Thalidomide trong điều trị

bệnh đau tủy xương

Tủy xương người bình thường.

Bệnh đa u tủy xương, còn gọi là bệnh Kahler, là bệnh tăng sinh ác tính

dòng tương bào. Đây là bệnh tăng sinh các monoprotein với triệu chứng thường

gặp là đau xương khớp, thiếu máu, suy thận, tăng calci máu. Gần đây, trên thế giới

có nhiều nghiên cứu đã sử dụng thalidomide trong điều trị bệnh đa u tủy xương và

cho nhiều kết quả hứa hẹn.

Việc điều trị bệnh hiện nay tập trung vào ức chế sự tăng sinh dòng tương

bào, với hóa trị liệu đơn độc hay lý tưởng nhất là hóa trị liệu kết hợp với ghép tủy

tự thân hay ghép tủy đồng loại. Phương pháp điều trị này cho phép kéo dài thời

gian sống thêm nhiều năm. Các thuốc sử dụng trong điều trị bệnh gồm nhiều thuốc

như melphalan, prednison, dexamethason, vincristin, adriamycin,

cyclophosphamid... với nhiều phác đồ phối hợp khác nhau như MP (melphalan +

prednison), VAD (vincristin + adriamycin + dexamethason), VMCP (vincristin +

melphalan + cyclophosphamid + prednison)... Tuy nhiên, mỗi phác đồ có những

thành công cũng như những hạn chế nhất định.

Khi nghiên cứu về bệnh đa u tủy xương, các nhà khoa học nhấn mạnh yếu

tố hoại tử u (TNF-a) và interleukin-6 (IL-6) có tác dụng thúc đẩy sự tăng sinh

mạch máu, vốn đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh của bệnh. Các nghiên cứu

đồng thời cũng nhận thấy vai trò của thalidomide trong việc ức chế các yếu tố

TNF-a và IL-6. Ngày 26/5/2006, FDA đã chính thức công nhận thalidomide là

thuốc được sử dụng trong điều trị bệnh đa u tủy xương.

Thử nghiệm lâm sàng đầu tiên đánh giá hiệu quả và tính an toàn của

thalidomide trong điều trị bệnh đa u tủy xương là vào năm 1999. Các bệnh nhân

trong nghiên cứu đều đã thất bại hoặc tái phát với các điều trị thông thường trước

đó. Sau khi dùng thalidomide đơn độc liều tăng dần từ 200mg- 800mg/ngày, các

tác giả nhận thấy có 32% bệnh nhân có đáp ứng với thuốc. Thuốc được dung nạp

tương đối tốt, các tác dụng phụ bao gồm ngủ gà, táo bón, bệnh lý thần kinh ngoại

biên. Rất nhiều nghiên cứu sau đó cho thấy tỷ lệ đáp ứng ở những bệnh nhân đa u

tủy xương tái phát hoặc thất bại trong điều trị trước đó sau khi dùng thalidomide

đơn độc khá cao (50 - 83%) với liều thuốc thay đổi tùy nghiên cứu, tối thiểu là

50mg/ngày, tối đa là 800mg/ngày. Trong các nghiên cứu mở rộng sau này,

thalidomide còn được dùng kết hợp với các thuốc khác với các phác đồ như

thalidomide + dexamethason, thalidomide + melphalan (đây là hai phác đồ phối

hợp được nghiên cứu nhiều nhất), thalidomide + cyclophosphamit +

dexamethason + thalidomide + VAD, thalidomide + interferon a... và nhìn chung

đều cho kết quả tốt hơn so với các phác đồ cổ điển như điều trị dexamethason đơn

độc, hoặc MP, hoặc VAD. Với các kết quả nghiên cứu trên, sử dụng thalidomide

đơn độc hay phối hợp dần được coi như liệu pháp điều trị chuẩn trong điều trị

bệnh đa u tủy xương tái phát hoặc kháng thuốc.

Về sau, nhiều nghiên cứu đã mở rộng chỉ định điều trị thalidomide cho

những bệnh nhân đa u tủy xương mới phát hiện, chưa điều trị thuốc khác bao giờ

với tỷ lệ đáp ứng từ 66 - 81%, kéo dài thời gian sống cũng như thời gian đến đợt

tái phát tiếp theo so với một số phác đồ chuẩn như MP, VAD. Thuốc có thể dùng

đơn độc hay kết hợp với các thuốc khác như thalidomide + dexamethason,

thalidomide + dexamethason + melphalan. Không những đóng vai trò quan trọng

trong các phác đồ hóa trị liệu đơn thuần, thalidomide đơn độc hay phối hợp với

dexamethason hoặc một số thuốc khác còn được dùng như liệu pháp dẫn để chuẩn

bị trước ghép tủy, liệu pháp củng cố và duy trì sau ghép tủy tự thân, ghép tủy đồng

loài hay sau điều trị bằng các phương pháp hóa trị liệu.

Về liều dùng thalidomide, trong đa số các nghiên cứu đều tăng dần liều từ

100mg đến liều dung nạp tối đa tới 800mg/ngày. Tuy nhiên, tần suất cũng như

mức độ các tác dụng phụ cũng tăng theo liều thuốc. Một số nghiên cứu cho thấy

liều thấp thalidomid (50- 400mg, trung bình 100mg/ngày) cũng cho kết quả khá

tốt. Tuy vậy, mức độ đáp ứng của bệnh với liều thuốc nào là tối ưu còn phụ thuộc

vào các yếu tố tiên lượng bệnh, giai đoạn bệnh và vẫn đang cần nghiên cứu thêm.

Các tác dụng phụ thường gặp của thuốc bao gồm ngủ gà, mệt mỏi, chóng

mặt, táo bón, khô da, nổi ban đỏ... Các tác dụng phụ này giảm dần khi giảm liều

của thuốc và thường hết tác dụng phụ khi giảm liều xuống còn 50 - 100mg/ngày.

Liều cao trên 200mg/ngày nếu phối hợp với dexamethason làm tăng độc tính trên

da. Một số trường hợp dùng thalidomide kéo dài gây bệnh lý thần kinh ngoại biên

với các biểu hiện như giảm cảm giác hay đau nhói, bỏng rát ở tay hay mặt. Các tác

dụng khác ít gặp hơn như phù, nhịp tim chậm, giảm bạch cầu, bất lực. Các tác

dụng phụ trầm trọng là động kinh, huyết khối tĩnh mạch sâu. Huyết khối tĩnh mạch

sâu gặp ở 1-5% các trường hợp dùng thalidomide đơn độc, 10-15% khi phối hợp

với dexamethason và có thể lên tới 25% khi phối hợp với thuốc gây độc tế bào

như adriamycin. Vì vậy, liệu pháp dự phòng huyết khối bằng thuốc chống đông

heparin trọng lượng phân tử thấp cần được sử dụng thường quy khi điều trị

thalidomide (duy trì chỉ số INR từ 2-3). Một tác dụng phụ nguy hiểm nhất là gây

quái thai: không có chân, tay hoặc các rối loạn về tai, mắt, thần kinh trung ương.

Thuốc chống chỉ định tuyệt đối ở phụ nữ có thai, thận trọng ở bệnh nhân có tiền sử

huyết khối tĩnh mạch sâu và bệnh lý thần kinh ngoại biên.