TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
ĐẾN LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM VÀ QUAN HỆ LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
TS. Nguyễn Duy Phúc1
Tóm tắt: Với nền tảng mô hình tăng trưởng hiện nay thì cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 chắc chắn sẽ tác
động mạnh mẽ đến lao động, việc làm ở Việt Nam. Robot thế hệ mới sẽ làm mất cơ hội việc làm trong những
ngành thâm dụng lao động, đồng thời tạo ra áp lực đối với chất lượng nguồn nhân lực. Nền tảng kỹ thuật
số sẽ hình thành nên thị trường lao động phi biên giới và các biên giới ảo trên thị trường lao động. Về quan
hệ lao động, Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm xuất hiện nhiều vấn đề mới, thậm chí là thay đổi cách tiếp
cận truyền thống về quan hệ lao động tại nơi làm việc. Đặc biệt, sự phát triển của Internet và mạng xã hội
trao cho người lao động các cơ hội và công cụ liên kết rộng mở hơn và hình thành nên các tổ chức ảo của
người lao động. Nếu thiếu khung khổ pháp lý phù hợp có thể làm cho các hành động tập thể của người lao
động diễn ra phức tạp và khó kiểm soát hơn.
Từ khóa: cách mạng công nghiệp 4.0, lao động, việc làm, quan hệ lao động, tổ chức ảo
Abstract: With the current growth model, the 4thIndustrial Revolution will certainly have a strong impact
on labor and employment in Vietnam. New generation robots will take employment opportunities in labor-
intensive industries and create pressure on the quality of human resources. The Digital platform will form
the borderless labor market and virtual frontiers in the labor market. In terms of industrial relations, the
4thIndustrial Revolution will bring new problems and even change the traditional approach to industrial
relations at the workplace. In particular, the development of the Internet and social media gives workers
more opportunities and tools to associate and form the virtual organizations of workers. Lack of an
appropriate legal framework can make workers’ collective actions more complicated and difficult to control.
Keywords: the 4thIndustrial Revolution, labor, employment, industrial relations, virtual organizations
1. BA KỊCH BẢN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư (còn gọi là Cách mạng công nghiệp 4.0) diễn ra trong
3 lĩnh vực chính là: kỹ thuật số, công nghệ sinh học vật lý. Trong đó, đặc biệt là sự phát triển
trong lĩnh vực kỹ thuật số với 3 yếu tố cốt lõi là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối (IoT) Dữ
liệu lớn (Big Data).
Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 phụ thuộc vào mức độ chủ động trong cải cách thể
chế tăng trưởng chung của kinh tế thế giới. Dựa vào đó, các nghiên cứu dự báo tăng trưởng kinh
1 Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ Phát triển QHLĐ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
261
PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
tế Việt Nam giai đoạn 2018-2025 và tầm nhìn đến năm 2030 có thể diễn ra theo 3 kịch bản. Các
kịch bản này sẽ dẫn tới những tác động khác nhau về lao động, việc làm và cả quan hệ lao động.
Kịch bản 1 (Kịch bản thấp): Kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển theo mô hình hiện nay (tăng
trưởng dựa vào vốn, không hạn chế nhập siêu, luôn hiện hữu rủi ro về tài chính, nợ công) và gặp
tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới. Khi đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 6%, lạm phát 7%.
Kịch bản này rất ít khả năng xảy ra.
Kịch bản 2 (Kịch bản cao): Tiến trình cải cách thể chế, chuyển đổi nền kinh tế diễn ra mạnh
mẽ, nguy về tài chính nợ công được giải quyết triệt để tăng trưởng kinh tế thế giới ổn định.
Khi đó, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao 6,7%, lạm phát 6%. Kinh tế phát triển bền vững
tạo tiền đề cho giai đoạn sau. Kịch bản này không nhiều khả năng xảy ra.
Kịch bản 3 (kịch bản trung bình): Mô hình kinh tế được chuyển đổi mức độ vừa phải, nhưng
giai đoạn đầu kỳ về cơ bản vẫn là nền kinh tế tăng trưởng dựa vào vốn và là nền kinh tế nhập siêu.
Hệ thống tài chính khá ổn định, điều hành tài chính và tiền tệ tương đối linh hoạt. Kinh tế thế giới
tiếp tục ổn định các hiệp định thương mại hiệu lực, giúp đầu xuất khẩu Việt Nam cải
thiện hơn. Khi đó, tăng trưởng kinh tế toàn giai đoạn 2018-2025, 2030 có thể đạt mức 6,5%, trong
khi lạm phát duy trì ở mức thấp, khoảng 5%. Kịch bản này có nhiều khả năng xảy ra nhất và được
chọn làm kịch bản cơ sở.
2. TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐẾN LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM
hình tăng trưởng quyết định sự ổn định của kinh tế thế giới sẽ quyết định lao động, việc
làm của Việt Nam. Tuy nhiên, với nền tảng hình tăng trưởng hiện nay thì cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 chắc chắn sẽ tác động mạnh mẽ đến lao động, việc làm ở Việt Nam. Sự tác động đó thể
hiện trong một số khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, robot thế hệ mới và nền tảng kết nối thông tin mới sẽ làm mất hội việc làm trong
những ngành thâm dụng lao động hiện nay
Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động mạnh mẽ quy mô và cấu trúc việc làm trên thị trường
lao động. Tuy nhiên, không phải tất cả ngành nghề đều bị tác động như nhau. Chỉ những công việc ít
sáng tạo, lặp đi lặp lại hay những công việc nguy hiểm mới bị thay thế bởi robot. Chính vậy, dự báo
Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động mạnh mẽ đến các ngành dệt may, da giày, điện tử, chế biến
nông sản và cả ngành nông nghiệp. Trong đó, tác động mạnh nhất sẽ là lên ngành dệt may, da giày.
Báo cáo của ILO cho thấy có đến 86% lao động trong ngành dệt may (khoảng 2,5 triệu lao động)
da giày (khoảng 1,7 triệu lao động) đối mặt với nguy cơ mất việc. Trong đó, đa số lao động nữ, lao
động trẻ, ít qua đào tạo. Ngoài ra, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp cũng chịu tác động mạnh. Dự
báo lao động trong ngành Nông - lâm nghiệp và Thủy sản tiếp tục giảm, cụ thể là đến năm 2020, lao
động trong ngành Nông - lâm nghiệp và Thủy sản là 19,49 triệu người, chiếm 35,24%, giảm xuống
15,30 triệu, chiếm 25,46% vào năm 2025 và xuống còn 9,73 triệu, chiếm 14,92% vào năm 2030.
Thứ hai, sự phát triển của công nghệ mới tạo ra những áp lực mạnh mẽ đối với phát triển chất
lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam
Đến Quý III năm 2018 lực lượng lao động Việt Nam 55,41 triệu người với tỷ lệ lao động
qua đào tạo bằng cấp, chứng chỉ 22,24%. Những lao động không qua đào tạo sẽ khó thể
262 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
tìm kiếm được việc làm trong những năm tới. Nghiên cứu dự báo cho thấy tỷ lệ lao động giản đơn
sẽ giảm nhanh, cụ thể năm 2020 tỷ lệ lao động làm nghề giản đơn 23,82%, tiếp tục giảm còn
15% vào năm 2025 và còn 8,87% vào năm 2030.
Rõ ràng đây là một thách thức lớn đối với chất lượng nguồn nhân lực dưới tác động của Cách
mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh những kiến thức, kỹ năng chuyên môn kỹ thuật thì người lao
động trong kỷ nguyên mới cần được trang bị nhiều kỹ năng mềm như: khả năng tư duy sáng tạo
tính chủ động trong công việc, kỹ năng sử dụng máy tính, Internet, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng
làm việc nhóm, kỹ năng an toàn và tuân thủ kỷ luật lao động, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng
quản thời gian, kỹ năng tập trung. Trong khi đó, hệ thống giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam
còn đang gặp nhiều khó khăn để bắt kịp yêu cầu hiện tại.
Thứ ba, thị trường lao động phi biên giới và biên giới ảo trên thị trường lao động
Thị trường lao động truyền thống thường bị giới hạn bởi sự ngăn cách giữa các quốc gia: di
chuyển qua biên giới, chịu các thủ tục quản về con người, các quy định về lao động, điều kiện
lao động… Chính vậy, một người lao động không dễ dàng di chuyển sang nước khác để tìm
kiếm việc làm. Việc đưa người lao động đi làm việc nước ngoài hay di chuyển thể nhân gặp nhiều
rào cản về mặt pháp lý, tốn kém cả về thời gian và tiền bạc.
Trên nền tảng kỹ thuật số sẽ xuất hiện nhiều công việc ảo người lao động quốc gia này
làm việc cho người chủ sử dụng lao động quốc gia khác. Người lao động không cần di chuyển
đến nơi làm việc của người chủ sử dụng lao động (như công sở, nhà máy). Do đó, người lao động
không cần di chuyển qua biên giới, không phải làm các thủ tục xuất nhập cảnh, không phải tuân
thủ pháp luật lao động của nước sở. Mỗi người lao động có thể tìm kiếm việc làm ở bất kỳ nơi nào
trên thế giới ngược lại mỗi người sử dụng thể tìm kiếm người lao động bất kỳ quốc gia nào.
Khi đó, thị trường lao động phi biên giới chính thức tồn tại.
Tuy nhiên, người lao động cũng không hoàn toàn tự do trong tìm kiếm việc làm. Thay vì tìm
kiếm việc làm thông qua các kênh thông tin truyền thống họ phải tìm kiếm việc làm trên các trang
web hay các sở dữ liệu khác nhau. Mỗi website hay kho dữ liệu đều những công cụ
biện pháp để chọn lọc, ngăn chặn truy cập một cách có chủ đích, do đó không phải ai cũng có thể
tiếp cận khai thác thông tin. Chính việc phê duyệt quyền truy cập đã hình thành nên các biên
giới ảo giữa các khu vực của thị trường lao động. Nói cách khác, thị trường lao động bị chia cắt
bởi các biên giới ảo.
3. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI NẢY SINH TRONG LĨNH VỰC QUAN HỆ LAO ĐỘNG
Cách mạng công nghiệp 4.0 làm xuất hiện nhiều vấn đề mới, thậm chí thay đổi cách tiếp
cận truyền thống về quan hệ lao động.
Việc làm ảo trên nền tảng kỹ thuật số làm thay đổi cách tiếp cận về quan hệ lao động
Cách mạng khoa học công nghệ 4.0 làm xuất hiện các dạng thức việc làm mới dựa trên nền
tảng Internet như tax Grab, Uber hay gia công phần mềm, giảng dạy trên mạng Internet… Điều
này có thể làm thay đổi cách tiếp cận về khái niệm “quan hệ lao động”.
263
PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
Trong cách tiếp cận quan hệ lao động truyền thông “quan hệ lao động” được hiểu là quan hệ
giữa người lao động và người sử dụng lao động mà cơ sở để xác định mối quan hệ đó là việc quản
lý, điều hành, trả lương, khen thưởng kỷ luật đặc biệt liệu sản xuất. Người sử dụng lao
động người sở hữu liệu sản xuất. Chính yếu tố liệu sản xuất quyết định một mối quan hệ
là thuê mướn lao động hay mua bán dịch vụ. Hai yếu tố cốt lõi để phân biệt quan hệ lao động với
mua bán dịch vụ là quản lý điều hành và tư liệu sản xuất.
- Mua bán dịch vụ: Bên mua chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm dịch vụ, không quản lý
điều hành và không có trách nhiệm cung cấp tư liệu sản xuất.
- Quan hệ lao động: Người lao động làm việc dưới sự điều hành của người chủ sử dụng
lao động: tuân thủ quy định về kỷ luật lao động như: thời gian, không gian làm việc, quy trình kỹ
thuật… Người chủ có trách nhiệm cung ứng tư liệu sản xuất.
Tuy vậy, trên nền tảng kỹ thuật số thì các yếu tố liệu sản xuất quản điều hành khó phân
biệt rạch ròi, do đó cũng đặt ra các cach tiếp cận mới về quan hệ lao động với nội hàm rộng hơn.
Những vẫn đề thật phát sinh tại nơi làm việc ảo
Môi trường làm việc ảo trên mạng Internet cũng xuất hiện nhiều vấn đề hoàn toàn mới, với
những hình thức biểu hiện mới. Những tiêu chuẩn lao động phổ biến như: sử dụng lao động trẻ
em, phân biệt đối xử, lao động cưỡng bức sẽ tồn tại và biểu hiện hoàn toàn khác với cách biểu hiện
truyền thống. Chẳng hạn, vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc khi đó sẽ rất khó xác định, rất
khó quy trách nhiệm và xử lý.
Quan hệ lao động truyền thống nơi làm việc được tiếp cận những không gian vật nhất
định ở những vị trí địa lý nhất định. Tuy nhiên, những công việc mới trên nền tảng mạng Internet
lại diễn ra trong không gian ảo, không thể xác định được mối quan hệ giữa người lao động
người sử dụng lao động đang diễn ra ở vị trí địa lý hay không gian vật lý nào. Khi đó nơi làm việc
thể là một khu vực dữ liệu hay một hệ điều hành và không bị giới hạn bởi bất kỳ một không gian
vật lý hay địa giới hành chính nào. Do đó, cách tiếp cận về nơi làm việc trong quan hệ lao động sẽ
hoàn toàn khác so với hiện nay.
Quan hệ lao động xuyên quốc gia, quan hệ lao động đa quốc gia thách thức đối với
pháp luật lao động
Trên không gian làm việc ảo, một người lao động nước này thể làm việc cho người sử
dụng lao động ở nước khác (khi đó hình thành quan hệ lao động xuyên quốc gia). Thậm chí, một
người lao động cùng lúc làm cho nhiều người sử dụng lao động các nước khác nhau ngược
lại một người sử dụng lao động cùng lúc thiết lập quan hệ lao động với nhiều người lao động các
nước khác nhau (khi đó hình thành quan hệ lao động đa quốc gia). Điều này đặt ra các thách thức
lớn đối với pháp luật lao động của mỗi quốc gia, nhất là khi xảy ra tranh chấp lao động. Khi xảy ra
tranh chấp lao động thì ai sẽ giải quyết? giải quyết dựa trên khung khổ luật pháp nào?
Sự ràng buộc về kỹ thuật và tính ổn định trong quan hệ lao động
Quan hệ lao động trong các nhà máy thâm dụng lao động hiện nay thường không bền vững
thiếu sự ràng buộc về kỹ thuật giữa người lao động với doanh nghiệp ngược lại. Người lao
động có lương thấp nên sẵn sàng bỏ việc và dễ dàng tìm được việc làm khác có thu nhập tương tự.
264 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Ngược lại, người sử dụng lao động sẵn sàng cho người lao động nghỉ việc vì họ dễ dàng tìm kiếm
lao động thay thế.
Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra nền tảng công nghệ mới với những công việc đòi hỏi
lao động có trình độ cao, chuyên sâu. Khi đó, nếu bỏ việc người lao động khó có thể tìm được một
việc làm tương tự. Ngược lại, người sử dụng lao động cũng khó tìm được lao động thay thế. Điều
này tạo nên sự ràng buộc về kỹ thuật giữa hai bên. Quan hệ lao động sẽ bền chặt và ổn định hơn.
4. C ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐẾN CÁC CƠ CHẾ VÀ THIẾT CHẾ QUAN HỆ LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ làm xuất hiện những vấn đề mới mà còn được dự báo
sẽ tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến các chế, thiết chế quan hệ lao động Việt Nam trong giai
đoạn hiện tại.
Internet và mạng xã hội tạo một nền tảng tốt hơn cho sự liên kết và hành động tập thể của
người lao động
Trong nền tảng công nghệ cũ, người lao động chủ yếu trao đổi thông tin, chia sẻ, liên kết thông
qua các kênh giao tiếp truyền thống (lời nói, điện thoại…) trong các giờ nghỉ giải lao, giờ ăn ca hay
tại các khu nhà trọ. Các kênh giao tiếp truyền thống luôn bị hạn chế bởi các yếu tố như: thời gian (do
thời gian làm việc quá nhiều, thời gian nghỉ ngơi ít), không gian (do làm việc và sinh sống ở những
nơi cách xa nhau), vật lý (tiếng ồn, đeo khẩu trang hay mặt nạ…), kỷ luật lao động ( không được nói
chuyện trong giờ làm việc, quy định về việc phát ngôn…),… Tuy nhiên, trên nền tảng Internet
mạng xã hội, các rào cản trên không còn nhiều ý nghĩa. Người lao động có cơ hội và khả năng liên
kết tốt hơn. Với một chiếc điện thoại thông minh người lao động thể tìm kiếm kết bạn với hàng
nghìn người thuộc nhóm đối tượng mình quan tâm để hình thành nên các tập thể lao động ảo.
Các tổ chức ảo của người lao động tác động thật đến quan hệ lao động
Trong cách tiếp cận hiện nay, mỗi nhà máy, doanh nghiệp chỉ có một tập thể lao động và một
tổ chức đại diện cho tập thể lao động ấy. Đó là công đoàn cơ sở (hoặc công đoàn cấp trên trực tiếp
cơ sở ở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở). Tổ chức ấy đại diện cho tập thể lao động để tham gia
vào các cơ chế đối thoại, thương lượng và tranh chấp lao động.
Dựa trên các nền tảng công nghệ mới, người lao động có thể lập nên các nhóm ảo trên mạng
hội. Mỗi nhóm đáp ứng một nhu cầu liên kết riêng với mục đích riêng, chuẩn mực riêng thậm
chí quy định riêng về điều kiện thành viên và quy chế hoạt động. Do đó, thể coi đây các tổ
chức ảo của người lao động. Mặc dù là tổ chức ảo nhưng các nhóm này đáp ứng nhu cầu liên kết
thật của các thành viên và tác động lên quan hệ lao động thông qua lợi ích, thái độ và hành vi của
người lao động. Thực tế, nhiều cuộc ngừng việc tập thể xảy ra ở các khu công nghiệp đã được tổ
chức dựa trên các nhóm ảo này.
Đối thoại tại nơi làm việc và đối thoại trên không gian làm việc ảo
Đối thoại tại nơi làm việc một chế quan hệ lao động phổ biến, hiệu quả trong quan hệ
lao động. Đối thoại có thể được tiến hành bằng nhiều cách thức như: họp định kỳ giữa công đoàn
và quản lý doanh nghiệp, họp tránh trước ca làm việc, Hội nghị toàn thể người lao động, hòm thư
góp ý, trao đổi trực tiếp…