
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
-------
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
Số: 68/TB-VPCP Hà Nội, ngày 03 tháng 03 năm 2009
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ TẠI BUỔI LÀM VIỆC CỦA THƯỜNG
TRỰC CHÍNH PHỦ VỚI TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM
Ngày 24 tháng 02 năm 2009, tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
chủ trì buổi làm việc của Thường trực Chính phủ với Tập đoàn Điện lực Việt Nam về kế
hoạch sản xuất kinh doanh năm 2009, có tính đến năm 2010. Tham dự họp có Phó Thủ
tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải; lãnh đạo các
cơ quan: Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Phát triển
Việt Nam; đồng chí Thái Phụng Nê, Phái viên của Thủ tướng Chính phủ; các Tập đoàn:
Điện lực Việt Nam, Dầu khí Việt Nam, Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam.
Sau khi nghe lãnh đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam báo cáo, ý kiến của các Phó Thủ
tướng Chính phủ; ý kiến của đại diện lãnh đạo các cơ quan dự họp; Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đã kết luận như sau:
1. Đánh giá chung
Năng lượng, trước hết là điện, có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và góp phần bảo đảm an
ninh, quốc phòng. Nhận thức được vai trò đó, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã có nhiều
nỗ lực, vượt qua khó khăn, thách thức, về cơ bản đã hoàn thành được nhiệm vụ được
giao. Chính phủ đánh giá cao đóng góp của Tập đoàn trong việc cung ứng điện năng cho
nền kinh tế và đời sống, bảo đảm việc làm ổn định cho người lao động, góp phần vào
thành tựu chung của cả nước và đã đạt được những kết quả thiết thực:
- Cơ bản đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội: điện năng thương phẩm
năm 2008 đạt gần 66 tỷ KWh, tăng 12,8% so với năm 2007. Nhu cầu điện tăng cao liên
tục, giai đoạn 2000 - 2008 tốc độ tăng bình quân đạt 14,4%. Tuy nhiên, điện thương
phẩm bình quân đầu người năm 2008 mới đạt gần 800 KWh, thấp hơn nhiều so với yêu
cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đã đầu tư xây dựng nhiều công trình nguồn và lưới điện, tổng vốn đầu tư 3 năm 2006-
2008 đạt trên 96 nghìn tỷ đồng, bình quân mỗi năm trên 32 nghìn tỷ đồng; công suất
nguồn điện mới đưa vào vận hành trong 3 năm 2006 - 2008 gần 2.200 MW; các năm

2009, 2010 công suất mới dự kiến đưa vào có nhiều hơn: năm 2009 là 2.700 MW, năm
2010 là 2.300 MW.
- Thực hiện bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp Ngân sách Nhà
nước, cân bằng được tài chính. Năm 2008 doanh thu đạt trên 66 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5%
so với năm 2007, nộp ngân sách Nhà nước đạt 3.408 tỷ đồng. Giá trị tài sản cố định tăng
nhanh, nguyên giá tài sản cố định cuối năm 2006 mới có trên 139 nghìn tỷ đồng, đến cuối
năm 2008 đạt gần 172 nghìn tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu của Tập đoàn tăng nhanh, năm
2006 là 49 nghìn tỷ đồng, đến năm 2008 đạt gần 72 nghìn tỷ đồng.
- Tỷ lệ tổn thất điện năng bình quân mỗi năm giảm được gần 0,93%; năm 2008 tỷ lệ tổn
thất đã giảm xuống còn 9,35%.
- Năng suất lao động trong sản xuất kinh doanh điện tăng hàng năm, chỉ tiêu điện phân
phối bình quân cho một lao động năm 2008 tăng 11,6% so với năm 2007.
- Thực hiện có kết quả nhiều chương trình đầu tư cho điện nông thôn và tiếp nhận lưới
điện hạ áp nông thôn; đến cuối năm 2008, trên 97% số xã và 94% số hộ nông dân có
điện. Việc này thể hiện sự ưu việt trong chính sách của Đảng và Nhà nước trong công
cuộc xóa đói, giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
- Từng bước phát triển kinh doanh đa ngành: về viễn thông đã cung cấp đầy đủ các loại
hình dịch vụ, có hệ thống đường trục cáp quang mạnh đến tất cả các tỉnh thành trong cả
nước, đến cuối năm 2008 đã có trên 3,67 triệu khách hàng. Về cơ khí chế tạo, năm 2008
tổng doanh thu đạt 1.700 tỷ đồng, tăng 51,1% so với năm 2007, đã sản xuất được các
máy biến áp đến cấp điện áp 220kV và chế tạo thiết bị cơ khí thuỷ công cho các nhà máy
thủy điện lớn.
Tuy nhiên, Tập đoàn còn một số tồn tại, nổi rõ là: còn lúng túng trong điều hành khi xảy
ra tình trạng thiếu điện. Năm 2008, việc cấp điện thiếu hụt kéo dài, xẩy ra trên diện rộng
làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế gây bức xúc cho người dân và các doanh nghiệp;
tiến độ xây dựng nhiều công trình nguồn và lưới điện không đảm bảo, điều này không chỉ
ảnh hưởng đến việc cung cấp điện các năm qua mà có thể ảnh hưởng đến việc cấp điện
cho các năm tới. . .
2. Về kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2009, định hướng năm 2010
Năm 2009, dự báo tình hình kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức tạp, suy
giảm kinh tế ở những khu vực kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu sẽ có ảnh hưởng
trực tiếp đến Việt Nam. Vì vậy, Tập đoàn cần tiếp tục nỗ lực để đảm bảo cung cấp đủ
điện cho phát triển kinh tế xã hội; tập trung đầu tư, đảm bảo tiến độ các công trình nguồn
và lưới điện trong Quy hoạch điện VI để đáp ứng nhu cầu điện cho các năm tới.
Tỷ trọng điện sản xuất của các nhà máy thuộc Tập đoàn và các nhà máy Tập đoàn chiếm
cổ phần chi phối hiện nay chiếm gần 70%, trong các năm tới tỷ lệ này có thể giảm, nhưng

Tập đoàn và các đơn vị phát điện nhà nước vẫn phải đóng vai trò chủ đạo trong việc bảo
đảm nhu cầu điện cho phát triển kinh tế của đất nước.
Ngoài phát triển nguồn điện, Tập đoàn cần chú trọng hơn nữa đến phát triển lưới điện;
lưới truyền tải cần được đầu tư đón đầu, phát triển đường dây có nhiều mạch, nhiều cấp
điện áp đi trên cùng một cột để tiết kiệm đất; phát triển lưới điện phân phối để đáp ứng
nhu cầu điện tăng thêm và nâng cao chất lượng điện. Từ ngày 01 tháng 3 tới, giá bán điện
tăng gần 9% và dần chuyển sang thực hiện theo cơ chế thị trường; giá tăng, chất lượng
dịch vụ cần phải tăng.
Việc đầu tư để đáp ứng cho nhu cầu mới cần phải chú ý đến việc sử dụng điện tiết kiệm,
có hiệu quả. Mặc dù mức tiêu thụ điện bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp,
nhưng sử dụng điện vẫn chưa có hiệu quả, thể hiện ở chỗ GDP tăng 1% trong khi đó điện
tăng gần 2%; trong khi trên thế giới, GDP tăng 1%, điện chỉ tăng dưới 1%. Việc tiết kiệm
không chỉ là giảm tổn thất điện năng, mà còn phải tiết kiệm trong các khâu sản xuất và sử
dụng điện; phát triển các dự án công nghiệp có giá trị gia tăng cao, tiêu thụ điện năng
thấp; không phát triển các dự án có công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều điện.
Chính phủ ưu tiên nguồn vốn tín dụng ưu đãi, vốn ODA cho các dự án điện; tuy nhiên
EVN cần chủ động tìm các nguồn vốn khác, như: vay thương mại, phát hành trái phiếu,
tín phiếu, tín dụng người mua, tín dụng người bán… Lợi nhuận thu được cần tập trung
cho đầu tư phát triển điện. Trước mắt cần thu xếp đủ vốn cho năm 2009 là gần 50 nghìn
tỷ đồng.
Công tác giải phóng mặt bằng để đảm bảo tiến độ các công trình điện cũng cần được thực
hiện quyết liệt hơn. Các thành viên Hội đồng quản trị của Tập đoàn cũng phải tham gia
làm việc với các địa phương để tháo gỡ.
Giao Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải trực tiếp chỉ đạo công tác thu xếp vốn và giải
phóng mặt bằng các công trình điện trọng điểm.
Vi�c hình thành thị trường, đưa cạnh tranh vào ngành điện là cần thiết với mục đích
cung cấp điện ổn định, tin cậy và chất lượng ngày càng cao; thu hút vốn đầu tư từ mọi
thành phần kinh tế tham gia hoạt động điện lực.
Năm 2009, Tập đoàn cần thực hiện tốt các chỉ tiêu sau đây:
- Về sản xuất: sản lượng điện thương phẩm 74,68 tỷ kWh, tăng 11,33% so với năm 2008;
giảm tỷ lệ tổn thất điện năng xuống dưới 8,85%. Tăng năng suất lao động 7-12% so với
năm 2008; tiết kiệm chi phí 5%.
- Về đầu tư phát triển:
+ Đưa vào vận hành 9 công trình nguồn điện với tổng công suất 2.700MW, bao gồm các
nhà máy thủy điện: Plêikrông, Sê San 4, Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Sông Ba Hạ, Bản
Vẽ; các nhà máy nhiệt điện: Hải Phòng I, Quảng Ninh I, Ô Môn I.

+ Khởi công xây dựng 4 dự án nhà máy nhiệt điện than với tổng công suất 3.800 MW:
Nghi Sơn 1, Mông Dương 1, Duyên Hải 1 và Vĩnh Tân 2. Đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị
đầu tư các dự án điện theo Quy hoạch điện VI.
+ Phát triển đồng bộ các dự án lưới điện truyền tải và phân phối để đảm bảo an ninh cung
cấp điện và nâng cao chất lượng điện.
+ Tiếp nhận các xã để bán điện trực tiếp đến hộ nông dân; tiếp tục triển khai các dự án
đưa điện về nông thôn. Mục tiêu đến năm 2010, các hộ dân nông thôn được mua điện với
giá quy định.
- Về phát triển đa ngành: ưu tiên cho phát triển cơ khí điện, viễn thông; không đầu tư vào
các ngành khác. Cơ khí điện đã chế tạo được máy biến áp 110 -220 KV, cần nghiên cứu
để chế tạo được cấp điện áp 500 KV.
Về phát triển nguồn nhân lực: ưu tiên phát triển và đào tạo nguồn nhân lực; tiết kiệm chi
phí và tăng năng suất lao động để có thể nâng cao tiền lương cho người lao động.
Về những định hướng chủ yếu cho năm 2010:
Năm 2010, dự báo nền kinh tế thế giới có khả năng ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay,
kinh tế trong nước có thể tăng trở lại với tốc độ cao hơn. Vì vậy, Tập đoàn cần chuẩn bị
sẵn sàng để đáp ứng nhu cầu điện tăng nhanh, với mục tiêu cụ thể như sau:
- Đáp ứng nhu cầu điện tăng khoảng 14 - 15% so với năm 2009, điện thương phẩm đạt 85
- 86 tỷ KWh.
- Thu xếp đủ vốn và tập trung đầu tư để đưa khoảng 2.300 MW nguồn điện mới và lưới
điện đồng bộ vào vận hành, trong đó có tổ máy số 1 thủy điện Sơn La, thủy điện Srepok
3, nhiệt điện Quảng Ninh II, Hải Phòng II, v.v... Tiếp tục triển khai chuẩn bị đầu tư các
công trình được giao trong Quy hoạch điện VI.
Để Tập đoàn Điện lực Việt Nam thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị là bảo đảm cung cấp đủ
điện cho phát triển kinh tế xã hội và tháo gỡ các khó khăn cho Tập đoàn, các Bộ ngành
cần thực hiện những việc sau đây:
a) Bộ Công Thương
- Rà soát, hiệu chỉnh lại Quy hoạch điện VI và chuẩn bị lập Quy hoạch điện VII nhằm
bảo đảm cung cấp điện cho phát triển kinh tế đất nước. Dự báo tốc độ tăng nhu cầu điện
cho phù hợp với tình hình hiện nay, trên cơ sở đó kiến nghị các dự án điện cần phải đầu
tư, phân công lại (nếu cần) cho các đơn vị. Các chủ đầu tư không đủ năng lực tài chính,
các dự án nguồn điện cấp thiết chậm triển khai thì chuyển giao lại cho các Tập đoàn đủ
năng lực thực hiện. Các doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm chính trong phát triển
nguồn điện, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chủ yếu tham gia phát triển các nguồn điện sử
dụng khí đốt, Tập đoàn Than và Khoáng sản chủ yếu phát triển các nhà máy đốt than và

cung cấp than . . . , nhưng chủ lực vẫn là EVN; khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
tham gia với tỷ lệ nhất định. Các đơn vị được giao dự án đầu tư phải đảm bảo thực hiện
đúng tiến độ; báo cáo Thủ tướng Chính phủ tháo gỡ kịp thời các khó khăn vướng mắc.
- Cân đối các nguồn nhiên liệu: than, dầu, khí sử dụng cho phát điện đến năm 2015, trên
cơ sở đó chỉ đạo các Tập đoàn có liên quan chuẩn bị.
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét phân cấp cho Tập đoàn được quyết định
đầu tư đối với các dự án điện sử dụng vốn ODA, nếu việc phân cấp không trái với quy
định của các điều ước quốc tế về ODA mà Việt Nam đã cam kết.
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cùng EVN làm việc với các tỉnh, thành phố: Hà
Nội, Nghệ An, Thái Nguyên. . ., để tháo gỡ các vướng mắc khi thực hiện Dự án Năng
lượng nông thôn II.
- Phối hợp với Bộ Tài chính chỉ đạo EVN và Chủ đầu tư phát triển dự án để giải quyết
các vướng mắc trong đàm phán Hợp đồng mua bán điện (PPA); trường hợp cần thiết,
trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
- Khẩn trương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm
và hiệu quả; trong đó chú ý xây dựng chiến lược tiết kiệm điện trong cả sản xuất và tiêu
dùng.
- Phối hợp với các Bộ, ngành đánh giá tình hình thực hiện cổ phần hóa các công trình
điện, các mặt được và chưa được trong việc thực hiện cổ phần hóa các nhà máy điện; báo
cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét việc tiếp tục thực hiện cổ phần hóa dự án điện và giảm
tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong trong lĩnh vực phát điện.
b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Ưu tiên bố trí nguồn vốn ODA cho các dự án điện đang triển khai theo Quy hoạch điện
VI.
- Phối hợp với Bộ Tài chính bố trí nguồn vốn ngân sách cho dự án cấp điện cho các thôn,
buôn của 5 tỉnh Tây Nguyên; dự án thủy điện Quảng Trị.
- Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc đàm phán với Ngân hàng Châu
Á (ADB) về dự án Phát triển năng lượng tái tạo và mở rộng, cải tạo lưới điện cho các xã
vùng sâu, vùng xa, trong đó có các thôn, buôn của các tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng.
c) Bộ Tài nguyên và Môi trường
- Cho phép áp dụng hình thức Nhà nước giao đất không thu tiền sử dựng đất đối với diện
tích sử dụng vào mục đích lòng hồ thủy điện. Đối với các công trình điện khác, Bộ làm
việc với Tập đoàn để xem xét miễn, giảm phù hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.