THỦ TỤC TRƯỚC KHI XÉT XỬ SƠ THẨM HỆ

THỐNG PHÁP LUẬT HOA KỲ

Trước khi một phiên tòa sơ thẩm hình sự được tiến

hành, luật pháp của liên bang và bang yêu cầu rất

nhiều thủ tục và sự kiện. Một số bước do Hiến pháp

Mỹ và hiến pháp bang ủy quyền, một số do phán

quyết của tòa án, và số khác do những đạo luật lập

pháp. Phần còn lại thường là tập tục và truyền thống.

Mặc dù bản chất chính xác của những sự kiện mang

tính thủ tục này thay đổi theo thực tiễn của liên bang

và bang – và giữa các bang với nhau – nhưng vẫn có

những điểm tương đồng trên toàn đất nước. Tuy

nhiên, những thủ tục này không mang tính tự động

hay lệ thường mà đúng hơn là những người ra phán

quyết của hệ thống pháp lý thực thi quyền tự quyết

tại mọi bước tùy theo giá trị, thái độ và thế giới quan

của họ.

Việc bắt giữ

Bắt giữ là sự liên hệ quan trọng đầu tiên giữa bang và

bị cáo. Hệ thống pháp lý Mỹ đưa ra hai loại bắt giữ

cơ bản – bắt giữ có lệnh và bắt giữ không có lệnh.

Lệnh bắt giữ được ban hành sau khi một đơn kiện, do

một người lập hồ sơ để kiện người khác, đã được

trình bày và xem xét bởi một thẩm phán tiểu hình,

người đã tìm ra nguyên nhân hợp lý cho việc bắt giữ.

Bắt giữ không có lệnh xảy ra khi tội phạm diễn ra

trước sự có mặt của một cảnh sát hay khi một viên

cảnh sát có nguyên nhân hợp lý để tin rằng một người

nào đó đã phạm (hoặc dường như phạm) một tội.

Niềm tin như vậy sau đó phải được thể hiện bằng một

tuyên bố cam đoan hoặc một bản cam kết. Ở Mỹ,

95% các cuộc bắt giữ là không có lệnh.

Quyết định của cảnh sát có bắt giữ hay không không

hề đơn giản hay mang tính tự động một chút nào. Để

chắc chắn, viên cảnh sát chứng kiến vụ giết người sẽ

bắt giữ ngay tại chỗ nếu có thể. Nhưng hầu hết những

vụ vi phạm pháp luật đều không đơn giản hay rõ

ràng, và những viên chức cảnh sát có được - và thực

thi - quyền tự quyết lớn về việc có bắt giữ người nào

đó hay không. Những nguồn lực cần thiết không sẵn

có cho cảnh sát một cách giản đơn để họ khởi kiện tất

cả những hành động mà Quốc hội và các cơ quan lập

pháp cấm. Do vậy, quyền tự quyết phải được thực thi

để xác định phân bổ thời gian và nguồn lực đang có

như thế nào. Quyền tự quyết của cảnh sát được phát

huy tối đa trong một số lĩnh vực.

Những vi phạm nhỏ. Nhiều cẩm nang cho cảnh sát

khuyên các sĩ quan rằng khi xảy ra những vi phạm

luật pháp không đáng kể thì cảnh cáo, nhắc nhở là

biện pháp hợp lý hơn so với bắt giữ. Vi phạm giao

thông, những hành xử sai của tuổi vị thành niên, say

rượu, đánh bạc và sống lang thang cấu thành những

tội không quá nghiêm trọng và đòi hỏi cảnh sát phải

có sự phán xét.

Nạn nhân sẽ không tìm cách khởi kiện. Không cưỡng

chế thi hành luật pháp cũng là nguyên tắc trong

những tình huống mà nạn nhân của một tội phạm sẽ

không hợp tác với cảnh sát trong việc khởi tố một vụ

án. Chẳng hạn, trong trường hợp tội phạm tài sản

không đáng kể, nạn nhân thường thỏa mãn nếu có bồi

thường và không thể có đủ thời gian để làm chứng

trước tòa. Nhìn chung, cảnh sát bắt buộc phải tôn

trọng mong muốn của nạn nhân trừ phi họ đã dùng

hết những nguồn lực to lớn để điều tra một tội phạm

tài sản cụ thể.

Khi nạn nhân của một tội phạm đang có mối quan hệ

với kẻ phạm tội thì cảnh sát thường có xu hướng bắt

giữ. Những mối quan hệ như vậy bao gồm chủ nhà và

người thuê nhà, người hàng xóm này với người hàng

xóm khác, và cho đến gần đây là giữa chồng và vợ.

Tuy nhiên, trong trường hợp cuối này, nhận thức

được đề cao về bạo lực trong gia đình có ảnh hưởng

cực kỳ quan trọng đến các thủ tục của cảnh sát.

Hãm hiếp và quấy rối trẻ em cấu thành một hạng mục

tội phạm quan trọng khác mà đối với chúng thường

không có bắt giữ vì nạn nhân sẽ không hoặc không

thể hợp tác với cảnh sát. Thông thường, về mặt cá

nhân nạn nhân quen biết với, hoặc liên quan đến, kẻ

phạm tội và nỗi sợ bị trả đũa hay công khai thù địch

ngăn cản nạn nhân khởi kiện.

Nạn nhân cũng tham gia vào hành vi sai trái. Khi

cảnh sát nhận thấy rằng nạn nhân của một tội phạm

cũng có liên quan đến một số hành xử không đúng

hoặc đáng ngờ thì cảnh sát thường lựa chọn không

bắt giữ.

Xuất hiện trước thẩm phán tiểu hình

Khi một người bị bắt giữ vì tình nghi phạm tội thì

người đó sẽ bị lưu giữ ở đồn cảnh sát; có nghĩa là

những sự kiện xung quanh việc bắt giữ được ghi chép

lại và bị cáo có thể bị lấy vân tay và chụp hình. Sau

đó bị cáo xuất hiện trước một quan chức tư pháp cấp

thấp mà chức danh có thể là thẩm phán, thẩm phán

tiến hành, hay ủy viên hội đồng (commissioner). Sự

xuất hiện như vậy phải xảy ra “mà không có sự chậm

trễ vô cớ”; năm 1991, Tòa án tối cao Mỹ quyết định

rằng cảnh sát có thể lưu giữ một người bị bắt giữ

không có lệnh trong vòng 48 giờ mà không cần phải

có một phiên tòa xem xét việc bắt giữ đó có đúng hay

không.

Sự xuất hiện này ở tòa án là dịp diễn ra một số sự

kiện quan trọng trong thủ tục tố tụng hình sự. Trước

hết, bị cáo phải được thông báo trước về những lời

buộc tội chính xác và phải được thông tin về bảo lãnh

và những quyền được hưởng theo Hiến pháp. Trong

số những quyền khác, những quyền được hưởng theo

Hiến pháp này bao gồm những quyền nêu trong phán

quyết của vụ án nổi tiếng hiện nay, vụ Miranda kiện

Arizona, do Tòa án tối cao đưa ra năm 1966. Bị cáo

“phải được cảnh báo trước bất kỳ câu hỏi nào rằng

anh ta có quyền giữ im lặng, rằng bất cứ điều gì anh

ta nói đều có thể dùng làm bằng chứng chống lại anh

ta ở tòa án, rằng anh ta có quyền thuê luật sư, và rằng

nếu anh ta không có khả năng thuê luật sư thì sẽ có

một người được chỉ định thay mặt anh ta trả lời bất

kỳ câu hỏi nào”. (Những cảnh báo như vậy cũng phải

được viên cảnh sát bắt giữ thông báo nếu viên cảnh

sát đó là người đặt câu hỏi về tội phạm cho kẻ bị tình

nghi). Ở một số bang, bị cáo phải được thông báo về

những quyền khác nêu trong Hiến chương nhân

quyền của bang, như quyền được xét xử nhanh và

quyền đối chất với những nhân chứng đối nghịch.

Thứ hai, thẩm phán tiểu hình sẽ xác định bị cáo có

được bảo lãnh tại ngoại hay không, và trong trường

hợp đó thì số tiền bảo lãnh là bao nhiêu. Về mặt Hiến

pháp, yêu cầu duy nhất đối với số tiền bảo lãnh là nó

không được “quá lớn”. Bảo lãnh được coi là một đặc

quyền - chứ không phải quyền lợi - và nó có thể bị từ

chối trong những vụ án tử hình mà bằng chứng phạm

tội có tính thuyết phục cao hoặc nếu thẩm phán tiểu

hình tin rằng bị cáo sẽ lẩn trốn khỏi bị kiện tụng mà

không cần quan tâm số tiền bảo lãnh là bao nhiêu.

Một biện pháp thay thế bảo lãnh là giải phóng bị đơn

bằng cam kết trước tòa, về cơ bản là một lời hứa của

bị đơn sẽ quay lại tòa án vào ngày xét xử được chỉ

định.

Trong những vụ án nhỏ, bị cáo có thể được yêu cầu

bào chữa có phạm tội hoặc không phạm tội. Nếu lời

bào chữa là có phạm tội thì một bản án có thể được

tuyên đọc ngay tại chỗ. Nếu bị đơn bào chữa là vô tội

thì sẽ lên kế hoạch một ngày xét xử. Tuy nhiên, trong

vụ án nghiêm trọng điển hình (tội phản quốc), nhiệm

vụ quan trọng tiếp theo của thẩm phán tiểu hình là

xác định liệu bên bị có yêu cầu một phiên tòa sơ bộ

hay không. Nếu một phiên tòa như vậy là cần thiết thì

vụ án sẽ được công tố hoãn lại và bắt đầu một bước

tiếp theo của thủ tục tố tụng hình sự.