NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYÊN THUÝ LOAN



TRI THỨC DẪN GIAN CỦA NGƯỜI
NÙNG AN TRONG VIỆC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG
NGUYÊN THỊ YÊN? - NGUYÊN THUÝ LOAN(**)

I. NGƯỜI NÙNG AN Ở VIỆT NAM
Đân tộc Nùng ở Việt Nam có nhiều nhóm địa phương với các tên gọi khác nhau. Có nhóm gọi theo tên quê hương cũ thuộc các huyện của các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây... của Trung Quốc như: Nùng An (An Kết) Nùng Inh (Long Anh), Nùng Lòồi (Hạ Lôi), Nùng Cháo (Long Châu), Nùng Phàn Sình (Vạn Thành)... Có nhóm lại gọi tên theo đặc điểm trang phục: Nùng U (váy có túi ), Nùng Hu Lài (khăn đội đầu có đốm trắng), Nùng Khèn Lài (ống tay áo có mảng hoa văn)... Ngoài những yếu tố chung của tộc người còn có đặc điểm riêng của từng nhóm Nùng dược thể hiện qua trang phục, cấu trúc nhà cửa, các phong tục tập quán, lễ tết và các nghề thủ công cổ truyền. Các nhóm Nùng ở Việt Nam cư trú chủ yếu theo nhóm địa phương như: Nùng Phàn Sình tập trung ở Lạng Sơn, Nùng U tập trung ở Quảng Ninh, Nùng Giang, Nùng An ở Cao Bằng...
Í ] , % -_ Tơ *® ˆ “ .- “ ˆ . (**) Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu văn hóa dân g1an.
Địa bàn cư trú của người Nùng được phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền đông bắc, gồm Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hoàng Liên Đơn, vv...
Người Nùng An là một trong những nhóm cấu thành nên tộc người Nùng ở Việt Nam. Địa bàn cư trú chủ yếu của người Nùng An là ở Cao Bằng. Ngoài ra còn có ở một số tỉnh khác như Lào Cai, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Sông Bé, Đồng Nai (đi eư từ Cao Bằng vào sau 1990).
Ngươi Nùng An cũng làm ruộng nước thành thạo như người Việt, người Tày, người Thái, song nơi cư trú của họ là khu vực chuyển tiếp giữa vùng thấp và vùng cao, thường là các thung lũng, nôn ruộng nước ít, canh tác nương rẫy là chính. Do đời sống kinh tế chủ yếu là từ sản xuất nông nghiệp nên họ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sản xuất, ngoài thu nhập từ ruộng nương, họ còn có nghề phụ gia đình là các nguồn thu nhập đáng kể. Nghề phụ của người Nùng An chủ yếu là các nghề trồng bông dệt vải, rèn đúc, mộc, làm ngói, làm hương, làm giấy, đan lât mây tre,...
Người Nùng An thường cư trú tập trung thành từng bản, từng xã hoặc cụm hai ba xã duy nhất một dân tộc Nùng An. Ngoài ra cũng có từng bản sống xen kẽ với các bản của người Tày hoặc các nhóm Nùng khác. Dù sống riêng từng bản hay sống chung bản với ác nhóm dân tộc khác, người Nùng An bao giờ cũng cư trú quần tụ gần nhau, bố trí thành một hệ thống phòng thủ để chống trộm cướp và giặc dã. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9


Người Nùng An ở Cao Bằng phân bố tập trung ở huyện Quảng Hoà (gồm huyện Quảng Uyên và Phục Hoà cũ), ngoài ra còn rải rác ở một số huyện khác như: Hạ Lang, Hoà An, Thông Nông, Hà Quảng, Thạch An, Trùng Khánh, Trà Lãnh. Ở các huyện khác cũng có một vài bản nhưng chủ yếu đều là cư dân từ huyện Quảng Hoà chuyển đến. Theo báo cáo biến động dân số của uỷ ban dân số tỉnh Cao Bằng tháng 12/1999, ở Cao Bằng có 15.726 người Nùng An cư trú, chiếm 23,35% trong tổng số người Nùng có mặt ở Cao Bằng. Riêng huyện Quảng Hoà đã có tới 13.486 người, tập trung đông nhất là ở các xã Phúc Sen, Đoài Khôn, Quốc Dân là ba xã duy nhất chỉ có người Nùng An. Số còn lại phân bố rải rác ở các xã Tự Do, Hồng Quang, Chí Thảo, Phí Hải, Hồng Đại, Bình Lăng và các huyện khác.
Theo thuyết người Nùng An thì điểm dừng chân đầu tiên của người Nùng An ở Việt Nam là tại bản Phya Chang, xã Phúc Sen, huyện Quảng Hoà tỉnh Cao Bằng. Hiện nay Phya Chang nói riêng và xã Phúc Sen nói chung được coi là địa phương điển hình của tỉnh Cao Bằng trong việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống. Đồng thời đây cũng là một trong những xã thuần một dân tộc vẫn còn giữ nguyên được bản sắc văn hoá cổ truyền của dân tộc mình. Mặt khác Phúc Sen còn là xã dẫn đầu toàn tỉnh Cao Bằng trong việc xoá đói giảm nghèo, phát triển ngành nghề phụ và bảo vệ môi trường...
truyền của
Điểm nổi bật của người dân ở đây là họ rất có ý thức trong việc giữ gìn và bảo lưu những truyền thống văn hoá
của dân tộc mình. Họ không những chỉ làm tốt công tác cải tiến khoa học kĩ thuật, thâm canh, tăng vụ, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn làm tốt công tác bảo tồn và phát huy vốn văn hoá truyền thống đồng thời đi đầu trong việc thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước. Một trong những thành tích đáng kể của đồng bào ở đây là việc trồng cây nuôi rừng phủ xanh núi đá bảo vệ môi trường. Có được thành tích này chính là vì họ đã phát huy được truyền thống văn hoá lâu đời của dân tộc mình trong việc xây dựng cuộc sống hiện tại. Như vậy, vừa dân tộc lại vừa hiện đại, đó chính là hình anh của một khu vực thuần dân tộc Nùng An đậm đà bản sắc dân tộc đang hoà lưu vào công cuộc hiện đại hoá dưới con mắt các nhà nghiên cứu hiện nay. Trong đó, yếu tố truyền thống như một mạch nước ngầm vẫn không ngừng tuôn chảy góp phần tích cực vào công cuộc hiện đại hoá đang chuyển mình từng ngày, từng giờ của người dân nơi đây. Tìm về cội nguồn bản sắc văn hoá dân tộc của họ sẽ là một việc làm có ý nghĩa trong việc lý giải những thành công mà họ đạt được trong cuộc mưu sinh đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt để làm chủ cuộc sống của mình. Vì lý do đó chúng tôi chọn xã Phúc Sen như là một điển hình cư trú của người Nùng An ỏ Cao Bằng nói riêng và ở Việt Nam nói chung để tìm hiểu về tri thức dân gian của họ trong việc bảo vệ môi trường.
II ĐIỂU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA XÃ PHÚC SEN
Phúc Sen là xã nằm gần kề trên đường quốc lộ ba (con đường Hà Nội - Thuỷ Khẩu), cách thị xã Cao Bằng 33km, cách cửa khẩu Tà Lùng 25km, 40
NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYÊN THUÝ LOAN


cách chợ huyện Quảng Hoà (trung tâm cụm huyện miền đông) 4 km, cách chợ liên xã (chợ Án Lại - Nguyễn Huệ) 18 km. Đặc điểm này đã tạo điều kiện thuận lợi cho xã Phúc Sen phát triển về kinh tế - xã hội, buôn bán thông thương trong phạm vi khu vực và sang cả cửa khẩu Trung Quốc với các sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm thủ công nghiệp. Ngoài ra, tuy hệ thống giao thông đi lại trong nội bộ các bản và giữa các bản chưa được nâng cấp nhưng việc đi lại trong phạm vị xã khá thuận tiện.
Phúc Sen thuộc đơn vị hành chính nằm trong khu vực địa hình núi đá vôi của huyện Quảng Uyên cũ, toàn xã là một thung lũng hình lòng chảo, bốn bên là rừng núi đá vôi bao bọc. Do vậy trong tổng diện tích đất tự nhiên của toàn xã là 1284 ha thì đã có tới 1010 ha là diện tích núi đá vôi, còn lại chỉ có 100 ha trồng lúa một vụ và 167 ha trồng ngô và màu. Về thành phần đất đai, thổ nhưỡng, Phúc Sen nằm trong khu vực có các loại đất sau đây của huyện Quảng Hoà:
(1) Đất nâu uàng phát triển trên đá uôi (En): Loại đất này tơi xốp, độ ẩm cao, tầng đất khá dầy nhưng thường xuất hiện đá lồi đầu, độ pH = 6,5- 7,5, hàm lượng dinh dưỡng khá, mùn 1,9 - 3,5 %, đạm trung bình nhưng nghèo lân tổng số. Đất này thích hợp trồng ngô, cây ngắn ngày khác nhưng nếu bị khô hạn năng suất sẽ thấp.
(2) Đất carbonat (Vx): Đất này có thành phần cơ giới thịt nặng đến sét, độ pH+ 7-7,5, hàm lượng mùn 2- 3 %, đạm tổng số giàu 0,15- 0,17 nghèo lân tổng số và dễ tiêu. Đất này thích hợp
trồng các loại cây ngắn ngày như lúa, ngô nhưng cần chú ý bón thêm phân hữu cơ và lân.
(3) Đất đỗ uàng biến đổi do trồng lúa nước: đất có thành phần cơ giới thịt trung bình đến thịt nặng, độ pH + 6-
6,5, mùn tổng số 1,3 - 2%, đạm khá (0,15%), lân tổng số và dễ tiêu đều
nghèo. Đất thích hợp trồng lúa nước nhưng cần chú ý bón thêm lân.
(4) Đất thung lũng có sản phẩm đốc tụ: thành phần cơ giới từ thịt nặng đến đất sét. Đất chua, hàm lượng dinh dưỡng khá, thích hợp trồng các loại cây ngắn ngày như lúa, ngô, đỗ tương.
Như vậy đặc điểm địa hình chung của xã Phúc Sen là nằm trong khu vực núi đá vôi, đất đai canh tác ít. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông ở đây thường lạnh hơn và ít mưa, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều hơn, nhiệt độ trung bình là Lô,8”Ö (trong khi nhiệt độ trung bình của toàn huyện là 21,4'C), nhiệt độ cao nhất là 36°C, nhiệt độ thấp nhất là - 32C, hướng gió chính là gió đông bắc. Lượng mưa hàng năm không cao, thường có hạn hán kéo dài trong khi đất đai lại khô cằn, chủ yếu trông chờ vào lượng nước mưa của thiên nhiên.
Với những đặc điểm trên nên vấn đề nguồn nước là một trong những mối quan tâm hàng đầu của người dân xã Phúc Sen. Nguồn nước dùng cho sinh hoạt ở đây chủ yếu được lấy từ mỏ nước nguồn có tên gọi là Thanh Minh. Từ mỏ này nước được chảy tách thành hai nhánh suối nhỏ, một nhánh chảy qua cánh đồng Phya Chang xuống bản Lạc Chạo thuộc xã Chí Thảo, một nhánh NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
41

chảy qua bản Phya Chang về bản Đâư Cọ. Cạnh mỏ nước này từ xa xưa đồng bào đã lập một miếu thờ có tên gọi là Thanh Minh tương truyền là miếu thờ thần cai quản nguồn nước của vùng. Các nghỉ lễ xung quanh miếu thờ này thường là những nghi thức gắn với việc thờ cúng thần nguồn nước để cầu mưa, cầu nước. Sự tích miếu thờ Thanh Minh kể về mối tình không thành của một đôi nam nữ thanh niên Nùng An, người con trai tên Minh, người con gái tên Xinh. Để chống lại thế lực cường hào và chứng minh tình yêu son sắt của mình, đôi trai tài gái sắc này đã cùng tự vẫn bằng cách nhảy xuống một hốc đá ở cánh đồng Phya Chang. Cái chết của họ đã cảm cả đất trời khiến cho nước từ hốc đá trào lên tưới khắp cánh đồng Phya Chang trước đây vốn là một cánh đồng khô cạn. Dân làng nhớ ơn họ đã lập miếu thờ và mở hội xuống đồng vào dịp thanh minh hàng năm. Đây là dịp trai gái gặp gỡ tìm hiểu với tục bạn gái đến hội phải mang theo một gói xôi để mời bạn trai cùng ăn. Thực chất đây là lễ hội cầu mùa của cư dân nông nghiệp mà nội dung chính là cầu mưa, cầu nước. Vì lẽ đó miếu thờ Thanh Minh cũng chính là nơi thờ nguồn nước của cả vùng. Điều đó càng chứng tỏ rằng nước là một trong những mối quan tâm lớn của người dân ở đây. Từ xa xưa người dân ở đây đã ý thức được sự cần thiết của nước đối với cuộc sống của họ. Bởi vậy, trong một đám cưới truyền thống, khi rước dâu về nhà chồng, người ta có thủ tục thầy Tào yểm bùa cho cô dâu đi ra mỏ nước Thanh Minh để gánh một gánh nước về đổ vào chum hoặc bể của gia đình nhà chồng.
Để khắc phục tình trạng khan hiếm nước vào mùa khô, từ cuối năm 1998, một loạt giếng khoan bơm tay đã được đào lắp thành công ở tất cả các bản ở Phúc Sen (người ta phải dùng bộc phá để phá đá ngầm, có giếng tốn tới 6 triệu đồng tiền Việt Nam).
Qua những vấn đề trình bày trên có thể thấy được rằng đời sống của người dân ở đây chịu sự chi phối và tác động rất lớn của điều kiện tự nhiên môi trường như các yếu tố về khí hậu, nguồn nước và chất đất. Chính vì ý thức được sâu sắc về điều này nên dựa vào trì thức bản địa cũng như truyền thống văn hoá lâu đời của mình mà họ đã có được những sáng kiến độc đáo trong việc bảo vệ môi trường mà nổi bật nhất là sáng kiến trồng cây mác rạc (một loài cây bản địa) để phủ xanh núi đá vôi, bảo vệ nguồn nước. Hiện nay sáng kiến này đang được lan rộng trong các địa phương có điều kiện tự nhiên tương tự và thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu.
Từ trường hợp người Nùng An ở Phúc Sen có thể nói rằng truyền thống văn hoá được nảy sinh trong quá trình lao động sản xuất, trong sự thích ứng với điều kiện tự nhiên, xã hội và môi trường thiên nhiên. Qua truyền thống văn hoá đó có thể thấy được những nét bản sắc riêng phản ánh được một phần tính cách, lối sống và tâm hồn của mỗi dân tộc. Dưới đây chúng tôi xin được chứng minh điều này qua một vấn để khá hạn hẹp đó là vai trò của tri thức dân gian trong việc bảo vệ môi trường của người Nùng An thông qua sáng kiến trồng cây mác rạc bản địa. 42
NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYÊN THUÝ LOAN


IIIL TRI THỨC DÂN GIAN CỦA NGƯỜI NÙNG AN TRONG VIỆC TRÔNG CÂY GÂY RỪNG I. Tri thức bản địa về môi
trường
Xuất phát điểm từ việc trồng cây mác rạc mà hiện nay xã Phúc Sen đã có 100% diện tích núi đá vôi đã được phủ xanh dẫn đầu tỉnh Cao Bằng về thành tích trồng cây gây rừng. Dưới đây chúng tôi xin được trình bày vắn tắt về sự ra đời của sáng kiến trồng cây mác rạc.
Vào thời điểm trước năm 1960, các dãy núi đá vôi ở Phúc Sen đã bị khai thác cạn kiệt và đốt phá trơ trụi, củi đốt khan hiếm và đặc biệt là nguồn nước ở mỏ nước Thanh Minh bị cạn không chảy được về tới các bản nữa. Lúc này, vấn đề củi đốt và nguồn nước đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của người dân Phúc Sen.
Đúng vào thời điểm đó, Hồ Chủ Tịch phát động phong trào trồng cây gây rừng trong cả nước. Ý thức được vai trò quan trọng của rừng dối với vấn để môi sinh, sau khi Hồ Chủ Tịch phát động phong trào này, ban lãnh đạo xã ở đây đứng đầu là ông chủ tịch Đức Vinh người bản Phya Chang đã họp bàn với các cụ cao tuổi của bản. Sau khi xem xét mọi người đều thống nhất rằng, với điều kiện tự nhiên của địa phương, muốn phủ xanh đồi núi trọc thì không thể trồng loại cây nào khác ngoài cây mác rạc bởi chỉ có loại cây này mới có thể phát triển được trên địa hình núi đá. Các cây có giá trị kinh tế cao hơn như nghiến, xoan và lát, muốn trồng được ở đây cũng phải có cây mác rạc trồng trước để tạo độ ẩm thì mới mọc được.
Phya Chang là xóm đầu tiên ở Phúc Sen đi đầu trong phong trào trồng cây mác rạc. Lúc đầu ở đây chỉ có Lũng Năm là địa điểm cao nhất của xã còn sót lại một vài cây cây mác rạc chưa bị phá đã được bảo quản làm giống để nhân rộng dần. Lúc đầu do giống ít nên người ta tận dụng trồng xen các loại cây rau khác vào cây mác rạc như xen dưa, bí...
Sau khi đã có cây mác rạc làm nền giữ độ ẩm, đồng bào tiếp tục trồng xen từng khoảnh các loại cây có giá trị kinh tế khác như nghiến, lát, xoan... Vì vậy rừng ở Phúc Sen trước đây và hiện nay là rừng tổng hợp nhiều loại cây ở các độ tuổi khác nhau, trong đó mác rạc là cây tiên phong có trước, tiếp đến là nghiến, xoan, lát...
Thực tế là chỉ sau khoảng ba năm thực hiện trồng cây gây rừng, đồng bào ở đây đã giải quyết được vấn đề chất đốt và đặc biệt là mỏ nước Thanh Minh ngày càng nhiều lên, nước lại tiếp tục chảy về các thôn bản. Ý thức được giá trị này nên nhìn chung đồng bào ở đây luôn luôn tự giác trong việc trồng và phát triển cây mác rạc. Như vậy có thể nói rằng ngay từ đầu, người dân Phúc Sen đã có hướng đi đúng trong việc lựa chọn cây trồng để phủ xanh đổi núi trọc. Hướng đi này được xuất phát từ việc biết vận dụng một cách sáng tạo điều kiện cụ thể của địa phương của người dân ở đây trong hưởng ứng phong trào trồng cây gây rừng của Nhà nước. Điều này đã quyết định một phần sự thành công trong việc trồng cây gây rừng ở đây.
Sáng kiến trồng cây mác rạc ở xã Phúc Sen ngoài phục vụ thiết thực nhu NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
43


câu thực tế của địa phương còn mang một ý nghĩa lớn hơn là đã góp phần cứu nguy cho nguy cơ suýt bị diệt chủng của loài cây này. Theo điều tra của các nhà khoa học thì trước đây loài cây này đã có tên trong danh sách đỏ - là loại cây sắp bị điệt chủng ở Việt Nam. Đến nay, nhờ có sáng kiến của Phúc Sen mà mác rạc sắp được xoá tên trong danh sách này. Thực tế, loài cây này trước đây cũng có mặt ở tỉnh Lạng Sơn nhưng nay đã bị tiệt chủng, hiện Lạng Sơn cũng phải tìm đến Phúc Sen để mua hạt giống cây.
Vậy mác rạc là loài cây như thế nào?
Theo tên gọi của địa phương thì mác rạc còn có các tên gọi khác là may Dầu, mạy Choòng (Tày), Dầu Choòng (Kinh).
Tên khoa học của mác rạc là: Delauaya toxocarpa Franch (có sách viết là Delauaya Yunnanensis Franch), họ Bồ Hòn (Sapindaceae).
Đặc điểm hình thái: Là loài cây gỗ nhỏ, thường có màu xanh sống thành bụi cao 6-10m, đường kính gốc 4-20cm, vỏ nâu, thịt nâu hồng. Cành hình trụ màu nâu đó nhăn. Lá kép lông chim mọc cách, 3 lá chét, cuống lá 3-5em. Lá chét dây, hơi dòn, hình mác, mép có răng hơi cong, hai mặt nhăn, gân bên nổi 2 mặt lá. Khi non lá có màu hồng. Cụm hoa chuỳ ở tận cùng, dài 6-12em. Hoa tạp tính nhỏ, cánh hoa màu trắng, hồng hay hơi tím. Cuống hoa nhỏ, mảnh, dài 4-7mm. Quả nang, dài 2-ỗ em, rộng 3,5cm, nhăn, màu tím đỏ, khi chín mở thành hai mảnh. Quả vỏ cứng, dầy và hoá gỗ, trung bình mỗi quả có từ 9-4 hạt. Hạt hình cầu, mầu đen.
Đặc tính sinh thái: Loài cây này phân bố chủ yếu ở Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam. Ở Việt Nam có ở Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Thường mọc ở rừng kín lá rộng thưởng xanh trên núi đá vôi từ 300- 1,500m, với khí hậu nhiệt đói hay cận nhiệt đới, lượng mưa 1,500-2,000mm. Cây mọc nhanh, tái sinh hạt và chồi rất tốt, nhưng hạt có dầu nên không để được lâu.
Khả năng tái sinh của loại cây này tương đối cao. Chu trình tái sinh và phát triển của cây cứ 3 năm tạo thành một thế hệ như sau:
Thế hệ I (cây mẹ): Cây cao khoảng 2m, đường kính thân cây nhỏ dưới 10em. Nếu cứ để không khai thác thì cây vẫn nhỏ không phát triển tiếp được.
Thế hệ II và III: Đây là các thế hệ cây con tái sinh sau khi đã chặt cây mẹ, tức là thế hệ mọc mầm từ gốc của cây đợt I. Loạt tái sinh này thân cây cao khoảng từ 4m đến 6m, đường kính thân cây từ 15em- 20em, giá trị sử dụng về gỗ cao hơn thế hệ I.
Các thế hệ tiếp theo (thế hệ IV, V...), thân cây kém phát triển giống như thế hệ l.
Giá trị sử dụng lớn nhất của loài cây này là về môi trường. Do cây dễ trồng nên chỉ cần bảo vệ khỏi bị gia súc hay người phá hoại thì tự nó sẽ phát triển tốt trên núi đá vôi, tạo bóng mát cho các cây khác phát triển theo. Thực tế ở đây người ta thường trồng mác rạc xen với các loại cây nghiến, cây lát và gần đây là cây mác mật. Ngoài ra, cây phát triển sẽ giữ được nguồn nước, rất cần thiết cho sinh hoạt và sản xuất ở 44
NGUYÊN THỊ YÊN - NGUYỄN THUÝ LOAN
CC —=ỄễE——ễễễ—ỄễSễSẼESEẼEỶEETBEẼEEỂ
xã, lá cây có khả năng hút bụi giữ cho không khí trong lành.
Gỗ cứng, mịn, được dùng trong xây dựng nói chung, làm các dụng cụ gia đình, cán các công cụ sản xuất nông nghiệp như cày, cuốc, xẻng, máy công cụ nhỏ, v.v. Ở Phúc Sen người ta thường dùng cây mác rạc để thay cây vầu (một loại tre) để làm vách nhà, sàn phơi, độ bền gấp đôi so với vầu. Cây còn cung cấp củi cho các gia đình và làm hàng rào...
Lá cây được tận dụng cho trâu bò ăn vào những địp mùa đông khan hiếm cỏ theo kiểu ăn độn, ví dụ: 8 bó rơm kèm một bó lá mác rạc hoặc một bó lá nghiến. Đây là một biện pháp tốt để khắc phục tình trạng thiếu thức ăn cho trâu bò ở đây. Tuy nhiên, giá trỊ sử dụng của lá mác rạc trong vấn đề này không cao vì không phải bất cứ con trâu hoặc bò nào ở đây đều thích ăn loại lá này.
Hạt mác rạc chứa dầu có thể ép lấy dầu làm xà phòng, dầu bôi trơn, dầu thắp sáng và làm thuốc chống nẻ và ghẻ. Đặc biệt hiện ở đây người ta vẫn thường sử dụng hạt của cây để chữa nẻ rất hiệu nghiệm. Cách sử dụng như sau: Vùi hạt vào trong gio nướng cho nóng sau đó ép sống lấy dầu bôi trực tiếp vào chỗ nẻ hoặc ghẻ rất công hiệu. Tuy nhiên do số hạt của mỗi cây không nhiều, một năm một cây chỉ có thể cung cấp được từ 1- 3 kg hạt một lần và vì khó bảo quản nên hiện nay có xu hướng không tuyên truyền giá trị sử dụng của hạt để giữ giống nhân ra.
Kỹ thuật trồng cây mác rạc đơn giản nhưng khó nhất là khâu quản lý hạt giống. Kinh nghiệm trồng cây mác
rạc của đồng bào ở đây là vào thời điểm quả mác rạc chín (tháng 9, 10) người ta lấy hạt gieo ngay vì để hạt lâu quá 2 tuần (hạt có dầu béo), sớm mất sức nảy mầm. Nếu chưa sử dụng ngay thì hạt được bảo quản bằng cách trải trên nền nhà. Hạt rơi xuống phải thu hái ngay hay lấp đất, nếu để trần rất dễ thối. Có thể trồng bằng gieo hạt thẳng. Dùng gậy nhỏ chọc lỗ sâu 3-5em, bỏ hạt và lấp đất để tránh các loài thú nhỏ ăn hạt. Ngoài ra người ta còn có kinh nghiệm gieo hạt mác rạc ở các hốc đá có đất từ trên cao để sau này cây có thể tự phát triển và sinh sôi nảy nở bằng cách hạt mác rạc có thể tự phát tán xuống phía dưới mà không cân đến sự tác động của con người.
Như vậy, sáng kiến trồng cây mác rạc chính là sự phản ánh khá rõ trì thức bản địa về môi trường của đồng bào Nùng An Phúc Sen. Điểm nổi bật nhất của sáng kiến này là bằng sự hiểu biết về môi trường sinh thái của địa phương mà họ đã biết tìm ra một loài cây thích hợp với địa hình núi đá vôi để từ đó tìm ra được sự phát triển bền vững cho địa phương mình.
Tuy nhiên, việc phát động trồng rừng đã khó nhưng việc tiếp theo là quản lý và bảo vệ rừng lại càng khó hơn. Theo chúng tôi sở dĩ rừng Phúc Sen được bảo vệ tốt chính là nhờ có cách thức tổ chức và quản lý tốt ngay từ đầu. Điều này có liên quan đến cách thức quản lý cộng đồng của đồng bào Nùng An.
2. Tri thức quản lý cộng đồng
Giống như các dân tộc Tày, Nùng khác, bản cũng là đơn vị xã hội cơ bản NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
45

TT TTTTTRR=R=R=ammmmmmrmmm—=——=—==——————————— CC ——ễ—-
của người Nùng An. Như đã trình bày, Phya Chang vốn là bản được hình thành từ lâu đời và cũng là bản lớn và đông dân nhất xã Phúc Sen. Các gia đình trong bản họp thành một cộng đồng dân cư có tổ chức riêng của bản, trước đây chịu sự chỉ đạo của các già bản và các trưởng họ. Đặc biệt thầy Tào được coi là người có uy tín nhất trong bản bởi thầy là người có chữ nghĩa nhất bản, chịu trách nhiệm trông coi việc tế lễ chung của bản. Tất cả các hoạt động văn hoá thuộc về tâm linh đều có sự tham dự của thầy Tào, từ việc xem ngày cấy cây mạ đầu tiên trong năm đến việc mua tậu trâu bò, cưới hỏi, ma chay, làm nhà... đều được thông qua ý kiến của thầy Tào. Từ sau năm 1945 xuất hiện thêm vai trò ông trưởng bản, ông này có vai trò chính trong quản lý hành chính, quyết định các công việc của bản. Ngoài ra ông còn có trách nhiệm thay mặt dân bản đối ngoại, giao dịch với các bản lân cận, đối với xã hoặc huyện, nếu các bản khác có tổ chức hội hè thì đến chúc mừng...
Các hoạt động tâm linh của dân bản góp phần làm tăng thêm tỉnh thần cố kết cộng đồng đều có sự góp phần của các miếu thờ. Ở các bản làng người Nùng An đều có miếu thờ thổ công. Riêng ở Phya Chang ngoài miếu thờ thổ công ở đầu bản còn có miếu thờ ở đầu nguồn nước Thanh Minh và một miếu thờ thần nông ngay tại bờ ruộng giữa bản. Việc thờ cúng miếu thổ công và miếu thờ nguồn nước được tổ chức chủ yếu vào các địp lễ tết quan trọng trong năm. Việc thờ cúng thổ công và thờ cúng nguồn nước là một công việc linh thiêng được coi là trách nhiệm chung
của mọi thành viên trong bản từ già chí trẻ, không phân biệt nam nữ.
Để bảo đảm trị an trật tự trong bản, từ lâu Phya Chang đã có các bản quy ước quy định các công việc trong nội bộ bản và đối ngoại với các bản khác. Đây là các quy ước, quy định không được chép thành văn bản mà được truyền miệng từ đời này sang đời khác, mọi thành viên trong bản từ già tới trẻ đều phải biết để thực hiện và tuân thủ. Chính nhờ có các quy ước này mà việc quản lý cộng đồng làng bản ở đây rất có hiệu quả. Các quy ước chủ yếu là : Quy ước uề bdo uệ tài sản chung của bản; quy ước đối uới các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, trộm cắp; quy ước 0uề uiệc bdo uệ tài sản của các cá nhân trong làng bản; quy ước đổi uới uiệc hiếu hỉ; v.v... Điểm nổi bật của các quy ước này là sự nghiêm khắc thể hiện qua các hình thức xử phạt. Tuyỳ vào từng việc cụ thể mà những người vi phạm quy chế làng bản có thể. bị phạt về vật chất (tiền hay lao động công ích) hoặc bị tước bỏ các quyền lợi tỉnh thần như bị tước quyền được tham gia các hoạt động chung của cộng đồng làng bản. Ở một số quy chế, tính nghiêm khắc không chỉ: quy định đối với người vị phạm mà còn quy định cả với gia đình có người vi phạm. Chẳng hạn như đối với tệ nghiện hút, quy ước cho phép cả bản đồng tâm nhất trí tẩy chay không những với cá nhân người nghiện hút mà cả đối với gia đình có người nghiện hút, cụ thể như không cho cá nhân và gia đình đó cúng chung các miếu thờ, không cho góp vốn làm chung lò rèn, khi có tang ma hoạn nạn cả bản không ai giúp đỡ... 46
NGUYÊN THỊ YÊN - NGUYỄN THUÝ LOAN
———__—————_—————————_—————————————==—————————————————————————————————————————————————————————
Trong các quy ước nói trên, các quy ước có liên quan đến việc bảo vệ môi sinh được thể hiện trong Quy ước uề bảo quản tài sản chung của bản và Quy ước xử phạt đối uới nạn trộm cắp. Từ xa xưa, xung quanh việc bảo quản các tài sản chung của bản như các miếu thờ, khu rừng lấy gỗ, lấy củi chung của bản, người ta đã có những quy định khá nghiêm ngặt như: Mọi công dân đều phải có trách nhiệm bảo vệ các tài sản chung, không ai được tự ý khai thác rừng cây, đất đai xung quanh miếu thờ, không được phép cuốc xới sát đường đi làm cản trở việc đi lại... Nếu ai vi phạm sẽ bị phạt. Mức phạt cao nhất là phải làm một bữa cơm đãi bản đối với những ai phá rừng đầu nguồn nước, còn mức thấp nhất là một ngày công sửa đường công trong bản đối với những ai xúc phạm đến thần thổ công. Đối với nạn trộm cắp, cả bản đều phải có trách nhiệm tìm cho ra thủ phạm. Quy định đối với việc xử phạt thủ phạm trộm cắp như sau: Nếu là người trong bản thì phạt ngày công làm các việc công ích còn nếu là người ngoài bản thì sẽ phạt tiền. Số tiền phạt này được nộp vào quỹ hương hội của bản để chỉ vào việc chung, mức tiền phạt tuỳ thuộc vào mức độ phạm tội.
đường đi công cộng...
Một nét nổi bật ở bản người Nùng An là tính cố kết cộng đồng rất cao, thể hiện như: các gia đình trong bản thường xuyên giúp đỡ nhau trong mọi công việc đồng áng, làm nhà hoặc những lúc khó khăn hoạn nạn, luôn luôn bảo vệ lẫn nhau, nếu trong bản một gia đình nào đó bị mất trộm, hoặc bị xâm phạm đến thân thể thì cả bản cùng đứng ra bảo vệ và cùng truy bắt
kẻ gian. Truyền thuyết kể rằng khi mới dừng chân lập bản ở Phya Chang, ba ông trưởng họ đã làm một lễ thề rằng từ nay ba đòng họ sẽ cùng gắn bó giúp đỡ lẫn nhau, sống cùng sống, chết cùng chết. Vì lời thể này mà về sau có tục nếu một trong ba họ có người chết, người trong họ ấy sẽ đến nhà các gia đình thuộc hai họ kia để xin tro bếp về lót áo quan cho người chết với ý nghĩa cùng nhau đắp da thịt cho người chết!
Chính nhờ có các quy ước nghiêm ngặt như trên cùng với tỉnh thần cố kết cộng đồng cao mà bao đời nay ở các làng bản của người Nùng An nói chung và ở Phya Chang nói riêng luôn luôn giữ được hoà khí với tỉnh thần đoàn kết nhất trí cao. Đây cũng chính là cơ sở quan trọng giúp họ thành công trong việc tổ chức và quản lý việc nuôi trồng rừng. Thực tế cho thấy mặc dù sau này nhiều địa phương khác của người Tày trong huyện Quảng Hoà cũng học tập Phúc Sen trồng cây mác rạc nhưng hiệu quả không cao. Theo nhận định của các nhà nghiên cứu thì sở dĩ Phúc Sen thành công trong việc nuôi trồng rừng vì họ đã để ra được những quy ước nghiêm ngặt được cả cộng đồng tuân thủ thực hiện. Dưới đây là sơ lược cách thức tổ chức và quản lý việc nuôi trồng rừng của đồng bào Nùng An ở Phúc Sen:
Lúc đầu, ban lãnh đạo xã là người đứng ra chỉ đạo việc khoanh nuôi và bảo vệ rừng. Phương thức quản lý đầu tiên là khoanh rừng chia cho các xóm quản lý. Cả xã lúc đầu có 300 ha rừng giao cho các xóm, bình quân mỗi xóm có khoảng 30 ha rừng khoanh nuôi và bảo vệ chung. Sau này phát động các cá nhân tự khoanh nuôi bảo vệ nên hiện NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
47


nay ở mỗi bản đều có hai loại rừng là rừng chung và rừng riêng.
Như đã trình bày, bản là một đơn vị xã hội cơ bản của người Nùng An mà ở đó có các nội quy, quy chế khá nghiêm ngặt, buộc các thành viên trong bản phải tuân thủ. Việc điều hành quản lý rừng do ông trưởng bản và ông bí thư chì bộ phụ trách.
Đối với rừng chung: Việc khoanh nuôi khu rừng chung lúc đầu giao cho các cụ cao tuổi trong các bản thực hiện, Hàng năm môi xóm đều có những ngày quy định chung để tu bổ và khai thác rừng, ngoài những ngày đó ra al VI phạm sẽ bị xử phạt. Việc khai thác rừng chung được tiến hành vào 3 ngày của mùa khô, trong các tháng 11 hoặc 12 hàng năm. Đến ngày quy định, mỗi nhà cử một người đi tham gia khai thác, theo quy định chỉ được khai thác củi chứ không được chặt gỗ.
Gỗ ở khu rừng chung chỉ được khai thác để phục vụ các công việc trong quy định như xây dựng các công trình công cộng của xã như làm trường sở, tu bổ trạm xá, làm cầu cống... Ngoài ra, các gia đình nào trong xóm có đám tang đều được phép khai thác tang ma.
đê phục vụ
Đối uới rừng riêng: Rừng riêng do
các cá nhân tự khoanh nuôi bảo vệ và '
toàn quyền sử dụng. Hiện ở Phúc Sen rừng trở thành tài sản của mỗi gia đình, mỗi người con trai ở đây khi ra lập gia đình riêng. ngoài những tài sản theo quy định còn được cha mẹ chia một phần rừng để trực tiếp khoanh nuôi và bảo vệ. Do vậy có thể thấy rằng bên cạnh diện tích rừng chung cố định thì rừng riêng ngày càng được xé lẻ cho

các hộ gia đình theo thời gian và mức độ gia tăng dân số. Có thể hình dung sự phân chia rừng ở đây theo sơ đồ sau:

ÔNG NỘI

CON TRAI I
CON TRAI 2

CHÁU TRAI 1| |CHÁU TRAI2{ |CHÁU TRAI3{ [CHÁU TRAI 4
Nhìn chung việc chia rừng cho con cái là theo mức tương đối, chủ yếu căn cứ vào các vạt rừng có sẵn để chia. Hiện nay, mỗi hộ gia đình ở đây có từ 3- 5 ha rừng, tính trung bình mỗi hộ có 3 ha rừng. Ngoài ra gia đình nào có điều kiện có thể mua thêm rừng của hộ khác. Giá trị một vạt rừng ở đây phụ thuộc vào số lượng cây ở đó nhiều hoặc ít, giá trung bình hiện nay là 4.000.000đ (tiền Việt Nam) một vạt rừng. Ranh giới phân chia giữa các vạt rừng là một cây to hoặc một hòn đá, mỏm đá...
Tổ chức nuôi trồng rừng đã khó nhưng quản lý và bảo vệ rừng lại càng khó hơn. Kế thừa nội dung những quy ước trong truyền thống của làng bản ở đây người ta đã lập ra các quy ước chung về xây dựng đời sống văn hoá mới trong đó có một bản quy ước chung về việc bảo vệ môi sinh môi trường. Nhìn chung các quy ước về bảo vệ môi sinh khá nghiêm ngặt, cụ thể:
1. Không được tha rông trâu bò, ngựa, gia súc, gia cầm trong thời uụ đã gieo cấy, chưa thu hoạch, lúc thu hoạch chưa xong, không được chăn dắt bờ rấy, bờ ruộng... ai 0i phạm hoặc không chấp 48
NGUYÊN THỊ YÊN - NGUYỄN THUÝ LOAN
CN Dễ

hành sẽ xử phạt từ 10.000đ - 30.000đ, tuỳ theo mức độ thiệt hạt 0uò hành 0ì phạm phúp.
— 3. Ai uỉ phạm rừng lâm nghiệp chung cũng như riêng của người bhác sẽ căn cứ uào nội dung quy định của từng thôn mà xử phạt.
3. Không được dùng thuốc độc uà các loại cây uà lá để ruốc cá xuống các nguồn nước ao, hồ, sông ngòi. Không được quăng lưới bắt cá ao hồ để đấu
thầu. Không được quay mô tơ điện để
bắt cá. Mức độ xử phạt từ 100.000” trở lên.
4. Không được uứt bỏ bừa bãi xác chết động uật xuống các nguồn nước, nơi công cộng mà phúi đem chôn cất bhông gây ô nhiễm.
5. Không được tự do săn bắn các loạt động uật hoang dã, chim muông... Không được đào bởi bờ mương, bờ ruộng để bắt rắn, ếch, cú, bể cd trong 0uà ngoại địa phận của xã.
Không được sử dụng thuốc chuột, bắt được xử phạt 200.000đ 0.0...
Như vậy trong quy ước chung của xã, việc bảo vệ rừng được xã cho phép các bản được toàn quyển để ra những quy định riêng về bảo vệ rừng và về mức độ xử phạt vi phạm rừng. Điều này cho phép việc quản lý và xử phạt chặt chẽ hơn đồng thời cũng uyển chuyển hơn tuỳ theo mức độ vị phạm và tuỳ theo quy định của từng bản. Các quy ước của từng bản về vấn đề bảo vệ rừng có các nội dung chính như sau:
- Quy định uề tu bổ: Một năm cả xóm tập trung tu bổ rừng chung một ngày với công việc chính là phát cây gal, cây bụi.
- Diện tích bhoanh nuôi: ngoài diện tích rừng chung, phần diện tích riêng được giao cho từng hộ quản lý, tu bổ và khai thác, giữa các hộ không được phép lấn chiếm của nhau, nếu vi phạm thì tuỳ theo mức độ mà xử phạt.
- Quy định uề bhai thác: Một năm cả xóm được khai thác củi trong 3 ngày trong rừng chung; việc khai thác gỗ phải trong quy định và được phép của trưởng bản...
- Quy định mức xử phạt đôi uới người Uu¡ phạm ca rừng chung 0à rừng riêng: Người nơi khác đến khai thác hoặc người trong xóm khai thác của nhau đều bị xử phạt, mức độ tuỳ vào mức vi phạm thực tế. Ví dụ chặt một cây trong rừng chung và riêng có thể bị xử phạt từ 20.000đ đến 50.000đ hoặc cao hơn tuỳ từng bản và tuỳ từng trường hợp cụ thể.
- Quy định uề mức xử phạt đối uới người cố tình ui phạm luật bảo uệ rừng, đốt phú rừng...
Do quy chế chặt chẽ và nghiêm minh như vậy nên việc trồng và bảo vệ rừng ở Phúc Sen thực hiện tốt, hạn chế được thấp nhất hiện tượng ăn cắp và chặt phá rừng bừa bãi.
Tính đến thời điểm năm 1989 xã Phúc Sen đã phủ xanh 100% diện tích rừng núi đá bằng cây mác rạc với tổng điện tích là 1010 ha, tính trung bình môi xóm có khoảng 101 ha rừng. Do ngay từ đầu người dân đã có ý thức trồng xen cây mác rạc với các loại cây có giá trị kinh tế khác nên rừng ở xã Phúc Sen hiện nay phổ biến là rừng đa dạng nhiều tầng lớp cây, trong đó lớp cây cao nhất là nghiến, xoan, tiếp theo là thế hệ cây mác rạc còi lâu năm tạo NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
49
— — Ẽ_Ẽ_ễŸễ£ễŸễỀẼẽẼẽẼẽẼẽẼễŸẼẶỀŸ£Ÿ£€ OO —"
thành lớp cây thấp ở dưới. Nhiều gia đình trồng nghiến xen cây mác rạc lâu năm, nay đường kính của các cây nghiến đã đạt từ 20em - 40 em.
Hiện Phúc Sen là xã đi đầu trong 5 xã của huyện Quảng Hoà đã phủ xanh đồi núi trọc. Chính vì vậy người dân ở đây đã nói rằng có thể phân biệt được địa giới của xã Phúc Sen với xã khác thông qua việc quan sát rừng của họ. Theo quan sát thực tế của chúng tôi thì tại các điểm giáp ranh rừng của xã Phúc Sen với các xã khác như xã Chí Thảo, rừng của Phúc Sen đều đã được phủ xanh trong khi nhiều vạt rừng ở các xã này vẫn nằm trong tình trạng bị khai thác trơ trụi, chỉ có bụi rậm và cỏ.
Hiện nay Phúc Sen không trồng cây mác rạc nữa, cây chủ yếu được phát triển bằng hình thức tự phát tán và tự tái sinh.
Như đã trình bày, cây mác rạc thường được khai thác sử dụng để phục vụ sản xuất và sinh hoạt như rào vườn, làm nhà, một số gia đình có sử dụng lá cho trâu bò ngựa ăn, cành cây làm củi đun. Những năm gần đây người ta còn tập trung khai thác hạt cây mác rạc để bán cho nơi khác làm giống là chính. Đối với các khu rừng chung, người ta giao cho học sinh thu hoạch. Năm 1997 là năm thu hoạch cao nhất, cả xã thu hoạch được 3 tấn hạt, mỗi kg hạt trị giá 3000d - 3500d. Các hộ gia đình cũng khai thác hạt để đem ra chợ bán lẻ hoặc bán xi.
IVĐÓNG GÓP CỦA SÁNG KIẾỂN TRỒNG CÂY MÁC RẠC ĐỐI VỚI VIỆC PHỦ XANH NÚI ĐÁ VÔI Ở VÙNG NỨI PHÍA BẮC VIỆT NAM
Ngay từ năm 1961, sau khi triển khai việc trồng cây mác rạc được một
năm, ông Đức Vịnh nguyên là chủ tịch xã lúc bấy giờ đã được cử đi báo cáo trong hội nghị Báo cáo điển hình về công tác trồng cây gây rừng tổ chức tại Ninh Bình. Với một sáng kiến ra đời mới được một năm chắc chắn sẽ chưa có sức thuyết phục người khác học tập. Phải mất khoảng 30 năm sau, sáng kiến này mới được nhân dân quanh vùng chú ý.
Do tính ích dụng trông thấy của việc trồng cây mác rạc ở Phúc Sen mà kể từ những năm tám mươi trở lại đây việc trồng cây mác rạc đã được người đân trong huyện Quang Hoà quan tâm học tập, trước hết là trong nội bộ đồng bào Nùng An ở các xã lân cận Phúc Sen. Có thể nói rằng ở đâu có đồng bào Nùng An là ở đó có trồng cây mác rạc. Sở dĩ sáng kiến trồng cây mác rạc được nhân rộng ra trong nội bộ đồng bào Nùng An đầu tiên là bởi vì ở các nơi này đều có con em là người Nùng An ở xã Phúc Sen đến cư trú hoặc lấy chồng hoặc lấy vợ, họ đã học tập kinh nghiệm trồng cây ở Phúc Sen để áp dụng vào nơi cư trú mới của mình. Hiện nay một số nơi trong huyện Quảng Hoà có người Nùng An đã áp dụng tốt việc phủ xanh núi đá bằng cây mác rạc là: Xã Quốc Dân (xã thuần dân tộc Nùng An); xóm Pác Mất của xã Độc Lập; xóm Tục Ngôn của xã Chí Thảo; các xóm Lũng Rì, Lũng Kác, Canh Man của xã Tự Do, v.v...
Ngoài ra, xu hướng trồng cây mác rạc cũng đã lan rộng trong phạm vì nhiều dân tộc anh em khác trong vùng như người Tày, người Kinh và các nhóm Nùng khác. Vì vậy mà hàng năm, đến mùa thu hoạch dân các vùng thường kéo về chợ Phúc Sen để mua hạt giống. 50 NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYỄN THUÝ LOAN


Tuy nhiên, có lẽ do phương thức quản Dưới đây là bản đối chiếu tình hình lý chưa tốt nên hiệu quả thu được chưa diện tích đất lâm nghiệp của các xã có cao như ở Phúc Sen và những điểm cự núi đá trong huyện Quảng Hoà đã dược
trú khác của người Nùng An. phủ xanh bằng cây mác rạc:



Tổng diện Tổng diện Diện tích núi | Tỉ lệ % rừng | Diện tích núi





tích đất lâm tích núi đả đá có rừng trên núi đá đá cỏ cây bụi
nghiệp
340 1738.0 17380 8623 | 406 | 8757 —
œn"n
H ứ 1 nãN n mã ¬

5579 628.3 20079 | 20079 990.5 10174
¬—j
— E= =„Ì ©
[lo | 17 | 1062 | 1062 | to | co — [Beikhn | +02 | n2 | t2 | tp | co | : [HốngĐm | d051 | 1053 | d6 | dp | co — Thịtấn CCT2 5n pH ra 20 | %0 | 1g | 0 — [auáeon | l3838 | d3: | dạ | d | co — | co —
_

Bình Lang 6838 1261 567.7 14752 522.7 2744 2403 33476 4290 436
_— . | —.- _.ÝXã lÍmẬÁH1m:G =5 ÓC D=k PT œ&Aú6§ | #+> ÍCG2 |hà
œ
Quảng Hưng | 1790 | da | 0 | 9 | 16 —-
h2
h3 |h›š |hhà |hà [Ra _— Œứé [|+> |C |héh | ỊC ỊC
= =
EIE 3 G
[Tuuấu | 2879 | 1965 | d083 | 8e —-
22713 T MỹHữmg | 30796 | ti — _ |
45961 | - 31818
Như vậy, huyện Quảng Hoà có 24 xã có 5 điểm hoàn toàn có điện tích núi đá

và một thị trấn thì tất cả các điểm này ít vôi đã được phủ xanh bằng cây mác rạc nhiều đều có diện tích núi đá. Trong đó là: Phúc Sen, Đoài Khôn, Quốc Dân, NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
DĐ]
—— —Ẽ__________________ẼễẼễẼễÊễÊễEÊễẼŸẼŸẼŸẼŸỀẶỀ
Quốc Phong và thị trấn Quảng Uyên. Ngoài ra, xã Tự Do là xã có 1068,9 ha núi đá vôl/1294,7 ha đất lâm nghiệp thì cä 1068,2 ha núi đá vôi nói trên đều đã được phủ xanh. Nhìn trên bản đồ chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng cả 5 địa điểm trên đều có vị trí quây quần xung quanh xã Phúc Sen, có thể nói xã Phúc Sen là trung tâm của các địa điểm trên. Điều thú vị hơn là trong đó lại có mặt cả 3 xã chỉ có duy nhất một dân tộc Nùng An cư trú ở huyện Quảng Hoà là các xã Phúc Sen, Quốc Dân và Đoài Khôn. Phúc Sen là xã đi đầu trong phong trào phủ xanh núi đá của người Nùng An ở khu vực này.
Từ sáng kiến tự phát trong nội bộ dân tộc Nùng An, đến nay sáng kiến trồng cây mác rạc của Phúc Sen đã được các địa phương có địa hình núi đá vôi trong và ngoài tỉnh đến học tập kinh nghiệm và ký hợp đồng mua giống như: Sở Khoa học công nghệ Hà Giang và một số huyện có địa hình núi đá vôi như huyện Yên Minh ở Hoà Bình, huyện Bắc Sơn của Lạng Sơn... Đặc biệt, theo ông Nông Minh Nhật bí thư xã Phúc Sen cho biết thì tháng 10/1999 còn có người ở tỉnh Nam Định lên tận Phúc Sen xin giống cây mác rạc về trồng ở những gò đá trống ở giữa cánh đồng với mục đích là tạo cảnh quan cho cánh đồng vì ở những gò đá này không thể trồng được loại cây nào khác. Đây là một sáng kiến rất hay, nếu thử nghiệm mà thấy các yếu tố về độ cao và nhiệt độ thích hợp thì có thể áp dụng ở những vùng tương tự. Riêng ở Hà Giang, từ năm 1997- 1999 đã liên tục về Phúc Sen mua giống. Năm 1997 sau khi mua 50 kg hạt về trồng thử nghiệm có kết quả, năm 1999 đã mua tiếp thêm
400kg. Hiện Phúc Sen là điểm cung cấp hạt giống mác rạc chính cho các địa phương khác trong cùng khu vực.
Đặc biệt, sáng kiến trồng cây mác rạc của người Nùng An gần đây đã được giới khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu dưới góc độ là một cây bản địa có tác dụng phủ xanh núi đá. Vừa qua, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (Trung tâm khoa học tự nhiên quốc gia) đã tiến hành một dự án nghiên cứu khoa học 5 năm (1996-2000) về trồng cây mác rạc ở các huyện Trà Lĩnh, Quảng Hoà (Cao Bằng). Mô hình thử nghiệm đầu tiên được thực hiện tại xã Phúc Sen với 100 ha trồng xen với lát và nghiến là thành công nhất vì xã này có hương ước qui định chặt chẽ việc bảo vệ rừng. Viện Sinh thái cũng đang thử nghiệm việc trồng xen mác rạc với các cây thuốc để tăng giá trị của rừng và có nguồn thu trong thời gian ngắn. Đây là dự án đầu tiên về cây mác rạc được thực hiện ở Phúc Sen. Hình thức đầu tư cho dự án là cung cấp vốn để nhân giống. Theo địa phương cho biết thì để thực hiện nghiên cứu dự án của Viện nh thái, từ 1995 - 1999 Phúc Sen đã được Sở Khoa học công nghệ môi trường tỉnh Cao Bằng cung cấp 2 đợt kinh phí để nhân giống cây: Năm 1995 được 2.000.000đ để nhân giống cây nghiến, năm 1999 được 1.500.000đ để nhân giống cây mác mật.
Ngoài ra, một số trường đại học cũng đã quan tâm nghiên cứu đến vấn đề này. Được biết năm 1999 Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã đến Phúc Sen ký hợp đồng thu mua 100 kg hạt cây mác rạc để trồng nghiên cứu thử nghiệm ở một số điểm thuộc tỉnh Thái Nguyên. 52
NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYỄN THUÝ LOAN
— ———— —_—————ˆˆˆ——— ———— Ầ—— co 7
V. NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG TRONG VIỆC TRÔNG CÂY GÂY RỪNG CỦA NGƯỜI NÙNG AN Ở XÃ PHÚC SEN
Trước hết phải kể đến vai trò của những người lãnh đạo của địa phương này. Thực tế, vấn đề trồng cây mác rạc bản địa đã thực sự được các cấp lãnh đạo chính quyền ở xã Phúc Sen trực tiếp quan tâm chỉ đạo. Có thể nói các cán bộ lãnh đạo xã ở Phúc Sen qua các thời kỳ đã biết vạch ra chủ trương chính sách đúng đắn trong việc phát triển trồng cây gây rừng tại địa phương. Quan trọng nhất là họ đã biết phát huy vai trò của các già làng trưởng bản trong việc phát triển cây bản địa và trong công tác khoanh nuôi và bảo vệ rừng. Có thể theo đõi tình hình chỉ đạo việc phát triển và bảo vệ rừng ở đây qua nội dung báo cáo hàng năm về công tác phát triển lâm nghiệp của Phúc Sen từ 1988 trở lại đây như sau:
- Năm 1988: “... Tiếp tục biên quyết ngăn chặn uiệc chặt phá rừng, đốt rừng, đồng thời có các biện pháp tích cực để bảo uệ lấy các khu rừng chung. Số diện tích rừng chung cấm bhông được ai tuỳ tiện lên trồng hoặc bảo uệ cá nhân. Các cơ sở có rừng bị phú phải có bế hoạch trồng mới tập thể. Mặt bhác cần đưa ra xét xử những uụ chặt phá rừng uà đốt rừng. Nếu mọi người chúng ta bhông có ý thức trồng cây bảo uệ rừng mà chỉ chặt phú thì đổi núi của xã ta sẽ bị trơ trụi."
- Năm 1995: “...Trên cơ sở đã giao đất giao rừng cho các đơn U} xóm 0ò từng cá nhân gia đình, hầu hết các đơn Uj đã duy trì nội quy, quy ước bảo uệ
tốt, bhông có trường hợp nào u¡ phạm lớn như chúy rừng, phú hoại rừng. Tuy nhiên cũng còn ít cơ sở do cán bộ không xử lý được hịp thời nên một số gia đình đã lén lút uL phạm rừng bao Uuệ chung (chặt trộm gỗ trong rừng)”.
- Năm 1996: “...7rong cơ cấu nông lâm bết hợp, nếu nông nghiệp là mặt trận hàng đầu thì lâm nghiệp đốt uới hình tế xã nhà bhông bhém quan trọng. Đồi núi xã nhà đã được phủ xanh 0à có sản phẩm gỗ củi phục uụ đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nạn phú rừng hhông còn nữa. Xong bên cạnh đó do một số xóm còn thiếu biên quyết nên uẫn còn số ít gia đừnh lén lút 0ì phạm rừng bdo uệ chung của xóm cũng như ut phạm xóm khác mà chưa xử lý bịp thời. Còn để xẩy ra một uụ cháy rừng chưa được xử lý...".
- Năm 1998: *... Đ¿ đôi uới sản xuất nông nghiệp, xã đã chú trọng 0iệc chỉ đạo hhoanh nuôi bdo uệ rừng trên cơ sở đã giao cho các đơn uị xóm uà cá nhân hộ gta đình tự quản. Năm 1997 bhông có trường hợp bị cháy rừng uà phú rừng bừa bãi. Các đơn uị cơ sở đã phát huy đân chủ trong công tác trồng rừng , bảo Uuệ rừng, nhiều xóm đã duy trì tốt nội quy, quy ước thôn xóm tự quan trong đó có nội quy bdo uệ rừng. Bên cạnh đó còn một số ít hộ còn lén lút u¡ phạm, có người uì phạm đã thành hệ thống. Các cơ sở cần phối hợp quần chúng phái hiện uà có biện pháp thích đáng... Ngoài cây mác rạc uấn trồng thường xuyên hàng năm các hộ còn trồng xen được thêm 23.000 cây nghiễn uè lát ."
- Năm 1999: “...Các khu bdo uệ của từng đơn Uuị cũng như rừng giao trồng của các hộ cơ bản được bảo uệ tốt, nhân dân có ý thức trồng cây hàng năm như trồng xen thêm cây nghiến, lát uới cây Niif£ FñE...ˆ NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Như vậy, qua theo đõi mấy năm trở lại đây thì tình hình quản lý rừng của Phúc Sen càng ngày càng tốt hơn, điều đó xuất phát từ sự chỉ đạo kiên quyết của những người lãnh đạo xã. Không những có sự theo đõi và chỉ đạo sát sao tình hình khoanh nuôi và quản lý rừng của từng đơn vị thôn xóm, họ còn là những người biết chú ý lắng nghe ý kiến của người dân, biết vận dụng một cách sáng tạo các chủ trương chính sách của Nhà nước vào điều kiện thực tế của địa phương mình. Những năm gần đây, ngoài việc vận dụng trồng thành công một số cây thích hợp với địa phương như lát,
xoan... họ cũng đã mạnh dạn dưa một
mác rạc, nghiến, số giống cây khác để trồng thí điểm tại
địa phương.
Hiện nay, lãnh đạo và nhân dân ở đây đang mày mò tìm ra những nguồn thu nhập lón hơn từ kinh tế rừng. Đối với họ, vấn để phủ xanh đổi núi trọc, vấn đề môi trường coi như đã thực hiện xong, việc còn lại là bảo vệ và tiếp tục phát huy thế mạnh của điều kiện tự nhiên ở đây vào việc phát triển kinh tế. Hiện nay, Phúc Sen đang trồng thử nghiệm thêm cây mác mật là loại cây ăn quả giống như cây hồng bì của miền xuôi, đây là một loại cây bản địa rất thích hợp với địa hình núi đá. Xã Phúc Sen đang dự kiến hai năm nữa ở dây sẽ có thêm hai cây bản địa thích nghỉ với núi đá nữa được trồng đại trà là nghiến Theo phương án trồng cây mác mật thành
và mác mật. chúng tôi, nếu công thì rất có thể nó sẽ trở thành một nguồn thu nhập đáng kể cho người dân
ở đây vì hiện cây mác mật đang là loại
HN
cây ăn quả được thị trường tiêu thụ ưa chuộng đồng thời cũng là cây có khá nhiều giá trị sử dụng, nhất là về quả và lá. Rất có thể nó cũng sẽ trở thành một sáng kiến của Phúc Sen trong việc trồng cây ăn quả bản địa để tăng thêm thu nhập từ rừng.
Tuy nhiên, yếu tế quyết định nhất cho việc thành công của họ chính là ở vai trò tự quản của các đơn vị làng bản trong việc khoanh nuôi và bảo vệ rừng ở Phúc Sen. Như đã trình bày, Phúc Sen là xã đầu tiên có phong trào trồng cây mác rạc phủ xanh núi đá. Tuy nhiên, phong trào này thực sự thu được hiệu quả cao là từ sau khi có chủ trương giao cho từng xóm khoanh nuôi và bảo vệ rừng thực hiện vào năm 1983 - 1984.
Theo chủ trương này, mỗi xóm thành lập ban quản lý việc khoanh nuôi và bảo vệ rừng, gồm ba người: trưởng xóm, bí thư chỉ bộ và một tổ trưởng kiểm lâm. Ban quản lý trực tiếp điều hành việc quản lý công việc khoanh nuôi và bảo vệ rừng và trực tiếp xử lý ác vụ việc vi phạm rừng xảy ra trong phạm vi xóm mình. Cách thức xử phạt được căn cứ vào những qui định riêng của từng xóm. Ví dụ ở bản Phya Chang sử dụng hình thức phạt tiền. Mức phạt thấp nhất là 20.000đ. Số tiền phạt căn cứ vào số lần vi phạm. Vị phạm lần đầu phạt 20.000d. Vi phạm lần 2 phạt 40.000d. Lần 3 phạt nặng hơn.
Khi bắt được người vi phạm, ban quản lý sẽ họp định mức phạt. Số tiền thu được trưởng bản giữ dể sử dụng công khai vào các việc thờ cúng của bản như cúng Thổ công vào các tháng 9, 5, 8 âm lịch.
Tuy nhiên, do quy chế nghiêm ngặt nên các vụ vi phạm ít xảy ra, nếu có cũng 54
NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYÊN THUÝ LOAN
—_—————————————=————ễ— Ố C0ó0Ó0ó0Ó0ỖÓỖ
chỉ tập trung vào một số đối tượng. Có thể nói cơ chế tự quản cùng với việc phát huy vai trò của nội quy, quy ước nghiêm ngặt của mỗi thôn bản đã góp phần quan trọng vào thành công của việc khoanh nuôi và bảo vệ rừng ở đây.
Như vậy, có thể khái quát những nguyên nhân chính đưa đến sự thành công trong việc trồng cây gây rừng của người dân ở đây là:
1. Trước hết, thành công của người dân Phúc Sen là hệ quả tất yếu của tỉnh thần cần cù lao động, luôn sáng tạo vươn lên khắc phục khó khăn trong cuộc sống để tạo dựng cuộc sống của mình. Tỉnh thần ấy có nguồn gốc sâu xa từ ý thức bảo lưu các truyền thống văn hoá lâu đời của dân tộc, từ lòng tự hào và tự tin dân tộc của đồng bào Nùng An ở đây. Chính nhờ đó mà họ đã biết phát huy nội lực, đúc kết kinh nghiệm qua cuộc đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại. Sáng kiến trồng cây mác rạc là một trong những dẫn chứng cụ thể về sự lao động sáng tạo của người Nùng An.
2. Truyền thống văn hoá lâu đời với tỉnh thần đoàn kết và ý thức cố kết cộng đồng cao, đó là những yếu tố cơ bản giúp họ có được tiếng nói thống nhất chung vì quyển lợi của cả cộng đồng. Việc biết vận dụng có hiệu quả những nội quy quy ước của thôn xóm vào việc khoanh nuôi và bảo vệ rừng. chính là một trong những điều kiện tiên quyết giúp họ duy trì và bảo vệ sáng kiến của mình.
3. Chính quyền địa phương ở đây đã có nhận thức sáng suốt, biết dựa vào chính người dân bản địa và vào điều kiện thực tế của địa phương mình để vận dụng sáng tạo những chủ trương
chính sách của Nhà nước trong công tác lãnh đạo ở địa phương mình.
VI. KẾT LUẬN VÀ KIỂN NGHỊ
1. Việc trồng cây mác rạc trên địa hình núi đá vôi là một sáng kiến rất có giá trị của người Nùng An trong việc bảo vệ môi trường. Nhờ có sáng kiến này mà sau 40 năm (1960 - 2000) môi trường sinh thái của xã Phúc Sen đã được cải thiện vượt bậc. Xuất phát từ yêu cầu cuộc sống, người dân ở đây đã biết đặt mục tiêu môi trường lên trên mục tiêu kinh tế Người dân Nùng An đã có được cái nhìn lâu dài vì sự phát triển bền vững của địa phương mình. Đây là vấn để mà không phải địa phương nào cũng nhận thức được.
2. Bài học thành công trong việc trồng cây mác rạc ở xã Phúc Sen là một điển hình về tỉnh thần tự lực tự cường, phát huy nội lực từ kinh nghiệm thực tế và những tri thức dân gian bản địa của người dân địa phương. Qua sáng kiến này có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho việc triển khai có hiệu quả các dự án là:
- Phải xuất phát từ điều kiện thực tế và nhu cầu của từng địa phương
- Col trọng và vận dụng tri thức dân gian bản địa của người dân địa phương vào trong quá trình triển khai dự án.
- Phát huy tỉnh thần tự giác của người dân thông qua truyền thống văn hoá cộng đồng của từng địa phương trong việc quản lý và phát huy hiệu quả của dự án.
3. Sáng kiến phủ xanh núi đá bằng cây bản địa mác rạc cần được tuyên truyền rộng rãi ở những địa phương có điều kiện tự nhiên tương tự trong và ngoài tỉnh. Các nhà khoa học cần sớm NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

——===============—ễ E E =ễẦễỄỄ———_— ———
đưa ra những thông số khoa học để tạo sức thuyết phục và thu hút sự quan tâm của các cấp có thẩm quyền đối với vấn đề này.
4. Huyện Quảng Hoà là huyện có địa hình núi đá vôi là chủ yếu mà hiện nay đa phần chưa được phủ xanh. Vì vậy các cấp chính quyền ở đây nên có những chính sách quan tâm cụ thể hơn nữa đối với việc trồng cây bản địa mác rạc ở các xã trong huyện. Trước hết là để phủ xanh điện tích núi đá để rồi từ đó có thể làm nền tạo độ ẩm để cho các cây có giá trị kinh tế cao hơn phát triển. Cần coi trọng yếu tố môi trường trước rồi mới đến yếu tố kinh tế.
5. Từ trước đến nay các cấp lãnh đạo ở trung ương mới chỉ quan tâm chủ yếu đến vấn đề phủ xanh đồi trọc trong khi vấn đề phủ xanh núi đá còn đang bị bỏ ngỏ. Thực tế, phục hồi rừng núi đá ở Việt Nam là một việc làm cần thiết, đặc biệt là ở vùng biên giới quốc gia. Bởi lẽ, có rừng thì các điều kiện sống như nước, củi được đảm bảo sẽ hạn chế được hiện tượng người dân bỏ đất ra đi, đời sống nhân dân được ổn định, trật tự an ninh ở vùng biên giới được đảm bảo hơn. Do vậy, tới đây các cấp có thẩm quyền cần có những dự án đầu tư cho việc phủ xanh núi đá từ cây bản địa mác rạc và các cây bản địa thích hợp khác.
ÑN.1. vi, .lị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I- Từn hiểu sáng biến trông cây bạn địa mác rạc của người Nùng An ở xã Phúc Sen, huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng (Nguyễn Thị Yên - Nguyễn Thị Kiều Viễn - Trần Nguyên Anh Thư - Lê Thị Doanh, Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.
2- Báo cáo của Đảng uỷ - Chính quyền Uuà nhân dân xã Phúc Sen sau 10 năm xây dựng cuộc sống mới (1989 - 1999).
3- Báo cáo hàng năm của Ủy ban nhân dân xã Phúc Sen, các năm: 1988, 1995, 1996, 1998, 1999.
4- Các tộc người ở miền núi phía bắc Việt Nam uà môi trường - Hoàng Hữu Bình, Nxb Khoa học xã hội, 1998.
- Dân tộc Nùng ở Việt Nam, Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, 1992.
G- Dự án quy hoạch tổng thể phát triển hinh tế - xã hội huyện Quang Hoà - tỉnh Cao Bằng thời kỳ 1996 - 2000 uà 2010, Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Hoà, 1997.
Hoàng
T- Đảng bộ xã Phúc Sen (huyện Quảng Hoà tỉnh Cao Băng) lãnh đạo công tác hhoa
. giáo góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
phát triển nghề, nâng cao đời Sống nhân dân, báo cáo tại Hội nghị báo cáo điển hình về công tác khoa giáo trung ương tháng 8/1998.
8- Kiến thức bản địa của đồng bào Uùng cao trong quan lý tài nguyên thiên nhiên - Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc chủ biên, Nxb Nông nghiệp, 1998.
9- Luật tục uới uiệc phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Ngô Đức Thịnh, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1/2000.
10- Lịch sử cách mạng Quảng Hoà 1930 - 1945, Huyện uỷ Quảng Hoà 19929.
- Nội quy, quy ước của xã Phúc Sen, Uỷ ban nhân dân xã Phúc Sen.
12- Vai trò của luật tục uùng cao trong công tác giao đất, khoán rừng uà qudn lý tài nguyên thiên nhiên, Hoàng Xuân Tý, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1/2000.
13- Văn hoá truyền thống của người Nùng An ở bản Phya Chang, xã Phúc Sen, huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng, Nguyễn Thị Yên biên soạn, cộng tác viên Hoàng Thị Nhuận, Công trình tham gia chương trình tài trợ sắng tạo của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam năm 2000, 250 tr. bản thảo.
14- Vietnam Forest Trees,
Inventory and Planning Agricultural Publishing House.
EForest Institute,