Tiểu luận
CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
VÀ PHÚC LỢI XÃ HỘI
1
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ AN SINH XÃ HỘI (ASXH), PHÚC LỢI XÃ HỘI
(PLXH)
1.1. Khái niệm An sinh xã hội
An sinh xã hội là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trên thế giới cũng như ở
Việt Nam trong những năm gần đây. Tuy nhiên, khái niệm, bản chất và nội dung của nó
vẫn còn nhiều quan điểm nhận thức khác nhau. Vì vậy, tổ chức hệ thống an sinh xã hội ở
các nước vẫn chưa có sự thống nhất. Theo những tài liệu hiện có thì thuật ngữ “an sinh xã
hội” được sử dụng chính thức lần đầu tiên trong tiêu đề của một đạo luật Mỹ - luật 1935
về an sinh xã hội. Năm 1938, an sinh xã hội lại xuất hiện trong một đạo luật của Niujilan
và năm 1941 đã xuất hiện trong Hiến chương Đại Tây Dương. Khi tổ chức Lao động quốc
tế ra đời và thông qua công ước số 102 về quy phạm an sinh xã hội ngày 25-6-1952 thì
thuật ngữ an sinh xã hội được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới.
Trong cuốn “Cẩm nang an sinh xã hội”, ILO đưa ra khái niệm: “An sinh xã hội là sự
bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp
công cộng để chống lại tình cảnh khốn khổ về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị
ngưng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật trong lao động,
thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong; sự cung cấp về chăm sóc y tế và các khoản tiền
trợ cấp giúp cho các gia đình đông con”. Trong khái niệm này, 9 lý do làm cho người lao
động bị mất, giảm sút về thu nhập hoặc phát sinh thêm các khoản chi phí cần thiết trong
cuộc sống, thực chất là chín chế độ BHXH mà ngày nay rất nhiều nước trên thế giới đã
thực hiện được và đó cũng được coi là chín nhánh của hệ thống an sinh xã hội lúc bấy
giờ.
Bên cạnh khái niệm mà ILO đưa ra một số nhà khoa học đứng lên trên các góc độ
nghiên cứu khác nhau còn đưa ra các khái niệm khác nhau về an sinh xã hội. Chẳng hạn,
theo H.Beverdidge - một nhà kinh tế và xã hội học người anh cho rằng: “An sinh xã hội là
sự đảm bảo về việc làm khi người ta còn sức làm việc và đảm bảo một lợi tức khi người ta
không còn sức làm việc nữa”. Hay đạo luật về an sinh xã hội của Mỹ năm 1935 lại đưa ra
khái niệm, an sinh xã hội là sự đảm bảo của xã hội, nhằm bảo trợ nhân cách cùng giá trị
của cá nhân, đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát 2
triển tài năng đến tột độ. Trong hiến chương Đại Tây Dương thì cho rằng, an sinh xã hội
là sự đảm bảo thực hiện quyền con người trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di
chuyển, phát triển chính kiến trong khuôn khổ pháp luật, được bảo về và bình đẳng trước
pháp luật được học tập, được làm việc và nghỉ ngơi, có nhà ở, được chăm sóc y tế và đảm
bảo thu nhập để có thể thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB): ASXH là những biện pháp công cộng nhằm giúp cho
các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy cơ tác động
đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh thu nhập.
Theo Hiệp hội An sinh quốc tế (ISSA) coi ASXH là thành tố của hệ thống chính sách
công liên quan đến sự bảo đảm an toàn cho tất cả các thành viên xã hội chứ không chỉ có
công nhân. Những vấn đề mà ISSA quan tâm nhiều trong hệ thống ASXH là chăm sóc
sức khoẻ thông qua bảo hiểm y tế; hệ thống BHXH, chăm sóc tuổi già; phòng chống tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ giúp xã hội.
Theo đà phát triển kinh tế xã hội, nội dung của ASXH đã ngày càng được mở rộng và
vì thế mô hình tổ chức hệ thống ASXH ở những nước khác nhau thường có sự khác nhau,
tùy theo hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà từng nước theo đuổi.
Ngày nay, nội dung của ASXH thường được thể hiện ở các chính sách kinh tế, xã hội,
như: BHXH, cứu trợ xã hội (CTXH) ưu đãi xã hội (ƯĐXH), trợ giúp xã hội (TGXH), các
quỹ dự phòng, xóa đói giảm nghèo… Với nội dung được mở rộng này, khái niệm về
ASXH được thế giới nhìn nhận trên một bình diện mới: “ASXH là sự bảo về mà xã hội
cung cấp cho các thành viên trong cộng đồng không may lâm vào hoàn cảnh yếu thế trong
xã hội thông qua các biện pháp phân phối tiền bạc và dịch vụ xã hội”.
Ở Việt Nam, ASXH được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, một mặt là do mục
tiêu phấn đấu để làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh; mặt
khác là do hậu quả của những cuộc chiến tranh, thiên tai lại thường xảy ra trên diện rộng,
đất nước còn nhiều khó khăn, số hộ nghèo còn nhiều… Vì vậy, ASXH cũng đã dành được
sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản lý nghiên cứu. Tại hội thảo quốc tế với
chủ đề: “Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam” ngày 22-8-2007 Tiến Sĩ Nguyễn Hải Hữu
đại diện cho phía Việt Nam đưa ra khái niệm:“ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính
sách, biện pháp của Nhà nước và xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối 3
phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ có nguy cơ suy giảm, mất
nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao
động hoặc vì những nguyên nhân khác quan rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ và cung cấp
các dịch vụ sức khoẻ cho cộng đồng, thông qua hệ thống mạng lưới về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ giúp xã hội"1.
- Theo GS Hoàng Chí Bảo thì: ASXH là sự an toàn của cuộc sống con người, từ cá
nhân đến cộng đồng, tạo tiền đề và động lực cho phát triển con người và xã hội. ASXH là
những đảm bảo cho con người tồn tại (sống) như một con người và phát triển các sức
mạnh bản chất người, tức là nhân tính trong hoạt động, trong đời sống hiện thực của nó như một chủ thể mang nhân cách2.
- GS.TS Mai Ngọc Cường lại cho rằng, để thấy hết được bản chất, chúng ta phải tiếp
cận ASXH theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của khái niệm này.
+ Theo nghĩa rộng: ASXH là sự đảm bảo thực hiện các quyền để con người được an
bình, đảm bảo an ninh, an toàn trong xã hội3.
+ Theo nghĩa hẹp: ASXH là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác
cho cá nhân, gia đình và cộng đồng khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do họ bị giảm hoặc
mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, người bị thiên tai địch hoạ4.
- "Chiến lược ASXH giai đoạn 2011 - 2020”ghi nhận: “An sinh xã hội là sự bảo đảm
mà xã hội cung cấp cho mọi thành viên trong xã hội thông qua việc thực thi hệ thống các
cơ chế, chính sách và biện pháp can thiệp trước các nguy cơ, rủi ro có thể dẫn đến suy giảm hoặc mất đi nguồn sinh kế”5.
- Trong bài “Đảm bảo ngày càng tốt hơn ASXH và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ
yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020” Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
cho rằng: “ASXH và PLXH là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức
1 PGS.TS Nguyễn Hải Hữu, Giáo trình ASXH, Nxb LĐ-XH, Hà Nội, 2008, tr19 2 Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đề tài KX02.02/06-10 3 GS.TS Mai Ngọc Cường, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, tr21 4 GS.TS Mai Ngọc Cường, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, tr22 5 Nguyễn Thị Lan Hương, Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020, Tạp chí Lao động và xã hội, số 19, quý II, 2009.
4
sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội
và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân"6.
Như vậy, trên cơ sở phân tích các quan điểm về ASXH có thể rút ra kết luận sau: An
sinh xã hội là những can thiệp của Nhà nước và xã hội bằng các biện pháp kinh tế để
hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi ro cho các thành viên trong cộng đồng do bị
mất hoặc giảm thu nhập bởi các nguyên nhân ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất
nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho
các gia đình đông con.
Bản chất của ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các
thành viên trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay khi gặp những rủi ro xã hội
khác. Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện
chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc
sống cho các thành viên trong xã hội do đó nó vừa có tính k inh tế, vừa có tính xã hội và
nhân đạo sâu sắc.
1.2. Khái niệm Phúc lợi xã hội
Phúc lợi xã hội thường được hiểu là bao gồm nhiều lĩnh vực và chương trình đa dạng
trong đó có nhiều hệ thống chính như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bao phủ nhiều lĩnh
vực chủ yếu như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, nhà ở, chính sách với người hưu trí, gia
đình có công, chính sách, gia đình thương binh liệt sĩ, các chính sách trợ cấp thất nghiệp
và tạo công ăn việc làm, các chính sách xoá đói giảm nghèo, cứu trợ người nghèo, người bị tai nạn hay gặp thiên tai, giúp đỡ người tàn tật, mồ côi7.
* Hệ thống phúc lợi ở Việt Nam: Nghiên cứu phúc lợi xã hội ở Việt Nam xoay quanh 5
trục sau:
1. Xây dựng khu vực chính của hệ thống phúc lợi bao gồm ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế và cứu trợ xã hội.
2. Hình thành các quan hệ lao động (luật doanh nghiệp, luật lao động…)
6 Nguyễn Tấn Dũng, Đảm bảo ngày càng tốt hơn ASXH và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Tạp chí Cộng sản, Số 815 (9/2010), tr3. 7 Bùi Thế Cường, nghiên cứu chính sách xã hội: Nhìn lại một chặng đường, tạp chí XHH số 4-2005
5
3. Phúc lợi cho các nhóm xã hội yếu thế (trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người tàn tật…)
4. Xoá đói giảm nghèo.
5. Khuôn khổ hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực phúc lợi xã hội (nhà nước, đoàn thể xã hội, tổ chức chính phủ, doanh nghiệp, nhóm hoạt động…)8.
II. CÁC CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI VÀ PHÚC LỢI XÃ HỘI
2.1. Các chính sách an sinh xã hội
Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, diện bảo về và che chắn của hệ thống
ASXH ngày càng được mở rộng, nội dung của ASXH ngày càng phong phú thì chính
sách xã hội ngày càng cần thiết. Bởi vì, chỉ có những chính sách đúng đắn và hợp lòng
dân thì việc tổ chức hệ thống ASXH mới đảm bảo hiệu quả. Ngày nay, ASXH bao gồm
rất nhiều thành tố khác nhau, như: BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, các quỹ dự
phòng…
2.1.1. Chính sách bảo hiểm xã hội
2.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội (BHXH)
Có nhiều khái niệm về bảo hiểm xã hội nhưng theo tổ chức Lao động quốc tế thì bảo
hiểm xã hội là “sự bảo vệ của cộng đồng xã hội đối với các thành viên của mình thông
qua sự huy động các nguồn đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội để trợ cấp trong các
trường hợp ốm đau, tai nạn, thương tật, già yếu, thất nghiệp. Đồng thời chăm sóc y tế và
trợ cấp cho các gia đình đông con để ổn định đời sống của thành viên và đảm bảo an toàn của xã hội”9.
Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc, bảo
hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
2.1.1.2. Chính sách bảo hiểm xã hội qua các thời kỳ
* Giai đoạn trước năm 1945:
Trước năm 1945 ở Việt Nam chưa có pháp luật bảo hiểm xã hội. Bởi vì đất nước bị
thực dân Pháp đô hộ. Đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, nghèo đói. Nhưng đối với
công dân Việt Nam, gần như chính quyền Pháp phủ nhận quyền lợi BHXH của họ. Điển
8 Bùi Thế Cường, nghiên cứu chính sách xã hội: Nhìn lại một chặng đường, tạp chí XHH số 4-2005 9 http://bhxhquangngai.gov.vn/index.php?nv=about
6
hình là công dân Việt Nam làm việc trong các đồn điền, các nhà máy … bị ốm đau bệnh
tật hay chết đều không được hưởng chế độ chữa bệnh mai táng.
Tuy nhiên, nhân dân Việt Nam có truyền thống cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau những khi
gặp rủi ro hoạn nạn. Đặc biệt là sự che chở của họ hàng làng xã thân tộc. Cũng có một số
nhà thờ tổ chức nuôi trẻ mồ côi, thực hiện tế bần. Có thể nói với những hình thức này đã
bắt đầu đánh dấu sự xuất hiện của Bảo hiểm xã hội Việt (hay còn gọi là bảo hiểm xã hội
sơ khai).
* Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954:
- Tháng 12 năm 1946 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ
nhân dân. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản luật về BHXH như sắc lệnh 54/SL ngày
14-6-1946 ấn định về việc cấp hưu bổng cho công chức. Theo sắc lệnh này, trong quỹ hưu
bổng, ngoài phần đóng góp của công chức theo quy định còn có phần trợ giúp của nhà
nước.
- Ngày 12 tháng 3 năm 1947 Chủ tịch nước Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29/SL quy định
chế độ trợ cấp cho công nhân.
- Ngày 20 tháng 5 năm 1950 Hồ Chủ Tịch ký 2 sắc lệnh là 76, 77 quy định thực hiện các
chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ, công nhân viên chức.
Đặc điểm của chính sách pháp luật bảo hiểm xã hội ở thời kỳ này là do trong hoàn
cảnh kháng chiến gian khổ nên việc thực hiện bảo hiểm xã hội rất hạn chế. Tuy nhiên, đây
là thời kỳ đánh dấu sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo hiểm xã
hội. Đồng thời những quy định về bảo hiểm xã hội của Nhà nước ở thời kỳ này là cơ sở
cho sự phát triển bảo hiểm xã hội sau này.
*Giai đoạn từ năm 1954 đến 1975:
Ngày 27-12-1961 nhà nước ban hành Nghị định 218/CP của chính phủ về “Điều lệ
tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức”. Đây có thể coi là văn
bản gốc về BHXH quy định đối tượng là công nhân viên chức Nhà nước, hệ thống 6 chế
độ BHXH, quỹ BHXH nằm trong ngân sách nhà nước do các cơ quan đơn vị đóng.
Theo Nghị định, hệ thống chế độ BHXH ở Việt Nam bao gồm:
1. Chế độ trợ cấp ốm đau
2. Chế độ trợ cấp thai sản
7
3. Chế độ trợ cấp TNLD và BNN
4. Chế độ trợ cấp hưu trí
5. Chế độ trợ cấp mất sức lao động
6. Chế độ trợ cấp tử tuất
Chính sách BHXH ban hành kèm theo Nghị định 218/CP đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo ổn định đời sống người lao động, thu hút và động viên hành
triệu lao động tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Động viên đội ngũ cán bộ công nhân
viên, lực lượng vũ trang chiến đấu và làm việc trong một thời kì cách mạng gian khổ và
khó khăn để đấu tranh thống nhất tổ quốc, xây dựng Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam Á và góp phần tích cực trong việc thúc đẩy thực hiện các chính sách xã hội khác của
Đảng và Nhà nước.
Đến năm 1964, Chính phủ ra Điều lệ đãi ngộ quân nhân. Riêng miền Nam, BHXH
cũng thực hiện đối với công chức, quân đội làm việc cho chính thể Ngụy.
*Giai đoạn từ năm 1975 đến 1995
Khi nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm
1986, đặc biệt từ năm 1990 trở lại đây, điều kiện kinh tế xã hội có nhiều thay đổi. Tuy
nhiên, chính sách BHXH ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế không phù hợp với cơ chế
mới vì vậy 22-6-1993 chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời về chế
dộ BHXH áp dụng cho thành phần kinh tế, đánh dấu bước đổi mới cho BHXH Việt Nam.
Qua thực tế chế độ trợ cấp mất sức lao động bộc lộ những điểm bất cập nên đã được loại
bỏ nên BHXH Việt Nam chỉ thực hiện 5 chế độ còn lại. Trong thời gian này BHYT Việt
Nam ra đời theo nghị định 229/HĐBT ngày 15-8-1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về việc ban hành điều lệ BHYT và được triển khai rộng khắp trên toàn quốc
khi được coi là một nhánh của BHXH tách ra nhưng BHYT mới mẻ đối với Việt Nam do
chưa có nhiều kinh nghiệm nên BHYT phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
Sau đại hội VI của đảng cộng sản Việt Nam (12/1986), để phù hợp với cơ chế quản lý
mới, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà Nước theo
định hướng XHCN, chính sách BHXH được Đảng và Nhà nước ta tiếp tục sửa đổi và bổ
sung. Những nội dung cơ bản trong chương 12 của Bộ luật Lao động được thông qua tại
kỳ họp thứ 5 quốc hội khóa IX 23-6-1994 đã thể hiện điều đó.
8
*Giai đoạn từ 1995 đến nay:
BHXH mở rộng đối tượng, thành lập quỹ BHXH độc lập với ngân sách Nhà nước do
sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước, thành
lập cơ quan chuyên trách để quản lý quỹ và giải quyết các chế độ trợ cấp.
Ngày 26 -1 -1995, trên cơ sở những quy định của Bộ luật Lao động, Chính phủ đã ban
hành điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/CP.
Ngày 16 -2 -1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP về việc thành lập hệ thống
BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất chức năng, nhiệm vụ các bộ của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Nghị định 45/CP ngày 15 -7 -1995 cho các đối tượng hưởng BHXH là công nhân viên
chức và lực lượng vũ trang.
Có thể thấy, BHXH Việt Nam lúc này thực sự đổi mới nội dung, phương pháp hoạt
động cũng như tổ chức quản lý.
Để tiếp tục thống nhất quản lý Nhà Nước về hoạt động BHXH, ngày 24 -1 -2002,
Chính phủ ban hành quyết định số 20/2002/ QĐ/TTg về việc chuyển BHYT Việt Nam
thực hiện thêm một chế độ thứ 6 là chế độ chăm sóc Y tế.
Theo thời gian, các văn bản pháp quy về BHXH được ban hành sửa đổi, bổ sung làm
cho BHXH ngày càng hoàn thiện. Ví dụ: Ngày 24/01/2002, Chính phủ có Quyết định số
20/2002/QĐTTg chuyển hệ thống BHYT trực thuộc Bộ Y tế sang BHXH Việt Nam và
ngày 06/12, Chính phủ ra Nghị định 100/NĐCP quyết định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của BHXH (bao gồm cả BHYT)10. Nghị định của chính phủ số
01/2002 NĐ-CP ngày 9-1-2003 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của BHXH ban hành
kèm theo NĐ số 12/CP; nghị định của chính phủ số 208/2004/ NĐ-CP ngày 14-12-2004
và số 117/2005/NĐ -CP ngày 15-9-2005 về điều chỉnh lương hưu và trợ cấp BHXH…
Năm 2006, sự phát triển của BHXH ở Việt Nam được đánh dấu bằng một mốc quan
trọng; Luật BHXh được thông qua ngày 29/06/2006 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007.
Riêng đối với BHXH tự nguyện được thực hiện từ ngày 01/01/2009. Để cụ thể hóa Luật
Bảo hiểm xã hội Chính phủ ban hành Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/ 12/ 2006
10 http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/newscategory/252/bhxh_vn.htm
9
hướng dẫn một số điều của luật BHXH bắt buộc; quyết định số 41/2007/QĐ-TTg ngày
29/3/2007 về quản lý chính đối với BHXH Việt Nam.
Kết quả, số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm 2001) lên
9,4 triệu (năm 2009), chiếm 18% tổng số lao động. Sau gần 3 năm triển khai bảo hiểm xã
hội tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia.
Như vậy, BHXH Việt Nam đã có hành lang pháp lý vững chắc để triển khai một hoạt
động của mình. Chính sách của nhà nước Việt Nam đối với BHXH là khuyến khích và tạo
điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia BHXH. Với các thành tựu trong thời gian
qua, BHXH Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong hệ thống an
sinh xã hội (PGS.TS Nguyễn Văn Định: 2008) .
2.1.2. Chính sách cứu trợ xã hội
Ở nước ta hiện nay, các đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội thường xuyên được quy
định trong Nghị định 67/2007/NĐ-CP của chính phủ ngày 15/04/2007 về chính sách cứu
trợ xã hội, bao gồm:
- Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; trẻ em mồ côi
cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha bị mất tích theo quy định tại điều 78, Bộ
Luật dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp
luật; trẻ em có cha và mẹ hoặc cha mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại nhà
giam, không còn người nuôi dưỡng; trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc gia đình nghèo.
Người chưa thành niên từ đủ 16 đến 18 tuổi nhưng đang đi học văn hóa, học nghề, có
hoàn cảnh nêu trên.
Người cao tuổi cô đơn, thuộc gia đình nghèo, người cao tuổi còn vợ chồng nhưng già
yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo.
- Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp BHXH.
- Người tàn tật không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ,
thuộc hộ gia đình nghèo.
- Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã
được các cơ quan y tế tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận
bệnh mãn tính, sống độc lập không nơi nương tựa hoặc gia đình thuộc diện nghèo…
10
2.1.3. Chính sách ưu đãi xã hội
2.1.3.1 Giai đoạn kháng chiến chống Pháp
Thời kì này đất nước gặp muôn vàn khó khăn nhưng Đảng và chính phủ sớm thiết lập
một số văn bản pháp luật ưu đãi một số đối tượng có công như thương binh, gia đình liệt
sĩ, đồng thời động viên toàn dân dấy lên phong trào chăm sóc giúp đỡ các đối tượng này.
Ngày 16/2/1947 Bác Hồ đã ký Sắc lệnh số 20/SL, sau đó bổ sung, sửa đổi bằng sắc
lệnh 242/SL ngày 12/101948 quy định tiêu chuẩn xác nhận thương binh, truy tặng “Tử sĩ”
thực hiện chế độ “lương hưu thương tật” đối với thương binh, chế độ “Tiền tuất” đối với
gia đình “Tử sĩ”. Đây là các văn bản pháp luật đầu tiên nói về ưu đãi đối với người có
công ở nước ta. Theo đó nhà nước còn ban hành nhiều văn bản quy định những nội dung
ưu đãi thương binh, bệnh binh, tử sĩ va gia đình và đã có các phong trào tổ chức làm công
tác thương binh, tử sĩ (sau này gọi là chính sách thương binh, liệt sĩ).
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, chính sách đối với thương binh, liệt sĩ đã được bổ
sung, sửa đổi hết sức cơ bản (Nghị định số 18/NĐ và 19NĐ ngày 17/11/1954 của liên Bộ
Thương binh - Y Tế - Quốc phòng - Tài chính và điều lệ ưu đãi thương binh, dân quân, du
kích, thanh niên xung phong bị thương tật, Điều lệ ưu đãi gia đình liệt sĩ ban hành kèm
theo Nghị định 980/TTg ngày 27/07/1956 của Thủ tướng Chính phủ) mà các nội dung chủ
yếu là:
- Ban hành chế độ phụ cấp thương tật 6 hạng (thay thế chế độ hưu bổng thương tật) quy
định điều kiện, tiêu chuẩn và phụ cấp thương tật đối với thương binh, dân quân, du kích,
thanh niên xung phong bị thương tật.
- Ban hành điều lệ ưu đãi gia đình liệt sĩ (kèm theo Nghị định 980/TTg ngày 27/7/1956
của Thủ tướng Chính phủ) thay cho quy định về chế độ với tử sĩ, theo đó Bằng Tổ quốc
ghi công do Thủ tướng Chính phủ cấp thay cho Bộ thương binh và Bộ quốc phòng cấp.
- Quy định tiền tuất một lần và trợ cấp khó khăn cho gia đình liệt sĩ.
- Quy định thêm nhiều nội dung ưu đãi thương binh, gia đình liệt sĩ về việc làm, khám
chữa bệnh, cung cấp phương tiện chuyên dùng, miễn, giảm giá vé tàu xe, xem văn công
chiếu bóng.
- Quy định về cất bốc, quy tập mộ liệt sĩ, xây dựng nghĩa trang liệt sĩ.
- Quy định ưu đãi thương binh, gia đình liệt sĩ trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. 11
- Quy định hồ sơ thương binh, hồ sơ liệt sĩ và thân nhân liệt sĩ.
- Tổ chức bộ máy thương binh cựu binh.
Thành lập trong mỗi khu kháng chiến một Sở thương binh, cựu binh, nhằm đảm bảo
cho tổ chức của quân đội được gọn nhẹ, tập trung vào nhiệm vụ chiến đấu.
Bên cạnh đó, Nhà nước đã chủ động phát động phong trào toàn dân giúp đỡ thương
binh, gia đình liệt sĩ như đón thương binh về làng, giúp binh sĩ tử nạn, lập quỹ tình
nghĩa… thể hiện lòng hiếu nghĩa, bác ái.
Tóm lại, trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy hoàn cảnh đất nước còn
nghèo, Nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp luật thể hiện sự ưu đãi đối với thương
binh, gia đình liệt sĩ, giả quyết được những yêu cầu cấp bách nhất, đồng thời đề ra chủ
trương hết sức đúng đắn là chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ dựa vào sự thương yêu
bác ái của nhân dân.
2.1.3.2. Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (từ 1954 - tháng 4/1975)
Ngày 30/10/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 161/CP Điều lệ ưu đãi
quân nhân dự bị, quân nhân tự vệ bị thương, bị chết… đánh dấu sự ra đời của chính sách
thương binh liệt sĩ thời kỳ chống Mỹ , với nội dung chủ yếu là:
- Quy định chế độ trợ cấp thương tật 8 hạng đối với quân nhân, quân nhân dự bị,
quân nhân tự vệ và công nhân viên chức bị thương trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu
hoặc làm nhiệm vụ và được chia làm hai loại: Loại A (bị thương vì chiến đấu với địch,
anh dũng làm nhiệm vụ được nêu gương cho chiến sĩ học tập) và loại B (bị thương trong
luyện tập quân sự, trong công tác, trong học tập, trong lao động và sản xuất).
- Quy định chế độ tiền tuất liệt sĩ bao gồm trợ cấp một lần và trợ cấp hàng tháng.
- Các nội dung ưu đãi về giáo dục đào tạo, dạy nghề, việc làm, y tế, đi lại… vẫn
được duy trì và bổ sung.
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt, chính sách đối
với thương binh liệt sĩ lại được bổ sung, sửa đổi mà những nội dung chính là:
- Bổ sung đối tượng xác nhận, thương binh liệt sĩ bao gồm thanh niên xung phong,
dân công hỏa tuyến, lực lượng vận tải, cán bộ chủ chốt xã, y tế xã.
- Quy định các hướng giải quyết việc làm cho thương binh, đào tạo, tuyển dụng, quy
định các cơ quan, xí nghiệp có trách nhiệm tiếp nhận thương binh vào làm việc.
12
- Sửa đổi một số điểm trong chính sách đãi ngộ thương binh, gia đình liệt sĩ cho phù
hợp hoàn cảnh và tính chất toàn dân kháng chiến chống Mỹ.
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu, phương châm để Nhà nước, nhân dân và đối tượng
được hưởng cùng làm cũng như trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân đối với công tác
thương binh liệt sĩ, chính sách đối với người hoạt động kháng chiến, hoạt động cách mạng
trong thời kỳ chống Mỹ với chế độ trợ cấp thương tật 8 hạng, chính sách đối với quân
nhân, quân nhân dự bị, dân quân tự vệ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, lực
lượng vận tải, cán bộ chủ chốt xã, y tế xã… bị thương và chế độ tiền tuất đối với thân
nhân liệt sĩ (gồm trợ cấp một lần và trợ cấp hàng tháng) do ngân sách trung ương đảm
bảo.
Tuy nhiên, ở thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1964), chính sách ưu đãi
đã bộc lộ những bất hợp lý, trong đó có một số vấn đề khá gay gắt. Chẳng hạn như đối với
thương binh, mức khởi điểm về hưởng trợ cáp ưu đãi là mất sức lao động 15%, không phù
hợp với điều kiện lao động chung gây khó khăn cho thương binh và thiếu công bằng trong
thực hiện chính sách. Cách chia hạng thương tật để hưởng trợ cấp còn quá chênh lệch (5
hạng thương tật với tỷ lệ mất sức lao động 100%, 70%, 40%, 25%, 15%). Đối với gia
đình liệt sĩ chưa có quy định trợ cấp hang tháng nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc
sống, đặc biệt là cha, mẹ liệt sĩ già yếu, mất sức lao động, con liệt sĩ mồ côi, không nơi
nương tựa. Tuy Nhà nước có quy định xét trợ cấp khó khăn cho các gia đình liệt sĩ nói
trên nhưng không kịp thời (phải do cấp tỉnh quyết định). Mức trợ cấp lại quá thấp (20
đồng/người) trong khi mức trợ cấp của dân quân, du kích bị thương hạng 3 mất 40% sức
lao động là 10,5 đồng/ tháng.
Đến giai đoạn sau (1965 - 1975) do tính chất cuộc chiến tranh chống Mỹ bước vào
giai đoạn gay go, ác liệt, việc ưu đãi đối với người có công được đề cao hơn. Các văn bản
pháp luật ưu đãi được đề cao hơn, đáng chú ý là Nghị định 161/CP ngày 30/11/1964 kèm
theo điều lệ tạm thời chế độ đãi ngộ đối với quân nhân, dân quân du kích với việc quy
định chế độ đãi ngộ thương tật mới là 8 hạng, mức độ khởi điểm là 21%. Quy định chế độ
tiền tuất mới gồm tiền tuất hàng tháng và tiền tuất một lần đối với gia đình liệt sĩ, bố mẹ
liệt sĩ già yếu cô đơn, con liệt sĩ mồ côi, được trợ cấp cao hơn những trường hợp khác.
13
Có thể nói, chính sách người có công trong giai đoạn này đã phát triển tương đối toàn
diện, vì vậy đã góp phần to lớn và động viên, khuyến khích cán bộ chiến sĩ… thực hiện
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
2.1.4. Quỹ dự phòng
Quỹ dự phòng là một chương trình tiết kiệm bắt buộc được quy định bởi pháp luật,
trong đó người lao động và chủ sử dụng lao động trích một khoản tiền, dựa trên một tỷ lệ
phần trăm tiền lương mà người lao động được hưởng, để tích lũy vào tài khoản cá nhân
của người lao động. Tiền đóng góp sẽ được tích lũy cả tiền lãi như một khoản tiết kiệm,
khi có các “rủi ro xã hội” xảy ra bao gồm: tuổi già, mất sức lao động hay mất người nuôi
dưỡng, toàn bộ số tiền tích lũy trong tài khoản (sau khi trừ đi chi phí quản lý) sẽ được trả
cho người lao động hay người được thụ hưởng. Tuy nhiên ở một số nước cũng cho phép
chi trả theo định kỳ hoặc chi trả cho một số mục đích khác như mua nhà, hoặc có thể vay
tạm thời từ quỹ khi có khó khăn về tài chính.
Quỹ dự phòng có một số đặc điểm chủ yếu sau:
- Đảm bảo ASXH cho những người làm công hưởng lương trước một số “rủi ro xã
hội”. Quỹ này được hình thành từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao
động.
- Quỹ dự phòng không phải là một quỹ tài chính tập trung dùng để chia sẻ rủi ro
giữa những người lao động với nhau. Toàn bộ tiền đóng cho người lao động, từ bản thân
người lao động và người sử dụng lao động, được quản lý theo từng tài khoản cá nhân
riêng rẽ của người lao động đó.
- Mức hưởng của người lao động từ Quỹ dự phòng hoàn toàn phụ thuộc vào mức
đóng góp của bản thân người lao động và chủ sử dụng lao động, không có sự hỗ trợ tù
phía Nhà nước.
- Trong một số trường hợp có nhu cầu tài chính, người lao động có thể rút tiền từ tài
khoản Quỹ dự phòng của mình trước thời hạn, mặc dù chưa gặp “rủi ro xã hội” (như về
hưu, mất sức lao động).
- Quỹ dự phòng rất đơn giản về mặt quản lý và cân đối quỹ vì tiền hưởng hoàn toàn
được tích lũy trên tài khoản cá nhân từng người. Khác với BHXH hoạt động theo cơ chế
có sự chia sẻ giữa các thành viên trong xã hội, giữa các thế hệ với nhau, và có thể dẫn tới 14
mất cân đối quỹ nghiêm trọng, đặc biệt ở các nước có cơ cấu dân số già. Tuy nhiên, đặc
điểm này cũng khiến Quỹ dự phòng mất đi phần nào tính tương trợ và san sẻ rủi ro.
- Quỹ dự phòng chịu tác động rất lớn của lạm phát.
Mục đích sử dụng Quỹ dự phòng:
Tiền tích lũy trên các tài khoản dự phòng của từng cá nhân người lao động được sử
dụng như sau:
- Trả cho chi phí hoạt động của bộ máy quản lý hoạt động hệ thống Quỹ dự phòng.
- Chi trả cho các người lao động khi gặp rủi ro xã hội như: tuổi già, mất sức lao
động hay mất người nuôi dưỡng. Khác với BHXH, việc chi trả có tính “bù trừ” giữa các
thành viên, toàn bộ số tiền tích lũy trong tài khoản phòng xa (sau khi trừ đi chi phí quản
lý) sẽ được trả cho người lao động hay người được thụ hưởng.
* Sự phát triển của quỹ dự phòng ở Việt Nam:
- Ở nước ta có quỹ dự phòng của BHXH; quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm; quỹ dự
phòng khám chữa bệnh BHYT, ...
- Ngày 12/12, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh đã ký văn bản
số 2323/TTg-KTTH đồng ý về nguyên tắc, cho phép Ngân hàng Phát triển Việt Nam sử
dụng số tăng thu về lãi tiền gửi của năm 2011 so với số thu lãi tiền gửi của năm 2010 để
trích lập bổ sung quỹ dự phòng rủi ro tín dụng.
2.1.5. Chương trình xóa đói giảm nghèo
2.1.5.1. Khái niệm đói nghèo
Hiểu theo nghĩa chung nhất, đói nghèo là tình trạng thiếu hụt những điều kiện cần thiết
để đảm bảo mức sống tối thiểu của một cá nhân hay một cộng đồng dân cư. Theo cách
hiểu này, đói nghèo là tình trạng thiếu hụt những điều kiện vật chất như: thức ăn, nước
uống, quần áo… Đói nghèo cũng có thể là tình trạng thiếu hụt những điều kiện về mặt xã
hội như: giáo dục, chăm sóc sức khỏe, cung cấp thông tin, quan hệ cộng đồng… Trong xã hội phát triển, sự thiếu hụt có thể bao hàm cả tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng.11
Theo quan điểm quản lý vi mô, đói nghèo thường được sử dụng với hai cấp độ: đó là
nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
11 Nguyễn Văn Định; Giáo trình “ An sinh xã hội”; NXB Đại học Kinh tế quốc dân; 2008; tr.199.
15
Nghèo tuyệt đối gắn liền với tình trạng thiếu hụt các điều kiện cần thiết để đảm bảo
nhu cầu về dinh dưỡng (gọi là đói) và tiếp cận với các nhu cầu tối thiểu khác như chữa
bệnh, học tập, đi lại (gọi là nghèo). Chuẩn nghèo có thể có sự khác nhau giữa các vùng,
các địa phương và thay đổi theo thời gian. Trong “Cuộc chiến chống đói nghèo” tại Mỹ
vào giữa những năm 1960, nghèo tuyệt đối được tính là những người có thu nhập thấp
hơn 3 lần chi phí để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu. Mức chuẩn xác định nghèo
tuyệt đối này được điều chỉnh hàng năm theo sự thay đổi của chỉ số lạm phát. Nếu căn cứ
vào mức chuẩn nghèo tuyệt đối do Chính phủ liên bang đặt ra, ước tính hiện nay Mỹ có
khoảng 13% dân sô thuộc diện nghèo tuyệt đối. Tỷ lệ này là cao nhất trong số các nước
phát triển. Tuy nhiên, đặc điểm của diện nghèo tuyệt đối tại Mỹ là không bị rơi vào tình
trạng thiếu dinh dưỡng (tức đói), mà là sự thiếu hụt trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội.
Còn theo Ngân hàng thế giới, nghèo tuyệt đối là những người có mức thu nhập bình quân
dưới 1USD/ ngày. Với mức chuẩn nghèo này, vào năm 2001 ước tính trên thế giới có
khoảng 1,1tỷ người thuộc diện nghèo tuyệt đối.
Nghèo tương đối được hiểu theo nghĩa rộng hơn so với nghèo tuyệt đối. Nghèo tương
đối trước hết được gắn liền với tình trạng một cá nhân hay một bộ phận dân cư có thu
nhập thấp hơn thu nhập trung bình của các thành viên khác trong xã hội. Theo Ngân hàng
thế giới, nghèo tương đối là những người có mức thu nhập bình quân dưới 2USD/ngày.
Với chuẩn này, ước tính năm 2001 cả thế giới có khoảng 2,7 tỷ người thuộc diện nghèo
tương đối. Tại các nước EU, nghèo tương đối là những người có thu nhập thấp hơn 60%
mức thu nhập quốc gia bình quân đầu người. Với mức chuẩn nghèo tương đối đó, tỷ lệ
người nghèo tại Đức năm 2004 là 16% dân số. Tại Mỹ, tỷ lệ nghèo tương đối là 16%
tương ứng với mức chuẩn 50% thu nhập quốc gia bình quân đầu người, và 24% nếu tương
ứng với mức chuẩn 60% thu nhập bình quân đầu người.
Ngoài ra, khái niệm nghèo tương đối còn thể hiện ở nhiều khía cạnh khác như: thiếu
cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong lúc gặp khó khăn, dễ bị tổn
thương khi gặp phải những đột biến bất thường trong cuộc sống, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định…12
12 Nguyễn Văn Định; Giáo trình “ An sinh xã hội”; NXB Đại học Kinh tế quốc dân; 2008; tr.200
16
Đường đói nghèo ở mức thấp nhất gọi là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm.
Đường đói nghèo thứ hai ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao gồm cả mặt
hàng lương thực, thực phẩm và phí lương thực, thực phẩm).
Bảng: Mức chuẩn nghèo tại Việt Nam qua các giai đoạn
Giai Thành thị Nông thôn
đoạn Hộ đói Hộ nghèo Hộ đói Hộ nghèo
1995- Dưới 13kg gạo/ Dưới 20kg Dưới 8kg gạo/ Dưới 15kg gạo/ người/
1997 người/ tháng gạo/ người/ người/ tháng tháng
tháng
1998- Dưới 13kg gạo/ Dưới 20kg Dưới 13kg gạo/ Dưới 15kg gạo/ người/
2000 người/ tháng gạo/ người/ người/ tháng tháng với miền núi, hải
tháng đảo.
Dưới 20kg gạo/ người/
tháng với đồng bằng,
trung du.
2001- Dưới 150.000 đồng/ người/ tháng Dưới 80.000 đống/ người/ tháng đối với
2005 miền núi, hải đảo.
Dưới 100.000 đồng/ người/ tháng đối với
đồng bằng, trung du.
2006- Thu nhập bình quân từ Thu nhập bình quân từ 200.000đồng/
2010 260.000đổng/ người/ tháng trở người/ tháng trở xuống. Từ năm 2009 là
xuống. Từ năm 2009 là 390.000 300.000đồng
đồng
(Nguồn: website http://www.gov.com.vn)
2.1.5.2. Xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là mục tiêu quan trọng của bất kỳ quốc gia nào nhằm hướng tới
phát triển một xã hội công bằng và văn minh.
Tại Mỹ, vào những năm 1960, nền kinh tế Mỹ phục hồi nhanh chóng sau cuộc Đại
khủng hoảng năm 1930, và đạt tới sự phồn vinh chưa từng có. Song thực tế cho thấy 17
không phải ai cũng được hưởng thành quả phồn vinh đó. Nhiều người do điều kiện sinh
ra, đã chịu cảnh đói nghèo, không được học hành đến nơi đến chốn và không có cơ hội
tìm được việc làm tốt. Chính những bất công này mà Tổng thống Mỹ Lyndon B Johnson
lúc đó đã đưa ra “cuộc chiến chống đói nghèo”. Một số chương trình đặt mục tiêu vào
việc bảo đảm một “tấm lá chắn an toàn” cho những người cần thiết. Ví dụ như chương
trình cung cấp lương thực thực phẩm và chăm sóc sức khỏe cho người nghèo; chương
trình đào tạo lại nhằm tạo ra cơ hội tìm việc làm tốt hơn cho người kém may mắn… Sau
nhiều năm kể từ khi “cuộc chiến chống đói nghèo” bắt đầu, các chương trình chống đói
nghèo đã đạt được những thành công nhất định: chương trình trợ giúp y tế góp phần làm
giảm bớt phân biệt trong chăm sóc sức khỏe giữa người giàu và người nghèo; chương
trình xây dựng nhà ở công cộng giúp nhiều gia đình nghèo có nhà ở… Tuy nhiên, cho đến
nay, nước Mỹ vẫn chưa thể xóa bỏ được hoàn toàn cảnh nghèo.
Ở Việt Nam, xóa đói giảm nghèo được coi là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, là
một trong những chương trình trọng điểm quốc gia về phát triển kinh tế, xã hội. Tại Hội
nghị thượng đỉnh thế giới năm 2005 tại New York, Việt Nam được đánh giá là một trong
những quốc gia thực hiện thành công mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Nội dung chương trình xóa đói giảm nghèo
Nội dung chương trình xóa đói giảm nghèo xét trên giác độ các vấn đề can thiệp bao
gồm nhiều biện pháp được sử dụng như: hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ đất đai sản xuất và nhà ở,
xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ y tế và giáo dục… Các biện pháp này có thể được chia
thành 3 nhóm chính: Nhóm các biện pháp tạo điều k iện cho người nghèo phát triển sản
xuất tăng thu nhập; Nhóm các biện pháp tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản; Và nhóm các biện pháp mở rộng mạng lưới ASXH đến với người nghèo.
+ Tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất tăng thu nhập
Tín dụng ưu đãi cho người nghèo: Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo
đói đó là thiếu vốn sản xuất (ở nước ta có tới 79% người nghèo là do thiếu vốn). Vì vậy,
việc Nhà nước cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo
điều kiện giúp họ tự thoát nghèo, có điều kiện để mua sắm thêm các phương tiện sản xuất,
mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi phương thức sản xuất có năng suất lao động cao hơn.
Đến hết tháng 10 -2008, hơn 9 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn làm ăn, trong đó gần 1,5 18
triệu hộ đã thoát nghèo, gần 2 triệu lao động có việc làm, xây dựng được hơn 820 nghìn
công trình nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn, 750 nghìn học sinh, sinh viên nghèo được vay vốn đến trường học tập…13. Phần lớn các hộ đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
vay và có tác động tích cực đến việc làm tăng thu nhập của họ.
Hỗ trợ đất sản xuất: Chương trình này thường được thực hiện ở các nước nông nghiệp
và người nghèo chủ yếu là người nông dân. Chẳng hạn ở nước ta, đồng bào dân tộc thiểu
số bị thiếu đất do ở vùng cao, hay nông dân Nam bộ do thiếu tiền, thiếu vốn sản xuất đem
bán hoặc cầm cố ruộng đất đi làm thuê. Chính vì vậy, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ
vốn giúp hộ nghèo khai hoang ruộng bậc thang để đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ ở
các tỉnh Tây bắc; hỗ trợ 5.139 hecta đất cho 10.455 hộ ở Tây Nguyên; cho 4.325 hộ
nghèo ở Nam bộ vay tiền chuộc lại đất sản xuất đã bị nhượng bán, cầm cố. Nhờ đó, một
bộ phận người nghèo đã có đất để phát triển sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện đời sống.
Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu: Các điều kiện về cơ sở hạ tầng như: đường sá,
trạm điện, trạm bơm nước, công trình thủy lợi có ảnh hưởng sâu sắc đến công tác xóa đói
giảm nghèo; đặc biệt là ở các khu vực nông thôn, nơi thường có nhiều người nghèo sinh
sống. Trong những năm qua, nước ta đã đầu tư được hơn 1000 công trình hạ tầng, cơ sở
thiết yếu cho 997 xã nghèo với kinh phí 776 tỷ đồng. Theo đánh giá của Báo cáo phát
triển Việt Nam năm 2004 tại Hội nghị các nhà tài trợ Việt Nam, ước tính cứ 1 tỷ đồng đầu
tư cho đường nông thôn thì có 867 người sẽ thoát nghèo.
Chương trình k huyến nông - lâm - ngư: Hệ thống khuyến nông ở nước ta đã có cách
đây hơn 10 năm; bình quân cứ 3000 nông dân có 1 trung tâm khuyến nông; trên 50.000
lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật và trên 6000 mô hình trình diễn giống cây, con có năng
suất cao được tổ chức cho trên 2 triệu lượt người nghèo. Theo ước tính, chi tiêu công về
khuyến nông ở nước ta chiếm khoảng 0,4% tổng GDP của nông nghiệp, nhưng vẫn thấp
13 Trần Kinh Tế, bài viết “Xã hội hóa tín dụng xóa đói, giảm nghèo – một hoạt động hiệu quả của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam”, website: http://luattaichinh.wordpress.com/2009/05/12/x-h%E1%BB%99i-ha-tn d%E1%BB%A5ng-xa-di-gi%E1%BA%A3m-ngho-m%E1%BB%99t-ho%E1%BA%A1t-d%E1%BB%99ng- hi%E1%BB%87u-qu%E1%BA%A3-c%E1%BB%A7a-ngn-hagra/; ngày 12/05/2009.
hơn ở những nước lân cận như Trung Quốc, Thái Lan, Ma - lai- xia (ADB 2002).
19
Các chương trình hỗ trợ khác: Ở Việt Nam, chúng ta có dự án hỗ trợ sản xuất, phát
triển ngành nghề: Trong 5 năm (2000 - 2004) đã xây dựng được 103 mô hình về bảo
quản, chế biến nông - lâm sản và phát triển ngành nghề nông thôn, giúp người dân có việc
làm và thu nhập ổn định bình quân 250.000/người/tháng. Dự án xây dựng mô hình liên
kết giữa doanh nghiệp và các hộ nghèo phát triển vùng nguyên liệu: kết quả thu nhập
hàng năm của các hộ tham gia dự án tăng 16% đến 19%, khoảng 20% số hộ nghèo tham
gia dự án thoát nghèo. Ngoài ra, chúng ta còn có các dự án khác như: các dự án định canh
định cư ở các xã nghèo, ổn định dân di cư và xây dựng các vùng kinh tế mới.
+ Tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản:
Các dịch vụ xã hội cơ bản như: chăm sóc sức khỏe, giáo dục cơ sở, nước, điều kiện vệ
sinh, nhà ở… là những dịch vụ mà người nghèo khó có khả năng tiếp cận nếu họ phải trả
đầy đủ các khoản chi phí. Chính vì vậy ở các nước, một phần đáng kể trong chi tiêu công
của ngân sách Nhà nước có liên quan đến cung cấp các dịch vụ cơ bản nay, trong đó nhìn
chung người nghèo là đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất. Ngay cả ở các nước có khu
vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản, Nhà nước vẫn đóng vai trò quan
trọng thông qua điều tiết hay trợ cấp.
Hỗ trợ về y tế cho người nghèo: Ở Việt Nam, thực hiện theo quyết định 139/2002/QĐ
- TTg về thành lập quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo đến hết năm 2004 có 3,9 triệu
người nghèo được cấp thẻ BHYT và 4,5 triệu người nghèo được cấp giấy khám chữa
bệnh miễn phí, 14 triệu lượt người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí trong giai đoạn
2002 - 2004, tổng quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo đạt 2.304 tỷ đồng. Đến năm 2011 số lượng người nghèo được cấp BHYT đã tăng lên 14 triệu người14. Cùng với việc
cấp thẻ BHYT và khám chữa bệnh miễn phí, các điều kiện về cơ sở hạ tầng như giường
bệnh, trạm y tế, số lượng y bác sĩ tuyến xã đã tăng lên đáng kể, đảm bảo cung cấp dịch vụ
khám chữa bệnh tại chỗ cho trên 80% số người nghèo ở nông thôn và miền núi.
Hỗ trợ người nghèo về giáo dục: Các chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo
như: miễn giảm học phí, cung cấp sách vở học tập, xây dựng trường lớp và các điều kiện
cơ sở vật chất kỹ thuật khác… là rất quan trọng. Ở Việt Nam, hàng năm có trên 3 triệu
14 Website: http:// www.bhxhdanang.gov.vn/default1.asp?655=5&658=76&657=642&654=4. (Theo BHXH Việt Nam)
20
lượt học sinh nghèo và dân tộc thiểu số được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp
xây dựng trường; 2,5 triệu lượt học sinh nghèo được cấp, mượn sách giáo khoa và hỗ trợ
vở viết với tổng kinh phí hàng năm trên 100 tỷ đồng. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học
tăng 11%. Nếu chỉ xét đến những hộ được miễn, giảm học phí thì mức gia tăng về tỷ lệ đi
học sẽ là 16,5%. Kết quả hỗ trợ về giáo dục đã có tác động tích cực, bình quân giảm 25% chi phí cho học sinh nghèo đi học so với số học sinh còn lại15.
Hỗ trợ người nghèo về nhà ở: Chi phí về nhà ở là một trong những chi phí lớn đối với
người dân nói chung. Vì vậy đối với người nghèo, hỗ trợ của Nhà nước và xã hội về nhà ở
là rất cần thiết. Các chương trình hỗ trợ người nghèo về nhà ở như: bán nhà với giá rẻ,
xây nhà, xây nhà tình nghĩa... Ở nước ta, tính đến hết tháng 5/2011, cả nước đã hoàn
thành hỗ trợ nhà ở cho hơn 350 nghìn hộ, đạt tỷ lệ 68%, trên tổng số 512.475 hộ. 59 tỉnh,
thành phố trên cả nước có đối tượng hỗ trợ nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ16.
Hỗ trợ các dịch vụ về nước sạch và vệ sinh: Hiện nay ở các nước, các dịch vụ về nước
và vệ sinh môi trường đều do nhà nước cung cấp, hoặc do tư nhân làm thì cũng có sự điều
tiết và hỗ trợ của Nhà nước, để đảm bảo mức giá hợp lý và thường là thấp cho người dân
nói chung, trong đó có đối tượng người nghèo. Trong một số trường hợp, các hộ nghèo có
thể có những hỗ trợ thêm như: hỗ trợ và tư vấn xây nhà vệ sinh, cung cấp nước sạch cho
những vùng khô hạn…
+ Mở rộng mạng lưới ASXH đến với người nghèo:
Ở Việt Nam có tới 90% số hộ nghèo rơi vào đối tượng là người nông dân và lao động
tự do sống ở vùng nông thôn. Có tới 7% - 10% dân số không thể đương đầu được với cơn
sốc bất lợi nghiêm trọng. Vì vậy việc mở rộng chính sách BHXH để người nghèo có thể
tiếp cận là rất có ý nghĩa. Bên cạnh đó, Nhà nước ta thực hiện việc cấp thẻ BHYT miễn
phí cho người nghèo, đây cũng là một cách để mở rộng chính sách BHXH đến với người
nghèo. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện triển khai thí điểm BHXH tự nguyện, mà trước
hết là chế độ trợ cấp hưu trí cho nông dân và lao động tự do. Bắt đầu từ ngày 1/1/2008
15 Nguyễn Văn Định; Giáo trình “ An sinh xã hội”; NXB Đại học Kinh tế quốc dân; 2008; tr.211 16 http://baodientu.chinhphu.vn/Home/De-nguoi-ngheo-som-duoc-ho-tro-nha-o/20116/90767.vgp
21
loại hình này sẽ được triển khai chính thức. Xóa đói giảm nghèo không chỉ đơn thuần làm
thế nào để người nghèo thoát nghèo, một phần quan trọng không kém là ngăn cho những
người hiện đang không nghèo khỏi bị rơi vào cảnh nghèo. Đó là những người có thu nhập
cận mức nghèo hoặc thu nhập chưa đủ cao dễ bị tổn thương trong cuộc sống, vì vậy các
quỹ ASXH giúp đỡ họ khi gặp khó khăn là cần thiết. Ở nước ta, quỹ ASXH đặc biệt dành
cho lao động dôi dư trong thời gian qua là một ví dụ. Khi chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch sang nền kinh tế thị trường, quá trình cơ cấu lại và giải thể các doanh nghiệp Nhà
nước đã dẫn tới tình trạng dư thừa lao động. Nhiều người lao động rơi vào tình trạng mất
việc làm sau nhiều năm gắn bó với doanh nghiệp, nguy cơ rơi vào cảnh nghèo khó là rất
cao. Chính vì vậy, chính phủ đã cho thành lập quỹ ASXH đặc biệt cho lao động dôi dư do
Bộ tài chính quản lý. Những người lao động bị cho thôi việc hoặc tự nguyện thôi việc
được nhận 2 tháng lương cơ bản cho mỗi năm công tác, trợ cấp đào tạo tương đương 6
tháng lương cộng với 6 tháng lương hỗ trợ cho quá trình tạo việc mới và một khoản trợ
cấp chọn gói là 5 triệu. Quỹ ASXH này được bắt đầu hoạt động từ năm 2002 và đến cuối
năm 2003 đã giúp 14.500 người lao động thôi việc từ 373 doanh nghiệp Nhà nước với
mức bồi thường trung bình là 28.8 triệu đồng/người.
2.1.6. Các loại dịch vụ xã hội khác
Ngoài các chính sách nói trên, ASXH còn hàm chứa cả một số loại dịch vụ xã hội
khác, như: dịch vụ đối với người già, người tàn tật, tổ chức phục hồi chức năng, chương
trình kế hoạch hóa gia đình… Các dịch vụ này có thể được thực hiện bởi Nhà nước và
quỹ có thể được thực hiện bởi các tổ chức tự nguyện, tổ chức phi Chính phủ.
Để làm giảm những mặt trái của nền kinh tế thị trường, Nhà nước can thiệp vào nền
kinh tế theo nhiều cách: Thứ nhất, ngoài việc đảm bảo khuôn khổ luật pháp chung, Nhà
nước còn tham gia tích cực vào các quyết định sản xuất. Ví dụ: Nhà nước trực tiếp sản
xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho xã hội, bên cạnh các nhà sản xuất tư nhân. Đây
chính là hình thức nền kinh tế hỗn hợp trong xã hội hiện đại ngày nay. Ngoài ra, Nhà
nước cũng có thể can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế thông qua các hoạt động khác như:
trợ cấp, tín dụng nhằm giúp các hãng sản xuất tư nhân lớn tránh khỏi nguy cơ phá sản,
gây tác động xấu tới nền kinh tế, hay Chính sách trợ cấp nông nghiệp hiện đang là vấn đề
tranh cãi gay gắt tại Hội nghị Doha của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Thứ hai, 22
Nhà nước thực hiện phân phối lại thu nhập của các thành viên trong xã hội thông qua các
sản phẩm và dịch vụ công như giáo dục, trợ cấp y tế…
Nhà nước thường thực hiện phân phối lại thu nhập của các thành viên xã hội dưới hai
hình thức: 1 - Các chương trình phân phối lại công khái; 2- Các chương trình phân phối
ngầm.
Các chương trình phân phối công khai chính là hệ thống các chính sách ASXH bao
gồm: các chương trình hỗ trợ công cộng như CTXH, trợ cấp y tế cho người nghèo hoặc có
hoàn cảnh khó khăn, ƯĐXH, và BHXH. Đặc điểm chung của các chương trình phân phối
công khai là những khoản trợ cấp trực tiếp.
Ngược lại các chương trình phân phối ngầm là những khoản trợ cấp gián tiếp. Trong
trường hợp các đối tượng có điều kiện khó khăn cần nhận được sự hỗ trợ, họ sẽ không
được trợ cấp bằng tiền hay hiện vật mà Nhà nước trực tiếp cung cấp hàng hóa hoặc dịch
vụ mà họ cần với giá thấp hoặc đôi khi miễn phí. Đây được gọi là các dịch vụ hỗ trợ
ASXH.
Như vậy, các dịch vụ hỗ trợ ASXH cũng hướng tới một mục đích giống như các
chương trình ASXH khác. Điểm khác nhau chủ yếu là các dịch vụ này có tính trợ cấp gián
tiếp. Sở dĩ Nhà nước trực tiếp đứng ra cung cấp dịch vụ này nhằm đem lại hàng hóa với
giá rẻ, hoặc do tính chất nhân đạo phí lợi nhuận chỉ có thể do Nhà nước đứng ra thực
hiện.
Một số dịch vụ thường được thực hiện là:
- Chương trình trợ giúp pháp lý đối với những người có thu nhập thấp và trình độ
học vấn không cao thì các chương trình trợ giúp pháp lý này rất quan trọng. Trong một xã
hội hiện đại, khi mà mọi người đều phải sống và làm việc theo pháp luật, các vấn đề xã
hội phát sinh đòi hỏi cần được giải quyết bằng pháp luật sẽ xảy ra thường xuyên. Tuy
nhiên, với các đối tượng do học vấn không cao dẫn tới không hiểu biết đầy đủ hoặc thu
nhập thấp, không đủ tiền để tiếp cận các dịch vụ tư vấn pháp lý, họ rất thiệt thòi hoặc
thậm chí có những hành động vi phạm pháp luật. Vì vậy, chương trình trợ giúp pháp lý
như thành lập trung tâm tư vấn pháp luật miễn phí, chỉ định luật sư bào chữa miễn phí…
sẽ giúp các đối tượng này bảo vệ được quyền lợi pháp lý của mình.
23
- Các chương trình trợ giúp giá: Để đảm bảo ASXH, trong rất nhiều trường hợp Nhà
nước có sử dụng các chương trình trợ giá nhằm giúp những người có điều kiện khó khăn
được mua hàng hóa, dịch vụ với giá rẻ. Ví dụ: trợ cấp cho giao thông xe bus trong thành
phố để giúp người nghèo trong việc đi lại; trợ cấp nông nghiệp vừa là giúp người dân có
thu nhập tốt hơn, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
- Đảm bảo các phương tiện hỗ trợ cho người khuyết tật: Người khuyết tật là những
người không may mắn và thiệt thòi trong cuộc sống. Bên cạnh những khoản trợ cấp trực
tiếp, xã hội còn cung cấp cho họ những dịch vụ hỗ trợ và hòa nhập cuộc sống như: xây
dựng lối đi riêng dành cho người đi xe lăn ở các nơi công cộng, các chương trình truyền
hình dành cho những người câm điếc…
- Các dịch tư vấn và giới thiệu việc làm: Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động
là hàng hóa. Vì vậy, tình trạng thất nghiệp hay thuyên chuyển nhằm tìm kiếm công việc
khác phù hợp hơn xảy ra là tất yếu. Các dịch vụ tư vấn và giới thiệu việc làm sẽ giúp cung
và cầu về lao động gặp nhau nhanh chóng. Các mô hình trung tâm tư vấn và giới thiệu
việc làm ở Việt Nam trong những năm qua được áp dụng khá thành công. Ví dụ như:
Trung tâm tư vấn và giới thiệu việc làm ở Hà Nội (Trụ sở 1: tại ngõ 33 phố Tạ Quang
Bửu, phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; Trụ sở 2: tại s ố 285 phố Trung
Kính, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội)…
2.1.7. Kết quả thực hiện ASXH và những thách thức đang đặt ra đối với quá trình
xây dựng hệ thống ASXH hiệu quả ở Việt Nam hiện nay.
* Về thành tựu:
Thực hiện đường lối Đổi mới, trong hơn 20 năm qua, công tác đảm bảo ASXH đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống ASXH ngày càng đồng bộ và hoàn thiện với
diện bao phủ ngày càng được mở rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
không ngừng được cải thiện. ASXH đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và
đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành xã hội không có sự loại trừ,
và giữ vững định hướng XHCN.
Về mặt thể chế, trong hơn 20 năm qua, chúng ta đã hoạch định và triển khai nhiều
chính sách ASXH quan trọng và huy động được nhiều nguồn lực của toàn xã hội để trợ
giúp cho các đối tượng (người nghèo, vùng nghèo, người già cô đơn, trẻ em và các đối 24
tượng dễ bị tổn thương ...) vươn lên trong cuộc sống. Các chính sách và giải pháp đảm
bảo ASXH được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: (1) Giúp người đối tượng thụ
hưởng tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề,
trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt; (2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính
sách về bảo đảm thị trường, tín dụng, việc làm...; (3) Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho
các địa phương để phục vụ người dân tốt hơn.
Đến nay công tác đảm bảo ASXH đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân
đồng tình, quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn khoảng
10% (năm 2010); chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần (năm
1999) xuống còn 2 lần (năm 2008). Đời s ống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt17.
Hệ thống pháp luật về ASXH ngày càng được hoàn thiện hơn, đã trở thành căn cứ
pháp lý quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Hệ thống BHXH được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong
phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. BHXH được
triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc (BHXH và BHYT), bảo hiểm tự
nguyện và BHTN. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm
2001) lên 9,4 triệu (năm 2009), chiếm 18% tổng số lao động. Sau gần 3 năm triển khai
BHXH tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia. Dự kiến đến hết
năm 2010 có khoảng 5,8 triệu người tham gia BHTN. BHYT tế tăng nhanh từ 13,4% dân số (năm 2000) lên khoảng 62% (năm 2010)18. Đặc biệt, đã thực hiện chính sách BHYT
miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ
BHYT cho các hộ cận nghèo.v.v.
Các chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn thiện. Mức trợ
cấp ưu đãi năm 2009 tăng 2,1 lần so với năm 2006. Thực hiện chính sách ưu đãi thường
17 Nguyễn Tấn Dũng, Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Tạp chí Cộng sản, Số 285 (9/2010), tr4 18 Sđd, tr4
25
xuyên cho hơn 1,4 triệu người có công. Đến nay, hơn 90% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn19.
Các chính sách trợ giúp xã hội (cả thường xuyên và đột xuất) được thực hiện rộng hơn
về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Kinh phí trợ giúp
thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh, từ 113 tỷ
đồng cho hơn 180 nghìn người (năm 2001) tăng lên 4.500 tỷ đồng cho hơn 1,6 triệu người
(năm 2010). Hàng năm Nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỷ đồng (riêng năm
2009 là 5.000 tỷ đồng) và hàng chục nghìn tấn lương thực, chủ yếu là để trợ giúp khắc
phục thiên tai. Từ đầu năm 2008, Chính phủ đã có nhiều chính sách và giải pháp kịp thời,
thiết thực nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Các phong trào “tương thân tương ái”, “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”
được tổ chức thường xuyên và được sự hưởng ứng tham gia của nhiều thành phần trong
xã hội, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao ASXH cho mọi người, nhất là những người
nghèo, vùng nghèo.
*Hạn chế và thách thức
Việc thực hiện ASXH ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém: giảm nghèo chưa
bền vững, người dân ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, phân hoá giàu
nghèo ngày càng lớn. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hoá và thất
nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực để thực hiện ASXH còn hạn chế, chủ yếu dựa
vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp, chưa theo kịp với sự
phát triển của nền KTTT, định hướng XHCN. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được
nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, vẫn còn
không ít tiêu cực, phiền hà.
Tất cả những hạn chế này đã đặt hệ thống ASXH của nước ta trước nhiều thách thức
lớn cần phải tiếp tục được nghiên cứu, hoàn chỉnh chính sách để vượt qua, cụ thể là:
Thứ nhất: Trong quá trình đổi mới kinh tế, nhiều vấn đề ASXH bức xúc, mới phát sinh
chưa được giải đáp một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Hệ thống chính sách, luật
19 Nguyễn Tấn Dũng, Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Tạp chí Cộng sản, Số 285 (9/2010), tr5
26
pháp về ASXH theo mô hình hiện nay không theo kịp với đòi hỏi của nền KTTT định
hướng XHCN và xu hướng hội nhập quốc tế.
Thứ hai: Cùng với sự phát triển thì các nguy cơ, rủi ro kinh tế và xã hội ngày càng có
xu hướng tăng. Là nước đang phát triển lại có đặc điểm địa - tự nhiên, địa – kinh tế đặc
thù nên Việt Nam rất dễ gặp phải rủi ro, ảnh hưởng đến sinh kế và thu nhập. Đây là một
trong những thách thức khách quan buộc các nhà hoạch định chính sách phải tính đến để
có thể xây dựng được hệ thống ASXH phù hợp.
Thứ ba: Hiện tượng già hoá dân số cũng đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống ASXH
hiện hành và trong tương lai. Theo ước tính của Uỷ ban quốc gia Người cao tuổi, tỷ lệ
người cao tuổi ở Việt Nam sẽ là 16% vào năm 2020 và tiếp tục gia tăng những năm sau đó.
Thư tư: Mức hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế giữa các nhóm dân cư còn nhiều bất cập
nhất là với nhóm người nghèo, người dân tộc ít người sống ở vùng sâu, vùng xa. Hệ thống
dịch vụ xã hội chưa hiệu quả. Các chính sách thị trường lao động, chính sách BHXH, trợ
giúp xã hội có phạm vi bao phủ còn thấp. Mức đóng, mức hưởng BHXH còn chưa hợp l ý,
chưa đảm bảo đời sống cho các nhóm đối tượng thụ hưởng. Mức độ bền vững về tài
chính, tính liên kết giữa các chế độ, chính sách ASXH còn nhiều bất cập.
Thứ năm: Các rủi ro kinh tế, xã hội trên toàn cầu ngày càng đa dạng, phức tạp và có
diện ảnh hưởng rộng. Tác động tiêu cực của những cú sốc khó lường trước từ bên ngoài
đến quốc kế dân sinh ngày càng nhanh và mạnh. Trong khi đó chúng ta lại chưa có nhiều
kinh nghiệm phòng, chống rủi ro trong bối cảnh toàn cầu hóa và còn hạn chế về nguồn lực
giành cho các hoạt động phòng chống rủi ro.
Thứ sáu: Các nhóm yếu thế ngày càng trở nên yếu thế và dễ bị tổn thương hơn do
hạn chế về khả năng cạnh tranh, về phòng ngừa rủi ro trên thương trường. Các dòng di
chuyển việc làm, di chuyển lao động từ nông thôn ra đô thị, từ vùng này sang vùng khác,
từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại, v.v… diễn ra với cường độ ngày càng mạnh.
Xu hướng này tạo áp lực trong việc đảm bảo quyền và cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản, quyền thụ hưởng các chính sách an sinh của người dân, nhất là các nhóm đối
tượng dễ bị tổn thương.
Như vậy, các nhóm đối tượng của ASXH s ẽ ngày càng đa dạng, đòi hỏi phải có
một hệ thống chính sách ASXH đa tầng, đa lớp, linh hoạt và có khả năng hỗ trợ lẫn nhau 27
kịp thời để đảm bảo cho “…mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có một mức tối
thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội
thiết yếu và có quyền được an sinh k hi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa
bụa, tuổi già… hoặc các trường hợp bất k hả kháng khác” theo tinh thần của Điều 25,
Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1948 về quyền con người.
Trong Chiến lược ASXH thời kỳ 2011 - 2020, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục coi bảo
đảm ASXH là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên với quan điểm “tăng trưởng kinh tế
kết hợp hài hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao không ngừng chất lượng cuộc
sống của nhân dân; phát triển hệ thống ASXH đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả".
Mục tiêu chủ yếu đến năm 2020 trở thành nước có mức sống trung bình cao của thế giới;
thực hiện BHYT toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% - 3%/năm; phúc lợi, ASXH
và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được bảo đảm; thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng
3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư...
2.2. Hệ thống phúc lợi xã hội ở Việt Nam
2.2.1. Bảo hiểm y tế
2.2.1.1. Sự ra đời và phát triển của chính sách bảo hiểm y tế ở Việt Nam
Bảo hiểm y tế là loại bảo hiểm đặc biệt, mang ý nghĩa nhân đạo, thực hiện chế độ
BHYT sẽ góp phần ổn định và thực hiện công bằng xã hội. Chính vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm và coi trọng đến lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân bởi
quan niệm “lấy dân làm gốc”.
Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở
ra bước ngoặt trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực y tế,
với chủ trương đổi mới lĩnh vực y tế theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm” nhằm bổ sung nguồn kinh phí và từng bước đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của
dân cư ngày một tăng, ngày 24/4/1989 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số
45/HĐBT cho phép các cơ sở khám chữa bệnh thu một phần viện phí. Ngày 15/6/1989
liên Bộ Y tế-Tài chính đã ban hành Thông tư số 14 hướng dẫn thực hiện Quyết định số
45/HĐBT nêu rõ: “ở những nơi có điều kiện, có thể áp dụng thử chế độ bảo hiểm sức
khỏe hoặc k ý hợp đồng khám chữa bệnh với các tổ chức y tế trong quốc doanh và ngoài
28
quốc doanh, lập các quỹ bảo trợ y tế địa phương hoặc y tế cơ sở giúp đỡ người bệnh không có k hả năng trả một phần viện phí”20.
Ngày 26/10/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã ra Thông tri số 3504/KG chỉ đạo Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương, Bộ Y tế tổ chức thí điểm
BHYT. Đến tháng 6/1991, đã có 3 tỉnh, thành phố tổ chức thí điểm BHYT trên diện rộng
là Hải Phòng, Quảng Trị và Vĩnh phú.
Tại phiên họp ngày 15/4/1992, kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến
pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo hiểm y tế được qui định tại điều 39
như sau: "Thực hiện BHYT tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ".
Đây là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng, là tiền đề cho việc triển khai thực hiện chính sách BHYT ở nước ta21.
Ngày 15/8/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số
299/HĐBT kèm theo Điều lệ BHYT, khai sinh ra chính sách BHYT ở Việt Nam và được
triển khai rộng khắp trên toàn quốc khi được coi là một nhánh của BHXH tách ra. Điều lệ
BHYT quy định, đối tượng tham gia BHYT bắt buộc là những cán bộ, công nhân viên
chức tại chức và hưu trí ở các đơn vị thuộc khu vực hành chính sự nghiệp, người lao động
khu vực sản xuất kinh doanh còn các đối tượng khác sẽ tham gia BHYT theo khả năng và
nhu cầu. Nội dung của BHYT được cụ thể như sau:
Người tham gia BHYT được hưởng các quyền lợi khám chữa bệnh:
- Khám bệnh, chẩn đoán và điều trị
- Xét nghiệm, chiếu chụp X-quang, thăm dò chức năng
- Thuốc trong danh mục theo quy định của Bộ Y tế
- Máu, các chế phẩm màu và dịch truyền
- Các thủ thuật, phẫu thuật
- Sử dụng vật tư, thiết bị y tế và giường bệnh
Trong trường hợp bệnh vượt quá khả năng chuyên môn của cơ sở khám chữa bệnh,
người có thẻ BHYT được chuyển viện lên tuyến kỹ thuật cao hơn.
20 http://socialwork.vn/2011/02/24/1495/ 21 http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/newscategory/252/bhxh_vn.htm
29
Người tham gia BHYT được chọn nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu. Khi bệnh
nặng được chuyển lên tuyến trên điều trị theo tuyến chuyên môn kỹ thuật do Bộ Y tế quy
định. Trong trường hợp cấp cứu được khám chữa bệnh tại bất cứ cơ sở y tế nào của Nhà
nước.
Người tham gia BHYT được khám chữa bệnh theo yêu cầu riêng Tự chọn thầy thuốc,
tự chọn buồng bệnh, tự chọn cơ sở khám chữa bệnh, tự chọn các dịch vụ y tế, khám chữa
bệnh vượt tuyến chuyên môn kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế, khám chữa bệnh tại các
cơ sở khám chữa bệnh không có hợp đồng với cơ quan BHXH (trừ trường hợp cấp cứu)
thì người tham gia BHYT phải thanh toán trước viện phí cho cơ sở khám chữa bệnh, cơ
quan BHXH chỉ thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo quy định của Bộ Y tế. Phần
chênh lệch tăng thêm (nếu có) do người có thẻ BHYT tự trả cho cơ sở khám chữa bệnh.
Ngày 24/01/2002, Chính phủ có Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg chuyển Bảo hiểm y
tế thuộc Bộ Y tế sang Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Chính phủ thực hiện chuyển Bảo hiểm
y tế sang Bảo hiểm xã hội vì: 1- Thực hiện cải cách hành chính: Tách sự nghiệp ra khỏi
quản lý Nhà nước (BHYT là trọng tài giữa bệnh nhân và cơ sở khám chữa bệnh). 2-
BHXH, BHYT cùng chung bản chất, mục đích. 3- BHXH, BHYT cùng nhiệm vụ thu, chi
(đặc thù giám định).
Qua triển khai thực hiện, hệ thống chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân
từng bước được hoàn thiện, thể hiện ở các Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998
và Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 hướng đến mục tiêu công bằng và nhân
đạo trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trên cơ sở đóng góp của cộng
đồng, chia sẻ nguy cơ bệnh tật, giảm bớt gánh nặng tài chính của mỗi người dân. Đặc
biệt, Luật bảo hiểm y tế có hiệu lực từ ngày 1/7/2009 đã hướng đến mục tiêu BHYT toàn
dân vào năm 2014. Đây là một cam kết mạnh mẽ của Chính phủ và Nhà nước ta trong
việc hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần mức đóng bảo hiểm y tế đối với người nghèo, cận
nghèo, người dân tộc thiểu số, hộ gia đình làm nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức
sống trung bình trở xuống, đối tượng hưởng chính sách ưu đãi xã hội và trợ giúp xã hội.
2.2.1.2. Những kết quả đạt được
Công tác triển khai thực hiện các chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân,
đặc biệt là chính sách BHYT đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Năm 2001 mới 30
có 16 triệu người tham gia bảo hiểm y tế (trong đó 12 người tham gia BHYT bắt buộc và
khoảng 4 triệu người tham gia BHYT tự nguyện), chiếm khoảng 20% dân số cả nước thì
đến năm 2009 đã có 53,3 triệu người tham gia BHYT, chiếm trên 60% dân số cả nước.
Đặc biệt, Nhà nước đã thực hiện chương trình cấp thẻ BHYT miễn phí cho người
nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi và nhiều
nhóm đối tượng dễ bị tổn thương khác; hỗ trợ một phần đáng kể phí đóng bảo hiểm y tế
(50% phí đóng bảo hiểm y tế ở mức tối thiểu) cho người cận nghèo, học sinh sinh viên…
Song song với các chương trình hỗ trợ phí tham gia BHYT, các chương trình tuyên
truyền, truyền thông về lợi ích của BHYT đối với bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng
đồng cũng được triển khai trên các phương tiện truyền thông, xuống từng địa phương, vào
từng trường học. Kết quả là đã có 13,2 triệu người nghèo, gần 9,6 triệu học sinh, sinh viên tham gia BHYT22.
Nguồn thu từ BHYT tăng nhanh do mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế và có
sự điều chỉnh tăng lương của Nhà nước. Số thu bảo hiểm y tế năm 2001 là 1.151 tỷ đồng và năm 2009 ước tăng lên 13.610 tỷ đồng23.
Năm 2010, cả nước đã có 13.433 cơ sở y tế công lập với gần 200 nghìn giường bệnh;
74 bệnh viện tư nhân với 5.600 giường bệnh. Từ Trung ương đến các tỉnh, huyện đều có
các cơ sở y tế làm công tác dự phòng. Hệ thống y tế trải rộng trên cả nước, người dân
được chăm sóc sức khỏe ngay từ đầu. Đội ngũ cán bộ, công chức từ chưa đầy 2.000 người
từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đến nay ngành Y tế đã có 30 vạn người, với đủ các
loại hình chuyên môn đạt chất lượng cao. Mạng lưới khám chữa bệnh từ Trung ương đến
địa phương đang từng bước được củng cố.
Người dân có BHYT nên giảm được một phần chi phí khám chữa bệnh tại các cơ sở y
tế khi bị ốm đau; hệ thống cơ sở khám chữa bệnh được mở rộng; đội ngũ cán bộ y tế được
mở rộng về qui mô, nâng cao về chất lượng; các tiến bộ khoa học kỹ thuật của y học thế
giới nhanh chóng được đưa vào áp dụng… đã hỗ trợ tích cực vào công tác chăm sóc và
22ThS Lưu Quang Tuấn, bài viết “ Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế là một biện pháp góp phần đảm bảo an sinh xã hội”, trang wedsite http://socialwork.vn/2011/02/24/1495/ 23 nt
bảo vệ sức khỏe người dân, nhất là trẻ em, người già và các nhóm đối tượng dễ bị tổn
31
thương khác như người nghèo, người dân tộc thiểu số. Có thể kết luận rằng cùng với mức
sống của người dân được cải thiện, kiến thức về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của người
dân được nâng cao, cở sở hạ tầng và phương tiện giao thông được nâng cấp thì hệ thống
bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong đó có bảo hiểm y tế đã góp phần quan trọng
vào giảm mức chết, gia tăng tuổi thọ của người dân nước ta. Năm 1999 tỷ suất chết trẻ trẻ
sơ sinh là 36.7%o đã giảm xuống còn 16%o vào năm 2009. Tuổi thọ bình quân của người
dân nước ta được cải thiện đáng kể, năm 2009 đạt 72,8 tuổi, tăng gần 5 tuổi so với 10 năm
trước đó.
2.2.1.3. Những tồn tại
Tuy góp phần quan trọng vào thành tựu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân nhưng
chính sách BHYT hiện nay của nước ta vẫn còn một số bất cập và đang gặp nhiều thách
thức do thay đổi cơ cấu dân số và diễn biến phức tạp của các loại bệnh mới, dịch mới phát
sinh trong bối cảnh toàn cầu hóa và công nghiệp hóa.
Dấu hiệu già hóa dân số bắt đầu xuất hiện. Một thập kỷ trước đây, số người già trên 60
tuổi chỉ chiếm chưa đến 7% dân số thì này đã chiến khoảng 10% dân số và tỷ lệ này được
dự báo sẽ gia tăng nhanh trong những thập kỷ tới là một áp lực về công tác chăm sóc sức
khỏe cho người dân nói chung và người cao tuổi nói riêng của hệ thống y tế Việt Nam.
Các dạng bệnh đòi hỏi chi phí y tế cao như suy thận, tim, v.v… có xu hướng gia tăng
làm tăng các khoản chi cho BHYT của cơ quan bảo hiểm là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự mất cân đối của quỹ bảo hiểm y tế.
Nhận thức của người dân về lợi ích tham gia bảo hiểm y tế chưa cao trong khi công
tác quản l ý đối tượng tham gia BHYT vẫn còn lỏng lẻo. Tình trạng người dân chỉ mua
BHYT khi đã biết mắc bệnh vẫn còn nhiều là nguyên nhân khác kìm hãm khả năng tăng
trưởng của quỹ BHYT và nó triệt tiêu tính chia sẻ rủi ro về chi phí y tế giữa người bị ốm
đau và người không bị ốm đau. Hậu quả là quỹ BHYT khó bền vững.
Hiện vẫn còn 40% dân số chưa tham gia bảo hiểm y tế và chúng ta vẫn chưa có giải
pháp cụ thể để thu hút được nhóm dân cư này tham gia nhằm hướng đến mục tiêu bảo
hiểm y tế toàn dân từ năm 2014 như Luật Bảo hiểm y tế đã đề ra.
32
Thực tế chi tiêu từ quỹ khám chữa bệnh trong thời gian qua cho thấy mức chi tăng rất
nhanh. Năm 2005, quỹ bảo hiểm y tế bội chi là 136,7 tỷ đồng; năm 2007 bội chi 1.600 tỷ
đồng và năm 2009 bội chi dự tính là 1.838 tỷ đồng.
Chất lượng chăm sóc y tế còn thấp, nhất là ở dưới tuyến cơ sở, ở các vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa. Chi phí cho y tế của hộ nghèo, các nhóm dễ bị tổn thương vượt quá
khả năng tài chính của hộ. Y tế cộng đồng bao gồm các biện pháp thúc đẩy lối sống lành
mạnh, bảo vệ môi trường trong sạch, phát triển y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe ban
đầu, v.v… chưa đáp ứng yêu cầu về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho mọi người dân.
Việc tăng cường tiếp cận của người nghèo đến bảo hiểm y tế kể cả khi có thẻ bảo hiểm
y tế còn nhiều thách thức. Theo kết quả báo cáo của UNDP “Phân tích chung về Việt
Nam” thì các vấn đề người nghèo đang phải đối mặt, bao gồm: Chủ trương xã hội hóa các
dịch vụ y tế chỉ giới hạn trong huy động nguồn lực tài chính để trang trải dịch vụ y tế;
người dân phải bỏ tiền túi nhiều (so với thu nhập) cho các dịch vụ y tế; chi tiêu công cho
y tế còn thấp, năm 2008 chỉ chiếm 13% trong tổng chi y tế; nhiều người nghèo không sử
dụng thẻ bảo hiểm y tế khi đi khám chữa bệnh thông thường do các dịch vụ không sẵn có
hoặc khó tiếp cận; chất lượng không cao, chi phí được thanh toán còn thấp. 2.2.2. Hình thành các quan hệ lao động24
2.2.2.1. Các chủ thể trong quan hệ lao động
Trong phạm vi doanh nghiệp, quan hệ lao động là mối quan hệ giữa người lao động,
đại diện của người lao động (công đoàn cơ sở) và người sử dụng lao động trong việc thực
hiện các qui định của pháp luật lao động và các cam kết của doanh nghiệp về hợp đồng
lao động, thoả ước lao động tập thể, tiền lương, bảo hiểm xã hội, thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động và các điều kiện khác nhằm bảo đảm quyền và lợi
ích của các bên.
24 Phạm Minh Huân; Bài viết “Quan hệ lao động ở Việt Nam- Những vấn đề đặt ra và định hướng hoàn thiện”, website http://laodongxahoionline.vn/ArticlesDetail/tabid/193/cateid/12/id/1379/language/vi-VN/Default.aspx, ngày truy cập: 18/05/2011.
33
Trong phạm vi quốc gia (hoặc địa phương) quan hệ lao động là mối quan hệ giữa Nhà
nước, đại diện người lao động và đại diện người sử dụng lao động trong việc hoạch định
và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật lao động, hỗ trợ thúc đẩy hai bên tại doanh
nghiệp xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ.
Ở cấp quốc gia, các chủ thể trong quan hệ lao động gồm:
- Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan Chính phủ): Nhà nước có vai trò hết
sức quan trọng trong việc xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật lao động, tổ chức
triển khai và giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực thi pháp luật; tổ chức các thiết chế để
bảo đảm và hỗ trợ quan hệ lao động, điều hoà lợi ích của các bên trong quan hệ lao động;
- Đại diện người lao động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam): Tham gia cùng Nhà
nước xây dựng chính sách pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích người lao động; hỗ trợ
công đoàn ngành, công đoàn doanh nghiệp thúc đẩy phát triển quan hệ hai bên;
- Đại diện người sử dụng lao động (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) tham gia cùng Nhà nước xây dựng chính sách pháp luật
liên quan đến quyền và lợi ích của người sử dụng lao động (chủ doanh nghiệp); hỗ trợ
Hiệp hội doanh nghiệp, người sử dụng lao động trong việc thực thi pháp luật và thúc đẩy
xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định.
Ở cấp địa phương, chủ thể quan hệ lao động là UBND tỉnh, thành phố, Liên đoàn Lao
động và Chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp, Liên minh Hợp tác xã trong việc
thực hiện các qui định của pháp luật lao động, hỗ trợ các bên xây dựng quan hệ trong
phạm vi khu công nghiệp, doanh nghiệp.
Ở cấp ngành và doanh nghiệp, chủ thể trong quan hệ lao động gồm: Đại diện người
lao động (công đoàn ngành và công đoàn cơ sở); Đại diện người sử dụng lao động của
ngành và người sử dụng lao động tại doanh nghiệp. Hai chủ thể này thông qua cơ chế đối
thoại, thương lượng và ký kết thoả ước lao động tập thể để thực hiện quyền, nghĩa vụ và
lợi ích của các bên, nhằm bảo đảm quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ.
2.2.2.2. Vai trò của Nhà nước trong quan hệ lao động
Trong quan hệ lao động, Nhà nước có vai trò kép, vừa định ra pháp luật lao động,
hướng dẫn thực hiện pháp luật lao động, vừa là một chủ thể trong quan hệ 3 bên, đại diện
cho lợi ích quốc gia và toàn thể cộng đồng. Nhà nước tham gia vào quan hệ lao động từ 34
trung ương đến địa phương, thông qua hệ thống hành chính Nhà nước của mình (Chính
phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương). Thông thường, các nước đặt
chức năng quản lý Nhà nước về quan hệ lao động thuộc Bộ Lao động. Trong Bộ Lao
động thành lập Vụ hay Cục quan hệ lao động, đồng thời có các Vụ chức năng có liên quan
đến các nội dung chủ yếu của quan hệ lao động (như việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã
hội, an toàn vệ sinh lao động, tiêu chuẩn lao động, Thanh tra lao động, Trọng tài lao động,
Toà Lao động, …) Chính phủ có những vai trò chủ yếu sau:
- Hướng dẫn thi hành pháp luật lao động và quan hệ lao động, cụ thể: Ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành pháp luật lao động và các văn bản pháp luật khác liên quan đến
lao động và quan hệ lao động như: Luật Công đoàn; các luật khác có liên quan (Bộ luật
Dân sự, Luật Tố tụng Dân sự để giải quyết các vụ án tranh chấp lao động; Luật Doanh
nghiệp, Luật Hợp tác xã…); Tổ chức triển khai thực hiện các công ước của Tổ chức Lao
động Quốc tế; Quyết định các chính sách liên quan đến lao động và quan hệ lao động, như
chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động, cơ chế phối hợp 3 bên
trong quan hệ lao động.
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động, luật về quan hệ lao động, các luật khác có
liên quan đến các đối tượng thuộc quan hệ lao động nhằm nâng cao nhận thức và ý thức
chấp hành pháp luật.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động và quan hệ lao động.
2.2.2.3. Quan hệ lao động ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra
Quan hệ lao động mới được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam, so với các nước phát triển thì đây chỉ là thời kỳ đầu của quan hệ lao
động.
Bộ luật Lao động được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1995 đã đặt nền tảng
pháp lý cho việc hình thành và phát triển quan hệ lao động ở Việt Nam. Sau 15 năm thực
hiện, quan hệ lao động ở Việt Nam đã có những bước tiến nhất định từ việc nhận thức đến
tổ chức thực hiện phù hợp với sự hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường và thị
trường lao động. Các chủ thể được hình thành, các thiết chế bảo đảm, hỗ trợ quan hệ lao
động được ban hành và bước đầu hoạt động có hiệu quả. Việc ban hành Nghị định số
145/2004/NĐ-CP ngày 14/7/2006 của Chính phủ, trong đó quy định về cơ chế tham vấn 35
các bên và Uỷ ban Quan hệ lao động, Trung tâm Hỗ trợ Phát triển quan hệ lao động được
thành lập, quan hệ của các bên được bảo đảm thông qua đối thoại, thương lượng tăng dần.
Tổ chức đại diện cho người lao động, người sử dụng lao động ngày càng có vai to lớn và
quan trọng trong việc tham gia cùng Nhà nước hoạch định các chính sách, pháp luật lao
động cũng như tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Công tác quản lý nhà nước về lao động
được chú trọng, nhất là khâu tuyên truyền, kiểm tra, thanh tra việc thực thi chính
sách,pháp luật lao động: Hệ thống trọng tài lao động, Toà án Lao động từng bước được
củng cố để thực hiện thiết chế xét xử khi tranh chấp lao động xảy ra. Tuy nhiên, nhìn về
tổng thể quan hệ lao động ở nước ta mới ở giai đoạn đầu phát triển, còn nhiều bất cập,
trong điều kiện nền kinh tế tiếp tục hội nhập sâu, rộng hơn với khu vực và toàn cầu, số
doanh nghiệp tăng, số lao động tham gia thị trường lao động tăng thì cũng là những thách
thức không nhỏ trong giai đoạn tới. Các vấn đề về quan hệ lao động đặt ra tại thời điểm
này là:
1. Pháp luật về quan hệ lao động chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ
Pháp luật lao động có nhiều điểm không còn phù hợp với thực tế phát triển. Tham vấn
là hoạt động rất cần thiết trong quan hệ lao động, là bước thứ hai trong đối thoại (thông
tin - tham vấn và thương lượng). Theo qui định của pháp luật hiện hành, tham vấn là hoạt
động mang tính chất tự nguyện và kết quả của nó không có tính ràng buộc nên các bên
dễ tham gia, dễ thực hiện hơn so với thương lượng. Nhưng ở nước ta, nhiều năm qua cho
thấy, cơ chế tham vấn chưa trở thành phổ biến trong quan hệ lao động, chủ yếu diễn ra
khi áp lực tranh chấp lao động có bùng phát. Thiết chế hỗ trợ cho hai bên trong quan hệ
lao động để tăng cường năng lực đối thoại, thương lượng chưa phát huy kết quả, cho nên
ở một số nơi, trong một số trường hợp Nhà nước phải đứng ra tổ chức, thu xếp và cùng
hai bên đối thoại, thương lượng, giúp cho quá trình này mang lại kết quả thực sự và hiểu
biết lẫn nhau. Tuy nhiên, quan hệ lao động ở nước ta đang ở giai đoạn đầu phát triển, nên
các bên chưa nhận thức về tầm quan trọng của thiết chế này chưa cao cũng là điều dễ
hiểu. Mặt khác, trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án về lao động còn nhiều phức tạp; Cơ
chế 3 bên chưa được pháp luật qui định cụ thể. Khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức đại
diện hình thành và hoạt động còn bất cập như: Căn cứ pháp lý cho tổ chức đại diện người
sử dụng lao động chưa đủ; Luật Công đoàn ban hành đã lâu, không còn phù hợp với thực 36
tế.
2. Công tác quản lý Nhà nước về quan hệ lao động còn bất cập
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động còn nhiều hạn chế; thanh tra, kiểm tra
và giám sát thực thi pháp luật quan hệ lao động chưa đáp ứng được yêu cầu; Quản lý Nhà
nước về quan hệ lao động chưa tập trung vào một đầu mối; Các thiết chế hỗ trợ hiện tại
chưa phát huy được hiệu quả (hoà giải, trọng tài, xét xử); Cơ chế tham vấn chưa đủ mạnh
và chưa ngang tầm với sự phát triển (cơ chế 3 bên). Công tác thanh tra, kiểm tra các vấn
đề có liên quan đến quan hệ lao động còn nhiều hạn chế.
3. Tổ chức đại diện cho người lao động (công đoàn)
Tổ chức này được thành lập từ trung ương đến cấp tỉnh - ngành, cấp quận - huyện và
cấp cơ sở. Tổ chức công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp Nhà nước tương đối mạnh cả về số
lượng và chất lượng hoạt động (99% doanh nghiệp có tổ chức công đoàn và hầu hết đều
hoạt động có hiệu quả). Tuy nhiên, công tác phát triển công đoàn cơ sở và đoàn viên ở
khu vực ngoài Nhà nước còn hạn chế,chỉ có khoảng 40% doanh nghiệp dân doanh và
doanh nghiệp FDI có tổ chức công đoàn và ở nhiều nơi hiệu quả hoạt động chưa cao,
chưa thực hiện đúng vai trò là tổ chức đại diện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp
pháp của người lao động. Năng lực, trình độ của đội ngũ làm công tác công đoàn ở doanh
nghiệp nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu điều kiện và cơ chế hoạt động, bảo vệ
cán bộ công đoàn.
4. Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động
Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động mới được thành lập ở cấp trung ương
gồm: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Liên minh Hợp tác xã
Việt Nam. Ở cấp tỉnh đều có Liên minh Hợp tác xã, nhưng vẫn còn nhiều tỉnh, thành phố
chưa có Chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp cấp tỉnh. Hiệp hội các doanh
nghiệp chưa hoàn toàn gắn kết với VCCI, hoạt động mang tính chất xúc tiến thương mại
và đầu tư là chủ yếu, chưa thực hiện vai trò đại diện người sử dụng lao động trong đối
thoại, thương lượng với đại diện người lao động để tham vấn, ký kết thoả ước lao động
tập thể, hoà giải, giải quyết tranh chấp lao động và đình công và chưa có đầu mối để tập
trung hoạt động của các hiệp hội trong hỗ trợ phát triển quan hệ lao động. Các hiệp hội
hoạt động chưa thường xuyên, thiếu kinh phí, thiếu nhân sự, thiếu chuyên gia tư vấn hiểu 37
biết sâu về quan hệ lao động. Chưa có khuôn khổ pháp lý cho tổ chức đại diện người sử
dụng lao động hoạt động có hiệu quả. 2.2.3. Phúc lợi xã hội đối với người cao tuổi25
Phúc lợi cho nhóm yếu thế có vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, giúp cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân. Trong phạm vi bài
viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến vấn đề phúc lợi xã hội đối với người cao tuổi.
Người cao tuổi là một trong những đối tượng thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương
nhất trong xã hội. Theo báo cáo của Bộ Lao động - thương binh - và xã hội năm 2006, có
tới 130 ngàn người cao tuổi thuộc diện cô đơn không nơi nương tựa, 134 ngàn người từ
90 tuổi không có lương hưu và các khoản trợ cấp xã hội khác. Trong số người cao tuổi
còn có sức khỏe có gần 30% tham gia các công việc khác nhau để kiếm sống; 10% làm
việc nhà để con cháu đi làm, đặc biệt đối với vùng nông thôn tỷ lệ làm việc gia đình cao
gấp 4,5 lần so với tỷ lệ người ở đô thị
Việt nam đã có pháp lệnh về người cao tuổi từ năm 2000 và tháng 11/2009 vừa thông
qua Luật về người cao tuổi. Các văn bản pháp luật này quy định những nội dung vị trí của
người cao tuổi trong xã hội và trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội trong đảm
bảo chăm sóc và phụng dưỡng người cao tuổi. Chương trình hành động quốc gia về người
cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2005- 2010 được chính phủ ban hành năm 2005 với mục tiêu
chung, 3 nhóm mục tiêu cụ thể và 6 chỉ tiêu cần đạt được đến năm 2010 đã căn cứ vào
nhu cầu phát triển người cao tuổi Việt Nam và theo định hướng của chương trình hành
động quốc tế Madrid về người cao tuổi năm 2002.
Hiện nay có 4 nhóm người cao tuổi được hỗ trợ theo chính sách của chính phủ: đó là
những người trước đây đã từng làm việc cho nhà nước hoặc đã từng phục vụ trong quân
đội, cha mẹ liệt sỹ hoặc gia đình có công với cách mạng và người cao tuổi cô đơn không
nơi nương tựa. Từ năm 2007 thì người cao tuổi từ 85 tuổi trở lên (đến tháng 7 năm 2011
là từ 80 tuổi trở lên) vốn không được nhận các khoản trợ cấp kể trên sẽ được nhận các
25 Bế Quỳnh Nga; Bài viết“ Người cao tuổi Việt Nam: phúc lợi xã hội và các mô hình chăm sóc sức khỏe”; Tạp chí
XHH số 2(110); 2010.
38
loại trợ cấp xã hội. Người được nhận lương hưu tập trung chủ yếu tại các vùng đô thị và
chỉ có rất ít người ở nông thôn có lương hưu. Hiện cả nước có khoảng 1,4 triệu người
đang hưởng chế độ hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chiếm
19% tổng số người cao tuổi. Như vậy ước tính có khoảng trên 2 triệu người cao tuổi được
hưởng ít nhất một chế độ trợ cấp hoặc lương hưu. Nhóm người cao tuổi được hưởng chế
độ BHXH hoặc trợ cấp đặc biệt có cuộc sống tương đối ổn định.
Từ Nghị định số 07/2000- ND/CP đến Nghị định số 67/2007- NĐ/CP về các đối tượng
bảo trợ xã hội, các nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách ngày càng được mở rộng và
mức hưởng được gia tăng phù hợp với mức độ phát triển của nền kinh tế đất nước.
Chính sách của Việt Nam đối với người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn ngày càng
được bổ sung, hoàn thiện và đầy đủ hơn. Năm 2007, Chính phủ đã ban hành nghị định số
67/2007/NĐ-CP về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội; Nghị định này nhằm
vào các đối tượng người cao tuổi như sau:
1- Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo; người cao tuổi còn vợ hoặc chồng
nhưng già yếu, không có con cháu, người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình
nghèo.
2- Người từ 85 tuổi trở lên (trước đây là 90 tuổi trở lên) không có lương hưu hoặc trợ
cấp bảo hiểm xã hội.
3- Người cao tuổi tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ, thuộc hộ gia đình
nghèo.
4- Người cao tuổi mắc bệnh tâm thần mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa
hoặc gia đình thuộc diện hộ nghèo.
5- Người cao tuổi nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động thuộc hộ gia đình
nghèo.
Các chính sách ngày càng hạ thấp độ tuổi người cao tuổi được hưởng chính sách, từ
90 tuổi trở lên vào năm 2000 xuống 85 tuổi trở lên từ năm 2007 và từ tháng 7 năm 2010
sẽ là từ 80 tuổi trở lên. Một số địa phương có điều kiện đã nâng mức trợ cấp so với quy
định của trung ương và hạ độ tuổi người cao tuổi được hưởng chính sách như thành phố
Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Bắc Ninh. Mức trợ cấp dành cho
người cao tuổi trong năm 2007 cũng tăng gần lên gấp 2 lần so với trước (mức chuẩn 39
120000đ/tháng. Người cao tuổi tàn tật nặng hưởng 180 000đ/ tháng. Nếu người cao tuổi
bị HIV/AIDS mức hưởng là 240 000đ/tháng. Nếu những đối tượng trên quá đặc biệt khó
khăn thì được xem xét tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc nhà xã hội tại cộng đồng,
người cao tuổi được hưởng mức trợ cấp xã hội nêu trên đều được cấp thẻ bảo hiểm y tế
miễn phí hoặc được khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế.
Hệ thống y tế và vấn đề chữa bệnh của người cao tuổi
Liên quan tới việc chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi, nhà nước ban hành nhiều
văn bản chính sách, đặc biệt trong đó phải kể tới là luật khám chữa bệnh năm 2009 và
thông tư số 02/2004/TT-BYT hướng dẫn thực hiện chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
trong tình hình mới.
Hiện nay, hệ thống CSSK người cao tuổi đang dần được hoàn thiện. Tuyến trung ương
có viện lão khoa trung ương là tuyến chuyên sâu về điều trị các bệnh lão khoa và thực
hiện chỉ đạo về chuyên môn kỹ thuật trong chăm sóc SK người cao tuổi trên phạm vi toàn
quốc cũng như nghiên cứu về các vấn đề bệnh tật của người cao tuổi. Một số bệnh viện
tuyến của 47 tỉnh đã thành lập khoa lão khoa phục vụ riêng người cao tuổi hoặc có một số
giường điều trị người cao tuổi khi chưa có điều kiện thành lập khoa lão khoa. Một số tỉnh
đã xây dựng được viện điều dưỡng phục hồi chức năng, trong đó có phục vụ người cao
tuổi…
Các mô hình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
Các loại hình chăm sóc người cao tuổi theo luật người cao tuổi được quốc hội thông
qua ngày 23/11/2009, bao gồm:
- Cơ sở bảo trợ xã hội
- Cơ sở tư vấn, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi.
- Cơ sở điều dưỡng người cao tuổi.
Hiện nay ở Việt Nam có cơ sở chăm sóc người cao tuổi đang hoạt động như sau: mô
hình trung tâm bảo trợ xã hội, mô hình cơ sở chăm sóc và nuôi dưỡng người cao tuổi, mô
hình trung tâm tư vấn và CSSK người cao tuổi, mô hình CSSK dựa vào cộng đồng.
Ủy ban quốc gia về người cao tuổi Việt Nam đang thực hiện 2 mô hình thí điểm: 1-
mô hình chăm sóc người cao tuổi dựa vào tình nguyện viên ở cộng đồng. 2- mô hình
CSSK người cao tuổi dựa vào thầy thuốc và tình nguyện viên tại cộng đồng. Mục tiêu của 40
các mô hình này nhằm trợ giúp trực tiếp những người cao tuổi ở cộng đồng. Hoạt động
của mô hình biên soạn tài liệu, đào tạo tình nguyện viên, hướng dẫn họ xây dựng kế
hoạch hoạt động dựa trên nhu cầu của người cao tuổi ở địa bàn của mình và hỗ trợ kinh
phí cho hoạt động hàng tháng của họ.
III. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI VÀ
PHÚC LỢI XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
Trong những năm gần, vấn đề An sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta ngày càng
được quan tâm. Nhiều chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đã được ban hành như:
Các văn bản pháp luật về Chính sách hỗ trợ đối với người nghèo và bảo trợ, cứu trợ xã
hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2001.
Những qui định pháp luật về Chế độ BHXH hiện hành, NXB Lao động, Hà Nội -
2002.
Pháp lệnh người cao tuổi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2000.
Tìm hiểu 1 số chính sách mới hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính
sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân: áp dụng năm 2008.
Trong lĩnh vực nghiên cứu chung và nghiên cứu dưới góc độ xã hội học nói riêng, có
nhiều tác giả cũng đã đề cập về ASXH và PLXH, cụ thể như sau:
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chiểu với đề tài “An sinh xã hội và định hướng nghiên
cứu nhằm nâng cao vai trò của khoa học xã hội vào quá trình hoạch định chính sách an
sinh xã hội ở Việt Nam”; Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội (2010)
đã chỉ ra vai trò của ASXH đối với đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam, những thành tựu
đạt được về ASXH và những bất cập còn tồn tại, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm
giải quyết những hạn chế của ASXH và phát triển hệ thống ASXH. Đặc biệt, nghiên cứu
chỉ ra vai trò của khoa học xã hội vào việc thực hiện quá trình hoạch định chính sách
ASXH ở nước ta.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Định về “An sinh xã hội”(2008). Nghiên cứu đã khái
quát chung nhất hệ thống ASXH trên thế giới và ở Việt Nam, đồng thời tác giả cũng đã
đưa ra nội dung cụ thể các chính sách của hệ thống ASXH. Nghiên cứu đã trở thành nội
dung ASXH cơ bản được đưa vào giảng dạy trong một số trường đại học.
41
Nghiên cứu của Bế Quỳnh Nga; bài viết“ Người cao tuổi Việt Nam: phúc lợi xã hội và
các mô hình chăm sóc sức khỏe”; Tạp chí XHH s ố 2(110); 2010. Nội dung của nghiên
cứu nói về phúc lợi xã hội với nhóm người cao tuổi được thể hiện qua những chính sách
về người cao tuổi của Đảng và Nhà nước; y tế và vấn đề khám chữa bệnh cho người già;
những mô hình chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi.
Ngoài ra, còn có rất nhiều các công trình thuộc cấp Viện, Bộ nghiên cứu về ASXH và
PLXH như:
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học: “Chính sách xã hội và quản lý xã hội ở cấp
cơ sở nông thôn và đô thị”, đề tài cấp Viện, 1983-1985.
Phòng phúc lợi xã hội- viện Xã hội học: “Chính sách xã hội ở Việt Nam và các nước
xã hội chủ nghĩa”, đề tài cấp Viện, 1987-1989.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học: “Người cao tuổi và hệ thống an sinh xã hội ở
miền Bắc Việt Nam”, đề tài cấp Viện, 1991.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học: “Trẻ khuyết tật và các thể chế trợ giúp trong
bối cảnh kinh tế chuyển đổi”, đề tài cấp Viện, 1999.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học :“Hệ thống Phúc lợi xã hội và tình hình phúc
lợi xã hội năm 2000”, đề tài cấp Viện, 2000.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học: “Thực trạng người cao tuổi nghèo ở Việt
Nam” (Đánh giá nhanh có sự tham gia của cộng đồng), Help Age tài trợ, 2001.
Nguyễn Tiến Hùng, Các chế độ BHXH – các vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam
(Chuyên đề NCS), TP. HCM – 2001.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội”,
đề tài cấp Viện xã hội học, 2001.
Bùi Thế Cường: “Phúc lợi xã hội châu Á - Thái Bình Dương: phúc lợi doanh nghiệp.
NXB KHXH, 2002.
Bùi Thế Cường : “Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt Nam thập niên 90: Tài
liệu tham khảo cho môn học phúc lợi xã hội, chương trình đào tạo cử nahan và cao học xã
hội học”. NXB KHXH, 2002.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học: “HIV/AIDS tại nơi làm việc: Một đánh giá
nhu cầu về chính sách và can thiệp”, Quỹ Ford tài trợ, 2003.
42
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học : “Phúc lợi xã hội ở Việt Nam: hiện trạng, vấn
đề và điều chỉnh”, đề tài cấp Bộ của; 2003.
Phòng phúc lợi xã hội – viện Xã hội học: “Nhận thức và thái độ của đồng bào Chăm
đối với một số chính sách của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế xã hội tại địa
phương”. (nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Ninh Thuận và bình Thuận), đề tài cấp Bộ.
2004 - 2006.
Lê Thị Hoài Thu: “Một số vấn đề lý luận về an sinh xã hội”. 2004.
TS. Tạ Đức Khánh: “An sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở Việt
Nam”. Năm 2005.
Ngô Quang Minh : “An sinh xã hội đối với nền kinh tế nước ta”; 2007.
Mai Ngọc Anh: “An sinh xã hội đối với nông dân trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam: sách chuyên khảo”. NXB chính trị quốc gia Hà Nội, 2010.
Bên cạnh đó còn có những bài viết đề cập đến ASXH và PLXH trên các tạp chí, sách
báo, các website như:
Bài viết:“Chính sách An sinh xã hội” (21/04/2011) trên báo của sở Lao động - thương
binh xã hội, tỉnh An Giang đề cập tới: Thực hiện chính sách an sinh xã hội đúng đắn,
hướng vào phát triển con người, vì hạnh phúc của nhân dân là động lực to lớn phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Thực hiện tốt
chính sách an sinh xã hội đối với nông dân, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội sẽ góp
phần tăng trưởng và phát triển bền vững.
http://vietbao.vn/Chinh-Tri/Nguoi-ngheo-Viet-Nam-huong-an-sinh-xa-hoi-thap-nhat/20732794/96/) đề
Bài viết “Người nghèo Việt Nam hưởng An sinh xã hội thấp nhất” (2007) (nguồn:
cập vấn đề người nghèo vẫn chưa được hưởng lợi nhiều từ hệ thống an sinh xã hội. Tuy
nhiên, không thể xây dựng hệ thống an sinh xã hội chỉ cho người nghèo. Phải xây dựng
một hệ thống toàn diện, bao trùm.
Bài viết của Trần Kinh Tế: “Xã hội hóa tín dụng xóa đói, giảm nghèo - một hoạt động
hiệu quả của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam” (2009). Tác giả đề cập tới Ngân
hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một trong những kênh quan trọng huy
động các nguồn vốn tín dụng ưu đãi để cho vay xóa đói, giảm nghèo trong các cộng đồng
dân cư có hiệu quả, thực hiện tốt chủ trương mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban 43
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đề ra là “…phải hỗ trợ giúp người nghèo bằng
cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn, tranh thủ các nguồn vốn tài trợ nhân đạo trong
và ngoài nước, phấn đấu tăng hộ giàu đi đôi với xóa đói, giảm nghèo”.
Bài viết của Nguyễn Tấn Dũng, “Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc
lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020”, Tạp chí Cộng sản, Số 285 (9/2010), giới thiệu những nội dung cơ bản của dự thảo
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020. Trong đó, bài viết đề cập đến bảo đảm
ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn
của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan
trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Bên cạnh
đó Đảng và Nhà nước đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển ASXH và PLXH bền
vững trong giai đoạn mới của đất nước.
Như vậy, có thể thấy vấn đề ASXH và PLXH ở Việt Nam được các nhà nghiên cứu
đặc biệt quan tâm từ những năm đất nước bắt đầu tiến hành đổi mới năm 1986. Đến nay
đã có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, những nghiên cứu này còn ở tầm vĩ
mô. Những nghiên cứu về phúc lợi xã hội còn hạn chế. Chính vì vậy, ASXH và PLXH
còn rất nhiều khía cạnh cần bàn đến, nhiều hướng nghiên cứu mở ra và có thể thực hiện
như vấn đề: việc làm cho người lao động; lao động thất nghiệp; vấn đề nhà ở cho người
dân ở khu tái định cư...
IV. KẾT LUẬN
An sinh xã hội và phúc lợi xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa
bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về
kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm ASXH và PLXH không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi
người dân như đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, mà còn là một
nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy
mô, phạm vi ASXH và PLXH của các nước có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào quan niệm,
chế độ chính trị - xã hội, trình độ phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.
Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội luôn là
một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế 44
độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền
vững của đất nước. Trong nhiều thập kỷ qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, cùng
với việc không ngừng cải tiến chế độ tiền lương, tiền công và nâng cao thu nhập cho
người lao động, Đảng và Nhà nước rất quan tâm chăm lo đến an sinh xã hội và phúc lợi
xã hội cho nhân dân.
Ngay từ Đại hội lần thứ III, Đảng ta đã xác định “…Cải thiện đời sống vật chất và văn
hoá của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ăn no mặc ấm, tăng thêm sức
khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng
đời sống mới ở nông thôn và thành thị…” Những năm sau đó, mặc dù trong điều kiện còn
hết sức khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn luôn dành sự quan tâm đặc
biệt đến công tác bảo đảm ASXH và PLXH. Nhận thức, quan điểm và cơ chế chính sách
phát triển hệ thống ASXH và PLXH được hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội của Đảng.
Đến Đại hội IX của Đảng chủ trương này trở thành một định hướng chiến lược để phát
triển bền vững đất nước: “Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ và cải thiện môi trường…” Đại hội X của Đảng xác định “Xây dựng hệ thống
an sinh xã hội đa dạng, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân”, “Từng bước mở rộng và cải thiện
hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp
nhân dân trong xã hội, nhất là nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”.
Để tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững, thực hiện có hiệu quả
chính sách xóa đói giảm nghèo, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng Chiến lược Phát triển
kinh tế xã hội 10 năm 2001- 2010, Chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực trong giai
đoạn 2001- 2010 (Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; Chiến lược quốc
gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chiến lược quốc gia về chăm sóc
sức khỏe sinh sản; Chiến lược dân số Việt Nam; Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng;
Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam; Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước; Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm
2010; Chiến lược trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường
2001-2010...); Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005 và Chương trình mục
tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005, các Quyết định của 45
Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh Tây Nguyên, miền núi
phía Bắc và đồng bằng sông Cửu Long...
Bước sang giai đoạn chiến lược mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục coi bảo đảm an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên. Dự thảo Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định: Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài
hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của
nhân dân; phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tạo
cơ hội bình đẳng hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Đồng thời đề ra mục
tiêu đến năm 2020, trong đó GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3000
- 3200 USD; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% - 3%/năm; phúc lợi, an
sinh xã hội và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được bảo đảm; thu nhập thực tế của dân cư
gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và
nhóm dân cư...
46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Chiểu; “An sinh xã hội và định hướng nghiên cứu nhằm nâng cao vai
trò của khoa học xã hội vào quá trình hoạch định chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam”;
Khoa Khoa học quản lý, trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội; 2010.
2. Bùi Thế Cường, “Nghiên cứu chính sách xã hội: Nhìn lại một chặng đường”, Tạp
chí XHH số 4-2005.
3. Mai Ngọc Cường; “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở
Việt Nam”, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2008.
4. Nguyễn Tấn Dũng, Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội
là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển k inh tế - xã hội 2011 – 2020, Tạp chí
Cộng sản, Số 285 (9/2010), tr4.
5. Nguyễn Văn Định; Giáo trình “An sinh xã hội”; NXB Đại học Kinh tế quốc dân;
2008.
6. Phạm Minh Huân; Bài viết “Quan hệ lao động ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra
và định hướng hoàn thiện”; Truy cập:
http://laodongxahoionline.vn/ArticlesDetail/tabid/193/cateid/12/id/1379/language/vi-
VN/Default.aspx, ngày 18/05/2011.
7. Nguyễn Thị Lan Hương,“Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam thời kỳ 2011 -2020”,
Tạp chí Lao động và xã hội, số 19, quý II, 2009.
8. PGS.TS Nguyễn Hải Hữu, “Giáo trình ASXH”, NXB Lao động - xã hội, Hà Nội,
2008, tr19
9. Bế Quỳnh Nga; Bài viết“ Người cao tuổi Việt Nam: phúc lợi xã hội và các mô
hình chăm sóc sức khỏe”; Tạp chí XHH số 2(110); 2010.
10. Trần Kinh Tế, bài viết “Xã hội hóa tín dụng xóa đói, giảm nghèo - một hoạt động
hiệu quả của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam”,
website: http://luattaichinh.wordpress.com/2009/05/12/x-h%E1%BB%99i-ha-tn-
d%E1%BB%A5ng-xa-di-gi%E1%BA%A3m-ngho-m%E1%BB%99t-ho%E1%BA%A1t-
d%E1%BB%99ng-hi%E1%BB%87u-qu%E1%BA%A3-c%E1%BB%A7a-ngn-hagra/
47
ThS Lưu Quang Tuấn, bài viết “Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế là một biện pháp góp
phần đảm bảo an sinh xã hội”, trang wedsite http://socialwork.vn/2011/02/24/1495/
11. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đề tài KX02.02/06-10
12. http://bhxhquangngai.gov.vn/index.php?nv=about
13. http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/newscategory/252/bhxh_vn.htm
14. website http://www.gov.com.vn
15. http://baodientu.chinhphu.vn/Home/De-nguoi-ngheo-som-duoc-ho-tro-nha-
o/20116/90767.vgp
48