đặc biệt, những yếu tố
khác ảnh hưởng quan trọng đến kết quả thực hiện thủ tục này là sự thiếu minh bạch
về tài chính, kế toán trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, tâm lý bài trừ
doanh nghiệp đã thực hiện thủ tục phá sản nói chung trong xã hội… dẫn đến hiệu
quả quản lý tài sản không cao, còn tạo ra những kẽ hở cho doanh nghiệp tẩu tán, làm
thất thoát tài sản.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện những quy định của LPS năm 2014
và các văn bản pháp luật có liên quan về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn áp
dụng thủ tục phá sản, có thể tác động không nhỏ đối với sự vận hành của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ lý do này, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán theo pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay” làm
đề tài Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu về phá sản và pháp luật phá sản cũng như khía cạnh quản lý
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không phải là một chủ đề nghiên
cứu xa lạ ở Việt Nam và trên thế giới.
Tại Việt Nam, có rất nhiều các công trình nghiên cứu công phu về chủ đề này
đã được công bố (sách tham khảo, giáo trình, luận án, luận văn, các bài viết nghiên
cứu…) đặc biệt là các công trình liên quan đến quá trình xây dựng, ban hành LPS
doanh nghiệp năm 1993, LPS các năm 2004 và 2014.
Ở nước ngoài, một số nghiên cứu đã thực hiện cho thấy chủ đề phá sản được
phân tích, luận giải ở nhiều góc độ khác nhau như nội dung triết lý về phá sản doanh
nghiệp và việc tái cấu trúc, bảo hộ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ, đưa ra các
tiêu chí về phá sản…Các nghiên cứu này cung cấp những thông tin tham khảo có giá trị
cho việc nghiên cứu về cơ chế giải quyết phá sản nói chung và vấn đề quản lý tài sản của
2
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nói riêng ở Việt Nam.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài khá đa dạng,
từ nghiên cứu chung về luật phá sản đến phân tích từng khía cạnh cụ thể trong quá
trình giải quyết phá sản của doanh nghiệp, trong phạm vi tìm hiểu của mình, tác giả
đã nghiên cứu được một số công trình sau đây:
* Tài liệu nghiên cứu trong nước:
1. PGS.TS. Dương Đăng Huệ (2005), Pháp luật phá sản của Việt Nam, Sách
tham khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Đây là công trình xác lập quan điểm về pháp luật phá sản trong nghiên cứu
và xây dựng Luật Phá sản, nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về các vấn đề
liên quan đến phá sản, phân tích về các chủ thể trong tố tụng phá sản, trong đó có
chủ thể quản lý và thanh lý tài sản, nghiên cứu nhiều quy định mới trong LPS năm
2004 so với LPS doanh nghiệp năm 1993. Tuy nhiên, đây là công trình nghiên cứu
chung, tổng thể các vấn đề mà không đi sâu phân tích về quản lý tài sản của doanh
nghiệp khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
2. Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Thực trạng
phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp
ở Việt Nam - Chủ nhiệm: ThS.Nguyễn Kim Anh.
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu và đánh giá pháp luật về phá sản ở Việt
Nam và một số nước trên thế giới, tìm hiểu thực trạng thi hành LPS doanh nghiệp
năm 1993 ở Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là các văn bản pháp luật có
liên quan đến phá sản doanh nghiệp và tổ chức bộ máy thực thi LPS doanh nghiệp
năm 1993 như Tòa kinh tế thuộc TAND và các cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, Đề
tài đi sâu phân tích một số nét cơ bản đã được bổ sung, sửa đổi mà chưa đi sâu phân
tích về vấn đề quản lý tài sản của doanh nghiệp.
3. Đề tài khoa học năm 2008 của Bộ tư pháp: “Thực trạng pháp luật về phá
sản và việc hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam”-
PGS.TS.Dương Đăng Huệ và ThS.Nguyễn Thanh Tịnh làm chủ nhiệm.
Đề tài đã phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục phá sản
và tập trung vào vấn đề thực trạng thực hiện quản lý, thanh lý tài sản của doanh
nghiệp. Làm rõ thực trạng giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, phát hiện những
3
tồn tại, hạn chế của LPS năm 2004, các văn bản pháp luật có liên quan cũng như
các yếu tố khác làm ảnh hưởng đến việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản.
4. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2009), Đề tài khoa học cấp bộ “Các
giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tốt hơn việc phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam”,
Hà Nội - Chủ nhiệm PGS.TS Dương Đăng Huệ.
Đề tài bàn về mục tiêu của pháp luật phá sản hiện đại và quan điểm hoàn thiện
pháp luật phá sản Việt Nam không chỉ là việc thanh lý tài sản doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản, mà còn có xu hướng hướng về doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ, đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tốt hơn việc phá sản doanh
nghiệp ở Việt Nam.
5. Trương Hồng Hải (2004), Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ
luật so sánh và phương hướng hoàn thiện, Luận án tiến sĩ luật học.
Luận án tập trung nghiên cứu so sánh LPS doanh nghiệp năm 1993 của Việt
Nam với LPS của một số nước như Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga…trên những vấn
đề chủ yếu như: xác định tình trạng phá sản, phạm vi đối tượng của Luật Phá sản,
quản lý tài sản phá sản, mô hình thủ tục tố tụng phá sản. Nghiên cứu đánh giá LPS
doanh nghiệp Việt Nam trong mối quan hệ so sánh với luật phá sản của một số nước
đồng thời rút ra kết luận về sự tương đồng cũng như sự khác biệt giữa pháp luật phá
sản của Việt Nam với luật phá sản của các nước cũng như những nguyên tắc, yếu tố
chi phối các đặc điểm đó.
6. Vũ Thị Hồng Vân - khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Quản lý và
xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam, Luận án tiến sĩ
luật học.
Luận án đã tập trung nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về thủ tục quản lý
và xử lý tài sản phá sản, trong đó có đề cập tới Tổ quản lý và thanh lý tài sản với tư
cách là chủ thể của hoạt động đó, đồng thời Luận án cũng phân tích, đánh giá những
bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật về chủ thể này trong thực tiễn. Tuy nhiên
luận án chưa có được những nghiên cứu tổng hợp, toàn diện về Tổ quản lý và thanh
lý tài sản với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong tố tụng phá sản.
7. Dương Kim Thế Nguyên (2015), Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo
4
pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học.
Luận án phân tích về khái niệm phá sản, thủ tục phá sản và những liên hệ đến
LPS năm 2014, xác định rõ các đối tượng tổ chức tín dụng được áp dụng các quy
định đặc thù về giải quyết phá sản theo hướng loại trừ những đối tượng không áp
dụng các quy định này bao gồm, Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Phát triển
Việt Nam, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và các tổ chức tài chính quy mô nhỏ.
8. An Phương Huệ (2004), Luật Phá sản của Việt Nam và Luật Phá sản của Cộng
hòa Pháp – những nét tương đồng và khác biệt, Luận văn Thạc sỹ Luật học.
Luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật phá sản Việt Nam trong
mối liên hệ so sánh với LPS Pháp, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm góp phần
hoàn thiện pháp luật phá sản ở nước ta.
9. Nguyễn Đức Hải (2018), Pháp luật về quản tài viên và doanh nghiệp hành
nghề quản lý, thanh lý tài sản qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc
sỹ Luật học.
Luận văn phân tích chuyên sâu về chế định Quản tài viên và DNQLTLTS qua
thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng, từ đó rút ra những nhận xét và kiến nghị một số
giải pháp hoàn thiện.
Ngoài các sách tham khảo, Đề tài khoa học và các luận án, luận văn nêu trên, còn có
nhiều công trình nghiên cứu thể hiện dưới dạng các giáo trình, đặc san tuyên truyền,
chuyên đề, các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, trang thông tin điện tử .v.v.
* Tài liệu nghiên cứu nước ngoài:
1. Roy Goode (1997), Principles of Corporate Insolvency Law, Sweet and
Maxwell, London cung cấp triết lý về phá sản doanh nghiệp và việc tái cấu trúc, bảo
hộ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ, bàn về các nguyên tắc của pháp luật
phá sản, đưa ra 10 nguyên tắc chung của pháp luật phá sản như quyền được tích lũy
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trước khi bị thanh lý hay nguyên
tắc về sự bình đẳng giữa các chủ nợ không có tài sản bảo đảm. Đồng thời, phân tích
về lý thuyết và phương thức thực hiện “tái cấu trúc” (restructure), “sắp xếp”
(arrangement) doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ.
2. European Parliament (2010), Harmonisation of insolvency law at EU level,
5
Brussels bàn về luật phá sản trong khối EU, phân tích đặc điểm, cách thức thực
hiện tái cấu trúc doanh nghiệp trong thủ tục phá sản ở các nước. Phân chia ba tiêu
chí để xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ gồm: Tiêu chí định lượng;
tiêu chí kế toán; tiêu chí dòng tiền (cash-flow).
3. Alan Schwartz (2005), A Normative Theory of Business Bankruptcy, Yale
Law School đã phân tích về Lý thuyết phá sản ban đầu, Lý thuyết phá sản hiện tại và
quan điểm hiện đại về lãi suất và đầu tư trong mối quan hệ về hiệu quả giữa phá
sản với những chi phí, lãi suất của pháp luật phá sản của Hoa Kỳ.
4. Eva Hüpkes (2003), Insolvency - why a special regime for banks?,
https://www.imf.org/external/np/leg/sem/2002/cdmfl/eng/hupkes.pdf chỉ ra tính đặc
thù hay chế độ đặc biệt của phá sản ngân hàng, tổ chức tín dụng với những tiêu
chí khắt khe.
5. Richard M.Hynes, Steven D.Walt (2010), Why Banks Are Not Allowed
in Bankruptcy”, Article 4, Washington and Lee Law Review lý giải tại sao các ngân
hàng thì không được phép phá sản.
Nhìn chung, các công trình trên thường tập trung vào việc phân tích, đánh giá
khái quát về pháp luật phá sản, các cơ sở lý luận, nguyên tắc hoặc trình tự, thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp hoặc chủ yếu phân tích những
vấn đề đó trên cơ sở các LPS doanh nghiệp năm 1993, 2004, 2014 và các kinh nghiệm
từ nước ngoài. Các vấn đề về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán chủ yếu được lồng ghép trong nội dung nghiên cứu về phá sản.
Trong một giới hạn nhất định, các công trình nêu trên đã đưa ra những vấn đề
về cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp cho tác giả học hỏi, kế thừa những nghiên cứu
khoa học đó để góp phần xây dựng và hoàn thiện Luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu lý luận về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán theo pháp luật phá sản Việt Nam, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện
pháp luật và thi hành pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán.
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu, phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận chung của pháp luật về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán;
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; thực trạng thi hành pháp luật về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ở Việt Nam;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của Luận văn:
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành pháp
luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và các quy định
pháp luật có liên quan, từ đó phát hiện những hạn chế, bất cập để đề ra giải pháp hoàn
thiện.
- Luận văn giới hạn nghiên cứu quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán (không bao gồm Hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã, tổ chức tín dụng và hộ kinh doanh).
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Giới hạn về thời gian: Luận văn nghiên cứu giới hạn từ thời điểm LPS năm
2014 có hiệu lực thi hành (ngày 01 tháng 01 năm 2015) trở lại đây;
- Giới hạn về không gian: Luận văn giới hạn việc tìm hiểu thực tiễn thi hành
pháp luật tại Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu của Luận văn, tác giả áp dụng các phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu như sau:
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, bao gồm phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học
pháp lý như:
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các chương của luận văn để làm
rõ cơ sở lý luận của quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán như
phân tích khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; phân tích
sự cần thiết và nội dung của thủ tục này; phân tích thực trạng pháp luật, thực trạng
thi hành pháp luật và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, khắc phục những hạn chế
trong việc thực hiện thủ tục này.
- Phương pháp hệ thống hóa các luận điểm khoa học, tổng hợp: Thông qua các
phương pháp này, các thông tin đơn lẻ sẽ được tổng hợp, hệ thống hóa và xâu chuỗi
thành các nhóm vấn đề, được phân tích, khái quát hóa thành các luận điểm, xây dựng
khung lý thuyết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật. Phương
pháp này được sử dụng tại các chương nội dung của luận văn.
- Phương pháp luật học so sánh được sử dụng để tham khảo quy định pháp luật
và thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán của một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra một số kinh nghiệm cho Việt
Nam.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp, lịch sử… để giải quyết những vấn đề cơ bản của
Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và
thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định này, nâng
cao hiệu quả của việc quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
nói riêng cũng như hiệu lực và hiệu quả của pháp luật phá sản nói chung. Cụ thể
Luận văn có những đóng góp sau đây:
Một là, nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trong sự đối chiếu, so sánh với pháp
luật của một số nước trên thế giới.
Hai là, phân tích những nội dung của pháp luật về quản lý tài sản của doanh
8
nghiệp mất khả năng thanh toán, đồng thời chỉ ra một số quy định bất cập trong các
văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam và những hạn chế, vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng các quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán.
Ba là, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị về phương hướng và một số giải pháp
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật Việt Nam về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Tác giả Luận văn hi vọng sẽ góp phần nhỏ vào việc củng cố cơ sở lý luận liên quan
đến quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trong pháp luật phá sản
Việt Nam hiện nay. Bổ sung vào hệ thống tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, học tập và những người làm công tác thực tiễn liên quan đến vấn đề phá sản doanh
nghiệp và các chủ thể có thẩm quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán, trong đó đặc biệt là các nhà quản lý doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn được chia làm ba chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán theo luật phá sản
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
9
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ TÀI SẢN
CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN
1.1. Khái quát về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Trên cơ sở đặc thù của hoạt động kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, khoa
học pháp lý ngày nay xem phá sản doanh nghiệp là một hiện tượng tất yếu trong nền
kinh tế thị trường [23, tr.33]. Đặc trưng cơ bản để xác định doanh nghiệp phá sản
được khoa học pháp lý đánh giá trước tiên là dấu hiệu “mất khả năng thanh toán”
các khoản nợ đến hạn, dấu hiệu này là căn cứ để khởi động các thủ tục pháp lý dẫn
đến TAND ra quyết định thụ lý vụ việc yêu cầu tuyên bố phá sản và tiến hành các
thủ tục phá sản. Như vậy, việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán là căn cứ để Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, tình trạng mất khả năng thanh toán không nhất thiết sẽ dẫn tới việc mở
thủ tục phá sản. Trong khoảng thời gian kể từ khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
cho tới khi Tòa án chính thức ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản, nếu
doanh nghiệp có thể khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán (có được nguồn
thu, được cấp một khoản tín dụng mới...) thì doanh nghiệp vẫn có cơ hội thỏa thuận với
chủ nợ về việc rút đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 37, LPS năm 2014). Nếu trong
khoảng thời gian tính từ khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đến trước ngày ra
quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản, nếu doanh nghiệp không còn trong tình trạng
mất khả năng thanh toán thì thủ tục phá sản sẽ được chấm dứt (Điều 86, LPS năm 2014).
Vì thế, việc xác định được nội hàm khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ sẽ quyết định cơ sở pháp lý đầu tiên của một doanh nghiệp bị phá sản
và là cơ sở cho việc thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như bảo vệ cho quyền, lợi ích của những người liên quan, đặc biệt là
con nợ. Đây cũng là vấn đề được đặt ra trong pháp luật phá sản của các quốc gia trên
thế giới. Theo đó, mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp (tiếng Anh được dịch
là “inability to pay” hay là “insolvent” trong cụm từ “insolvent enterprise”) được
10
hiểu là tình trạng một doanh nghiệp có một khoản nợ hay nghĩa vụ phải thực
hiện đã đến hạn nhưng không được hoàn trả đúng hạn cho đến thời điểm xem xét
vấn đề phá sản.
Để xác định yếu tố “mất khả năng thanh toán”, quan điểm pháp lý của các
nước trên thế giới được xác định theo nhiều cách khác nhau, trong đó thường được
xác định theo một trong hai tiêu chí hoặc kết hợp một số tiêu chí sau: tiêu chí về định
lượng và tiêu chí về định tính. Các tiêu chí định tính chỉ nêu ra trạng thái doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ lâm vào tình trạng phá sản mà không cần
xác định bởi các con số cụ thể. Ví dụ:
Tại Nhật Bản, Điều 126 LPS của Nhật Bản ban hành ngày 25/4/1922 quy định:
“1. Khi một người mắc nợ không thể trả được nợ thì Tòa án sẽ ra quyết định tuyên
bố người đó phá sản theo đơn đề nghị. 2. Khi một người mắc nợ ngừng trả tiền thì
người đó được coi là không thể trả được nợ”. Như vậy, việc nhận định con nợ mất
khả năng thanh toán là người mắc nợ ngừng trả tiền cho các khoản nợ đến hạn của
mình, và điều này có thể bị Tòa án tuyên bố phá sản.
Hay tại Liên Bang Nga, theo Điều 3 Luật Mất khả năng thanh toán (phá sản)
của Cộng hòa Liên bang Nga năm 2002 thì các thể nhân, pháp nhân chỉ bị coi là đã
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán của con nợ nếu sau 03 tháng, kể từ ngày
đến hạn phải trả mà họ không trả được các món nợ đến hạn đó. Sự quy định rõ ràng
về thời gian chậm thanh toán nhằm khẳng định tính nghiêm trọng của tình trạng mất
khả năng thanh toán của con nợ.
Ở Hoa Kỳ, pháp nhân, cá nhân, nếu do làm ăn thua lỗ, không có khả năng chi
trả các khoản nợ đến hạn, thì có quyền nộp đơn ra Tòa phá sản để yêu cầu bảo hộ
phá sản theo Chương 11 Luật Phá sản Mỹ năm 1800 (sửa đổi năm 1978) [25].
LPS Cộng hòa Pháp xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ là khi
doanh nghiệp chứng minh được các khó khăn tài chính có thể dẫn đến mất khả năng
thanh toán [26].
Điều 2 LPS Trung Quốc cũng xác định doanh nghiệp thuộc các trường hợp không
thể trả hết các khoản nợ đến hạn và tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả hết các
khoản nợ, hoặc doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ của mình, có thể
11
nộp đơn lên TAND để tổ chức lại, thỏa hiệp hoặc thanh lý phá sản [27].
Các tiêu chí định lượng thường xác định trên cơ sở một lượng giá trị bằng tiền
mà doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ không trả được vào một thời điểm nhất
định, ví dụ, theo LPS của Singapore năm 1999 con nợ sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản
(lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán) khi không trả được số nợ đến hạn ít nhất
là 5.000$ Singapore; theo luật Mất khả năng thanh toán của Cộng hòa Liên bang Nga
năm 2002 thì số tiền đó là 100.000 rúp (Điều 6); ở Mỹ, số tiền này là không dưới
10.000 USD.
Trong quan điểm pháp lý về mất khả năng thanh toán nợ khi xây dựng LPS ở
Việt Nam, các nhà làm luật không dựa trên những tiêu chí định lượng cụ thể mà thiên
về tiêu chí định tính.
Cụ thể, tại Điều 864 Bộ luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 đã viết: "Thương
gia ngưng trả nợ có thể, đương nhiên hoặc theo đơn xin của trái chủ, bị Tòa tuyên
án khánh tận”. LPS doanh nghiệp năm 1993 không đưa ra định nghĩa doanh nghiệp
phá sản mà đưa ra khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản: “Doanh nghiệp
đang lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong
hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Quan điểm này cũng được các nhà lập pháp
tiếp tục ghi nhận và kế thừa một phần tại Điều 3 LPS năm 2004: "Doanh nghiệp, hợp
tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu
cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”.
LPS năm 2014 đã không còn sử dụng khái niệm doanh nghiệp "lâm vào tình trạng
phá sản” như LPS năm 2004, mà thay vào đó là khái niệm doanh nghiệp “mất khả năng
thanh toán”. Theo đó, Khoản 1 Điều 4 về giải thích từ ngữ LPS năm 2014 quy định:
“Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán khi không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”.
Đồng thời, LPS năm 2014 xác định mất khả năng thanh toán là “không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán” chứ không phải là “không có khả năng thanh toán” như
trong LPS n năm 2004. Sự khác biệt ở đây thể hiện ở ý muốn chủ quan của doanh
nghiệp. Nếu như trong LPS năm 2004, doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản
12
được hiểu là đang ở trong tình trạng không có khả năng thanh toán (hết tài sản), thì
đến LPS năm 2014, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán phụ thuộc vào cả ý muốn
chủ quan của doanh nghiệp đó và “không thực hiện nghĩa vụ thanh toán” có thể hiểu
theo hai cách: một là doanh nghiệp đó không có tài sản để thanh toán; hai là doanh
nghiệp vẫn có khả năng thanh toán nhưng không muốn thanh toán hoặc muốn trốn
tránh nghĩa vụ.
Có thể thấy, xét về điều kiện, khả năng của Nhà nước khó có thể kiểm soát tài
sản, tài chính, hoạt động của doanh nghiệp nên từ khi ban hành Luật Phá sản từ năm
1993 cho đến nay việc lựa chọn tiêu chí định tính khi xác định yếu tố mất khả năng
thanh toán nợ của doanh nghiệp là hợp lý, điều này sẽ tạo điều kiện cho việc sớm mở
thủ tục phá sản cũng như khả năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp [6].
Tóm lại, doanh nghiệp được xem là mất khả năng thanh toán khi có các đặc
điểm như sau:
Thứ nhất, khoản nợ của doanh nghiệp để xem xét việc mất khả năng thanh
toán là khoản nợ mà doanh nghiệp tạo ra từ hoạt động kinh doanh hợp pháp của
mình (bao gồm cả những khoản nợ thương mại và phi thương mại, ví dụ như phải
chấp hành một bản án có hiệu lực pháp luật). Theo LPS năm 2014 doanh nghiệp có
02 loại nợ là nợ có bảo đảm và nợ không có bảo đảm. Và có 03 chủ nợ là: chủ nợ có
bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, và chủ nợ không có bảo đảm. Trong đó,
khoản nợ đến hạn là điều kiện để đưa doanh nghiệp vào tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ chỉ bao gồm khoản nợ không có đảm bảo và khoản nợ có đảm bảo một
phần, các khoản nợ này đã rõ ràng được các bên xác nhận, có đầy đủ các giấy
tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp, còn không bao hàm khoản nợ
có đảm bảo vì đã có tài sản bảo đảm thi hành cho khoản nợ này.
Thứ hai, về xác định giá trị khoản nợ, pháp luật một số nước như Singapore,
Nga, Mỹ… chọn cách xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán căn cứ vào giá
trị cụ thể của khoản nợ, còn pháp luật phá sản Việt Nam không quy định một mức
khoản nợ cụ thể và không cần sự tương xứng giữa khoản nợ và tài sản hiện có của
doanh nghiệp, với lý do “tình hình tài chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau,
13
có thể có những doanh nghiệp nợ vài ba chục triệu nhưng không có cách gì để trả,
trong lúc cũng có những doanh nghiệp nợ tới vài ba trăm triệu vẫn có khả năng thanh
toán bình thường” [23, tr.339-340].
Thứ ba, doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ được xem xét tại thời
điểm xác định, bao gồm cả trường hợp doanh nghiệp không có khả năng thanh toán
khoản nợ tạm thời và trường hợp doanh nghiệp không thể thanh toán khoản nợ ở thời
điểm sau này, kể cả khi dự liệu việc có thể sử dụng các biện pháp can thiệp khác. Ngoài
ra, còn trường hợp doanh nghiệp có khả năng thanh toán những khoản nợ nhưng doanh
nghiệp cố tình không thanh toán và không giới hạn doanh nghiệp không thực hiện nghĩa
vụ thanh toán với bao nhiêu khoản nợ thì được coi là mất khả năng thanh toán. Điều này
có nghĩa là chỉ cần có một khoản nợ mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán dù là nợ lương, nợ thuế hay bất kỳ khoản nợ nào từ hợp đồng,... thì doanh nghiệp
đó đã bị coi là mất khả năng thanh toán. Về bản chất, doanh nghiệp không mất khả năng
thanh toán, nhưng về mặt pháp lý, đây vẫn được xem là trường hợp mất khả năng thanh
toán của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, mất khả năng thanh toán nợ không chỉ là hiện tượng doanh
nghiệp không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào
tình trạng tài chính tuyệt vọng, có nghĩa là không thể trả được nợ và cần có sự can
thiệp của Toà án hoặc phương án khác từ phía chủ nợ, các đối tác khác. Việc mất khả
năng thanh toán có thể không trùng với biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không,
khi mà thực tế có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là che đậy tình trạng tài chính
tuyệt vọng của doanh nghiệp, họ phải sử dụng nhiều cách thức gian trá để bù đắp
ngân quỹ như vay nặng lãi, thế chấp tài sản…[23, tr.340].
Thứ tư, thời hạn doanh nghiệp được xác định mất khả năng thanh toán là trong thời
hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán. LPS năm 2014 đã thay đổi cách tính thời hạn
là khi chủ nợ có yêu cầu (như LPS năm 2004) thành “kể từ ngày đến hạn thanh toán”,
điều này thể hiện tính khách quan, không bị phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ nợ (khi
chủ nợ có yêu cầu) vì mỗi doanh nghiệp sẽ có rất nhiều chủ nợ, khi đó, có chủ nợ muốn
yêu cầu, có chủ nợ không muốn yêu cầu, ngoài ra, điều này còn tạo cơ hội cho các
chủ nợ là doanh nghiệp cạnh tranh lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu gây khó khăn
14
cho con nợ. Ngoài ra, quy định này giúp cho chủ nợ không cần phải chứng minh đã
có yêu cầu thanh toán nợ như LPS năm 2004 khi yêu cầu mở thủ tục phá sản với con
nợ. Như vậy, việc mất khả năng thanh toán khi đến hạn là căn cứ duy nhất mà doanh
nghiệp bị coi là mất khả năng thanh toán.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Xác định khái niệm và phạm vi khối tài sản doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán có ý nghĩa rất quan trọng trong pháp luật phá sản, đây là căn cứ để xác định một
doanh nghiệp có bị lâm vào tình trạng phá sản chưa và để đánh giá mức độ về tình
trạng nợ của doanh nghiệp đó ra sao. Xác định phạm vi khối tài sản cũng chi phối
việc lựa chọn thủ tục tố tụng phù hợp, nhằm đánh giá sự cần thiết áp dụng các biện
pháp bảo toàn, quản lý tài sản có lợi nhất cho chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ. Trên
thế giới, các nước đưa ra các khái niệm và đặc điểm tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán khác nhau như:
- Theo LPS của Nhật Bản, phạm vi khối tài sản bao gồm tất cả các tài sản còn
lại của con nợ. Khối tài sản này bao gồm tài sản của con nợ và quyền phủ nhận về tài
sản. LPS của Nhật Bản quy định: “Bất kỳ tài sản nào và tất cả những tài sản do bên
bị phá sản giữ tại thời điểm tuyên bố phá sản” đều thuộc khối tài sản phá sản. Tuy
nhiên, LPS của Nhật Bản lại có quy định về một loại tài sản được miễn trừ khỏi khối
tài sản đó là “tài sản tự do”, theo đó “tài sản tự do” được xác định là tài sản mới
thiết lập quyền sở hữu, tài sản không được phép cho vào danh sách tịch thu, tiền dưới
100 Yên Nhật và tài sản mà người làm thủ tục thanh lý xếp ở ngoài danh sách thanh
lý [28]. Ngoài ra, trong LPS của Nhật Bản quy định tài sản nào ở ngoài phạm vi lãnh
thổ của Nhật Bản không được coi là một bộ phận của khối tài sản phá sản do khả
năng giám sát, đánh giá, thu hồi là khó có thể tiến hành được.
- LPS của Hoa Kỳ ghi nhận “tài sản phá sản là khối sản nghiệp của doanh
nghiệp” (Điều 401), như: Tất cả số tài sản của con nợ mà không được miễn trừ tại
thời điểm bắt đầu vụ phá sản đó. Các tài sản mà con nợ có được trong vòng 180 ngày
sau khi vụ án bắt đầu bằng việc kế thừa những lợi ích từ chính sách bảo hiểm và bất
kỳ một lợi ích nào khác đối với tài sản có được sau khi vụ án bắt đầu. Các tài sản do
Tín thác viên thu hồi được theo thẩm quyền do luật định. Các tài sản miễn trừ gồm
15
các khoản trách nhiệm pháp lý đối với việc chiếm đoạt hoặc lừa dối, gây thương tích
với một người hoặc làm hư hỏng tài sản, trợ cấp cho vợ, chồng, con; khoản nợ do
gian lận của con nợ khi biển thủ, trộm cắp [6, tr.92]...
- Theo quy định tại Điều 26 LPS của Liên Bang Nga ban hành ngày 26/10/2002
đã đưa ra cách xác định tài sản phá sản bao gồm: (i) Tất cả tài sản của người mắc nợ
thể hiện trong bảng cân đối kế toán hoặc các tài liệu kế toán thay thế là cơ sở để xác
định tài sản phá sản; (ii) Trong tài sản phá sản còn bao gồm các đối tượng thuộc lĩnh
vực công cộng nằm trong bảng cân đối của người mắc nợ, trừ quỹ nhà ở, các trường
mẫu giáo và các công trình sản xuất hạ tầng quan trọng đối với đời sống khu vực, cần
được đưa vào bảng cân đối của các cơ quan tự quản địa phương hoặc cơ quan quyền
lực nhà nước hữu quan, nếu pháp luật của Liên bang quy định khác… (iii) Tài sản
phá sản không bao gồm tài sản là vật bảo đảm. Tài sản phá sản không bao gồm tài
sản không thuộc quyền sở hữu của người mắc nợ, trong đó, có tài sản do mắc nợ thuê;
tài sản mà người mắc nợ có trách nhiệm bảo quản; tài sản riêng của công nhân viên
doanh nghiệp mắc nợ, trừ tài sản mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của
doanh nghiệp có thể được thu hồi để thực hiện các nghĩa vụ của người mắc nợ.
Có thể thấy, trong pháp luật các nước ngoài việc liệt kê danh mục các tài sản
phá sản thì còn có danh mục tài sản được miễn trừ là các tài sản liên quan đến các đồ
vật phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mang tính chất tối thiểu, các tài sản bảo đảm
cuộc sống cho con nợ khi không còn khả năng lao động hay các khoản tiền để thực
hiện trách nhiệm pháp lý với người khác.
Ở Việt Nam, từ LPS năm 2004 đã ghi nhận khái niệm “tài sản của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản”, khắc phục được tình trạng xác định tài sản một cách tản
mạn, không đầy đủ như trong LPS doanh nghiệp năm 1993. Đến LPS năm 2014,
ngoài việc thay khái niệm “doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản” bằng khái
niệm “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” và thay đổi thời điểm bắt đầu xác
định tài sản là “thời điểm Tòa án nhân dân quyết định mở thủ tục phá sản” và tài sản
“có được sau ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản” thì việc xác
định các tài sản chi tiết của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán cơ bản không có
gì thay đổi. Đồng thời, tất cả các LPS sản qua các thời kỳ đều không đưa ra khái niệm
16
“tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” mà chỉ liệt kê các loại tài sản
của doanh nghiệp, vì vậy chưa mang tính khái quát cao và có thể dẫn tới việc liệt kê
thiếu các loại tài sản phát sinh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Cũng như
không có quy định về tài sản thuộc diện loại trừ khỏi khối tài sản phá sản, điều này
chưa thể hiện được sự nhân đạo của Nhà nước cũng như các chủ nợ đối với doanh
nghiệp (các tài sản được liệt kê tại Điều 64 LPS năm 2014 - sẽ được phân tích cụ thể
tại chương 2).
Từ các phân tích trên, có thể rút ra đặc điểm tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán như sau:
Thứ nhất, về thời điểm xác định tài sản, tổng số tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán được xác định căn cứ vào thời điểm trong thủ tục giải quyết phá
sản. Mỗi nước có cách xác định khác nhau, như Hoa Kỳ là tất cả số tài sản của con
nợ mà không được miễn trừ tại thời điểm bắt đầu vụ phá sản đó, tại Việt Nam thì
không chỉ tính đến thời điểm TAND quyết định mở thủ tục phá sản mà còn bao gồm
cả tài sản có được sau ngày TAND ra quyết định mở thủ tục phá sản.
Thứ hai, về phạm vi không gian xác định tài sản, có nước chỉ coi những tài sản
hiện đang nằm trong phạm vi lãnh thổ của nước đó mới thuộc khối tài sản phá sản
(Nhật Bản), còn Việt Nam coi các tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
bao gồm tất cả các tài sản mà doanh nghiệp đang sở hữu cả trong và ngoài phạm vi
lãnh thổ đất nước.
Thứ ba, xác định tài sản dựa vào loại hình tài sản hoặc nguồn hình thành tài sản.
Ví dụ: tài sản được phản ánh trên sổ sách kế toán; tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu,
tẩu tán tài sản của doanh nghiệp; tài sản và quyền tài sản có được do thu hồi từ giao
dịch vô hiệu;...
Thứ tư, ngoài các tài sản được đã được xác định là tài sản phá sản thì còn có
nhóm những tài sản loại trừ, ghi nhận những tài sản không tính vào khối tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, các dạng tài sản thuộc diện loại trừ có thể căn
cứ vào không gian mà tài sản tồn tại và thời điểm phát sinh tài sản như Nhật Bản hay
căn cứ vào giá trị tài sản, mục đích, công dụng của tài sản như Hoa Kỳ hoặc như Nga
17
căn cứ vào tính chất sở hữu tài sản.
1.1.3. Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
a) Khái niệm và đặc điểm của quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán
Khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp thường có tâm
lý nếu không phục hồi được hoạt động kinh doanh thì sớm muộn tài sản của họ cũng
bị thu hồi và thanh lý để trả cho các chủ nợ, do đó dễ nảy sinh hành động cất giấu,
tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh trách nhiệm trả nợ. Vì vậy, nếu để doanh nghiệp tiếp
tục quản lý khối tài sản của họ mà không có sự giám sát của một cơ quan, tổ chức
hay nhóm người nào đó thì khối tài sản đó sẽ khó được bảo toàn và hậu quả tất yếu
là các chủ nợ sẽ bị thiệt hại. Do vậy, để tránh những rủi ro cho xã hội và cho chính
doanh nghiệp, yêu cầu đặt ra là phải thành lập một chủ thể đặc biệt có trình độ, kinh
nghiệm quản lý và trong trường hợp cần thiết có quyền kiểm soát cũng như áp dụng
các biện pháp cần thiết nhằm bảo toàn tài sản.
Hiện nay, các quy định của pháp luật hiện hành không đưa ra định nghĩa về
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán mà chỉ quy định những
chủ thể, đối tượng và hành vi của hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán. Song, khác với việc quản lý tài sản thông thường, quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là một hoạt động quản lý tài sản đặc biệt,
thể hiện ở một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, đối tượng của hoạt động quản lý tài sản là quản lý toàn bộ khối tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, theo đó, tài sản chịu sự quản lý đa
dạng tồn tại dưới nhiều loại hình khác nhau, đó có thể là tài sản mà doanh nghiệp
đang trực tiếp sở hữu hoặc có thể là nguồn lợi, các tài sản hình thành trong tương lai
mà các hợp đồng đầu tư đem lại cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp tư nhân,
công ty hợp danh thì tài sản chịu quản lý còn bao gồm cả tài sản cá nhân hoặc tài sản
sở hữu chung chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên của công ty hợp danh. Chính
vì vậy, công việc quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán rất phức
tạp và gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong hoạt động xác định giá trị khối tài sản
hình thành trong tương lai của doanh nghiệp.
Thứ hai, chủ thể của hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
18
thanh toán rất đa dạng, không chỉ có chính doanh nghiệp đó mà còn bao gồm Tòa án,
Quản tài viên, DNQLTLTS,...Bởi, khác với các quan hệ kinh doanh thương mại thông
thường chỉ nhắc đến hai loại chủ thể là bên mua và bên bán, trong vụ việc phá sản,
các chủ thể là con nợ và chủ nợ đều trong tình trạng dễ bị xâm phạm về quyền và lợi
ích do tính chất đặc thù của hoạt động phá sản. Do đó, cần có chủ thể khác can thiệp
vào quan hệ phá sản nhằm kiểm soát toàn bộ quy trình phá sản, điều hòa mâu thuẫn
giữa chủ nợ và con nợ. Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không được độc quyền
quản lý và sử dụng tài sản của mình mà thay vào đó cần phải có sự tham gia quản lý
của các cơ quan, tổ chức khác đảm bảo tính khách quan và hiệu quả trong việc bảo
toàn tài sản.
Thứ ba, phương thức thực hiện việc quản lý tài sản đa dạng, bao gồm những
cách thức, biện pháp mà các chủ thể sử dụng để bảo toàn tài sản, hạn chế việc mất
mát, tẩu tán tài sản như: kiểm kê tài sản, thu hồi và quản lý tài sản, phối hợp các biện
pháp bảo toàn tài sản như giám sát, kiểm tra tài sản, lập danh sách chủ nợ, áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời… Để thực hiện được phương thức này yêu cầu chủ thể
tham gia quản lý tài sản phải nắm được các nguyên tắc, cách thức để xác định chính
xác khối tài sản của doanh nghiệp, đây là vấn đề vô cùng quan trọng để hiểu đúng
tính chất nợ, làm rõ được phạm vi quyền và nghĩa vụ của chủ nợ.
b) Ý nghĩa của quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Từ các đặc điểm của quản lý tài sản doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đã
phân tích ở trên, có thể thấy, việc quản lý tài sản là cần thiết và tất yếu trong quá trình
giải quyết phá sản vì:
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt ra vấn đề bảo vệ con nợ. Lúc
đó, người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá sản là một
phạm nhân, do đó, họ không những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt bằng
nhiều hình thức, kể cả việc tử hình [8, tr.8]. Hiện nay, quan niệm về hoạt động kinh
doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của Nhà nước cũng như pháp luật về phá
sản, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán cũng đã được thiết kế theo hướng tích
cực, có lợi cho con nợ.
Chính vì thế, ngày nay, khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
19
toán thì việc làm đầu tiên mà Nhà nước quan tâm giải quyết là tìm mọi cách để giúp
doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn này chứ không phải là tuyên bố doanh
nghiệp phá sản luôn để phân chia tài sản của doanh nghiệp cho các chủ nợ, mà áp
dụng các quy định như: ấn định thời điểm không phải trả nợ nữa, tạo điều kiện cho
con nợ có cơ hội thương lượng với chủ nợ để xóa nợ, giảm nợ,...tạo ra một khuôn khổ
pháp lý để buộc các chủ nợ phải tuân thủ (giải quyết theo một thủ tục duy nhất do
Tòa án tiến hành, nghiêm cấm các hành động tiêu cực để thu hồi nợ một cách nhanh
nhất như thuê người đi đánh đập, chửi bới, dọa nạt con nợ ...), giúp cho con nợ tránh
được những áp lực về mặt thể chất cũng như tinh thần hay nhân thân của mình. Do
đó, các quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hiện
nay có vai trò quan trọng trong việc ngăn cản các hành vi này của các chủ nợ đồng
thời bảo vệ tối đa quyền lợi của con nợ.
Thứ hai, đối với các chủ nợ
Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán thì hầu hết các
doanh nghiệp không còn đủ khả năng chi trả cho các khoản nợ. Như vậy, chủ nợ của
doanh nghiệp chính là những người có nguy cơ mất trắng, không thể đòi lại được các
khoản tiền, tài sản mà trước đây họ đã cho con nợ vay, mượn. Trong khi doanh nghiệp
đó có khả năng sẽ tìm mọi cách tẩu tán tài sản còn lại của mình để trốn tránh trách
nhiệm trả nợ và giảm thiểu tối đa tổn thất của doanh nghiệp, gây ra thiệt hại đến quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Do đó, hoạt động quản lý tài sản sẽ giám sát tài
sản, ngăn chặn kịp thời các hành vi tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, bảo vệ quyền
lợi cho chủ nợ.
Bên cạnh đó, hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán còn là công cụ bảo đảm sự công bằng trong thanh toán giữa các chủ nợ. Khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, tất cả các chủ nợ đều có
quyền tham gia vào quá trình đòi nợ, quản lý tài sản của con nợ. Khi đó, con nợ không
được thanh toán trước bất kỳ khoản nợ nào cho một trong các chủ nợ. Toàn bộ tài sản
của con nợ sẽ được đưa vào quản lý để thanh toán cho toàn bộ chủ nợ theo một thứ
tự nhất định do pháp luật về phá sản quy định.
20
Thứ ba, đối với người lao động
Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, người lao động
sẽ bị nợ lương, tiền bảo hiểm và lâm vào tình cảnh thất nghiệp, vì vậy người lao động
được coi như một trong các chủ nợ và có vị thế ngang hàng cùng với các chủ nợ khác.
Thực hiện quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ giúp
cho tài sản còn lại của doanh nghiệp được bảo toàn đến khi tiến hành thanh toán nợ
cho các chủ nợ và người lao động có thể đòi được số tiền lương mà doanh nghiệp đã
nợ, giảm bớt gánh nặng do thất nghiệp mang lại, đồng thời quy định cho họ một số
quyền để làm công cụ bảo vệ tối đa lợi ích của mình như: quyền được tham gia vào
quá trình giải quyết vụ việc phá sản, quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương và các
khoản tiền hợp pháp khác mà họ được hưởng...
Thứ tư, đối với hoạt động xử lý tài sản
Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là tiền đề, là điều
kiện cho hoạt động xử lý tài sản. Do những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, cơ
chế thực hiện, việc quản lý tài sản sẽ góp phần bảo toàn tài sản, giúp cho việc xử lý
tài sản có hiệu quả cao, giúp bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
có liên quan.
Thứ năm, đối với nền kinh tế và sự ổn định của xã hội
Việc phá sản doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô lớn,
xuyên quốc gia..., luôn mang lại những hậu quả tiêu cực cho các doanh nghiệp liên
quan, người lao động và xã hội, dẫn đến sự rối loạn trong quá trình kinh doanh và
giải quyết nợ,…Do đó, các quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán đã đặt các chủ nợ vào một khuôn khổ pháp lý ngang hàng nhau, công
bằng và khách quan trong thu hồi nợ, giải quyết thỏa đáng mối quan hệ lợi ích giữa
chủ nợ và con nợ, hạn chế những mâu thuẫn, căng thẳng có thể có giữa những chủ
thể này với nhau, bảo đảm tác động của phá sản doanh nghiệp ở mức thấp nhất đối
với nền kinh tế và xã hội, từ đó góp phần lành mạnh hóa môi trường kinh doanh cho
các doanh nghiệp.
21
1.2. Pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán
Pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là một
chế định đặc thù trong hệ thống pháp luật về phá sản. Pháp luật về quản lý tài sản bao
gồm cả các quy phạm pháp luật về nội dung và quy phạm pháp luật về hình thức, điều
chỉnh 2 nhóm quan hệ chính, đó là: nhóm quan hệ pháp luật nội dung (điều chỉnh
quan hệ giữa chủ nợ và con nợ) và nhóm quan hệ pháp luật hình thức (quan hệ giữa
các chủ nợ, con nợ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền).
Pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán cũng thể
hiện sự tương thích với tình hình phát triển với pháp luật của các nước trên thế giới
cũng như sự phù hợp với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam qua một số nội dung cơ
bản về: doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán, chủ thể quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán,
phương thức quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Hệ thống các quy phạm pháp luật phá sản Việt Nam trong đó có chứa đựng các
quy phạm pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán bao
gồm: LPS, các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định, Thông tư, Quyết định, Nghị
quyết) và cả những văn bản pháp luật có liên quan (Bộ luật Dân sự, Luật Thương
mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Thi hành án dân sự,...). Trong đó, LPS đóng vai trò
trung tâm, nó quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về hoạt động quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Do vậy, có thể hiểu, pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán
a) Các quy định về tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Trên thế giới, thông thường, các nước áp dụng một số nguyên tắc chung để xác
định khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán (như đã phân tích tại
22
mục 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán)
là: Xác định khối tài sản căn cứ vào thời điểm cụ thể trong quá trình giải quyết phá
sản; Xác định khối tài sản theo phạm vi không gian mà những tài sản của doanh
nghiệp đang tồn tại - hay còn gọi là nguyên tắc hiệu lực theo lãnh thổ; Xác định khối
tài sản căn cứ vào loại hình tài sản hoặc nguồn hình thành tài sản.
Tại Việt Nam, pháp luật phá sản qua các thời kỳ đều xác định phạm vi các tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán bằng cách liệt kê các loại tài sản. Cũng
như không có quy định về tài sản thuộc diện loại trừ khỏi khối tài sản phá sản. Ngoài
ra, các loại tài sản còn được chia thành tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nói chung và tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh. Lý do có sự
phân loại này là vì doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh là loại hình doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản. Do đó, khi xác định tài sản của hai
loại hình doanh nghiệp trên thì ngoài các loại tài sản được xác định như các loại hình
doanh nghiệp khác thì còn bao gồm cả tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, công ty
hợp danh không dùng trực tiếp vào hoạt động kinh doanh và tài sản sở hữu chung chủ
doanh nghiệp tư nhân và thành viên của công ty hợp danh.
b) Các quy định về chủ thể quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán
Qua nghiên cứu tổng quan, hầu hết pháp luật các nước đều xác định chủ thể
quản lý, thanh lý tài sản có vị trí quan trọng trong quá trình giải quyết phá sản. Điều
này phù hợp với mục đích và tính chất của việc giải quyết phá sản là nhằm thu hồi
được nhiều nhất tài sản từ con nợ cho chủ nợ, điều hòa lợi ích giữa các bên.
Pháp luật của các nước có những quy định khác nhau về chủ thể quản lý tài sản
phá sản nhưng khái quát lại có thể thấy có 2 mô hình chủ thể phổ biến là mô hình chủ
thể quản lý tài sản là những cá nhân (Tín thác viên theo luật phá sản Hoa Kỳ, Quản
tài viên theo luật phá sản của Thụy Điển và Latvia, quản trị viên theo luật phá sản
Nhật Bản và LPS Cộng hòa liên bang Nga…và trong pháp luật phá sản Việt Nam
trước năm 1975 như: Kiểm sát viên trong Luật Thương mại Trung phần 1942, Quản
tài viên trong Luật Thương mại Sài Gòn 1972), bên cạnh đó là mô hình với một thiết
chế tập thể với nhiều thành phần khác nhau do Toà án thành lập, được áp dụng chủ
23
yếu ở các nước có nền kinh tế đang phát triển (và trong pháp luật phá sản Việt Nam
trước 2014 và LPS Trung Quốc). Đồng thời với mỗi mô hình, pháp luật các nước
cũng trao cho chủ thể này những nhiệm vụ quyền hạn rộng hẹp khác nhau tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù của mỗi nước [10] .
Tại Việt Nam, việc quản lý tài sản không phải thuộc về duy nhất Quản tài viên
và DNQLTLTS mà bên cạnh đó còn có các chủ thể khác như Tòa án; Người tham gia
thủ tục phá sản (chủ nợ; bản thân doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là hai chủ
thể đặc trưng) cũng có nhiệm vụ rất lớn trong quản lý tài sản. Cụ thể:
- Tòa án
Giống như Luật Phá sản của hầu hết các nước, Luật Phá sản của Việt Nam quy
định Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết vụ việc phá sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán. Tòa án là trung tâm, nhân danh Nhà nước đưa ra các
quyết định có tính chất pháp lý nhằm phục vụ việc quản lý tài sản của con nợ, mặt
khác, giúp chủ nợ, con nợ và các chủ thể liên quan đạt được thỏa thuận trong phục
hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc phân chia tài
sản của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp nói chung và việc quản lý,
tài sản nói riêng được pháp luật quy định là một quá trình lâu dài và phức tạp. Các
hành vi tố tụng này chủ yếu được thực hiện bởi Thẩm phán. Ở Việt Nam, Thẩm phán
giữ vai trò quyết định và là trung tâm xuyên suốt các giai đoạn của tố tụng phá sản.
Điều này được giải thích bởi Tòa án là cơ quan quyền lực có vai trò là trọng tài, điều
hòa lợi ích của các bên trong quá trình giải quyết việc phá sản. Thẩm quyền của Tòa án
trong quản lý, thanh lý tài sản được thực hiện gián tiếp thông qua Quản tài viên hoặc
DNQLTLTS. Quản tài viên do Thẩm phán chỉ định và thay mặt cho Thẩm phán thực
hiện chức năng giám sát, quản lý toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp từ thời điểm mở thủ tục phá sản cho đến khi tuyên bố phá sản.
- Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Với vai trò là chủ sở hữu tài sản, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nắm
nhiều quyền và nghĩa vụ nhất trong số các chủ thể quản lý tài sản. Trong đó, doanh
24
nghiệp được pháp luật bảo vệ khi bắt đầu quy trình phá sản, có quyền về tài sản, kinh
doanh và các quyền liên quan đến quan hệ phá sản nhằm mục đích tự bảo vệ mình
trước các chủ nợ có thái độ tiêu cực.
Ví dụ: Theo quy định của LPS năm 2004, doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán có quyền cử đại diện tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản -đây là một phương
thức thực hiện quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. LPS
năm 2014 đã giao cho Quản tài viên, DNQLTLTS chức năng quản lý tài sản, nhưng
doanh nghiệp vẫn có các quyền về quản lý tài sản tương tự như quyền, nghĩa vụ của
người tham gia thủ tục phá sản khác. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng mang những
nghĩa vụ nhất định đối với chủ nợ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Quản tài viên,
DNQLTLTS như: doanh nghiệp có nghĩa vụ tuân thủ các biện pháp quản lý tài sản
từ các chủ thể có chức năng quản lý tài sản, cũng như không được thực hiện một số
hoạt động (cất giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản; Thanh toán khoản nợ không có bảo
đảm…). Đồng thời, chủ thể này cũng được hưởng những lợi ích khi bảo toàn được
khối tài sản, nhất là trong trường hợp phục hồi hoạt động thì vẫn còn một số vốn nhất
định để tiếp tục thực hiện kinh doanh theo mục tiêu của mình mà không bị các chủ
nợ đến bắt nợ.
- Chủ nợ
Khi bàn về hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
thì không thể không nhắc đến sự tham gia của chủ nợ và việc quản lý, bảo toàn khối tài
sản của con nợ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ. Vì vậy,
trong quá trình giải quyết vu việc phá sản, pháp luật Việt Nam đã đưa ra các cơ chế có
khả năng bảo vệ tối đa các lợi ích của chủ nợ như: thông qua Hội nghị chủ nợ tiến hành
công khai các vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán cho các chủ nợ được biết; đồng thời, các chủ nợ cũng được quyền đưa
ra các yêu cầu liên quan đến hoạt động quản lý tài sản của con nợ (kiểm tra, giám sát các
hoạt động của con nợ, tham gia giải quyết các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi
của mình,...) để có thể bảo vệ tối đa quyền lợi của mình.
- Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
Trên thế giới, đối với các nước theo mô hình chủ thể quản lý tài sản là những
25
cá nhân thì các Tín thác viên/Quản tài viên hay Quản trị viên sẽ được bổ nhiệm từ
đội ngũ các luật sư, các nhà kinh tế, các chuyên gia tài chính, kiểm toán viên và
hành nghề một cách độc lập. Họ có nhiều quyền hạn trong việc thực hiện các biện
pháp quản lý, thu hồi và thanh toán khối tài sản phá sản. Ví dụ: Tại Hoa Kỳ, tín thác
viên là người được ủy thác quản lý tài sản, là người đại diện hợp pháp thay mặt chủ
sở hữu thực hiện các quyền năng đối với tài sản được ủy thác và tham gia vào các
quan hệ pháp luật một cách độc lập và có thể trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn trong
các quan hệ pháp luật cụ thể. Tùy theo thủ tục tố tụng, tín thác viên có thể do các chủ
nợ bầu ra hoặc do Tòa án chỉ định theo quy định của pháp luật phá sản Hoa Kỳ. Tín
thác viên có trách nhiệm thu thập, phát mại và phân chia tiền thu được của con nợ cho
các chủ nợ .
Trong pháp luật phá sản của các nước thì thiết chế này thường được gọi là nhân
viên quản lý tài sản (trustee) hay người tiếp nhận tài sản của doanh nghiệp bị mất
khả năng thanh toán (receiver). Đa số các nước có nền kinh tế phát triển như Đức,
Úc, Pháp, Nhật Bản...đều yêu cầu phải có một nhân viên do tòa án chỉ định để
thực hiện chức năng quản lý tài sản của con nợ mất khả năng thanh toán và giao
cho nhân viên này thẩm quyền khá rộng rãi trong việc giải quyết phá sản [7].
Đối với mô hình quản lý tập thể, chủ thể chỉ có quyền hạn hạn chế trong các vấn đề
liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh và phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp, chịu sự giám sát của Thẩm phán trong quá trình hoạt động
Tại Việt Nam, chủ thể quản lý tài sản được xây dựng theo mô hình tập thể tại
LPS doanh nghiệp 1993 (Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản) và LPS 2004
(Tổ quản lý và thanh lý tài sản), bao gồm các thành viên đại diện cho chủ thể khác
nhau, có chức năng quản lý và xử tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản nhằm đảm bảo quyền lợi của chủ nợ, con nợ, người lao động và của Nhà nước
một cách công bằng và đúng luật. LPS năm 2014 đã bỏ chế định Tổ quản lý và thanh
lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trong LPS năm
2004 mà thay vào đó là quy định về hoạt động của Quản tài viên và DNQLTLTS.
Như vậy, LPS năm 2014 đã mở ra một nghề mới đó là nghề quản lý, thanh lý tài
sản phá sản của Quản tài viên và DNQLTLTS - thêm một nội dung hoạt động vốn
26
thuộc chức năng của Nhà nước đã được xã hội hóa.
Nhìn chung, Quản tài viên, DNQLTLTS đóng vai trò là chủ thể đặc biệt trong
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, là chủ thể thực hiện quyền
lực Nhà nước diễn ra trong suốt quá trình tố tụng phá sản, đóng vai trò trung gian
quản lý và giám sát tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán từ thời điểm
tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản cho đến khi tòa án tuyên bố một doanh nghiệp
phá sản.
Nhìn nhận tổng thể các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, có
thể thấy, Quản tài viên, DNQLTLTS có các mối liên hệ chặt chẽ với các chủ thể
khác như sau:
- Đối với Toà án mà trực tiếp là Thẩm phán: Quan hệ giữa Thẩm phán và
Quản tài viên, DNQLTLTS là quan hệ giữa người phụ trách và người thừa hành, thực
thi nhiệm vụ được giao; Thẩm phán là người chỉ định đồng thời giám sát, kiểm tra
hoạt động của Quản tài viên, DNQLTLTS ngược lại, Quản tài viên, DNQLTLTS phải
báo cáo toàn bộ hoạt động với Thẩm phán, trên cơ sở đó Thẩm phán đưa ra các quyết
định pháp lý nhằm quản lý lý tài sản của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của chủ
thể này là rất quan trọng, nó ảnh hưởng tới tiến độ và chất lượng giải quyết vụ việc
phá sản của Tòa án, Tòa án dựa vào báo cáo của Quản tài viên, DNQLTLTS để quyết
định các vấn đề pháp lý căn bản. Quản tài viên, DNQLTLTS chính là đại diện của
Tòa án và suy cho cùng là nhân danh Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý, xử lý tài
sản của con nợ nhằm thực hiện mục đích của việc phá sản.
- Đối với chủ nợ: Quản tài viên, DNQLTLTS là đại diện cho chủ nợ khi thực
hiện nhiệm vụ của mình, mục đích hoạt động của Quản tài viên nhằm thu hồi lại các
khoản nợ cho chủ nợ. Sau khi được Tòa án chỉ định, hoạt động quản lý, thanh lý tài
sản vốn là công việc của các chủ nợ được chuyển giao cho chủ thể này. Trong quá
trình đó, sự phối hợp giữa hai chủ thể này là rất quan trọng, Quản tài viên,
DNQLTLTS có quyền yêu cầu chủ nợ xuất trình các chứng cứ chứng minh các khoản
nợ; cung cấp thông tin về tình hình tài chính, khả năng tài sản của con nợ; ngoài ra
còn có quyền triệu tập chủ nợ tham dự Hội nghị chủ nợ để bàn bạc, thông qua phương
án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề quan trọng khác khi cần
27
thiết.
Ngược lại các chủ nợ nhân danh cá nhân hoặc thông qua Hội nghị chủ nợ có
quyền đề nghị Thẩm phán cử người quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp; quyền đề xuất với Tòa án tên Quản tài viên và DNQLTLTS trước
khi mở thủ tục phá sản; thảo luận và thông qua các nội dung mà Quản tài viên,
DNQLTLTS đưa ra, đồng thời giám sát hoạt động của chính chủ thể này; quyền kiến
nghị Tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản của con nợ…ngoài
ra, ở các nước mà chủ thể quản lý tài sản là các cá nhân hoạt động chuyên nghiệp thì
giữa chủ nợ và nhân viên quản lý tài sản còn bị ràng buộc bởi hợp đồng thuê khoán
dịch vụ, trong đó, chủ nợ là người thuê và phải xác định được mức phí chi trả; nhân
viên quản lý tài sản phải thực hiện những nghĩa vụ theo hợp đồng đã cam kết.
- Đối với con nợ: Quản tài viên, DNQLTLTS không chỉ đại diện cho chủ nợ
mà còn là đại diện cho con nợ. Điều đó xuất phát từ mục đích của phá sản không chỉ
bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ mà còn bảo đảm tính công bằng, nhân đạo, giúp cho con
nợ thoát khỏi tình trạng nợ nần với sự bảo đảm pháp lý, qua đó, bảo đảm sự ổn định
của nền kinh tế. Quản tài viên, DNQLTLTS thay mặt cho con nợ để thực hiện việc
thanh toán với các chủ nợ theo quy định của pháp luật, tránh được tình trạng xiết nợ
hoặc phân chia nợ không công bằng và bất hợp pháp. Trong trường hợp tài sản còn
lại của họ không đủ để thanh toán hết các khoản nợ mà còn giúp họ thực hiện việc
phục hồi lại hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Quản tài viên, DNQLTLTS có quyền lập bảng kê toàn bộ tài sản của con nợ;
giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của con nợ và nếu phát hiện con nợ có vi phạm
thì có quyền xử lý hoặc đề nghị Thẩm phán xử lý theo thẩm quyền; quyền đề nghị
Thẩm phán áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài sản khi con nợ
có dấu hiệu tẩu tán, cất giấu hoặc làm thất thoát tài sản. Ngược lại, các con nợ với
mục đích thanh toán nợ trên cơ sở số tài sản hiện có, có quyền và trách nhiệm cung
cấp các thông tin về tài sản; sự trung thực và tích cực của họ là nhân tố quan trọng
làm nên hiệu quả của vụ việc phá sản; đồng thời họ cũng có quyền kiến nghị khi
thấy Quản tài viên, DNQLTLTS không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình, thậm chí,
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi gây thiệt hại đến tài sản của họ.
28
Bên cạnh những mối liên hệ cơ bản trên, Quản tài viên, DNQLTLTS có mối
quan hệ chặt chẽ với các chủ thể khác trong quá trình giải quyết phá sản như với
người lao động tại doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, với Công đoàn và các tổ
chức đoàn thể của doanh nghiệp khi bảo vệ lợi ích của người lao động, với các cơ
quan Nhà nước khi thực hiện việc truy thu thuế, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền
đưa ra các quyết định hành chính liên quan đến doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế,
cá nhân có liên quan trong việc xác minh, xử lý giao dịch liên quan đến tài sản của
doanh nghiệp …khi thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản.
c) Các quy định về phương thức quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán
Phương thức quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán bao gồm
các biện pháp thu hồi tài sản và các biện pháp nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán, cụ thể:
- Kiểm kê tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Đây là công việc đầu tiên được thực hiện ngay sau khi xác định được phạm vi
khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Mục đích để xác định được
chính xác khối lượng tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, từ đó có căn
cứ để áp dụng các biện pháp thu hồi hoặc bảo toàn tài sản phù hợp với thực trạng tài
sản của doanh nghiệp. Theo quy định, chủ thể có nghĩa vụ lập bảng kê tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là Quản tài viên, DNQLTLTS (điểm b Khoản
1 Điều 16 LPS năm 2014).
- Thu hồi tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Đây là hoạt động quản lý tài sản quan trọng được áp dụng trong trường hợp tài sản
của doanh nghiệp bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp nhằm tẩu tán tài sản. Tại Điều 59
LPS năm 2014 quy định về các giao dịch bị coi là vô hiệu sẽ bị thu hồi tài sản và việc thu
hồi được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
- Các biện pháp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Mục đích chính của hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán là phải bảo toàn được số tài sản còn lại của doanh nghiệp, không để cho
nó bị thất thoát. Nhưng không có nghĩa là sẽ “đóng băng” tài sản của doanh nghiệp,
29
cản trở việc tiếp tục kinh doanh của doanh nghiệp mà cần thúc đẩy doanh nghiệp tiếp
tục hoạt động kinh doanh nếu có thể, bởi nếu tài sản của doanh nghiệp tăng lên qua
các hoạt động kinh doanh thì lợi ích của các chủ thể liên quan, cụ thể là các chủ nợ cũng
tăng theo. Do đó, các biện pháp bảo toàn có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng và được
quy định tại một chương riêng (chương V) trong LPS năm 2014, bao gồm các vấn đề về:
giải quyết các giao dịch bị coi là vô hiệu; tạm đình chỉ, đình chỉ thực hiện hợp đồng đang
có hiệu lực; bù trừ nghĩa vụ; lập danh sách chủ nợ, người mắc nợ; kiểm kê tài; đăng ký
giao dịch bảo đảm; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,...
Tiểu kết chương 1
Từ việc nghiên cứu về những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, có thể thấy:
Đặc trưng cơ bản để xác định doanh nghiệp phá sản trước tiên là dấu hiệu mất
khả năng thanh toán khoản nợ đến hạn và sau đó là các thủ tục pháp lý dẫn đến Toà
án nhân dân ra quyết định thụ lý vụ việc yêu cầu tuyên bố phá sản và tiến hành các
thủ tục phá sản. Trong đó, quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
là một trong các thủ tục quan trọng và cần thiết trong quá trình giải quyết phá sản
doanh nghiệp, nhờ có hoạt động quản lý tài sản, các tác động, rủi ro từ phá sản doanh
nghiệp đến nền kinh tế xã hội cũng như đối với chính doanh nghiệp và các chủ thể
liên quan được hạn chế ở mức thấp nhất.
Những kết quả nghiên cứu lý luận về pháp luật quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán sẽ là cơ sở cho việc đánh giá những quy định của pháp luật
30
về vấn đề này và thực tiễn áp dụng và thi hành pháp luật tại Việt Nam ở Chương 2.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH
NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO LUẬT PHÁ SẢN
2.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển pháp luật Việt Nam về
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Xem xét quá trình hình thành và phát triển các quy định pháp luật về quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nói riêng và pháp luật Phá sản ở Việt
Nam nói chung, có thể thấy, pháp luật đã có những thay đổi theo hướng ngày càng
hoàn thiện hơn, cụ thể như sau:
- Trong pháp luật phá sản Việt Nam giai đoạn trước năm 1975: có hai đạo luật điều
chỉnh về hiện tượng phá sản, đồng thời ghi nhận mô hình chủ thể quản lý tài sản phá sản
là cá nhân (Kiểm sát viên trong Luật Thương mại Trung phần 1942, Quản tài viên trong
Luật Thương mại 1972). Hai luật này được áp dụng chủ yếu ở miền Nam Việt Nam, ở
miền Bắc không có pháp luật về phá sản do nền kinh tế lúc này là nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung nên không tồn tại hiện tượng phá sản [9, tr.10].
- Sau khi giải phóng miền Nam, đặc biệt từ năm 1986 công cuộc đổi mới được
khởi xướng với đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đây là
tiền đề cho sự thiết lập các quy định pháp luật về phá sản. Pháp luật về phá sản đã
được hình thành trở lại với những quy định đầu tiên về phá sản doanh nghiệp trong
Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990). Tuy nhiên, đây đều là những quy
định mới, sơ khai nên chưa dự liệu được hết các yếu tố, chưa quy định được chi tiết,
cụ thể, chưa đi vào áp dụng trong thực tế đối với các công ty, doanh nghiệp.
Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã đánh dấu sự ra đời của hệ thống pháp
luật phá sản với các quy định khá chi tiết và đầy đủ, đáp ứng cơ bản nhu cầu của các
doanh nghiệp trong thời kỳ đó. LPS doanh nghiệp năm 1993 cũng đặt nền móng cho
những quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, ghi
nhận mô hình chủ thể quản lý tài sản phá sản do một thiết chế tập thể đảm nhận thay
thế cho mô hình chủ thể quản lý tài sản phá sản là cá nhân như trước kia. Cụ thể là
31
các quy định về Tổ quản lý tài sản và quy chế làm việc của Tổ quản lý tài sản, theo
đó, Tổ quản lý tài sản do một cán bộ Tòa Kinh tế làm tổ trưởng, Thẩm phán giám sát
và kiểm tra hoạt động của các nhân viên Tổ quản lý tài sản (Ban hành kèm quyết định
số 528 QĐ/BT ngày 13 tháng 6 năm 1995 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Tuy nhiên, do
được xây dựng trong điều kiện mới chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới nên Luật
Phá sản doanh nghiệp trong buổi đầu xây dựng cũng đã dần bộc lộ những hạn chế,
bất cập, do đó cần phải được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn.
LPS năm 2004 với nhiều điểm tiến bộ, đã thay thế Luật Phá sản doanh nghiệp
năm 1993 như một bước phát triển mới của pháp luật phá sản Việt Nam. LPS năm
2004 đã đơn giản hoá khái niệm tình trạng phá sản nhằm tạo thuận lợi cho việc mở
thủ tục phá sản. Đồng thời, xuất phát từ hoạt động không có hiệu quả của Tổ quản lý
tài sản và tổ thanh lý tài sản theo LPS doanh nghiệp năm 1993, LPS năm 2004 đã gộp
Tổ quản lý tài sản và tổ thanh lý tài sản thành Tổ quản lý, thanh lý tài sản và giao cho
một Chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm tổ trưởng. LPS năm 2004
cũng đã tăng cường các biện pháp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản nhằm tạo khả năng phục hồi cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản, thể hiện sự nhân đạo của Nhà nước đối với doanh nghiệp (con nợ). Ví dụ: Quy
định các biện pháp nhằm ngăn chặn con nợ làm thất thoát tài sản sau khi có quyết
định mở thủ tục phá sản của Toà án (Điều 31); Quy định về các giao dịch mà doanh
nghiệp cố tình thực hiện có thể bị Toà án tuyên bố vô hiệu và tài sản của doanh nghiệp
trong các giao dịch này sẽ bị thu hồi; Quy định trách nhiệm của Tổ trưởng Tổ quản
lý, thanh lý tài sản trong việc thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm đối với các giao
dịch của doanh nghiệp (Điều 54); Quy định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp…
Cùng với sự ra đời của LPS năm 2004, các văn bản hướng dẫn cũng được ban
hành khá đa dạng như: Nghị định số 67/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/7/2006
hướng dẫn việc áp dụng LPS đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của
tổ quản lý, thanh lý tài sản; Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao ngày 28/4/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của LPS;
Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC của Chánh án TAND tối cao ngày 27/4/2005
32
hướng dẫn về Quy chế làm việc của Tổ thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá
sản;... Như vậy, đến thời điểm này, hệ thống pháp luật về phá sản ở Việt Nam đã có
sự hoàn thiện về cả nội dung các quy định của luật cho đến gia tăng về số lượng các
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, thi hành.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng LPS năm 2004 còn tồn tại một số khó khăn, vướng
mắc, còn mâu thuẫn, chưa tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật khác, còn
có những cách hiểu khác nhau nhưng chưa được hướng dẫn kịp thời. Ví dụ: Dù là
Thẩm phán hay Tòa Kinh tế hay Chấp hành viên của Cơ quan thi hành án dân sự đều
gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc trong hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp
vì họ là những luật gia, làm việc chuyên môn, ít am hiểu về các hoạt động kinh doanh
thương mại nên không thể đảm đương tốt nhiệm vụ, hiệu quả kiểm tra giám sát hoạt
động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản không đạt kết quả cao.
Vì vậy, LPS năm 2014 được đánh giá là có những sửa đổi, bổ sung khá căn bản
và toàn diện các quy định liên quan đến vấn đề quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán, cụ thể: quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán, chế định Quản tài viên, đặc biệt, các nhà lập pháp đã có sự nghiên cứu,
học hỏi, tiếp thu từ pháp luật phá sản nước ngoài (như pháp luật phá sản Liên bang
Nga, Anh, Pháp, Nhật bản,...), giao nhiệm vụ quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán cho Quản tài viên và DNQLTLTS. Đây cũng là một trong những
điểm mới quan trọng của LPS năm 2014.
Ngoài ra, còn có Nghị định 22/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn Luật Phá
sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản; Nghị định 82/2020/NĐ-
CP của Chính phủ ngày 15/7/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã,…cùng những văn bản pháp luật chuyên ngành khác
như: Luật Đất đai năm 2013, Luật Thi hành án dân sự năm 2014, Luật Doanh nghiệp
năm 2014 (sửa đổi năm 2020),... Những quy định này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc
và tạo điều kiện cho hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán được hiệu quả hơn.
2.2. Các quy định pháp luật hiện hành về quản lý tài sản của doanh nghiệp
33
mất khả năng thanh toán
2.2.1. Quy định về tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Trong quá trình quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, việc
xác định chính xác và đầy đủ phạm vi khối tài sản của doanh nghiệp có ý nghĩa hết
sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các chủ nợ và của chính doanh
nghiệp đó. Điều 64 LPS năm 2014 đã liệt kê khá chi tiết các loại tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán.
Có thể thấy, việc quy định tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán có được sau ngày mở thủ tục phá sản là tài sản phá sản là rất cần
thiết, bởi, theo quy định của pháp luật phá sản, sau khi có yêu cầu mở thủ tục phá sản,
hoạt động kinh doanh thương mại của doanh nghiệp vẫn được tiến hành một cách
bình thường. Vì thế, khả năng doanh nghiệp có thêm quyền tài sản và tài sản sau ngày
mở thủ tục phá sản là hoàn toàn có thể xảy ra. Cùng với đó, LPS năm 2014 đã dự liệu
và bổ sung thêm một số tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán so với LPS
năm 2004 như: tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp có được sau ngày mở thủ
tục phá sản; tài sản và quyền tài sản thu hồi được từ các giao dịch vô hiệu; tài sản thu
hồi từ hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của doanh nghiệp.
Đồng thời, quy định rõ ràng vấn đề chịu trách nhiệm vô hạn đối với doanh
nghiệp tư nhân và công ty hợp danh (gồm toàn bộ tài sản được dùng trong kinh doanh
và cả những tài sản không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh). Trong khi, nếu
xét ở khía cạnh nhân đạo và thông lệ chung của quốc tế (như pháp luật phá sản của
Hoa Kỳ, Nhật Bản...) thì đối với trường hợp con nợ là chủ doanh nghiệp tư nhân,
thành viên hợp danh của công ty hợp danh, pháp luật cũng phải xác định tài sản miễn
trừ (đồ dùng sinh hoạt thiết yếu, các khoản trợ cấp, tiền bồi thường do bị tổn hại sức
khỏe, tiền bảo hiểm…) khi giải quyết phá sản đối với họ. Chính vì thế, theo như quy
định tại LPS năm 2014, khi doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh bị lâm vào
tình trạng mất khả năng thanh toán thì chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên công
ty hợp danh thường rơi vào tình trạng túng quẫn vì tất cả tài sản của họ đều bị đem ra
34
để thanh toán nợ.
Với phương pháp liệt kê các loại tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán tại LPS năm 2014 đã góp phần giúp cơ quan tố tụng cũng như các bên liên quan
có thể định hình, đánh giá và kiểm kê dễ dàng, đầy đủ hơn khối tài sản của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, tư duy pháp lý về tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán trong LPS năm 2014 chưa có điểm gì mới so với LPS năm
2004 [24].
2.2.2. Quy định về chủ thể quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán
a) Tòa án
Theo LPS năm 2014, Tòa án là một trong các chủ thể có thẩm quyền tham gia
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Về bản chất, Tòa án không
phải là chủ thể có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán mà là chủ thể nhân danh Nhà nước thực hiện quyền kiểm soát trong
quá trình quản lý tài sản của doanh nghiệp, trong đó Thẩm phán phụ trách có vai trò
quyết định trong việc giải quyết các vấn đề pháp lý cơ bản.
Cụ thể, Thẩm phán có quyền “3. Quyết định chỉ định hoặc thay đổi Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. 4. Giám sát hoạt động của Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản”. (Điều 9 LPS năm 2014). Như vậy, tuy
là một chủ thể đóng vai trò quan trọng và xuyên suốt trong quá trình quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, song Tòa án lại không trực tiếp thực hiện
quyền quản lý tài sản mà thông qua việc chỉ định, thay đổi Quản tài viên,
DNQLTLTS...để các chủ thể này thực hiện quyền quản lý thay mình và Thẩm phán
chỉ đứng ngoài giám sát các hoạt động của Quản tài viên và DNQLTLTS.
Thẩm phán cũng có quyền “Quyết định việc thực hiện kiểm toán doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong trường hợp cần thiết” (Khoản 5 Điều 9)
để xác minh về tính minh bạch, trung thực của các thông tin tài chính mà doanh
nghiệp đưa ra, giúp cho Quản tài viên, DNQLTLTS thực hiện việc quản lý tài sản
được thuận lợi, dễ dàng hơn.
Ngoài ra, nếu trong trường hợp doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có ý định
35
tẩu tán tài sản hay tài sản có nguy cơ hư hao, thất thoát,..., thì theo đề nghị của chủ
thể có liên quan, Thẩm phán sẽ “Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
theo quy định của pháp luật” (Khoản 7 Điều 9 LPS năm 2014) để có thể bảo toàn tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, trên thực tế, để kịp thời xử lý các
trường hợp này đòi hỏi Thẩm phán cần phải luôn giám sát chặt chẽ tình hình quản lý
tài sản của các chủ thể.
Bên cạnh đó, Thẩm phán còn có thẩm quyền xem xét và chấp nhận những đề
xuất của Quản tài viên và DNQLTLTS như: đề xuất về việc bán tài sản của doanh
nghiệp; đề nghị tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ; áp dụng các biện pháp xử phạt
hành chính;...
Có thể thấy, vị trí và vai trò của Tòa án trong vấn đề quản lý tài sản tại LPS năm
2014 đã thu hẹp lại nhiều so với LPS doanh nghiệp năm 1993 và LPS năm 2004.
Theo các quy định trước đây, vai trò của Toà án được quy định rộng hơn, khiến cho
công việc của Thẩm phán phụ trách bị quá tải, cụ thể, Tòa án ngoài các chức năng
giám sát, quyết định những vấn đề trọng yếu còn phải tự mình thành lập ra Tổ quản
lý tài sản, Tổ thanh toán tài sản (là Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo LPS năm 2014),
trong đó có sự tham gia của đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các
cơ quan chuyên môn tham gia để làm nhiều công việc liên quan đến quá trình giải
quyết việc phá sản (Điều 9 LPS năm 2004). Dù phạm vi thẩm quyền đã hẹp hơn so
với trước, nhưng Tòa án vẫn là chủ thể giữ vai trò trung tâm và quyết định xuyên suốt
trong quá trình quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
b) Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
LPS năm 2014 đã giao cho Quản tài viên, DNQLTLTS chức năng quản lý các
tài sản của doanh nghiệp nhưng bản thân doanh nghiệp vẫn có các quyền quản lý tài
sản với tư cách là chủ sở hữu của tài sản cùng một số quyền và nghĩa vụ phải thực
hiện, bao gồm:
- Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp vẫn tiếp tục hoạt động
kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của Thẩm phán và Quản tài viên,
36
DNQLTLTS (Khoản 1 Điều 47).
- Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản,
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm kê tài sản và
xác định giá trị tài sản đó (Khoản 1 Điều 65).
- Trường hợp đại diện hợp pháp của doanh nghiệp vắng mặt thì người được
Quản tài viên, DNQLTLTS chỉ định làm đại diện của doanh nghiệp thực hiện công
việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp (Khoản 2 Điều 65).
- Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp bị nghiêm cấm thực hiện những việc sau
đây: (i) cất giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản; (ii) thanh toán khoản nợ không có bảo đảm,
trừ khoản nợ không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho
người lao động trong doanh nghiệp; (iii) từ bỏ quyền đòi nợ; và (iv) chuyển khoản nợ
không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của
doanh nghiệp (Khoản 1 Điều 48).
Ngoài ra, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán còn có các quyền như quyền
của người tham gia thủ tục phá sản khác: Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu
giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến quyền và lợi
ích hợp pháp của mình để giao nộp cho Tòa án nhân dân; Đề nghị Thẩm phán, Quản
tài viên, DNQLTLTS xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ mà tự mình không thể
thực hiện được hoặc trưng cầu giám định, định giá, thẩm định giá tài sản; Đề nghị
Thẩm phán triệu tập người làm chứng; Đề nghị áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời;...(Điều 18 về quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản)
đồng thời có quyền được đưa ra ý kiến về việc chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc
toàn bộ yêu cầu của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và phải thông báo
công khai về quyết định mở thủ tục phá sản ngay sau khi nhận được quyết định mở
thủ tục phá sản (Điều 20).
c) Chủ nợ
Mặc dù không được trực tiếp quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán, nhưng theo quy định của LPS năm 2014 thì chủ nợ có thể gián tiếp quản
lý tài sản của con nợ thông qua các quyền sau:
37
- Đề xuất chỉ định Quản tài viên hoặc DNQLTLTS (Điều 26).
- Tham gia Hội nghị chủ nợ, nghe báo cáo về tình hình tài chính của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán và được đưa ra yêu cầu về vụ việc (Điều 81).
- Đề nghị Thẩm phán quyết định kiểm toán doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán; Đề nghị áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; Đề nghị thay
đổi Quản tài viên, DNQLTLTS; Tham gia vào việc quản lý, thanh lý tài sản theo yêu
cầu của Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự, Quản tài viên, DNQLTLTS;... (các
khoản 4, 10, 11, 12, 14 Điều 18).
Như vậy, so với quy định của LPS năm 2004 thì LPS năm 2014 đã thu hẹp
quyền của chủ nợ trong hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán, theo LPS năm 2004, trong hội nghị chủ nợ, sẽ có một chủ nợ được bầu ra
để tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Nhưng theo LPS năm 2014 quyền quản lý
tài sản được giao cho Quản tài viên, DNQLTLTS. Tuy nhiên, chủ nợ vẫn có thể tham
gia quản lý, thanh lý tài sản khi được yêu cầu (Khoản 14 Điều 18).
d) Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
Trong LPS năm 2014, chủ thể thực hiện quản lý tài sản trong thủ tục phá sản đã
có sự thay đổi cơ bản. Việc quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp không còn chỉ
quy định cho một chủ thể duy nhất, mà ở LPS năm 2014, việc tiến hành quản lý tài
sản đã được giao cho 2 chủ thể với tên gọi mới, có tư cách pháp lý độc lập, mang tính
chất của hoạt động nghề nghiệp, đó là: Quản tài viên và DNQLTLTS thay cho các
chủ thể mang tính chất vụ việc trước đây. Với hai chủ thể mới, một chủ thể là cá nhân
(Quản tài viên), một chủ thể là tổ chức (doanh nghiệp) đều thực hiện chung một chức
năng nhiệm vụ là hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán. Đồng thời trao cho các chủ thể này nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng,
xác định rõ trách nhiệm pháp lý trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
- Về Quản tài viên
Quản tài viên là thiết chế cá nhân, nhân danh cá nhân thực hiện hoạt động quản
lý, thanh lý tài sản, khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế phối
hợp, tính chất kiêm nhiệm của các thành viên trong Tổ quản lý tài sản, Tổ thanh toán
38
tài sản theo LPS doanh nghiệp năm 1993/Tổ quản lý và thanh lý tài sản trong LPS
năm 2004 là thiết chế tập thể bao gồm đại diện của các cơ quan chuyên môn thuộc
Nhà nước, đại diện người lao động, Ban chấp hành Công đoàn, đại diện chủ nợ...
Quản tài viên là thiết chế vừa đại diện chủ nợ, vừa đại diện cho con nợ, vừa đại
diện cho Nhà nước trong quá trình giải quyết phá sản. Sau khi được Tòa án ra quyết
định chỉ định, Quản tài viên có vị trí độc lập với cả hai bên chủ nợ và con nợ, vừa là
người đại diện cho lợi ích của chủ nợ và cả con nợ trên cơ sở quy định của pháp luật
(đại diện theo pháp luật).
Cụ thể, Quản tài viên theo LPS năm 2014 được hiểu “là cá nhân hành nghề
quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong
quá trình giải quyết phá sản” (Khoản 7 Điều 4).
Với tính chất công việc đặc thù, Quản tài viên được yêu cầu là những người am
hiểu về pháp luật, tài chính, kế toán, nhằm đáp ứng yêu cầu về tính chính xác, hiệu
quả và chuyên nghiệp trong việc thực hiện quản lý tài sản. LPS năm 2014 đã quy định
phạm vi các đối tượng có thể trở thành Quản tài viên khá rộng, cùng với đó là các
điều kiện để được hành nghề Quản tài viên.
Điều 14 LPS năm 2014 cũng quy định chi tiết những cá nhân sau không được
phép hành nghề quản lý, thanh lý tài sản.
Mặt khác, khi hành nghề Quản tài viên phải tuân thủ các quy định: Hiến pháp
và pháp luật; Tuân theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp Quản tài viên; Bảo đảm tính
độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, tính trung thực, minh bạch, khách quan; Chịu
trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động hành nghề. Để đảm bảo tính độc lập về
chuyên môn, nghiệp vụ cũng như tính trung thực, minh bạch của Quản tài viên trong
quá trình hành nghề thì pháp luật cũng quy định nhiều điều khoản xác định trách
nhiệm của Quản tài viên như: Tại cùng một thời điểm, người có chứng chỉ hành nghề
Quản tài viên chỉ được đăng ký hành nghề quản lý, thanh lý tài sản ở một DNQLTLTS
hoặc đăng ký hành nghề với tư cách cá nhân [2]; và Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp theo quy định của pháp luật đối với trường hợp Quản tài viên hành nghề với
tư cách cá nhân [3]. Bên cạnh đó, còn quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối Quản
tài viên trong quá trình hoạt động như: Cho thuê, cho mượn hoặc cho cá nhân, tổ chức
39
khác sử dụng chứng chỉ hành nghề Quản tài viên của mình để hành nghề quản lý,
thanh lý tài sản; Lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn để thông đồng với cá nhân, tổ chức
nhằm mục đích vụ lợi...
Tuy nhiên, không phải cá nhân nào được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên
và đáp ứng đủ các điều kiện được hành nghề Quản tài viên đều có thể tự ý tham gia
vào vụ việc giải quyết phá sản bất kỳ mà mình muốn. Quản tài viên phụ thuộc vào sự
chỉ định hoặc thay đổi bởi thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản trong thời hạn 03 ngày
kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản .
-Về doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
Là chủ thể tổ chức, DNQLTLTS có chức năng quản lý tài sản giống như Quản
tài viên. LPS năm 2014 đưa ra khái niệm DNQLTLTS là: “Doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá
trình giải quyết phá sản” (Khoản 8 Điều 4).
Về điều kiện hoạt động của doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản:
Một doanh nghiệp muốn hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trước hết phải được thành
lập hợp pháp theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 dưới hai hình thức là
loại hình doanh nghiệp tư nhân (có tối thiểu hai thành viên hợp danh là Quản tài viên,
Tổng giám đốc hoặc Giám đốc của công ty hợp danh là Quản tài viên) và công ty hợp
danh (có tối thiểu hai thành viên hợp danh là Quản tài viên, Tổng giám đốc hoặc
Giám đốc của công ty hợp danh là Quản tài viên). Đây là một trong số ít các đạo luật
ở nước ta nhìn nhận chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân và
thành viên hợp danh của công ty hợp danh, quy định này đã đặt yêu cầu cao đối với
doanh nghiệp hành nghề quản lý tài sản, từ đó nâng cao tinh thần, trách nhiệm làm
việc đồng thời là một trong những biện pháp ngăn ngừa rủi ro cho công chúng từ phía
chủ doanh nghiệp
- Về quyền và nghĩa vụ của cả Quản tài viên và của doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản đều được quy định chung, giống nhau tại cùng một điều luật (Điều
16 LPS năm 2014), cụ thể:
Một là, quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán như: xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng
40
cứ liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; lập bảng kê
tài sản, danh sách chủ nợ, con nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; ngăn
chặn hoạt động bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán, hoạt
động tẩu tán tài sản, thanh lý tài sản của doanh nghiệp;...
Hai là, đại diện cho doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã
không có người đại diện theo pháp luật.
Ba là, báo cáo về tình trạng tài sản, công nợ và hoạt động của doanh nghiệp,
hợp tác xã, tham gia xây dựng kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
Bốn là, đề nghị Thẩm phán tiến hành các công việc sau: Thu thập tài liệu, chứng
cứ; Tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp; Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời; áp dụng biện pháp xử phạt hành chính; chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm
quyền xử lý về hình sự theo quy định của pháp luật.
Năm là, được hưởng thù lao và thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nghề nghiệp
theo quy định của pháp luật. Chi phí Quản tài viên, DNQLTLTS nhận được khi tham
gia quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán bao gồm thù lao Quản
tài viên và chi phí khác [1].
Cuối cùng, báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo yêu cầu của
Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự; chịu trách nhiệm trước Thẩm phán, cơ quan thi
hành án dân sự và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Không chỉ dừng lại ở những quy định trên, Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày
16/2/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của LPS về Quản tài
viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản còn đưa ra các quy định chi tiết về: nguyên
tắc, nghĩa vụ, hình thức hành nghề của cá nhân, doanh nghiệp hành nghề quản lý tài
sản; hướng dẫn đăng ký hành nghề đối với cá nhân, thành lập chi nhánh, văn phòng
đại diện đối với doanh nghiệp;...
2.2.3. Quy định về các phương thức quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
41
khả năng thanh toán
a) Kiểm kê tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Sau khi xác định được phạm vi khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán thì việc tiếp theo cần làm ngay đó là kiểm kê và xác định khối tài sản đó.
LPS năm 2014 quy định chủ thể trực tiếp kiểm kê tài sản của doanh nghiệp là chính
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Khoản 1 Điều 65 LPS năm 2014 quy định:
“Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác
định giá trị tài sản đó. Việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải
được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Từ thực tiễn thi hành LPS năm 2004 cho thấy tình trạng đại diện doanh nghiệp
vắng mặt hoặc không hợp tác về việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản hoặc cố tình
làm sai lệch việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản, gây cản trở cho việc giải quyết vụ
việc phá sản, vì vậy, LPS năm 2014 đã rút ra được bài học kinh nghiệm và bổ sung
quy định Quản tài viên, DNQLTLTS sẽ tham gia kiểm kê, xác định giá trị tài sản
trong trường hợp đại diện doanh nghiệp vắng mặt (Khoản 2 Điều 65) và trường hợp
Tòa án thấy việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp là không chính
xác (Khoản 4 Điều 65). Tuy nhiên, LPS năm 2014 chưa có quy định chi tiết về vấn
đề xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán mà mới quy
định chung là “Giá trị tài sản được xác định, định giá theo giá thị trường tại thời
điểm kiểm kê" (Khoản 4 Điều 65) dẫn đến tình trạng doanh nghiệp cố ý xác định giá
trị tài sản sai nhằm trục lợi.
b) Thu hồi tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Thu hồi tài sản là một trong các bước quan trọng của quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, là tiền đề cho quá trình thực hiện quản lý tài sản
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Đối với các trường hợp thông thường, việc thu hồi tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán thuộc về Chấp hành viên và được diễn ra sau khi có quyết định
tuyên bố phá sản, cụ thể: Sau khi nhận được quyết định phân công của Thủ trưởng cơ
42
quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên có nhiệm vụ: "Thực hiện cưỡng chế để thu
hồi tài sản, giao tài sản cho người mua được tài sản trong vụ việc phá sản theo quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự" (điểm c Khoản 2 Điều 120).
Đối với trường hợp có vi phạm, Khoản 1 Điều 125 LPS năm 2014 quy định:
"Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Chấp hành viên đề nghị Tòa
án nhân dân ra quyết định thu hồi lại tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã do thực
hiện giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 59 của Luật này. Việc thu hồi
tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự".
Như vậy, theo quy định của LPS năm 2014 thì thẩm quyền thu hồi tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thuộc về cơ quan thi hành án dân sự, cụ thể là
Chấp hành viên. Tuy nhiên, LPS năm 2014 không chỉ giao quyền thu hồi cho Chấp
hành viên để đảm bảo tính cưỡng chế trong hoạt động thu hồi tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán, mà còn bổ sung quy định về ủy thác tư pháp, theo đó:
“Trong quá trình giải quyết phá sản, Tòa án nhân dân có thể ra quyết định ủy thác
để Tòa án nhân dân khác thu hồi tài sản" (Khoản 1 Điều 50). Quy định này giúp cho
Tòa án đang giải quyết vụ việc có thể chuyển giao bớt việc cho Tòa án khác nếu công
việc bị quá tải.
Đồng thời, LPS năm 2014 còn quy định về trường hợp giải quyết các tranh chấp
có liên quan đến tài sản bị thu hồi, đây là điểm khắc phục một trong những thiếu sót
của LPS năm 2004. Khoản 2 Điều 125 LPS năm 2014 quy định: “Trường hợp có
tranh chấp về thu hồi lại tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã thì được xử lý theo quy định tại Điều 115 của Luật này” (Điều 115 quy
định về xử lý trường hợp có tranh chấp tài sản trong quá trình thi hành quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản).
c) Các biện pháp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Chương V LPS năm 2014 đã quy định về các biện pháp bảo toàn tài sản nhằm
ngăn chặn doanh nghiệp mắc nợ làm thất thoát tài sản hay các hành vi cố tình tẩu tán
tài sản sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án. Bao gồm: Tuyên bố vô
hiệu các giao dịch mà doanh nghiệp thực hiện với mục đích tẩu tán, cất giấu tài sản
gây ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ; Tạm đình chỉ, đình chỉ thực hiện hợp đồng
43
đang có hiệu lực; Bù trừ nghĩa vụ; Đăng ký giao dịch bảo đảm của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán; Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tòa án có quyền quản lý
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thông qua ngân hàng doanh nghiệp
có tài khoản. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tuyên bố vô hiệu các giao dịch mà doanh nghiệp thực hiện với
mục đích tẩu tán, cất giấu tài sản gây ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ
Quy định về tuyên bố hành vi pháp lý vô hiệu trong pháp luật về phá sản được
xây dựng xuất phát từ mối lo ngại con nợ rơi vào tình trạng phá sản có thể tẩu tán, cất
giấu tài sản nhằm trốn tránh việc xiết nợ của các chủ nợ hoặc có những hành động ưu
tiên thanh toán cho một số chủ nợ nhất định.
Trước đây, LPS năm 2004 quy định: “1. Các giao dịch sau đây của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện trong khoảng thời gian
ba tháng trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu”
(Khoản 1 Điều 43) trên thực tế, khoảng thời gian 3 tháng là khá ngắn, tạo điều kiện
cho doanh nghiệp cơ hội tiến hành các giao dịch nhằm tẩu tán tài sản. Đồng thời, theo
nội dung quy định này thì không được áp dụng đối với các giao dịch được tiến hành
sau ngày Tòa án thụ lý đơn đến khi có quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án
(khoảng thời gian này là 30 ngày).
Nhận ra sự thiếu sót, bất cập này, LPS năm 2014 đã tăng khoảng thời gian này
lên 06 tháng. Ngoài ra, thời điểm tính thời gian này được xác định tới trước ngày Tòa
án mở thủ tục phá sản thay vì trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản như trước đây. Bởi, vào thời điểm giao dịch được giao kết, doanh nghiệp vẫn có
thể chưa thực sự mất khả năng thanh toán nhưng đã xuất hiện một số dấu hiệu về mặt
kinh tế chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng bị phá sản. Trong trường hợp đó, chủ
doanh nghiệp thường cố gắng giao kết các giao dịch nhằm mục đích tẩu tán tài sản
hoặc lợi dụng giao dịch để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Về quy định giao dịch vô hiệu
LPS năm 2014 đã liệt kê ra một số trường hợp giao dịch bị coi là vô hiệu nhằm
ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, cố ý làm thất thoát tài sản thông qua các giao dịch bất
44
hợp pháp tại Điều 59 như: Giao dịch liên quan đến chuyển nhượng tài sản không theo
giá thị trường; Chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo
đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; Tặng cho tài sản; Giao dịch
khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã...
Khi các giao dịch trên bị tuyên bố vô hiệu thì những tài sản thu hồi được phải
nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
+ Về quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu
Theo LPS năm 2014, chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô
hiệu là Quản tài viên, DNQLTLTS và người tham gia thủ tục phá sản (Khoản 1 Điều
60). Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch vô hiệu theo quy định tại Điều 60
LPS năm 2014 được thực hiện theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015
về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Tòa án đang giải quyết vụ việc phá
sản có quyền tuyên bố giao dịch vô hiệu mà không cần yêu cầu Tòa án nơi có giao
dịch vô hiệu giải quyết.
Thứ hai, tạm đình chỉ, đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực
Trong thực tế, khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán vẫn
có thể đang tồn tại những hợp đồng mà doanh nghiệp đã ký kết từ trước đang có hiệu
lực nhưng chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện. Hoạt động ký kết và thực
hiện hợp đồng có thể có lợi cho doanh nghiệp nhưng cũng có thể khiến cho khối tài
sản phá sản của doanh nghiệp bị tổn thất thêm. Vì vậy, những hợp đồng có khả năng
gây tổn thất cho doanh nghiệp cần bị đình chỉ hoặc tạm đình chỉ để bảo toàn tài sản
của doanh nghiệp.
+ Đối với việc tạm đình chỉ thực hiện hợp đồng
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 LPS năm 2014 thì: “Trong thời hạn 05 ngày
làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nếu xét
thấy việc thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa
được thực hiện sẽ có khả năng gây bất lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã thì chủ nợ,
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có quyền yêu cầu Tòa án nhân
dân ra quyết định tạm đình chỉ thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp xử lý các khoản
45
nợ có bảo đảm theo quy định tại Điều 53 của Luật này”.
Tức là, nếu “xét thấy việc thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang được
thực hiện hoặc chưa được thực hiện sẽ có khả năng gây bất lợi cho doanh nghiệp”
phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của chủ nợ hoặc doanh nghiệp có thể yêu cầu Tòa
án ra quyết định tạm đình chỉ thực hiện hợp đồng, và Tòa án sẽ có trách nhiệm xem
xét chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu.
Và trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, nếu
chấp nhận thì Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ thực hiện hợp đồng, nếu không chấp
nhận thì thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu biết (Khoản 3 Điều 61). Quy định
này bảo đảm sự can thiệp sớm và kịp thời của cơ quan Tòa án đối với những hợp
đồng bất lợi cho tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Ngoài ra, trong
trường hợp Tòa án không mở thủ tục phá sản thì Tòa án sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết
định tạm đình chỉ thực hiện hợp đồng (Khoản 5 Điều 61).
+ Đối với việc đình chỉ thực hiện hợp đồng
Khoản 4 Điều 61 LPS năm 2014 quy định: "Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể
từ ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản, Tòa án nhân dân phải
xem xét các hợp đồng bị tạm đình chỉ quy định tại khoản 1 Điều này để ra một trong
các quyết định sau: a) Tiếp tục thực hiện hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng đang
có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc nếu được thực hiện sẽ không gây bất lợi cho
doanh nghiệp, hợp tác xã; b) Đình chỉ thực hiện hợp đồng và giải quyết hậu quả theo
quy định tại Điều 62 của Luật này".
Như vậy, sau khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản, Tòa án sẽ xem xét
lại những hợp đồng bị tạm đình chỉ để quyết định tiếp tục thực hiện hợp đồng hay
đình chỉ thực hiện hợp đồng, những hợp đồng không gây bất lợi đến khối tài sản của
doanh nghiệp sẽ tiếp tục được thực hiện.
Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thực hiện hợp đồng được quy định tại Điều
62 LPS năm 2014.
Thứ ba, bù trừ nghĩa vụ
Quy định của LPS năm 2014 về bù trừ nghĩa vụ đã tiếp thu toàn bộ quy định
46
trong LPS năm 2004 và có một số điểm mới so với LPS năm 2004.
Một là, quy định việc bù trừ nghĩa vụ phải được sự đồng ý của Quản tài viên,
DNQLTLTS; sau đó Quản tài viên, DNQLTLTS sẽ báo cáo Thẩm phán về việc thực
hiện bù trừ nghĩa vụ. Quy định này nhằm kiểm soát việc bù trừ nghĩa vụ của doanh
nghiệp và bên giao kết hợp đồng với doanh nghiệp để ngăn chặn việc doanh nghiệp
lợi dụng bù trừ nghĩa vụ để ưu tiên trả nợ cho chủ nợ.
Hai là, phương pháp bù trừ nghĩa vụ theo LPS năm 2014 đã phân chia thành hai
trường hợp thay vì chỉ quy định chung chung như tại LPS năm 2004, cụ thể Khoản 2
Điều 48 LPS năm 2004 quy định: “Trường hợp giá trị tài sản hoặc công việc không
tương đương với nhau thì các bên thanh toán cho nhau phần giá trị chênh lệch”. Quy
định này rõ ràng không bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
trong trường hợp các bên có nghĩa vụ về tài sản không tương đương với nhau mà
phần chênh lệch giá trị tài sản lớn hơn thuộc về bên giao kết hợp đồng với doanh
nghiệp. Do đó, Khoản 3 Điều 63 LPS năm 2014 đã phân chia thành hai trường hợp
là: “b) Trường hợp các bên có nghĩa vụ về tài sản không tương đương với nhau mà
phần chênh lệch giá trị tài sản lớn hơn thuộc về doanh nghiệp, hợp tác xã thì bên
giao kết hợp đồng với doanh nghiệp, hợp tác xã phải thanh toán phần giá trị tài sản
chênh lệch để gộp vào khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; c) Trường hợp các
bên có nghĩa vụ về tài sản không tương đương với nhau mà phần chênh lệch giá trị tài
sản lớn hơn thuộc về bên giao kết hợp đồng với doanh nghiệp, hợp tác xã thì bên giao
kết hợp đồng với doanh nghiệp, hợp tác xã trở thành chủ nợ không có bảo đảm đối với
phần giá trị tài sản chênh lệch”.
Và những giao dịch này là giao dịch đã được xem xét tính hợp pháp trong mối
tương quan với quy định về giao dịch vô hiệu và tạm đình chỉ, đình chỉ hợp đồng.
Nếu các giao dịch này hợp pháp không thuộc một trong các trường hợp bị tuyên bố
vô hiệu hay bị đình chỉ thì mới được bù trừ nghĩa vụ theo quy định trên.
Thứ tư, đăng ký giao dịch bảo đảm của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán
Hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm là thủ tục hết sức quan trọng và rất cần
thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên trong giao dịch bảo đảm, đồng thời, qua đó
47
xác định được thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm trong trường
hợp nhiều nghĩa vụ được thực hiện trên một tài sản bảo đảm căn cứ vào thời điểm
đăng ký. Vì vậy, LPS năm 2014 quy định thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm là bắt
buộc đối với các khoản doanh nghiệp cho vay mà thuộc trường hợp phải đăng ký giao
dịch bảo đảm tại Điều 69 LPS năm 2014: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán cho người khác vay tài sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký
giao dịch bảo đảm nhưng chưa đăng ký thì doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện
ngay việc đăng ký; trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện thì Quản
tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải thực hiện việc đăng ký giao dịch
bảo đảm".
Thứ năm, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 5 LPS
năm 2014) có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản ra quyết
định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, các biện pháp được quy định cụ thể tại Khoản
1 Điều 70 LPS năm 2014. Các biện pháp được liệt kê đều mang tính chất xử lý những
trường hợp cần được giải quyết nhanh chóng, kịp thời. Những biện pháp khẩn cấp
tạm thời theo quy định của LPS năm 2014 có sự kế thừa từ LPS năm 2004 và bổ sung
thêm những biện pháp mới, tương đối đầy đủ và phù hợp với tình hình thực tiễn của
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đòi hỏi
Thẩm phán phải có sự đánh giá khách quan và nhanh chóng. Đồng thời cũng đặt ra
yêu cầu Thẩm phán phải có chuyên môn cao về pháp lý và tài chính để có thể đưa ra
nhận định chính xác nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên [12, tr.59].
Cuối cùng, Tòa án có quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán thông qua ngân hàng mà doanh nghiệp có tài khoản
Theo quy định tại Điều 73 LPS năm 2014 thì: “Kể từ ngày Tòa án nhân dân ra
quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, nghiêm cấm ngân hàng mà
doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản có tài khoản thực hiện việc thanh toán
các khoản nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, trừ trường hợp có
sự đồng ý bằng văn bản của Tòa án nhân dân hoặc cơ quan thi hành án dân sự”. Đây
48
là sự quản lý trực tiếp lên khối tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp, mục đích nhằm
ngăn chặn ngân hàng lợi dụng vị thế của mình thực hiện giao dịch có lợi cho chính
ngân hàng hoặc các chủ nợ khác. Trong trường hợp ngân hàng cho doanh nghiệp vay
khoản vay có bảo đảm thì ngân hàng cũng chỉ được quyền ưu tiên thanh toán đối với
tài sản bảo đảm đó theo quy định của pháp luật.
2.3. Một số nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán tại Việt Nam
2.3.1. Những kết quả đạt được
Qua thực tiễn thi hành các quy định về luật phá sản nói chung và quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nói riêng, trên thực tế thời gian qua đã đạt
được nhiều kết quả, điển hình như:
- Số liệu về tình hình giải quyết phá sản doanh nghiệp có nhiều biến chuyển,
tăng dần qua các năm
Theo thống kê của TAND tối cao, số liệu về tình hình giải quyết phá sản doanh
nghiệp có nhiều biến chuyển, tăng dần qua các năm, cụ thể:
Giai đoạn thực hiện LPS doanh nghiệp năm 1993: tại giai đoạn này, nước ta mới
chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới nên sự hiểu biết về nền kinh tế thị trường
cùng với kinh nghiệm thực tiễn về giải quyết phá sản không nhiều và cũng chưa có
điều kiện để tham khảo đầy đủ các quy định của luật pháp quốc tế về phá sản. Do
đó, cơ quan lập pháp chưa lường trước được những vấn đề cần quy định trong Luật
Phá sản, nhiều quy định đưa ra còn bất cập, không phù hợp với thực tế, gây cản
trở việc giải quyết phá sản. Tính đến năm 2003, sau gần 10 năm thi hành, Tòa án chỉ
thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong số đó 46 doanh nghiệp
Tòa tuyên bố bị phá sản [21].
Từ khi LPS năm 2004 có hiệu lực đến năm 2013, qua 9 năm thực hiện, Tòa án
các cấp thụ lý 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, ra 236 Quyết định
mở thủ tục phá sản, trong đó ra 83 Quyết định tuyên bố phá sản. Trong 83 Quyết định
tuyên bố phá sản có 07 trường hợp Tòa án ra Quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá
sản trong trường hợp đặc biệt (Điều 87 LPS năm 2004). Có 153 vụ việc chưa ra Quyết
định tuyên bố phá sản trong đó có 49 vụ việc có lý do chưa thu hồi được các khoản nợ
49
của DN, HTX, chưa bán được các tài sản của DN, HTX [20].
Đến LPS năm 2014, tính đến ngày 31/12/2018, toàn hệ thống Tòa án đã thụ lý
được 1.272 yêu cầu phá sản và tuyên bố phá sản đối với 268 doanh nghiệp.
Các con số trên phản ánh luật phá sản đã dần đi vào cuộc sống, đặc biệt LPS
năm 2014 đã khắc phục được những vướng mắc, bất cập của LPS năm 2004, cơ bản
đáp ứng mong muốn của các chủ thể liên quan trong quá trình giải quyết phá sản.
- Hiệu quả của công tác quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán được thể hiện trên thực tế
Việc thi hành các phương thức quản lý tài sản đã góp phần ngăn chặn doanh
nghiệp mắc nợ làm thất thoát tài sản hay các hành vi cố tình tẩu tán tài sản đồng thời
mở ra cơ hội cho doanh nghiệp được phục hồi kinh doanh, mang lại nhiều lợi ích cho
chủ nợ và những người có quyền lợi liên quan. Ví dụ như vụ việc Tòa án ra quyết
định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, xây dựng nhà chung
cư nhưng không bàn giao nhà đúng thời hạn, doanh nghiệp đã mất khả năng thanh
toán nhưng vẫn cố tình huy động vốn, gây thiệt hại cho hàng trăm người mua chung
cư. Cụ thể:
Vụ việc: Quyết định mở thủ tục phá sản đối với Công ty CP BĐS Xây lắp Dầu
khí Việt Nam (PVCLand), chủ đầu tư dự án PetroVietnam Landmark (quận 2 thành
phố Hồ Chí Minh (TP.HCM)). Đây là trường hợp đầu tiên khách hàng yêu cầu chủ
đầu tư một dự án phá sản trên thị trường địa ốc Việt Nam. Cụ thể: Bà Trần Thị Châu
Giang (ở số 18/7 Ngô Thời Nhiệm, quận 3, TP.HCM) và hơn 400 khách hàng mua
căn hộ từ năm 2010 nhưng dự án ngừng thi công nhiều năm qua, PVC Land không
bàn giao nhà theo cam kết hợp đồng nên bà Giang đã tiến hành khởi kiện đòi nợ.
TAND thành phố Hồ Chí Minh cho biết, xét thấy có các căn cứ chứng minh Công ty
PVC Land mất khả năng thanh toán vì vậy đầu tháng 11/2016, Tòa án đã gửi thông
báo cho bà Trần Thị Châu Giang và PVC Land về việc bà Giang yêu cầu tuyên bố
phá sản công ty được xem là hợp lệ. Ngày 24-2-2017, TAND TPHCM đã ra quyết
định mở thủ tục phá sản đối với công ty PVC Land. Mặc dù chưa có kết quả chính
thức về việc công ty PVC Land có bị tuyên bố phá sản hay không, nhưng đây là điểm
tích cực đối với các dự án bất động sản đã triển khai và đang gặp khó khăn, giải quyết
50
theo hướng mở thủ tục phá sản rõ ràng sẽ giúp dự án có cơ hội được tiếp tục triển
khai, thông qua kênh bán dự án/kết hợp với chủ đầu tư khác hay áp dụng các biện
pháp phục hồi kinh doanh, v.v… đây là giải pháp mang tính khả thi, các bên liên quan
có thể chấp nhận được hơn là để dự án “chết” thật, tài sản bị xuống cấp, hư hỏng,
lãng phí... Mặt khác, sau khi tòa án tuyên bố mở thủ tục phá sản, hoạt động của PVC
Land sẽ được giám sát, theo dõi bởi công ty quản lý, thanh lý tài sản. Bản thân doanh
nghiệp không còn có thể tự ý “muốn làm gì thì làm” nữa, nhất là những hành vi mang
tính né tránh trách nhiệm. Điều này sẽ mang lại sự an tâm cho các chủ nợ [14].
2.3.2. Những hạn chế, bất cập
Mặc dù số lượng vụ án được thụ lý và số lượng doanh nghiệp được giải quyết
phá sản có tăng qua các thời kỳ, tuy nhiên, so với số doanh nghiệp chấm dứt hoạt
động thì số vụ giải quyết thông qua thủ tục phá sản tại tòa án vẫn còn rất khiêm tốn.
Ví dụ: Báo cáo kết quả triển khai thi hành LPS năm 2014 của TAND tối cao (tổng
hợp hơn 23 báo cáo của các TAND cấp tỉnh) cho thấy: Năm 2017, số vụ việc yêu cầu
phá sản được các tòa án thụ lý, giải quyết tăng mạnh với 439 vụ việc, trong đó có 45
quyết định tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, trên thực tế, năm 2017, có tới 38.869 DN
tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể; số DN hoàn tất thủ tục giải
thể là 12.113. Năm 2018, có 27.126 DN đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn
và 63.525 DN tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể; số DN hoàn tất
thủ tục giải thể là 16.314.
Điều này cho thấy, so với số doanh nghiệp chấm dứt hoạt động thì số vụ giải
quyết thông qua thủ tục phá sản tại tòa án vẫn còn rất khiêm tốn. Thực trạng này một
phần xuất phát từ việc các quy định của LPS năm 2014 chưa rõ ràng, chưa đầy đủ,
trong đó riêng các quy định của pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán còn nhiều thiếu sót và bất hợp lý gây khó khăn cho việc áp dụng
và thi hành pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán;
trình tự, thủ tục quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán rườm rà,
phức tạp. Điều này gây ra lo ngại và né tránh việc thực hiện thủ tục phá sản. Cụ thể
như sau:
a) Về mặt pháp luật
51
-Về thông báo mất khả năng thanh toán
Khoản 1 Điều 6 LPS năm 2014 quy định “cá nhân, cơ quan, tổ chức khi phát
hiện doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có trách nhiệm thông báo
bằng văn bản cho những người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu thủ tục phá sản
quy định tại Điều 5 của Luật này”.
Quy định về mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức là chưa hoàn toàn phù hợp, bởi nếu
áp dụng với các tổ chức tín dụng là không hợp lý, vì theo quy định tại khoản 3 Điều
14 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, các tổ chức tín dụng không được cung cấp
thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hàng
tại tổ chức tín dụng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng. Như vậy, các
tổ chức tín dụng nếu biết được tình trạng mất khả năng thanh toán của khách hàng
cũng không thể thông báo cho những người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu thủ
tục phá sản.
-Về tiêu chí để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán:
LPS năm 2014 quy định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến
hạn thanh toán. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít những doanh nghiệp lại là chủ nợ
với số tiền lớn hơn số nợ phải thanh toán cho các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản,
các doanh nghiệp này hoàn toàn có thiện chí trả nợ cho các chủ nợ yêu cầu tuyên bố
phá sản nhưng vì lí do chưa thu hồi được tiền trong kinh doanh nên không có khả
năng trả nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản không đồng ý thương lượng gia
hạn, theo đó đề nghị Tòa án tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Điều
này vô hình chung làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín và hoạt động kinh doanh của là
doanh nghiệp, hợp tác xã, thậm chí lại là nguyên nhân chính dẫn đến làm ăn thua lỗ
sau đó và phải phá sản “thật”.
Đồng thời, việc quy định thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản, thẩm phán phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản là
khá ngắn. Bởi đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn hoạt động trên nhiều lĩnh
52
vực thì để xem xét toàn bộ hồ sơ, tài liệu, đặc biệt là báo cáo tài chính để kết luận
doanh nghiệp có mất khả năng thanh toán hay không thì cần có thời gian dài hơn để
xem xét toàn diện tình hình doanh nghiệp.
-Về chủ thể quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
+ Loại hình của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đang còn bị bó hẹp
Hiện nay, loại hình của DNQLTLTS đang còn bị bó hẹp và ít loại hình hơn các
ngành nghề có cùng tính chất khác. Cụ thể, theo quy định tại Điều 13 LPS năm 2014
thì DNQLTLTS chỉ được tổ chức dưới hai loại hình là công ty hợp danh và doanh
nghiệp tư nhân. Lý do là vì đây là ngành nghề đề cao vai trò và trách nhiệm của cá
nhân thực hiện việc quản lý, thanh lý tài sản. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật về
kinh doanh, có một số ngành nghề cũng có tính chất đề cao trách nhiệm của cá nhân
khi thực hiện như dịch vụ kế toán, kiểm toán, luật sư, và đối với các ngành nghề này
doanh nghiệp còn có thể được thành lập ở loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn,
trong đó ràng buộc điều kiện đối với các thành viên góp vốn.
+ Hạn chế trong việc tính thù lao, chi phí cho Quản tài viên
Theo Khoản 1 Điều 24 LPS 2014 và Nghị định 22/2015/NĐ-CP, việc tính thù
lao cho Quản tài viên như sau: Giờ làm việc của Quản tài viên, mức thù lao trọn gói,
mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm tổng giá trị tài sản doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản thu được sau khi thanh lý. Với cách tính thù lao theo giờ làm việc, pháp
luật chưa quy định rõ ràng về cách tính giờ làm việc của Quản tài viên cho hợp lý,
công bằng cho cả bên Quản tài viên và bên doanh nghiệp bị phá sản. Khối lượng công
việc mà các Quản tài viên làm là rất lớn, nhưng quy định thù lao lại chưa tương xứng.
Và trong trường hợp doanh nghiệp phá sản, tài sản doanh nghiệp không còn thì chi
phí Quản tài viên cũng không được bảo đảm, nhiều khi Quản tài viên phải tự bỏ tiền
túi ra, mà khả năng được bồi hoàn thấp.
+ Hạn chế trong việc chỉ định Quản tài viên
Chưa có quy định bắt buộc các Quản tài viên phải tham gia vụ phá sản khi
được chỉ định. Cụ thể, Khoản 1 Điều 45 LPS năm 2014 quy định:“1. Trong thời hạn
03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán có trách
53
nhiệm chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản”.
Như vậy, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục
phá sản, Thẩm phán phụ trách giải quyết vụ phá sản đó phải có trách nhiệm chỉ định
Quản tài viên. Thực tiễn áp dụng quy định này lại phát sinh vướng mắc cần được
hướng dẫn cụ thể. Ví dụ: Sau khi ra quyết định mở thủ tục phá sản thì Thẩm phán
giải quyết vụ phá sản đó đã ra văn bản chỉ định một Quản tài viên và văn bản này
được tống đạt ngay đến Quản tài viên được chỉ định đó. Tuy nhiên, đến ngày thứ ba
kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản thì Quản tài viên được chỉ định lại có
văn bản từ chối tham gia vụ phá sản đó vì cho rằng, vụ phá sản này quá phức tạp hoặc
do Quản tài viên không có điều kiện tham gia…Vấn đề này xảy ra trong thực tiễn làm
cho các Thẩm phán lúng túng trong xử lý tình huống, đồng thời, việc trì hoãn này sẽ
khiến cho một số trường hợp giải quyết phá sản trở lên rắc rối hơn vì doanh nghiệp
bị yêu cầu tuyên bố phá sản sẽ nhân cơ hội đó để tẩu tán tài sản…Tuy nhiên, LPS
năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành LPS S có liên quan không có quy định
nào bắt buộc các Quản tài viên phải tham gia vụ phá sản khi được chỉ định, nên họ
hoàn toàn có quyền từ chối trong trường hợp này. Tại Điều 46 LPS năm 2014 chỉ quy
định về việc thay đổi Quản tài viên. Đây là trường hợp sau khi đã tham gia vụ phá
sản mà Quản tài viên vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật PS năm 2014 hoặc có
căn cứ chứng minh Quản tài viên không khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ
hoặc trong trường hợp bất khả kháng mà Quản tài viên không thực hiện được nhiệm
vụ. Cũng như trường hợp Thẩm phán thấy rằng Quản tài viên, DNQLTLTS không
phù hợp với tiêu chí thì sẽ xử lý như thế nào, Thẩm phán tự chỉ định hay phải dựa
trên đề xuất của người nộp đơn yêu cầu cũng là vấn đề còn chưa được pháp luật phá
sản quy định cụ thể, rõ ràng.
+ Hạn chế về vai trò của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản trong quá trình tái tổ chức hoạt động của doanh nghiệp
Theo đó, Quản tài viên, DNQLTLTS chưa được trao một quyền hạn quan
trọng đó là tiếp tục vận hành và quản lý hoạt động kinh doanh trong trường hợp tái
tổ chức và trong trường hợp thanh lý tài sản nếu doanh nghiệp được bán nhưng vẫn
tồn tại mà không bị giải thể, và trong trường hợp tái tổ chức, chuẩn bị và hỗ trợ
54
chuẩn bị kế hoạch tái tổ chức hoặc báo cáo về lý do tại sao không thể thực hiện tái tổ
chức.
- Về phương thức quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán
Về kiểm kê, định giá tài sản, LPS năm 2014 chưa quy định rõ giá trị tài sản được
phép dao dộng trong khoảng bao nhiêu, tỉ lệ chênh lệch ra sao thì được coi là giá trị
chính xác của tài sản và lớn hơn khoảng chênh lệch đó thì bị coi là định giá không
chính xác, cần phải kiểm kê, xác định lại giá trị tài sản; quy định chưa hợp lý về thời
hạn lập danh sách người mắc nợ không bảo đảm trong trường hợp số lượng người
mắc nợ lớn “Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản,
danh sách người mắc nợ phải được niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án nhân dân
tiến hành thủ tục phá sản, trụ sở chính của doanh nghiệp, hợp tác xã và phải gửi cho
người mắc nợ trong 10 ngày làm việc kể từ ngày niêm yết” (Khoản 2 Điều 68 LPS
năm 2014).
b) Về mặt thực thi
+ Về kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán
- Theo quy định, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm
kê tài sản và xác định giá trị tài sản đó sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá
sản. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vắng mặt thì người
được Quản tài viên, DNQLTLTS chỉ định làm đại diện của doanh nghiệp thực hiện
công việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp (Khoản 2 Điều 65 LPS
năm 2014). Trên thực tế, việc kiểm kê tài sản gặp rất nhiều khó khăn vì người đại
diện của doanh nghiệp vắng mặt, người được Quản tài viên, DNQLTLTS chỉ định
thường là không chịu làm, hoặc không biết về tình hình công ty nên thực hiện việc
này rất khó khăn. Mặc dù, pháp luật có quy định về chế tài xử lý đối với việc không
hợp tác về việc kiểm kê tài sản (xử phạt vi phạm hành chính) tuy nhiên chế tài này
cũng không hiệu quả và khả thi.
Trong đó, việc lập bảng kê tài sản là khó khăn và trở ngại nhất trong vụ việc
phá sản đối với trường hợp doanh nghiệp bị chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
55
sản. Theo quy định, doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản phải tiến hành kiểm kê tài
sản và xác định giá trị tài sản trong thời hạn không quá 90 ngày kể từ ngày nhận được
quyết định mở thủ tục phá sản (Khoản 1 Điều 65 LPS năm 2014), thế nhưng trên thực
tế thực hiện rất khó khăn do doanh nghiệp không còn ai làm việc. Ví dụ tại vụ phá
sản Công ty TNHH Đóng tàu và Cơ khí hàng hải Sài Gòn (SOFEL- có trụ sở ở tại
KCN Đông Xuyên, thành phố Vũng Tàu).
Vụ việc: SOFEL là công ty đóng tàu có 100% vốn của Singapore, thuộc tập
đoàn Triyards tại Việt Nam (Tập đoàn này vào Việt Nam hoạt động từ 2007 hoạt
động trong lĩnh vực đóng tàu biển. Đại diện theo pháp luật của tập đoàn hiện nay là
ông Chan Eng Yew, quốc tịch Singapore). Công ty SOFEL bị chủ nợ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản vào tháng 9 năm 2019. Trong quá trình giải quyết vụ việc phá
sản, Công ty này không tiến hành kiểm kê tài sản với lý do người đại diện theo pháp
luật đã rời Việt Nam từ trước khi bị mở thủ tục phá sản (không trở lại dù tòa án triệu
tập), nhân sự và người lao động đã nghỉ việc hết; khối lượng tài sản của Công ty
SOFEL rất lớn, lưu giữ nhiều nơi nhưng thông tin hồ sơ kế toán tài sản không biết ai
lưu giữ, quản lý. Lẽ thường ai cũng biết rằng, nếu không có lợi ích gì thì không ai
nhận công việc do người khác chỉ định, do đó quy định Tòa án, Quản tài viên chỉ định
người khác làm đại diện của doanh nghiệp phá sản thực hiện công việc kiểm kê và
xác định giá trị tài sản là không khả thi, và thực tế họ cũng chẳng chịu làm. Công ty
SOFEL có người đại diện theo ủy quyền trong quá trình mở thủ tục phá sản, tuy nhiên
họ lại không biết gì về tình hình của công ty, họ đến tòa án làm việc như là để điểm
danh cho sự có mặt. Ngoài ra, công ty này cũng không nộp báo cáo tài chính của năm
2017 do không có báo cáo tài chính [19].
Trong trường hợp trên, mặc dù Khoản 5 Điều 65 LPS năm 2014 quy định trường
hợp đại diện doanh nghiệp và những người khác không hợp tác về việc kiểm kê tài
sản hoặc cố tình làm sai lệch việc kiểm kê tài sản thì bị xử lý theo quy định của pháp
luật. Tuy nhiên việc áp dụng quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Mục 37 của Nghị định 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015
[4] cũng bất khả thi (vì doanh nghiệp không còn ai để mà xử lý).
Bên cạnh đó, về nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính của Công ty SOFEL, Luật Phá
56
sản hiện hành chỉ quy định nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính trong 03 năm gần nhất đối
với trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điểm
a Khoản 3 Điều 28 LPS), còn lại các trường hợp do người khác nộp đơn thì doanh
nghiệp phá sản không có nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính. Trường hợp trên, Công ty
SOFEL bị chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tháng 09/2019, Công ty này
không nộp báo cáo tài chính của năm 2017 do không có báo cáo tài chính (và cũng
không có nghĩa vụ bắt buộc phải nộp). Việc này khó khăn cho quá trình xác định tình
trạng tài chính, tài sản của công ty này (không có người làm kế toán, không làm kiểm
toán, hồ sơ kế toán không còn).
Ngoài ra, kể cả những trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục là chính
doanh nghiệp và doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính thì tình trạng thực
tế là doanh nghiệp làm sổ sách kế toán rất sơ sài, có doanh nghiệp còn không có sổ
sách kế toán, hoặc làm chứng từ kế toán giả dẫn đến sự không rõ ràng, minh bạch về
công nợ. Sự không minh bạch về tài chính khiến cho việc xác định phạm vi cũng như
tình trạng tài sản của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
+ Về quy định mở tài khoản ngân hàng của Tòa án
Điều 16 LPS năm 2014 quy định về Quyền, nghĩa vụ của Quản tài viên,
DNQLTLTS, trong đó, tại Điểm i Khoản 1 có ghi nhận nghĩa vụ của Quản tài viên
như sau: “Gửi các khoản tiền thu được vào tài khoản do Tòa án nhân dân, cơ quan
thi hành án dân sự có thẩm quyền mở tại ngân hàng”. Điều này có nghĩa là, trong
giai đoạn mở thủ tục phá sản tại Tòa án, sau khi có quyết định chỉ định Quản tài viên
của Thẩm phán có thẩm quyền thì Quản tài viên được chỉ định đó phải gửi các khoản
tiền thu được trong quá trình thực hiện việc quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh
doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán vào một tài khoản
ngân hàng do TAND có thẩm quyền mở. Với nội dung quy định này đã gây ra nhiều
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành ở các địa phương khác nhau. Cụ thể,
có Tòa án tiến hành chỉ mở một tài khoản ngân hàng do Chánh án TAND cấp đó làm
chủ tài khoản và tất cả số tiền thu được từ các vụ phá sản khác nhau đều nộp chung
vào đó. Cũng có Tòa án lại mở từng tài khoản ngân hàng riêng cho mỗi vụ phá sản
và chủ tài khoản ngân hàng đó vẫn là Chánh án, hoặc có nơi thì mở từng tài khoản
57
ngân hàng khác nhau cho mỗi vụ phá sản và chủ tài khoản đó chính là Thẩm phán
được phân công giải quyết từng vụ phá sản cụ thể đó. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do
luật không có quy định cụ thể, rõ ràng và hiện nay cũng chưa có văn bản cụ thể nào
của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về vấn đề này.
2.3.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế
Thứ nhất, do chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành hoạt động quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Từ khi LPS năm 2014 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đến nay, mới chỉ có có văn bản hướng dẫn thi
hành là Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của LPS về Quản tài viên và hành nghề quản lý,
thanh lý tài sản. Nghị định quy định chủ yếu các vấn đề liên quan đến Quản tài viên
như: nguyên tắc hành nghề; những hành vi bị nghiêm cấm; chứng chỉ hành nghề;
nghĩa vụ…. Như vậy, về bản chất, Nghị định trên chỉ mang tính chất hướng dẫn thi
hành một số điều về hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong đó có hoạt động của
Quản tài viên mà chưa có nghị định nào hướng dẫn chi tiết thi hành chung đối với
LPS năm 2014 và các hoạt động về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán. Do đó, việc hiểu và áp dụng các quy định liên quan đến hoạt động quản
lý tài sản của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, về chế định Quản tài viên
+ Chế định Quản tài viên là một chế định mới, vì thế, việc áp dụng chế định
Quản tài viên tại Việt Nam hiện nay vẫn còn gặp không ít khó khăn, lúng túng trong
hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nói riêng, trong
giải quyết vụ việc phá sản nói chung [13].
So với lịch sử hình thành và phát triển hàng trăm năm của các nước trên thế
giới, nghề Quản tài viên ở nước ta chỉ mới hình thành, chế định quản tài viên và
DNQLTLTS còn rất mới, vì vậy các quy định pháp luật chưa hoàn chỉnh, nhận thức
của của cơ quan tòa án, cơ quan thi hành án, doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán và bản thân những người hành nghề Quản tài viên đối với hoạt động
Quản tài viên cũng chưa thực sự đầy đủ và toàn diện.
58
+ Số lượng Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản còn ít
Về số lượng, trong thời gian qua, việc cấp chứng chỉ cho Quản tài viên,
DNQLTLTS và tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về thanh lý tài sản còn ít.
Dẫn đến cơ hội lựa chọn Quản tài viên và DNQLTLTS tham gia vào hoạt động quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không nhiều. Theo thống kê
của Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, thực hiện Nghị định số 22/2015/NĐ-CP,
tính đến năm 2016, Bộ Tư pháp đã cấp Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên cho
824 người có đủ điều kiện hành nghề thanh lý tài sản và 19 Giấy chứng nhận đăng
ký hành nghề thanh lý tài sản cho doanh nghiệp. Chỉ tính riêng tại địa bàn thành phố
Hà Nội, từ khi LPS năm 2014 có hiệu lực đến tháng 12 năm 2019 mới có 38 Quản tài
viên và 06 doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản [22].
+ Chất lượng Quản tài viên chưa đáp ứng được yêu cầu
Hiện nay, những người được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên chủ yếu là
những người có năng lực về mặt pháp luật như luật sư, còn những người hoạt động
thuộc các lĩnh vực khác đăng ký hành nghề Quản tài viên là rất ít. Mặt khác, hoạt
động quản lý tài sản của Quản tài viên ngoài có năng lực pháp luật cần thiết phải có
các năng lực về tài chính, kinh tế, quản trị kinh doanh, thuế,... Tuy nhiên, rất ít Quản
tài viên có kiến thức đầy đủ về tất cả các lĩnh vực trên mà chủ yếu mỗi người chỉ có
kiến thức chuyên ngành. Do đó, nhiều trường hợp Quản tài viên chỉ nhìn nhận sự việc
dưới góc độ chuyên ngành mà vô hình chung lại cản trở doanh nghiệp phục hồi hoạt
động, bỏ qua các cơ hội, thời cơ của doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc cấp chứng chỉ Quản tài viên chỉ căn cứ vào các văn bằng, chứng
chỉ chứ chưa tổ chức được việc thi, sát hạch năng lực của Quản tài viên. Vì vậy, chất
lượng của các Quản tài viên nhiều khi không đủ trình độ, năng lực để quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Một lý do nữa là, số lượng doanh nghiệp có yêu cầu mở thủ tục phá sản ít so
với tổng doanh nghiệp rút khỏi thị trường, do đó, sự tham gia của Quản tài viên và
DNQLTLTS còn hạn chế dẫn đến thiếu kinh nghiệm thực tế và cũng có ít cơ hội được
rèn luyện để nâng cao năng lực trong hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán.
59
+ Chưa có cơ chế, chính sách hoàn chỉnh cho việc hành nghề của Quản tài viên.
Về bản chất, Quản tài viên là một chủ thể độc lập nhưng thực chất hoạt động
của Quản tài viên là giúp việc cho Thẩm phán trong hoạt động quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Trên thực tế, hoạt động của Quản tài viên
được xem như là hoạt động dịch vụ, không được xem trọng, không đảm bảo sự phù
hợp với vị trí vai trò của nó dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa đạt được kết quả cao.
Thứ ba, từ phía cơ quan có thẩm quyền
Thực tế thi hành pháp luật về phá sản nói chung và hoạt động quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nói riêng cho thấy, số lượng cũng như
chất lượng của đội ngũ cán bộ Thẩm phán còn hạn chế, chưa đáp ứng được những
đòi hỏi của hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Bên cạnh
đó, nhiều Thẩm phán còn làm việc theo phong cách cũ, chưa bám sát vào những điểm mới
của LPS năm 2014 để giải quyết vụ việc phá sản, từ đó nảy sinh ra những vi phạm hoặc
bỏ qua các bước trong hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp.
Mặt khác, công tác bồi dưỡng kiến thức về phá sản và hoạt động quản lý tài sản
ở một số Tòa án địa phương chưa được trú trọng; chưa thực hiện công tác tổng kết
kinh nghiệm và tìm ra những khó khăn vướng mắc trong hoạt động quản lý tài sản để
từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật. Trong
khi đó, pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán còn
nhiều vướng mắc, bất cập; chưa kể tính chất phức tạp của việc giải quyết phá sản
cũng như quản lý tài sản của doanh nghiệp đòi hỏi người Thẩm phán giải quyết không
chỉ có kiến thức về pháp luật mà còn phải am hiểu về các lĩnh vực chuyên ngành khác
như tài chính, kế toán, ngân hàng, quản trị kinh doanh,...
Thứ tư, nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân các doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán và các chủ nợ, cụ thể: doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có
tâm lý sợ bị tuyên bố phá sản, quan niệm việc bị tuyên bố phá sản là bất đắc dĩ và gây
ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của doanh nghiệp trên thị trường kinh doanh hơn là
một cơ hội để khôi phục hoạt động kinh doanh; chủ nợ thì sợ doanh nghiệp bị tuyên
bố phá sản, khi thanh toán theo thứ tự ưu tiên thì mình sẽ không đòi được nợ nên
60
không muốn nộp đơn yêu cầu phá sản đối với con nợ; người lao động thì sợ mất việc
làm và thu nhập hàng tháng nên cũng có tâm lý không muốn doanh nghiệp bị tuyên
bố phá sản. Do đó, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp dù đã mất khả năng thanh
toán nhưng vẫn không bị yêu cầu mở thủ tục phá sản. Vì vậy, đây là cơ hội cho doanh
nghiệp có thời gian thực hiện các hành vi làm thất thoát, cố tình tẩu tán tài sản, cho
đến khi đưa ra Tòa án giải quyết thủ tục phá sản thì công tác quản lý tài sản không
còn ý nghĩa vì doanh nghiệp đã hết hoặc gần như không còn tài sản.
Tiểu kết Chương 2
Qua nghiên cứu về thực trạng pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán cho thấy:
LPS năm 2014 có nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với LPS năm 2004, 1993, góp
phần đáng kể cho việc thực hiện có hiệu quả hơn pháp luật về phá sản trong thực tiễn,
đặc biệt là pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Cụ thể:
LPS năm 2014 đã thay đổi cơ bản và toàn diện về chủ thể tham gia quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, trong đó phải đặc biệt kể đến cơ chế
quản lý tài sản mới là Quản tài viên và DNQLTLTS với nhiều quy định tiến bộ.
Qua phân tích tại chương 2 cũng có thể thấy, mặc dù việc áp dụng các quy định
của pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đã đạt
được những kết quả nhất định trong thực tế. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy
định này cũng đang dần bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được hoàn thiện và bổ
sung trong thời gian tới. Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy
định pháp luật về thủ tục phá sản ở Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra những hạn
chế, khuyết điểm và nguyên nhân khiến cho việc áp dụng pháp luật về quản lý tài sản
của doanh nghiệp phá sản đạt hiệu quả chưa cao, làm cơ sở phân tích, định hướng và
đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như các giải pháp
61
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về lĩnh vực này trong Chương 3 của Luận văn.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN
3.1. Quan điểm hoàn thiện
Qua những phân tích quy định pháp luật phá sản hiện hành về quản lý tài sản
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, có thể thấy, LPS năm 2014 đã khắc phục được
rất nhiều hạn chế trong pháp luật phá sản trước đây. Tuy nhiên, những quy định trong
Luật phá sản về quản lý tài sản doanh nghiệp mất khả năng thanh toán còn có thể tiếp
tục hoàn thiện hơn nữa theo một số quan điểm hoàn thiện pháp luật sau:
Thứ nhất, quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán phải bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật phá sản của
Việt Nam, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật, không có
sự mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản pháp luật khác, phù hợp với thực tiễn nền
kinh tế đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, các quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán phải bảo đảm cụ thể hoá và không có sự xung đột với các quy định của các điều
ước quốc tế mà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên. Cần nghiên cứu, tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán, đặc biệt là chế định về Quản tài viên.
Thứ ba, bảo đảm mục tiêu quản lý hiệu quả tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán, bảo đảm sự công bằng cho các bên trong vụ việc phá sản. Cơ chế
quản lý tài sản phải có những quy định quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán nhưng không làm ảnh hưởng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
đồng thời tránh các tác động tiêu cực từ phía chủ nợ vào tài sản của doanh nghiệp.
Như vậy, hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán phải bảo đảm vừa duy trì tính ổn định của tài sản, vừa góp phần thúc đẩy
62
doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh nếu có thể.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán
Thứ nhất, về tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Cần bổ sung các quy định về tài sản được loại trừ khỏi khối tài sản phá sản,
LPS năm 2014 không đưa danh mục các tài sản thuộc diện loại trừ khỏi khối tài sản
phá sản, trong khi đó, nếu xét ở khía cạnh nhân đạo và thông lệ chung của quốc tế thì
đối với trường hợp con nợ là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của
công ty hợp danh thì pháp luật cũng phải xác định tài sản miễn trừ khi giải quyết phá
sản đối với họ. Theo thông lệ của các nước thì các tài sản, quyền về tài sản được miễn
trừ bao gồm: các đồ vật phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mang tính chất tối thiểu của
con nợ và các khoản trợ cấp cho con nợ do không còn khả năng lao động, do bệnh
tật, do mất việc làm; tiền lương hưu, các khoản nhận được từ hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ,… những tài sản này được quy định miễn trừ khỏi tài sản phá sản là hợp lý và cần
thiết. Vì vậy, pháp luật phá sản nước ta nên bổ sung quy định về các loại tài sản miễn
trừ khỏi khối tài sản phá sản để đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán.
Thứ hai, về chủ thể quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
+ Về loại hình của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
Theo như phân tích tại mục 2.3.2 những hạn chế, bất cập, loại hình của
DNQLTLTS đang còn bị bó hẹp trong hai loại hình là công ty hợp danh và doanh
nghiệp tư nhân. Vì vậy, đề nghị xem xét, cân nhắc mở rộng thêm loại hình được phép
tổ chức thành lập là công ty trách nhiệm hữu hạn thay vì chỉ được thành lập theo hai
loại hình như hiện nay, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được mở rộng hoạt động cũng
như thêm nhiều lựa chọn khi thành lập doanh nghiệp.
+ Về chỉ định Quản tài viên
Hiện nay việc chỉ định Quản tài viên vẫn còn gặp nhiều lúng túng, như trường hợp
Quản tài viên được chỉ định nhưng Quản tài viên đó lại có văn bản từ chối tham gia vụ
phá sản, hay căn cứ bắt buộc để Thẩm phán chỉ định Quản tài viên, DNQLTLTS là khi
có đề xuất của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điểm b Khoản 2 Điều 45 LPS
63
năm 2014) nhưng không quy định hạn chế số lượng; không quy định rõ số lượng Quản
tài viên, DNQLTLTS hay thứ tự ưu tiên có thể được chỉ định trong quá trình giải quyết
vụ việc phá sản dẫn đến việc thực thi gặp nhiều khó khăn.
Do đó, trong thời gian tới, TAND tối cao phối hợp với các cơ quan có liên quan
cần ban hành hướng dẫn về việc chỉ định Quản tài viên theo hướng: chỉ có những
Quản tài viên có tên trong danh sách do Sở Tư pháp tỉnh cung cấp để đảm bảo
tính pháp lý, tiêu chuẩn, năng lực của Quản tài viên và ưu tiên những Quản tài viên
đã được chỉ định theo yêu cầu của người nộp đơn đề nghị mở thủ tục phá sản hoặc
của chủ nợ trong vụ án phá sản.
+Về thanh toán thù lao, chi phí cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản
Mục đích cuối cùng của bất cứ công việc nào đó là thù lao. Tuy nhiên, như đã
phân tích tại mục 2.3.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân, có thể thấy, quy
định về cách tính thù lao lại chưa tương xứng với công sức của Quản tài viên,
DNQLTLTS như tính thù lao theo giờ làm việc, trường hợp doanh nghiệp phá sản,
tài sản doanh nghiệp không còn, hoặc trường hợp Thẩm phán và Quản tài viên,
DNQLTLTS không thỏa thuận được thù lao hoặc thỏa thuận được nhưng các chủ thể
có quyền và lợi ích liên quan không đồng ý với mức thù lao đó thì quyền lợi của
Quản tài viên, DNQLTLTS không được đảm bảo. Do đó, cần xem xét bổ sung những
căn cứ pháp lý cụ thể để tính mức thù lao, đảm bảo quyền lợi cho Quản tài viên,
DNQLTLTS.
+ Nghiên cứu xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của Quản tài viên ở Việt Nam
nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất của quản tài viên, đáp ứng yêu cầu đặc thù của
hoạt động quản lý tài sản. Điều đó sẽ giúp chủ thể này chủ động hơn trong công việc,
góp phần giúp hoạt động quản lý tài sản trở thành một hoạt động có tính chuyên
nghiệp, đảm bảo nhanh nhất về thời gian, đầy đủ nhất về tài sản [11].
Thứ ba, về phương thức quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán
+ Về kiểm kê, xác định tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Pháp luật phá sản có quy định trường hợp xét thấy việc kiểm kê, xác định giá
64
trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã không chính xác thì TAND yêu cầu Quản tài
viên, DNQLTLTS tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản
của doanh nghiệp, hợp tác xã. Giá trị tài sản được xác định, định giá theo giá thị
trường tại thời điểm kiểm kê (Khoản 4 Điều 65 LPS năm 2014). Thực tế việc xác
định giá của tài sản là một việc phức tạp, giá trị của tài sản trên thị trường có thể dao
động theo từng ngày, từng thời điểm khác nhau nên việc định giá chính xác tài sản
rất khó khăn. Vậy giá trị tài sản được định giá không chính xác là không chính xác
đến mức độ nào thì mới cần tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị tài sản. Thiết nghĩ,
pháp luật nên ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy định rõ giá trị tài sản được
phép dao dộng trong khoảng bao nhiêu, tỉ lệ chênh lệch ra sao thì được coi là giá trị
chính xác của tài sản và lớn hơn khoảng chênh lệch đó thì bị coi là định giá không
chính xác, cần phải kiểm kê, xác định lại giá trị tài sản.
Bên cạnh đó, chưa có quy định về thời hạn cụ thể thực hiện việc kiểm kê, xác
định lại tài sản trước đó, dẫn đến khó khăn trong việc tổ chức hội nghị chủ nợ và các
hoạt động khác trong quá trình quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán. Do Hội nghị chủ nợ được Thẩm phán triệu tập trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày
kết thúc việc kiểm kê tài sản...(Khoản 1 Điều 75 LPS năm 2014). Vì vậy, để Hội nghị
chủ nợ được tổ chức nhanh chóng, kịp thời tránh tình trạng kéo dài nhiều ngày, nhiều
tháng ảnh hưởng đến việc tổ chức Hội nghị chủ nợ thì phải quy định thời hạn kiểm kê,
xác định lại tài sản của doanh nghiệp để các chủ nợ có thể yên tâm.
Đối với trường hợp việc kiểm kê tài sản gặp khó khăn vì người đại diện của
doanh nghiệp vắng mặt, người được Quản tài viên, DNQLTLTS chỉ định không chịu
làm, hoặc không biết về tình hình công ty nên hiệu quả kiểm kê, xác định tài sản chưa
cao. Mặc dù, hiện nay có quy định về chế tài xử lý đối với việc không hợp tác về việc
kiểm kê tài sản (xử phạt vi phạm hành chính [4]) tuy nhiên chế tài này cũng không
hiệu quả và khả thi. Vì vậy cần có thêm nghiên cứu và quy định có tính khả thi hơn
để giải quyết đối với trường hợp doanh nghiệp không còn người có trách nhiệm tiến
hành các công việc kiểm kê tài sản, cung cấp giao nộp thông tin hồ sơ kế toán tài sản
65
ví dụ như tăng mức phạt tiền.
+ Làm rõ thời hạn gửi Bản kiểm kê tài sản
Bản kiểm kê tài sản nhằm xác định số lượng, giá trị tài sản của doanh nghiệp
mắc nợ. Theo quy định, bản kiểm kê tài sản đã được xác định giá trị phải “gửi ngay”
cho TAND tiến hành thủ tục phá sản. Tuy nhiên, LPS năm 2014 không quy định rõ
thời hạn gửi bản kiểm kê tài sản là trong phạm vi bao ngày. Điều này gây nên sự lúng
túng trong lúc áp dụng, vì vậy, cần thiết phải ban hành văn bản hướng dẫn làm rõ quy
định của pháp luật về thời hạn gửi bản kiểm kê tài sản, cụ thể cần quy định rõ ràng
bản kiểm kê tài sản phải gửi đi trong vòng bao nhiêu ngày kể từ khi bản kiểm kê tài
sản hoàn thành.
+ Về vấn đề thu hồi nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
LPS năm 2014 chưa có quy định rõ ràng về việc trả nợ cho chủ nợ chính là
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, điều này gây nên sự chậm trễ trong việc thu
hồi tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đối với những khoản nợ khó
đòi. Vì vậy, pháp luật cần quy định rõ thời gian trả nợ của con nợ đối với chủ nợ là
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và hậu quả pháp lý đối với việc trả nợ. Quá
thời hạn quy định, nếu con nợ không trả nợ được thì cần tách ra để giải quyết bằng
vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật. Cần có phương án giải quyết thống
nhất đối với doanh nghiệp sau khi bán hết tài sản mà vẫn còn một số nợ chưa đòi
được, cơ quan thi hành án tiếp tục việc thu hồi nợ theo quy định và sẽ phân chia cho
các chủ nợ theo tỷ lệ đã có tại quyết định phân chia tài sản ban đầu.
+ Về mở tài khoản ngân hàng quản lý các khoản tiền thu được từ vụ phá sản
Như đã phân tích tại 2.3.2 hiện nay do không có quy định cụ thể, rõ ràng về việc
gửi các khoản tiền thu được vào tài khoản do Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án
dân sự có thẩm quyền mở tại ngân hàng, vì vậy trên thực tế có Tòa án tiến hành chỉ
mở một tài khoản ngân hàng do Chánh án TAND cấp đó làm chủ tài khoản và tất cả
số tiền thu được từ các vụ phá sản khác nhau đều nộp chung vào đó. Cũng có Tòa án
lại mở từng tài khoản ngân hàng riêng cho mỗi vụ phá sản và chủ tài khoản ngân hàng
đó vẫn là Chánh án, hoặc có nơi thì mở từng tài khoản ngân hàng khác nhau cho mỗi
vụ phá sản và chủ tài khoản đó chính là Thẩm phán được phân công giải quyết từng
66
vụ phá sản cụ thể đó. Do đó, cần thống nhất áp dụng quy định nêu trên tại Tòa án nên
theo hướng mỗi một vụ phá sản mở một tài khoản ngân hàng riêng và chủ tài khoản
ngân hàng đó sẽ là Thẩm phán được giao giải quyết vụ phá sản đó. Việc mở tài khoản
ngân hàng riêng sẽ đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng và dễ dàng trong vấn đề quản lý
tài chính, đặc biệt đối với những vụ phá sản doanh nghiệp lớn thì số tiền thu về khi
giải quyết phá sản là rất lớn, nếu gộp chung số tiền thu được của các vụ phá sản vào
một tài khoản thì sẽ rất khó quản lý. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, năng lực về
tài chính kế toán của các Thẩm phán là khác nhau và thường không chuyên sâu và
thường chỉ có một hoặc một số cán bộ làm công tác kế toán, phụ trách chung công
tác tài chính kế toán của cả cơ quan, nên việc bao quát và kiểm soát thêm các tài
khoản này là rất khó khăn nếu như nhập chung tất cả vào một tài khoản.
Thứ tư, cần rà soát các đạo luật có quy định liên quan đến thanh lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán để sửa đổi, bổ sung một cách đồng
bộ, thống nhất
Ngoài LPS thì việc xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán còn được quy định trong các văn bản khác như: Bộ luật dân sự, Luật
doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật thi hành án dân sự và các văn bản qui phạm pháp
luật hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, trong thực tế việc áp dụng các quy định của pháp
luật về phá sản để giải quyết các trường hợp phá sản cụ thể vẫn còn bị hạn chế,
chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Để đảm bảo tính thống nhất,
đồng bộ trong hệ thống pháp luật thì thời gian tới cần phải rà soát để sửa đổi, bổ
sung các đạo luật có liên quan trong vấn đề này, phù hợp với Hiến pháp 2013 và tình
hình kinh tế- xã hội của nước ta. Cụ thể:
- Đối với Luật Doanh nghiệp: Đây là đạo luật có vai trò mật thiết đối với
Luật phá sản. Đối với việc xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp trong LDN hiện
nay vẫn còn có quy định chưa tương thích với LPS. Theo quy định của LPS, tất cả
các cổ đông đều thuộc cùng một thứ tự ưu tiên thanh toán. Do vậy tất cả các cổ đông
đều được nhận giá trị tài sản còn lại của công ty cùng lúc và theo tỷ lệ sở hữu cổ
phần. Trong khi đó theo quy định của LDN, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi lại có cơ
sở pháp lý tương đối rõ ràng để được nhận thanh toán trước các cổ đông khác. Vì
67
vậy trong thời gian tới, cần phải có sự thống nhất về vấn đề này để giải quyết tài sản
khi doanh nghiệp phá sản một cách hợp lý.
- Đối với Luật thi hành án dân sự: Cơ quan Thi hành án dân sự có vai trò
quan trọng trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản và thi hành các quyết định của
Tòa án giải quyết phá sản. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn những hạn chế liên quan
đến thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản; về thời hạn ra quyết định thi
hành án; về quyền của người thi hành án; về định giá, định giá lại; về bán đấu giá tài
sản; về trình tự thủ tục khi Chấp hành viên tiến hành việc thanh lý tài sản; về chi phí
phá sản. Từ những hạn chế, bất cập đó, các cơ quan có thẩm quyền trong thời gian
tới cần rà soát, sửa đổi LPS và LTHADS và các văn bản hướng dẫn thi hành để đảm
bảo việc áp dụng pháp luật được hiệu quả hơn.
- Đối với Luật đất đai: Đất đai là lĩnh vực hết sức phức tạp. Liên quan đến
việc xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp liên quan đến quyền sử dụng đất, LĐĐ
và LPS vẫn còn có những quy định chưa đồng bộ. Trong trường hợp giao đất
không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho doanh nghiệp thuê đất
hàng năm, các thu hồi đất liên quan đến quan đến những trường hợp này để giải tỏa
vướng mắc cho trường hợp xử lý tài sản có liên quan đến quyền sử dụng đất, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên, nhất là đối với các doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán có vốn nhà nước.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán
Thứ nhất, tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hoạt động của
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
- Cần xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể về các điều kiện, tiêu chí đối với
Quản tài viên. Trong đó đơn giản hóa thủ tục hành chính về cấp thẻ Quản tài viên,
thẩm tra hồ sơ cấp Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên theo quy định của pháp luật.
Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia đối với Quản tài viên, DNQLTLTS.
- Cần bồi dưỡng kiến thức cho Quản tài viên, bởi, trong pháp luật phá sản, trách
nhiệm và quyền hạn của Quản tài viên rất quan trọng. Ngoài hiểu biết về pháp luật,
Quản tài viên còn phải thực hiện những nhiệm vụ yêu cầu trình độ chuyên môn về kế
68
toán, tài chính như định giá tài sản; lập bảng kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh
nghiệp; quản lý tài sản, tài liệu, sổ kế toán của doanh nghiệp… Có thể thấy, không
phải luật sư hay cử nhân luật nào có 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật cũng
am hiểu về lĩnh vực kinh tế, tài chính kế toán, quản trị kinh doanh; và ngược lại, rất
nhiều kiểm toán viên hay cử nhân kinh tế nhiều năm kinh nghiệm lại có kiến thức rất
hạn chế trong lĩnh vực pháp luật. Vì vậy việc trang bị, bồi dưỡng kiến thức cho Quản
tài viên là điều hết sức cần thiết để đảm bảo cho sự hoạt động có hiệu quả của chế
định này. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phá sản nên bổ sung quy định về việc
bồi dưỡng kiến thức bắt buộc đối với Quản tài viên, và có mức độ phù hợp với từng
đối tượng.
Thứ hai, đối với ngành Tòa án
- Nâng cao năng lực của Thẩm phán, đây là người trực tiếp giải quyết việc phá
sản DN do đó, chất lượng và hiệu quả của việc giải quyết phá sản phụ thuộc nhiều
vào trình độ chuyên môn của Thẩm phán. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có các
Thẩm phán chuyên trách về phá sản mà thường là kiêm nhiệm. Do vậy, trước mắt,
cần phải bồi dưỡng, nâng cao trình độ thẩm phán giải quyết phá sản, đáp ứng những
yêu cầu mới đặt ra. TAND tối cao cần thường xuyên, định kỳ tổ chức các hội thảo
khoa học, các khóa đào tạo nhằm bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc phá sản.
- Ngành Tòa án cần thống kê chi tiết những nội dung cụ thể trong quá trình giải
quyết phá sản, chẳng hạn những vấn đề: số lượng lao động của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán, tổng tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, tổng số nợ của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán, tỷ lệ tài sản trên nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán chia
theo địa phương, theo mô hình,... Trên cơ sở đó, đánh giá về tình hình quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, đồng thời công khai số liệu về phá sản trong tệp
số liệu thống kê doanh nghiệp hàng năm. Từ đó, rút ra các bài học, kinh nghiệm cho hoạt
động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, kịp thời hướng dẫn giải
quyết những vướng mắc phát sinh trong việc quản lý tài sản doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán cho các Toà án nhân dân địa phương.
69
Thứ ba, đối với cơ quan thi hành án dân sự
Hiện nay, trình độ của đội ngũ Chấp hành viên của nước ta còn rất nhiều bất
cập, do đó, cần có quy chế cụ thể trong công tác tuyển chọn các Chấp hành viên có
đạo đức nghề nghiệp và đủ năng lực tham gia quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán với tư cách là tổ trưởng tổ quản lý tài sản. Cần xây dựng và ban
hành chế định công nhận chuyên gia độc lập đảm nhận công việc quản lý tài sản để
họ có thể đáp ứng các yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như đảm bảo thời gian
quản lý tài sản. Ngoài ra, cần ban hành quy định về ủy thác việc quản lý tài sản của
Cơ quan thi hành án cho các cơ quan, đơn vị khác nếu như tài sản của doanh nghiệp
nằm rải rác ở nhiều cơ quan đơn vị hay địa phương khác nhau.
Thứ tư, nâng cao ý thức của các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và
chủ nợ trong việc thực hiện pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán
Các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và chủ nợ là những chủ thể chịu sự
tác động và điều chỉnh trực tiếp của các quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán. Do đó, để bảo vệ tốt quyền và lợi ích của mình, các doanh
nghiệp và chủ nợ cần chủ động tìm hiểu các quy định của pháp luật về quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, nắm rõ các quyền và nghĩa vụ của mình
trong quá trình quản lý tài sản của doanh nghiệp.
Thứ năm, tăng cường kỷ luật tài chính kế toán
Trong pháp luật về phá sản, một trong những nguyên nhân làm suy giảm hiệu
quả của pháp luật phá sản và những quy định về cơ chế quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán trong thời gian qua là do những yếu kém trong việc
thực hiện chế độ tài chính kế toán trong các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không
tuân theo những quy định về tài chính - kế toán hiện hành, một số doanh nghiệp làm
sổ sách kế toán còn sơ sài, thậm chí có những doanh nghiệp không có sổ sách kế toán,
đặc biệt là có những doanh nghiệp còn làm sổ sách giả dẫn đến công nợ không rõ
ràng, gian dối về chứng từ kế toán. Điều đó làm cho việc quản lý tài sản của doanh
nghiệp khi mất khả năng thanh toán gặp nhiều khó khăn.
Do đó, cần tăng cường những quy định về xử lý nghiêm khắc những vi phạm
70
về kế toán thống kê. Trường hợp doanh nghiệp không nộp báo cáo hoặc báo cáo gian
dối phải bị xử phạt bằng tiền với mức cao hơn hiện nay hoặc trường hợp nghiêm trọng
có thể bị tước giấy phép đăng ký kinh doanh. Tăng cường công tác kiểm tra việc tuân
thủ chế độ kế toán - tài chính doanh nghiệp, bắt buộc doanh nghiệp nộp báo cáo tài
chính định kỳ để có thể theo dõi, giám sát thường xuyên hoạt động của doanh nghiệp.
Tiểu kết Chương 3
Qua phân tích tại chương 3, có thể thấy: pháp luật về quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan; đồng thời cũng có vai trò điều chỉnh
các quan hệ kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng vẫn còn một số điểm
vướng mắc, bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Với quan
điểm cần bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật phá sản của
Việt Nam, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế để bảo đảm mục tiêu
quản lý hiệu quả tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, bảo đảm sự công
bằng cho các bên trong vụ việc phá sản, Luận văn đã đưa ra một số đề xuất, kiến nghị
nhằm sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản của doanh
71
nghiệp mất khả năng thanh toán.
KẾT LUẬN
Pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đã có
những quy định mới, khắc phục được nhiều vướng mắc, bất cập trong các quy định
cũ trước đây. Tuy nhiên, qua gần sáu năm thực hiện, LPS năm 2014 đang dần bộc lộ
những vướng mắc, bất cập, đòi hỏi được tiếp tục hoàn thiện. Đây là điều khó tránh
khỏi khi hệ thống pháp luật Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, hoàn thiện để bắt
kịp với những yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế. Những yêu cầu về hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản đối với doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán cũng cần được tiến hành nhằm đảm bảo sự đồng bộ
với các quy định khác của hệ thống pháp luật cũng đang trong quá trình hoàn thiện.
Trong thời gian nghiên cứu và dung lượng có hạn, Luận văn đã làm rõ được một
số vấn đề cơ bản sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến việc quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và vai trò của pháp luật về quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán tại Chương 1.
- Làm sáng tỏ những quy định của pháp luật về quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, phân tích làm rõ vai trò, thẩm quyền của các chủ thể
tham gia quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo quy định của
pháp luật hiện hành tại Chương 2. Đồng thời nêu ra các phương thức quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán một cách chi tiết. Cũng tại Chương 2,
Luận văn đã phân tích và đánh giá về tình hình áp dụng và thực thi pháp luật về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trên thực tiễn tại Việt Nam trong
thời gian qua. Từ đây, tìm ra những khó khăn, vướng mắc mà các chủ thể thường gặp
phải khi áp dụng cơ chế quản lý tài sản trong thực tiễn, phân tích những nguyên nhân
của những khó khăn vướng mắc trên.
-Từ các phân tích tại các Chương 1 và Chương 2, Luận văn đưa ra một số đề
xuất, giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán tại Chương 3; trong đó có những kiến nghị về
72
hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản và những giải pháp về tổ chức thi hành các
quy định của pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian tới.
Tuy nhiên, quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là một
vấn đề phức tạp mà trong khuôn khổ Luận văn, tác giả chưa thể giải quyết hết được.
Vì vậy, để các quy định pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán được thực thi có hiệu quả hơn thì cần thiết phải có nhiều nghiên cứu
73
chuyên sâu hơn trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2015), Điều 21 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài viên và hành
nghề quản lý, thanh lý tài sản;
2. Chính phủ (2015), Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 16 tháng 2 năm 2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá
sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, tài sản;
3. Chính phủ (2015), Khoản 4 Điều 7 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 16 tháng 2 năm 2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá
sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, tài sản;
4. Chính phủ (2015), Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 sửa đổi, bổ
sung một số điều của nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013
của chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư
pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã;
5. Điều 131 và Điều 132 Luật Thực thi dân sự Nhật Bản;
6. Trương Hồng Hải (2004), Luật Phá sản Doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ so
sánh và phương hướng hoàn thiện, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, tr92
7. Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương (2014), Đặc san tuyên
truyền pháp luật, số 9/2014, trang 43;
8. Dương Đăng Huệ, Nguyễn Thanh Tịnh, (2008), Thực trạng hoàn thiện pháp luật
về phá sản và việc hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam, Hà
Nội;
9. Quách Thị Thu Hương (2015), Bước phát triển của pháp luật phá sản Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội, tr.10;
10. Đặng Văn Huy (2012), Địa vị pháp lý của tổ quản lý và thanh lý tài sản theo
pháp luật phá sản, Tạp chí Pháp luật và Doanh nghiệp số 2 (239);
11. Đặng Văn Huy (2018), Hoàn thiện chế định quản tài viên trong Luật Phá sản,
74
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20/2018;
12. Đào Hải Lâm (2015), Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
nợ theo pháp luật phá sản hiện hành, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2015,
tr.59;
13. Hà Linh (2020), Quản tài viên: luật đã có, khó thực thi, nguồn:
https://tinnhanhchungkhoan.vn/phap-luat/quan-tai-vien-luat-da-co-kho-thuc-
thi-154914.html, truy cập ngày 16/6/2020;
14. Luật phá sản Liên bang Hoa Kỳ năm 1978;
15. LS. Trần Hồng Phong, Phá sản doanh nghiệp: “Lối thoát” cho tất cả các bên,
nguồn: https://phasan.com.vn/2020/08/30/pha-san-la-loi-thoat/, truy cập ngày
20/7/2020;
16. Quốc hội (2014), Luật Phá sản năm 2014;
17. Dương Hương Sơn (2013), Phục hồi doanh nghiệp phá sản, một mục tiêu lớn
trong vấn đề lập pháp đối với pháp luật phá sản hiện đại, nguồn:
http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1642, truy
cập ngày 06/5/2020;
18. Tatssuo Tezuka, Masanori Hayshi, Akihico hara, osamu Nomoto (2001), tổng
thuật chung về Luật phá sản Nhật Bản, Hội thảo quốc tế về Luật phá sản doanh
nghiệp, Hà Nội;
19. Dương Thanh Thuận (Đoàn Luật sư Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu);
20. Tòa án Nhân dân tối cao (2013), Báo cáo số 55/BC-TANDTC ngày 23/9/2013
của TAND tối cao tổng kết thi hành Luật Phá sản năm 2004, tr. 4;
21. Tòa án Nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Phá sản của Tòa
án Nhân dân tối cao ngày 23/09/2013;
22. Trang thông tin Bộ Tư pháp, https://bttp.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/quan-tai-
vien.aspx?ItemID=70, truy cập ngày 22/5/2020;
23. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Thương mại (tập II),
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
24. Trần Duy Tuấn, Chế định tài sản phá sản trong pháp luật một số quốc gia trên
75
thế giới và những gợi mở cho Việt Nam, nguồn:
https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-
luat.aspx?ItemID=111, truy cập ngày 5/7/2020;
25. Title 11: United States Bankruptcy Code, nguồn:
https://www.law.cornell.edu/uscode/text/11, truy cập ngày 16/5/2020;
26. Georges Cavalier (2008), French Bankruptcy Law and Enforcement Procedures
Commercial Code - Article L. 632-2 §2, Hal Id. pp.1;
27. Enterprise Bankruptcy Law of the People's Republic of China,
http://www.npc.gov.cn/englishnpc/Law/2008-01/02/content_1388019.htm.,
truy cập ngày 22/4/2020;
28. “Tài sản tự do trong luật Phá sản Nhật Bản”, tại
76
http://www.shakkinseiri.jp/jiyuuzaisan/, truy cập ngày 02/5/2020.