Quốc Kỳ Và Quốc Ca Việt Nam

Lá cờ đỏ sao vàng ngày nay đã trở nên quen thuộc,

nhưng nhiều người còn chưa biết lần đầu tiên lá cờ ấy

xuất hiện cách nay 60 nǎm và người vẽ lá cờ ấy là

một chiến sĩ cách mạng tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ

23/11/1940. Đó là Nguyễn Hữu Tiến, nguyên là thầy

giáo, sinh ngày 5/3/1901 tại xã Yên Bắc, huyện Duy

Tiên, tỉnh Hà Nam ngày nay. Nǎm 1927, Nguyễn

Hữu Tiến tham gia tổ chức Thanh niên cách mạng

đồng chí hội. Nǎm 1931 ông bị bắt và bị địch đưa ra

nhà tù Côn Đảo. Nǎm 1935, ông cùng một số tù

chính trị vượt ngục Côn Đảo, trở về đất liền, ông hoạt

động cách mạng tại Cần Thơ, sau đó được phân công

phụ trách công tác tuyên truyền, in ấn tài liệu cách

mạng.

Chính trong thời gian này, ông được Xứ uỷ Nam Kỳ

trao nhiệm vụ vẽ cờ Tổ quốc để sử dụng trong các

cuộc đấu tranh. Ông đã vẽ lá cờ có nền đỏ và ngôi

sao vàng nǎm cánh, thể hiện ý tưởng máu đỏ da vàng,

tượng trưng cho dân tộc và sự đoàn kết các tầng lớp

nhân dân bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong

đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Mẫu cờ do

Nguyễn Hữu Tiến vẽ đã được Xứ uỷ Nam Kỳ nhất trí

và đã xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa

Nam Kỳ 23-11-1940, sau đó xuất hiện ở nhiều nơi

trong phong trào Việt Minh (1941 - 1945). Nǎm

1945, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh quy định mẫu

Quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là nền đỏ

với ngôi sao vàng nǎm cánh như mẫu vẽ của Nguyễn

Hữu Tiến. Ngày 2-9-1945, cờ đỏ sao vàng chính thức

xuất hiện trong buổi lễ Tuyên bố độc lập. Quốc hội

khoá 1 ngày 2-3-1946 quy định cụ thể: ngôi sao vàng

nǎm cánh đặt giữa nền đỏ hình chữ nhật, chiều rộng

bằng hai phần ba chiều dài. Trong cuộc họp này, Bác

Hồ đã nói: "Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào

ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã

cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu á, cờ đã có mặt

trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu

đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi quốc kỳ và

quốc ca".

Còn ông Nguyễn Hữu Tiến thì sao? Người vẽ cờ Tổ

quốc ấy đã bị địch bắt và bị xử bắn ngày 28-8-1941

cùng các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa tại Hóc Môn,

trong đó có cả Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Vǎn Tần,

Hà Huy Tập...

Cũng tại Quốc hội khoá 1, cùng lúc thông qua Quốc

kỳ, Quốc hội cũng đã nhất trí lấy bài hát Tiến quân ca

của Vǎn Cao làm quốc ca chính thức. Theo lời nhạc

sĩ Vǎn Cao, bài Tiến quân ca được hoàn thành vào

cuối tháng 10-1944. Nhà vǎn Vũ Bằng nhớ lại trong

một bài viết như sau: "... 19-8 là ngày khởi nghĩa cả

nước vùng lên mở hội, từ thôn quê đến thành thị, từ

ngõ hẻm đến hang cùng, cuồn cuộn những làn sóng

gớm ghê, đâu đâu cũng vang âm những tiếng hát

"Tiến quân ca" và "Diệt phát xít"".

Trước khi sáng tác Tiến quân ca, Vǎn Cao đã từng

viết các bài hát yêu nước như Đống Đa, Thǎng Long

hành khúc ca. Được giác ngộ cách mạng, ông chú

tâm sáng tác nhiều bài hát động viên nhân dân đấu

tranh. Tiến quân ca được viết cuối nǎm 1944 tại cǎn

gác hẹp nhà số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền (Hà

Nội). Đó cũng là thời kỳ tiền khởi nghĩa, khí thế cách

mạng rất sôi sục, tin chiến thắng Võ Nhai lan truyền

về Hà Nội khiến các tầng lớp đồng bào đều phấn

chấn. Sau này, chính nhạc sĩ Vǎn Cao đã nhớ lại:

"Trước mắt tôi, mảnh trời xám và lùm cây của Hà

Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng

nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và nhiều

hy vọng. Và bài hát đã xong...".

Nhạc sĩ viết tiếp: "Quốc ca là sự hình thành của nhiều

nǎm kinh nghiệm và một thời gian dài trǎn trở. Khi

viết, tôi chỉ nghĩ làm sao đáp ứng nhu cầu quần

chúng, làm sao để họ dễ thuộc, dễ nhó. Tháng 11-

1944, tại sàn gác nhà của ông Vǎn Lang ở làng Bát

Tràng, một địa chỉ bí mật của cách mạng lúc bấy giờ,

tự tay tôi đã viết Tiến quân ca lên đá in trong trang

vǎn nghệ đầu tiên của tờ báo Độc lập..."

Ngày 17-8-1945, một cuộc mít tinh lớn tại Quảng

trường Nhà hát lớn, dàn đồng ca của thiếu niên tiền

phong hát Tiến quân ca, chào cờ đỏ sao vàng. Nhạc sĩ

Vǎn Cao nhớ rằng ông đã khóc khi thấy một lá cờ đỏ

sao vàng cỡ lớn được thả từ trên bao lơn Nhà hát

xuống trong khi bài hát Tiến quân ca vang lên...

Gần hai mươi nǎm đã qua, bài hát có sửa đổi đôi ba

chữ nhưng cơ bản vẫn là bài Tiến quân ca đã được

Quốc hội khoá 1 thông qua là Quốc ca. Bài Quốc ca

cùng với lá Quốc kỳ, cờ đỏ sao vàng, là biểu tượng

đẹp và khó phai mờ đối với người Việt Nam.

Qua thời gian dài từ thời kỳ dựng nứơc , do một thời

gian dài đô hộ nên lá cờ đại diện cho đất nước VN đã

bao lần thay da đổi thịt .

Hiệu kì

Ở Việt Nam trước đây các nhà cầm quyền đã có các

hiệu kỳ thường mang màu phù hợp với "mạng":

người mạng kim thì cờ màu trắng, người mạng mộc

mang màu xanh, mạng thủy thì màu đen, người mạng

hỏa treo cờ màu đỏ, người mạng thổ dùng cờ màu

vàng. Màu cờ của các triều đại thì được chọn theo

thuyết của học phái Âm Dương Gia nhằm giúp triều

đại hợp với một hành đang hưng vượng. Ngoài cờ

của triều đại, các nhà vua đều có thể có lá cờ riêng,

chỉ để biểu tượng cho hoàng gia.

Có nguồn cho biết Hai bà Trưng (40-43) và bà Triệu

Thị Trinh (222-248) đã dùng cờ màu vàng trong các

cuộc khởi nghĩa của họ.

Vua Gia Long (1802-1820) dùng màu vàng cho là cờ

tiêu biểu của vương triều mình. Có nguồn cho biết

vua Khải Định (1916-1925), khi sang Paris dự hội

chợ đấu xảo, cùng các quan Nam triều sáng chế tại

chỗ cờ Long Tinh (thêm hai vạch đỏ tượng trưng cho

hình rồng vào giữa lá cờ vàng) vì cần thiết cho nghi

lễ. Tuy nhiên, từ "cờ long tinh" có lẽ đã xuất hiện từ

thời vua Gia Long. Cụ thể, nó có tên Hán "Long Tinh

Kỳ" với "Kỳ" là cờ; "Long" là rồng, biểu tượng cho

hoàng đế, có màu vàng với râu tua màu xanh dương,

tượng trưng cho Tiên và đại dương là nơi rồng cư

ngụ; "Tinh" là ngôi sao trên trời, cũng là màu đỏ,

biểu tượng cho phương Nam và cho lòng nhiệt thành,

chấm ở giữa. Tóm lại "Long Tinh Kỳ" là cờ vàng có

chấm đỏ viền tua xanh.

Khi Pháp mới tấn công Việt Nam, Việt Sử Toàn Thư

(trang 467) ghi "Từ Trung ra Bắc, cờ khởi nghĩa bay

khắp nơi"; có tác giả chú thích rằng cờ này chính là

cờ long tinh của nhà Nguyễn.

Có nguồn cho biết, năm 1821, vua Minh Mạng còn

lấy đại kỳ màu vàng, chung quanh viền kim tuyến

(chỉ vàng).

Cờ Pháp thuộc

Long tinh kì (1863-1885):

[img]http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/5/54/

Vn_tonki.gif[/img]

Đại Nam kì (1885-1890):

[img]http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/c/c1/

Vie_an1.gif[/img]

Trong thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền bảo hộ Pháp

trên toàn Liên bang Đông Dương sử dụng lá cờ có

nền vàng và ở góc trái trên cao là hình quốc kỳ Pháp,

từ năm 1923 đến khi bị Nhật lật đổ vào 9 tháng 3

năm 1945.

Tại từng vùng thuộc địa trên lãnh thổ Việt Nam, Nam

kỳ dùng quốc kỳ Pháp (còn gọi là cờ tam sắc), Bắc

kỳ và Trung kỳ dùng cờ biểu tượng cho vua nhà

Nguyễn, nhưng cờ này chỉ được treo nơi nào có nhà

vua ngự. Cụ thể nó được treo ở kỳ đài ở quảng trường

Phu Văn Lâu, cột cờ đàn Nam Giao ở ngoại ô kinh

thành Huế, hay cột cờ Hành Cung ở các địa phương.

Cờ An Nam và những vùng có ảnh hưởng của vua

nhà Nguyễn được miêu tả dưới đây theo từng giai

đoạn:

Từ khi Pháp tấn công lãnh thổ Việt Nam, cờ long tinh

(nền vàng viền lam chấm đỏ) vẫn được dùng như

biểu tượng quyền lực của nhà Nguyễn. Đến năm

1885, người Pháp không chấp thuận cho vua Đồng

Khánh dùng Long Tinh Kỳ nữa vì lá cờ này thể hiện

sự chống đối Pháp (vua Hàm Nghi dùng lá cờ này khi

chống Pháp). Triều đình Đồng Khánh dùng lá cờ mới

cũng có nền vàng, nhưng màu đỏ thì gồm hai chữ

Hán Đại Nam, quốc hiệu của nước Việt Nam lúc đó,

và lá cờ có tên Đại Nam Kỳ. Tuy nhiên, những chữ

viết trên lá cờ không thực sự giống với các nét chữ

Hán của quốc hiệu Đại Nam

Năm 1890, vua Thành Thái đổi sang dùng lá cờ có

nền vàng ba sọc đỏ vắt ngang. Lá cờ này tồn tại qua

các đời vua Thành Thái và Duy Tân, những ông vua

chống đối Pháp, và do đó cũng được coi là biểu

tượng chống Pháp. Sau khi Thành Thái và Duy Tân

bị Pháp bắt đi đày, Khải Định lên ngôi theo quan

điểm thân Pháp đã thay đổi cờ. Ông dùng cờ nền

vàng và một sọc đỏ lớn vắt ngang, và cũng gọi cờ này

là cờ long tinh.

Theo một số nguồn, đại kỳ màu vàng cũng có thể đã

được treo thường xuyên quảng trường Phu Văn Lâu.

Ngoài ra còn có các Tinh Kỳ, cờ Đại Hùng Tinh, cờ

Nhật Nguyệt, cờ Ngũ Hành, được dùng để biểu thị

nghi vệ Thiên Tử trong các buổi thiết triều, các dịp tế

lễ, hay theo loan giá những khi nhà vua xuất cung. Lá

cờ ban cho các khâm sai đặc sứ, còn được gọi là cờ

Mao Tiết, thì màu sắc tùy nghi, trên mặt thêu họ và

chức vụ của vị khâm sai, chung quanh viền ngân

tuyến (chỉ bạc). Các cờ xí treo thời này thường có tua

viền xung quanh.

Lá cờ long tinh trong giai đoạn cuối của thời Pháp

thuộc lần đầu được ấn định làm quốc kỳ nước Đại

Nam khi Nhật Bản dần thay chân Pháp ở Việt Nam.

Dưới áp lực của quân Nhật, Pháp cố duy trì ảnh

hưởng của họ bằng cách đàn áp các phong trào chống

đối và nâng cao uy tín của các nhà vua Đông Dương.

Hoàng đế Bảo Đại nhân cơ hội này đã đưa ra một số

cải cách, trong đó có ấn định quốc kỳ của nước Đại

Nam là cờ long tinh; được Toàn quyền Đông Dương

Jean Decoux chấp thuận. Cờ long tinh được dùng trên

lãnh thổ Đại Nam (Bắc kỳ và Trung kỳ). Nam kỳ vẫn

dùng cờ tam sắc của Pháp

Long tinh đế kì :

[img]http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/2/2e/

Colongtinh.gif [/img]

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Hoàng đế Bảo Đại

tuyên bố độc lập. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, ông

tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Quý Mùi 1883 và Hòa ước

Giáp Thân 1884. Chính phủ độc lập được thành lập

ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là nhà học giả

Trần Trọng Kim. Quốc hiệu được đổi thành Đế quốc

Việt Nam và, ngày 8 tháng 5 năm 1945, quốc kỳ

được chọn gọi là cờ quẻ Ly. Cờ này cũng nền vàng, ở

chính giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Quẻ Ly là một

trong 8 quẻ của bát quái và gồm một vạch liền, một

vạch đứt và một vạch liền; bề rộng của các vạch này

chỉ bằng một phần bề rộng chung của lá cờ.

Cờ quẻ Ly là cờ của cả nước Việt Nam, nhưng trong

thực tế Nhật vẫn cai trị Nam kỳ. Sau khi Nhật đầu

hàng quân Đồng Minh, Nam kỳ mới được trao trả

ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 10 ngày sau đó

Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Nam Kỳ, thực tế, chưa

bao giờ dùng cờ quẻ Ly.

Trong thời kỳ này, Long Tinh Kỳ trở thành lá cờ của

hoàng đế, chỉ treo ở Hoàng thành Huế hoặc mang

theo những nơi vua tuần du, gọi là Long Tinh Đế Kỳ.

Long Tinh Đế Kỳ có sửa đổi nhỏ so với Long Tinh

Kỳ trước đó: nền vàng đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp lại

bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương xứng với cờ Quẻ

Ly.