2Ø
NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYÊN THUÝ LOAN
TRI THỨC DẪN GIAN
CỦA NGƯỜI
NÙNG AN TRONG
VIỆC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG
NGUYÊN THỊ YÊN? -
NGUYÊN THUÝ LOAN(**)
I. NGƯỜI NÙNG AN Ở VIỆT NAM
Đân tộc Nùng ở Việt Nam có nhiều
nhóm địa phương với các tên gọi khác
nhau. Có nhóm gọi theo tên quê hương
cũ thuộc các huyện của các tỉnh Quảng
Đông, Quảng Tây... của Trung Quốc
như: Nùng An (An Kết) Nùng Inh
(Long Anh), Nùng Lòồi (Hạ Lôi), Nùng
Cháo (Long Châu), Nùng Phàn Sình
(Vạn Thành)... Có nhóm lại gọi tên theo
đặc điểm trang phục: Nùng U (váy có
túi ), Nùng Hu Lài (khăn đội đầu có
đốm trắng), Nùng Khèn Lài (ống tay áo
có mảng hoa văn)... Ngoài những yếu tố
chung của tộc người còn có đặc điểm
riêng của từng nhóm Nùng dược thể
hiện qua trang phục, cấu trúc nhà cửa,
các phong tục tập quán, lễ tết và các
nghề thủ công cổ truyền. Các nhóm
Nùng ở Việt Nam cư trú chủ yếu theo
nhóm địa phương như: Nùng Phàn Sình
tập trung ở Lạng Sơn, Nùng U tập
trung ở Quảng Ninh, Nùng Giang,
Nùng An ở Cao Bằng...
Í ] , % -_ Tơ *® ˆ “ .- “ ˆ
. (**) Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu văn hóa dân
g1an.
Địa bàn cư trú của người Nùng
được phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền
đông bắc, gồm Cao Bằng, Lạng Sơn,
Quảng Ninh, Tuyên Quang, Hà Giang,
Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hoàng Liên
Đơn, vv...
Người Nùng An là một trong những
nhóm cấu thành nên tộc người Nùng ở
Việt Nam. Địa bàn cư trú chủ yếu của
người Nùng An là ở Cao Bằng. Ngoài ra
còn có ở một số tỉnh khác như Lào Cai,
Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Đắc Lắc, Lâm Đồng, Sông Bé, Đồng Nai
(đi eư từ Cao Bằng vào sau 1990).
Ngươi Nùng An cũng làm ruộng
nước thành thạo như người Việt, người
Tày, người Thái, song nơi cư trú của họ
là khu vực chuyển tiếp giữa vùng thấp
và vùng cao, thường là các thung lũng,
nôn ruộng nước ít, canh tác nương rẫy là
chính. Do đời sống kinh tế chủ yếu là từ
sản xuất nông nghiệp nên họ tích luỹ
được nhiều kinh nghiệm sản xuất, ngoài
thu nhập từ ruộng nương, họ còn có nghề
phụ gia đình là các nguồn thu nhập đáng
kể. Nghề phụ của người Nùng An chủ yếu
là các nghề trồng bông dệt vải, rèn đúc,
mộc, làm ngói, làm hương, làm giấy,
đan lât mây tre,...
Người Nùng An thường cư trú tập
trung thành từng bản, từng xã hoặc
cụm hai ba xã duy nhất một dân tộc
Nùng An. Ngoài ra cũng có từng bản
sống xen kẽ với các bản của người Tày
hoặc các nhóm Nùng khác. Dù sống
riêng từng bản hay sống chung bản với
ác nhóm dân tộc khác, người Nùng An
bao giờ cũng cư trú quần tụ gần nhau,
bố trí thành một hệ thống phòng thủ để
chống trộm cướp và giặc dã.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9
Người Nùng An ở Cao Bằng phân
bố tập trung ở huyện Quảng Hoà (gồm
huyện Quảng Uyên và Phục Hoà cũ),
ngoài ra còn rải rác ở một số huyện khác
như: Hạ Lang, Hoà An, Thông Nông, Hà
Quảng, Thạch An, Trùng Khánh, Trà
Lãnh. Ở các huyện khác cũng có một vài
bản nhưng chủ yếu đều là cư dân từ
huyện Quảng Hoà chuyển đến. Theo
báo cáo biến động dân số của uỷ ban
dân số tỉnh Cao Bằng tháng 12/1999, ở
Cao Bằng có 15.726 người Nùng An cư
trú, chiếm 23,35% trong tổng số người
Nùng có mặt ở Cao Bằng. Riêng huyện
Quảng Hoà đã có tới 13.486 người, tập
trung đông nhất là ở các xã Phúc Sen,
Đoài Khôn, Quốc Dân là ba xã duy nhất
chỉ có người Nùng An. Số còn lại phân
bố rải rác ở các xã Tự Do, Hồng Quang,
Chí Thảo, Phí Hải, Hồng Đại, Bình
Lăng và các huyện khác.
Theo thuyết người
Nùng An thì điểm dừng chân đầu tiên
của người Nùng An ở Việt Nam là tại
bản Phya Chang, xã Phúc Sen, huyện
Quảng Hoà tỉnh Cao Bằng. Hiện nay
Phya Chang nói riêng và xã Phúc Sen
nói chung được coi là địa phương điển
hình của tỉnh Cao Bằng trong việc giữ
gìn và phát huy văn hoá truyền thống.
Đồng thời đây cũng là một trong những
xã thuần một dân tộc vẫn còn giữ
nguyên được bản sắc văn hoá cổ truyền
của dân tộc mình. Mặt khác Phúc Sen
còn là xã dẫn đầu toàn tỉnh Cao Bằng
trong việc xoá đói giảm nghèo, phát
triển ngành nghề phụ và bảo vệ môi
trường...
truyền của
Điểm nổi bật của người dân ở đây
là họ rất có ý thức trong việc giữ gìn và
bảo lưu những truyền thống văn hoá
của dân tộc mình. Họ không những chỉ
làm tốt công tác cải tiến khoa học kĩ
thuật, thâm canh, tăng vụ, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển mà còn làm tốt
công tác bảo tồn và phát huy vốn văn
hoá truyền thống đồng thời đi đầu
trong việc thực hiện tốt mọi chủ trương,
chính sách của Nhà nước. Một trong
những thành tích đáng kể của đồng bào
ở đây là việc trồng cây nuôi rừng phủ
xanh núi đá bảo vệ môi trường. Có được
thành tích này chính là vì họ đã phát
huy được truyền thống văn hoá lâu đời
của dân tộc mình trong việc xây dựng
cuộc sống hiện tại. Như vậy, vừa dân
tộc lại vừa hiện đại, đó chính là hình
anh của một khu vực thuần dân tộc
Nùng An đậm đà bản sắc dân tộc đang
hoà lưu vào công cuộc hiện đại hoá dưới
con mắt các nhà nghiên cứu hiện nay.
Trong đó, yếu tố truyền thống như một
mạch nước ngầm vẫn không ngừng tuôn
chảy góp phần tích cực vào công cuộc
hiện đại hoá đang chuyển mình từng
ngày, từng giờ của người dân nơi đây.
Tìm về cội nguồn bản sắc văn hoá dân
tộc của họ sẽ là một việc làm có ý nghĩa
trong việc lý giải những thành công mà
họ đạt được trong cuộc mưu sinh đối
mặt với thiên nhiên khắc nghiệt để làm
chủ cuộc sống của mình. Vì lý do đó
chúng tôi chọn xã Phúc Sen như là một
điển hình cư trú của người Nùng An ỏ
Cao Bằng nói riêng và ở Việt Nam nói
chung để tìm hiểu về tri thức dân gian
của họ trong việc bảo vệ môi trường.
II ĐIỂU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA XÃ
PHÚC SEN
Phúc Sen là xã nằm gần kề trên
đường quốc lộ ba (con đường Hà Nội -
Thuỷ Khẩu), cách thị xã Cao Bằng
33km, cách cửa khẩu Tà Lùng 25km,
40
NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYÊN THUÝ LOAN
cách chợ huyện Quảng Hoà (trung tâm
cụm huyện miền đông) 4 km, cách chợ
liên xã (chợ Án Lại - Nguyễn Huệ) 18
km. Đặc điểm này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho xã Phúc Sen phát triển về
kinh tế - xã hội, buôn bán thông thương
trong phạm vi khu vực và sang cả cửa
khẩu Trung Quốc với các sản phẩm
nông nghiệp và sản phẩm thủ công
nghiệp. Ngoài ra, tuy hệ thống giao
thông đi lại trong nội bộ các bản và
giữa các bản chưa được nâng cấp nhưng
việc đi lại trong phạm vị xã khá thuận
tiện.
Phúc Sen thuộc đơn vị hành chính
nằm trong khu vực địa hình núi đá vôi
của huyện Quảng Uyên cũ, toàn xã là
một thung lũng hình lòng chảo, bốn bên
là rừng núi đá vôi bao bọc. Do vậy trong
tổng diện tích đất tự nhiên của toàn xã
là 1284 ha thì đã có tới 1010 ha là diện
tích núi đá vôi, còn lại chỉ có 100 ha
trồng lúa một vụ và 167 ha trồng ngô
và màu. Về thành phần đất đai, thổ
nhưỡng, Phúc Sen nằm trong khu vực
có các loại đất sau đây của huyện
Quảng Hoà:
(1) Đất nâu uàng phát triển trên đá
uôi (En): Loại đất này tơi xốp, độ ẩm
cao, tầng đất khá dầy nhưng thường
xuất hiện đá lồi đầu, độ pH = 6,5- 7,5,
hàm lượng dinh dưỡng khá, mùn 1,9 -
3,5 %, đạm trung bình nhưng nghèo lân
tổng số. Đất này thích hợp trồng ngô,
cây ngắn ngày khác nhưng nếu bị khô
hạn năng suất sẽ thấp.
(2) Đất carbonat (Vx): Đất này có
thành phần cơ giới thịt nặng đến sét,
độ pH+ 7-7,5, hàm lượng mùn 2- 3 %,
đạm tổng số giàu 0,15- 0,17 nghèo lân
tổng số và dễ tiêu. Đất này thích hợp
trồng các loại cây ngắn ngày như lúa,
ngô nhưng cần chú ý bón thêm phân
hữu cơ và lân.
(3) Đất đỗ uàng biến đổi do trồng
lúa nước: đất có thành phần cơ giới thịt
trung bình đến thịt nặng, độ pH + 6-
6,5, mùn tổng số 1,3 - 2%, đạm khá
(0,15%), lân tổng số và dễ tiêu đều
nghèo. Đất thích hợp trồng lúa nước
nhưng cần chú ý bón thêm lân.
(4) Đất thung lũng có sản phẩm
đốc tụ: thành phần cơ giới từ thịt nặng
đến đất sét. Đất chua, hàm lượng dinh
dưỡng khá, thích hợp trồng các loại cây
ngắn ngày như lúa, ngô, đỗ tương.
Như vậy đặc điểm địa hình chung
của xã Phúc Sen là nằm trong khu vực
núi đá vôi, đất đai canh tác ít. Nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
mùa đông ở đây thường lạnh hơn và ít
mưa, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều hơn,
nhiệt độ trung bình là Lô,8”Ö (trong
khi nhiệt độ trung bình của toàn huyện
là 21,4'C), nhiệt độ cao nhất là 36°C,
nhiệt độ thấp nhất là - 32C, hướng gió
chính là gió đông bắc. Lượng mưa hàng
năm không cao, thường có hạn hán kéo
dài trong khi đất đai lại khô cằn, chủ
yếu trông chờ vào lượng nước mưa của
thiên nhiên.
Với những đặc điểm trên nên vấn
đề nguồn nước là một trong những mối
quan tâm hàng đầu của người dân xã
Phúc Sen. Nguồn nước dùng cho sinh
hoạt ở đây chủ yếu được lấy từ mỏ nước
nguồn có tên gọi là Thanh Minh. Từ mỏ
này nước được chảy tách thành hai
nhánh suối nhỏ, một nhánh chảy qua
cánh đồng Phya Chang xuống bản Lạc
Chạo thuộc xã Chí Thảo, một nhánh
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
41
chảy qua bản Phya Chang về bản Đâư
Cọ. Cạnh mỏ nước này từ xa xưa đồng
bào đã lập một miếu thờ có tên gọi là
Thanh Minh tương truyền là miếu thờ
thần cai quản nguồn nước của vùng.
Các nghỉ lễ xung quanh miếu thờ này
thường là những nghi thức gắn với việc
thờ cúng thần nguồn nước để cầu mưa,
cầu nước. Sự tích miếu thờ Thanh Minh
kể về mối tình không thành của một đôi
nam nữ thanh niên Nùng An, người con
trai tên Minh, người con gái tên Xinh.
Để chống lại thế lực cường hào và
chứng minh tình yêu son sắt của mình,
đôi trai tài gái sắc này đã cùng tự vẫn
bằng cách nhảy xuống một hốc đá ở
cánh đồng Phya Chang. Cái chết của họ
đã cảm cả đất trời khiến cho nước từ
hốc đá trào lên tưới khắp cánh đồng
Phya Chang trước đây vốn là một cánh
đồng khô cạn. Dân làng nhớ ơn họ đã
lập miếu thờ và mở hội xuống đồng vào
dịp thanh minh hàng năm. Đây là dịp
trai gái gặp gỡ tìm hiểu với tục bạn gái
đến hội phải mang theo một gói xôi để
mời bạn trai cùng ăn. Thực chất đây là
lễ hội cầu mùa của cư dân nông nghiệp
mà nội dung chính là cầu mưa, cầu
nước. Vì lẽ đó miếu thờ Thanh Minh
cũng chính là nơi thờ nguồn nước của
cả vùng. Điều đó càng chứng tỏ rằng
nước là một trong những mối quan tâm
lớn của người dân ở đây. Từ xa xưa
người dân ở đây đã ý thức được sự cần
thiết của nước đối với cuộc sống của họ.
Bởi vậy, trong một đám cưới truyền
thống, khi rước dâu về nhà chồng,
người ta có thủ tục thầy Tào yểm bùa
cho cô dâu đi ra mỏ nước Thanh Minh
để gánh một gánh nước về đổ vào chum
hoặc bể của gia đình nhà chồng.
Để khắc phục tình trạng khan
hiếm nước vào mùa khô, từ cuối năm
1998, một loạt giếng khoan bơm tay đã
được đào lắp thành công ở tất cả các
bản ở Phúc Sen (người ta phải dùng bộc
phá để phá đá ngầm, có giếng tốn tới 6
triệu đồng tiền Việt Nam).
Qua những vấn đề trình bày trên
có thể thấy được rằng đời sống của
người dân ở đây chịu sự chi phối và tác
động rất lớn của điều kiện tự nhiên môi
trường như các yếu tố về khí hậu,
nguồn nước và chất đất. Chính vì ý
thức được sâu sắc về điều này nên dựa
vào trì thức bản địa cũng như truyền
thống văn hoá lâu đời của mình mà họ
đã có được những sáng kiến độc đáo
trong việc bảo vệ môi trường mà nổi bật
nhất là sáng kiến trồng cây mác rạc
(một loài cây bản địa) để phủ xanh núi
đá vôi, bảo vệ nguồn nước. Hiện nay
sáng kiến này đang được lan rộng trong
các địa phương có điều kiện tự nhiên
tương tự và thu hút được sự quan tâm
của giới nghiên cứu.
Từ trường hợp người Nùng An ở
Phúc Sen có thể nói rằng truyền thống
văn hoá được nảy sinh trong quá trình
lao động sản xuất, trong sự thích ứng
với điều kiện tự nhiên, xã hội và môi
trường thiên nhiên. Qua truyền thống
văn hoá đó có thể thấy được những nét
bản sắc riêng phản ánh được một phần
tính cách, lối sống và tâm hồn của mỗi
dân tộc. Dưới đây chúng tôi xin được
chứng minh điều này qua một vấn để
khá hạn hẹp đó là vai trò của tri thức
dân gian trong việc bảo vệ môi trường
của người Nùng An thông qua sáng
kiến trồng cây mác rạc bản địa.
42
NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYÊN THUÝ LOAN
IIIL TRI THỨC DÂN GIAN CỦA NGƯỜI
NÙNG AN TRONG VIỆC TRÔNG
CÂY GÂY RỪNG
I. Tri thức bản địa về môi
trường
Xuất phát điểm từ việc trồng cây
mác rạc mà hiện nay xã Phúc Sen đã có
100% diện tích núi đá vôi đã được phủ
xanh dẫn đầu tỉnh Cao Bằng về thành
tích trồng cây gây rừng. Dưới đây chúng
tôi xin được trình bày vắn tắt về sự ra đời
của sáng kiến trồng cây mác rạc.
Vào thời điểm trước năm 1960, các
dãy núi đá vôi ở Phúc Sen đã bị khai
thác cạn kiệt và đốt phá trơ trụi, củi
đốt khan hiếm và đặc biệt là nguồn
nước ở mỏ nước Thanh Minh bị cạn
không chảy được về tới các bản nữa.
Lúc này, vấn đề củi đốt và nguồn nước
đã trở thành mối quan tâm hàng đầu
của người dân Phúc Sen.
Đúng vào thời điểm đó, Hồ Chủ
Tịch phát động phong trào trồng cây
gây rừng trong cả nước. Ý thức được vai
trò quan trọng của rừng dối với vấn để
môi sinh, sau khi Hồ Chủ Tịch phát
động phong trào này, ban lãnh đạo xã ở
đây đứng đầu là ông chủ tịch Đức Vinh
người bản Phya Chang đã họp bàn với
các cụ cao tuổi của bản. Sau khi xem
xét mọi người đều thống nhất rằng, với
điều kiện tự nhiên của địa phương,
muốn phủ xanh đồi núi trọc thì không
thể trồng loại cây nào khác ngoài cây
mác rạc bởi chỉ có loại cây này mới có
thể phát triển được trên địa hình núi
đá. Các cây có giá trị kinh tế cao hơn
như nghiến, xoan và lát, muốn trồng
được ở đây cũng phải có cây mác rạc
trồng trước để tạo độ ẩm thì mới mọc
được.
Phya Chang là xóm đầu tiên ở
Phúc Sen đi đầu trong phong trào trồng
cây mác rạc. Lúc đầu ở đây chỉ có Lũng
Năm là địa điểm cao nhất của xã còn
sót lại một vài cây cây mác rạc chưa bị
phá đã được bảo quản làm giống để
nhân rộng dần. Lúc đầu do giống ít nên
người ta tận dụng trồng xen các loại
cây rau khác vào cây mác rạc như xen
dưa, bí...
Sau khi đã có cây mác rạc làm nền
giữ độ ẩm, đồng bào tiếp tục trồng xen
từng khoảnh các loại cây có giá trị kinh
tế khác như nghiến, lát, xoan... Vì vậy
rừng ở Phúc Sen trước đây và hiện nay
là rừng tổng hợp nhiều loại cây ở các độ
tuổi khác nhau, trong đó mác rạc là
cây tiên phong có trước, tiếp đến là
nghiến, xoan, lát...
Thực tế là chỉ sau khoảng ba năm
thực hiện trồng cây gây rừng, đồng bào
ở đây đã giải quyết được vấn đề chất
đốt và đặc biệt là mỏ nước Thanh Minh
ngày càng nhiều lên, nước lại tiếp tục
chảy về các thôn bản. Ý thức được giá
trị này nên nhìn chung đồng bào ở đây
luôn luôn tự giác trong việc trồng và
phát triển cây mác rạc. Như vậy có thể
nói rằng ngay từ đầu, người dân Phúc
Sen đã có hướng đi đúng trong việc lựa
chọn cây trồng để phủ xanh đổi núi
trọc. Hướng đi này được xuất phát từ
việc biết vận dụng một cách sáng tạo
điều kiện cụ thể của địa phương của
người dân ở đây trong hưởng ứng phong
trào trồng cây gây rừng của Nhà nước.
Điều này đã quyết định một phần sự
thành công trong việc trồng cây gây
rừng ở đây.
Sáng kiến trồng cây mác rạc ở xã
Phúc Sen ngoài phục vụ thiết thực nhu
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
43
câu thực tế của địa phương còn mang
một ý nghĩa lớn hơn là đã góp phần cứu
nguy cho nguy cơ suýt bị diệt chủng của
loài cây này. Theo điều tra của các nhà
khoa học thì trước đây loài cây này đã
có tên trong danh sách đỏ - là loại cây
sắp bị điệt chủng ở Việt Nam. Đến nay,
nhờ có sáng kiến của Phúc Sen mà mác
rạc sắp được xoá tên trong danh sách
này. Thực tế, loài cây này trước đây
cũng có mặt ở tỉnh Lạng Sơn nhưng nay
đã bị tiệt chủng, hiện Lạng Sơn cũng
phải tìm đến Phúc Sen để mua hạt
giống cây.
Vậy mác rạc là loài cây như thế
nào?
Theo tên gọi của địa phương thì
mác rạc còn có các tên gọi khác là may
Dầu, mạy Choòng (Tày), Dầu Choòng
(Kinh).
Tên khoa học của mác rạc là:
Delauaya toxocarpa Franch (có sách
viết là Delauaya Yunnanensis Franch),
họ Bồ Hòn (Sapindaceae).
Đặc điểm hình thái: Là loài cây gỗ
nhỏ, thường có màu xanh sống thành
bụi cao 6-10m, đường kính gốc 4-20cm,
vỏ nâu, thịt nâu hồng. Cành hình trụ
màu nâu đó nhăn. Lá kép lông chim
mọc cách, 3 lá chét, cuống lá 3-5em. Lá
chét dây, hơi dòn, hình mác, mép có
răng hơi cong, hai mặt nhăn, gân bên
nổi 2 mặt lá. Khi non lá có màu hồng.
Cụm hoa chuỳ ở tận cùng, dài 6-12em.
Hoa tạp tính nhỏ, cánh hoa màu trắng,
hồng hay hơi tím. Cuống hoa nhỏ,
mảnh, dài 4-7mm. Quả nang, dài 2-ỗ
em, rộng 3,5cm, nhăn, màu tím đỏ, khi
chín mở thành hai mảnh. Quả vỏ cứng,
dầy và hoá gỗ, trung bình mỗi quả có từ
9-4 hạt. Hạt hình cầu, mầu đen.
Đặc tính sinh thái: Loài cây này
phân bố chủ yếu ở Nam Trung Quốc và
Bắc Việt Nam. Ở Việt Nam có ở Hà
Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng
Sơn. Thường mọc ở rừng kín lá rộng
thưởng xanh trên núi đá vôi từ 300-
1,500m, với khí hậu nhiệt đói hay cận
nhiệt đới, lượng mưa 1,500-2,000mm.
Cây mọc nhanh, tái sinh hạt và chồi rất
tốt, nhưng hạt có dầu nên không để
được lâu.
Khả năng tái sinh của loại cây này
tương đối cao. Chu trình tái sinh và
phát triển của cây cứ 3 năm tạo thành
một thế hệ như sau:
Thế hệ I (cây mẹ): Cây cao khoảng
2m, đường kính thân cây nhỏ dưới
10em. Nếu cứ để không khai thác thì
cây vẫn nhỏ không phát triển tiếp được.
Thế hệ II và III: Đây là các thế hệ
cây con tái sinh sau khi đã chặt cây mẹ,
tức là thế hệ mọc mầm từ gốc của cây
đợt I. Loạt tái sinh này thân cây cao
khoảng từ 4m đến 6m, đường kính thân
cây từ 15em- 20em, giá trị sử dụng về
gỗ cao hơn thế hệ I.
Các thế hệ tiếp theo (thế hệ IV,
V...), thân cây kém phát triển giống
như thế hệ l.
Giá trị sử dụng lớn nhất của loài
cây này là về môi trường. Do cây dễ
trồng nên chỉ cần bảo vệ khỏi bị gia súc
hay người phá hoại thì tự nó sẽ phát
triển tốt trên núi đá vôi, tạo bóng mát
cho các cây khác phát triển theo. Thực
tế ở đây người ta thường trồng mác rạc
xen với các loại cây nghiến, cây lát và
gần đây là cây mác mật. Ngoài ra, cây
phát triển sẽ giữ được nguồn nước, rất
cần thiết cho sinh hoạt và sản xuất ở
44
NGUYÊN THỊ YÊN - NGUYỄN THUÝ LOAN
CC —=ỄễE——ễễễ—ỄễSễSẼESEẼEỶEETBEẼEEỂ
xã, lá cây có khả năng hút bụi giữ cho
không khí trong lành.
Gỗ cứng, mịn, được dùng trong xây
dựng nói chung, làm các dụng cụ gia
đình, cán các công cụ sản xuất nông
nghiệp như cày, cuốc, xẻng, máy công
cụ nhỏ, v.v. Ở Phúc Sen người ta
thường dùng cây mác rạc để thay cây
vầu (một loại tre) để làm vách nhà, sàn
phơi, độ bền gấp đôi so với vầu. Cây còn
cung cấp củi cho các gia đình và làm
hàng rào...
Lá cây được tận dụng cho trâu bò
ăn vào những địp mùa đông khan hiếm
cỏ theo kiểu ăn độn, ví dụ: 8 bó rơm
kèm một bó lá mác rạc hoặc một bó lá
nghiến. Đây là một biện pháp tốt để
khắc phục tình trạng thiếu thức ăn cho
trâu bò ở đây. Tuy nhiên, giá trỊ sử
dụng của lá mác rạc trong vấn đề này
không cao vì không phải bất cứ con
trâu hoặc bò nào ở đây đều thích ăn
loại lá này.
Hạt mác rạc chứa dầu có thể ép lấy
dầu làm xà phòng, dầu bôi trơn, dầu
thắp sáng và làm thuốc chống nẻ và
ghẻ. Đặc biệt hiện ở đây người ta vẫn
thường sử dụng hạt của cây để chữa nẻ
rất hiệu nghiệm. Cách sử dụng như
sau: Vùi hạt vào trong gio nướng cho
nóng sau đó ép sống lấy dầu bôi trực
tiếp vào chỗ nẻ hoặc ghẻ rất công hiệu.
Tuy nhiên do số hạt của mỗi cây không
nhiều, một năm một cây chỉ có thể cung
cấp được từ 1- 3 kg hạt một lần và vì
khó bảo quản nên hiện nay có xu hướng
không tuyên truyền giá trị sử dụng của
hạt để giữ giống nhân ra.
Kỹ thuật trồng cây mác rạc đơn
giản nhưng khó nhất là khâu quản lý
hạt giống. Kinh nghiệm trồng cây mác
rạc của đồng bào ở đây là vào thời điểm
quả mác rạc chín (tháng 9, 10) người ta
lấy hạt gieo ngay vì để hạt lâu quá 2
tuần (hạt có dầu béo), sớm mất sức nảy
mầm. Nếu chưa sử dụng ngay thì hạt
được bảo quản bằng cách trải trên nền
nhà. Hạt rơi xuống phải thu hái ngay
hay lấp đất, nếu để trần rất dễ thối. Có
thể trồng bằng gieo hạt thẳng. Dùng
gậy nhỏ chọc lỗ sâu 3-5em, bỏ hạt và
lấp đất để tránh các loài thú nhỏ ăn
hạt. Ngoài ra người ta còn có kinh
nghiệm gieo hạt mác rạc ở các hốc đá có
đất từ trên cao để sau này cây có thể tự
phát triển và sinh sôi nảy nở bằng cách
hạt mác rạc có thể tự phát tán xuống
phía dưới mà không cân đến sự tác
động của con người.
Như vậy, sáng kiến trồng cây mác
rạc chính là sự phản ánh khá rõ trì
thức bản địa về môi trường của đồng
bào Nùng An Phúc Sen. Điểm nổi bật
nhất của sáng kiến này là bằng sự hiểu
biết về môi trường sinh thái của địa
phương mà họ đã biết tìm ra một loài
cây thích hợp với địa hình núi đá vôi để
từ đó tìm ra được sự phát triển bền
vững cho địa phương mình.
Tuy nhiên, việc phát động trồng
rừng đã khó nhưng việc tiếp theo là
quản lý và bảo vệ rừng lại càng khó
hơn. Theo chúng tôi sở dĩ rừng Phúc
Sen được bảo vệ tốt chính là nhờ có
cách thức tổ chức và quản lý tốt ngay
từ đầu. Điều này có liên quan đến cách
thức quản lý cộng đồng của đồng bào
Nùng An.
2. Tri thức quản lý cộng đồng
Giống như các dân tộc Tày, Nùng
khác, bản cũng là đơn vị xã hội cơ bản
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
45
TT TTTTTRR=R=R=ammmmmmrmmm—=——=—==——————————— CC ——ễ—-
của người Nùng An. Như đã trình bày,
Phya Chang vốn là bản được hình
thành từ lâu đời và cũng là bản lớn và
đông dân nhất xã Phúc Sen. Các gia
đình trong bản họp thành một cộng
đồng dân cư có tổ chức riêng của bản,
trước đây chịu sự chỉ đạo của các già
bản và các trưởng họ. Đặc biệt thầy Tào
được coi là người có uy tín nhất trong
bản bởi thầy là người có chữ nghĩa nhất
bản, chịu trách nhiệm trông coi việc tế
lễ chung của bản. Tất cả các hoạt động
văn hoá thuộc về tâm linh đều có sự
tham dự của thầy Tào, từ việc xem
ngày cấy cây mạ đầu tiên trong năm
đến việc mua tậu trâu bò, cưới hỏi, ma
chay, làm nhà... đều được thông qua ý
kiến của thầy Tào. Từ sau năm 1945
xuất hiện thêm vai trò ông trưởng bản,
ông này có vai trò chính trong quản lý
hành chính, quyết định các công việc
của bản. Ngoài ra ông còn có trách
nhiệm thay mặt dân bản đối ngoại, giao
dịch với các bản lân cận, đối với xã hoặc
huyện, nếu các bản khác có tổ chức hội
hè thì đến chúc mừng...
Các hoạt động tâm linh của dân
bản góp phần làm tăng thêm tỉnh thần
cố kết cộng đồng đều có sự góp phần
của các miếu thờ. Ở các bản làng người
Nùng An đều có miếu thờ thổ công.
Riêng ở Phya Chang ngoài miếu thờ thổ
công ở đầu bản còn có miếu thờ ở đầu
nguồn nước Thanh Minh và một miếu
thờ thần nông ngay tại bờ ruộng giữa
bản. Việc thờ cúng miếu thổ công và
miếu thờ nguồn nước được tổ chức chủ
yếu vào các địp lễ tết quan trọng trong
năm. Việc thờ cúng thổ công và thờ
cúng nguồn nước là một công việc linh
thiêng được coi là trách nhiệm chung
của mọi thành viên trong bản từ già chí
trẻ, không phân biệt nam nữ.
Để bảo đảm trị an trật tự trong
bản, từ lâu Phya Chang đã có các bản
quy ước quy định các công việc trong
nội bộ bản và đối ngoại với các bản
khác. Đây là các quy ước, quy định
không được chép thành văn bản mà
được truyền miệng từ đời này sang đời
khác, mọi thành viên trong bản từ già
tới trẻ đều phải biết để thực hiện và
tuân thủ. Chính nhờ có các quy ước này
mà việc quản lý cộng đồng làng bản ở
đây rất có hiệu quả. Các quy ước chủ
yếu là : Quy ước uề bdo uệ tài sản chung
của bản; quy ước đối uới các tệ nạn xã
hội như nghiện hút, cờ bạc, trộm cắp;
quy ước 0uề uiệc bdo uệ tài sản của các cá
nhân trong làng bản; quy ước đổi uới
uiệc hiếu hỉ; v.v... Điểm nổi bật của các
quy ước này là sự nghiêm khắc thể hiện
qua các hình thức xử phạt. Tuyỳ vào
từng việc cụ thể mà những người vi
phạm quy chế làng bản có thể. bị phạt
về vật chất (tiền hay lao động công ích)
hoặc bị tước bỏ các quyền lợi tỉnh thần
như bị tước quyền được tham gia các
hoạt động chung của cộng đồng làng
bản. Ở một số quy chế, tính nghiêm
khắc không chỉ: quy định đối với người
vị phạm mà còn quy định cả với gia
đình có người vi phạm. Chẳng hạn như
đối với tệ nghiện hút, quy ước cho phép
cả bản đồng tâm nhất trí tẩy chay
không những với cá nhân người nghiện
hút mà cả đối với gia đình có người
nghiện hút, cụ thể như không cho cá
nhân và gia đình đó cúng chung các
miếu thờ, không cho góp vốn làm chung
lò rèn, khi có tang ma hoạn nạn cả bản
không ai giúp đỡ...
46
NGUYÊN THỊ YÊN - NGUYỄN THUÝ LOAN
———__—————_—————————_—————————————==—————————————————————————————————————————————————————————
Trong các quy ước nói trên, các quy
ước có liên quan đến việc bảo vệ môi
sinh được thể hiện trong Quy ước uề
bảo quản tài sản chung của bản và Quy
ước xử phạt đối uới nạn trộm cắp. Từ xa
xưa, xung quanh việc bảo quản các tài
sản chung của bản như các miếu thờ,
khu rừng lấy gỗ, lấy củi chung của bản,
người ta đã có
những quy định khá nghiêm ngặt như:
Mọi công dân đều phải có trách nhiệm
bảo vệ các tài sản chung, không ai được
tự ý khai thác rừng cây, đất đai xung
quanh miếu thờ, không được phép cuốc
xới sát đường đi làm cản trở việc đi
lại... Nếu ai vi phạm sẽ bị phạt. Mức
phạt cao nhất là phải làm một bữa cơm
đãi bản đối với những ai phá rừng đầu
nguồn nước, còn mức thấp nhất là một
ngày công sửa đường công trong bản đối
với những ai xúc phạm đến thần thổ
công. Đối với nạn trộm cắp, cả bản đều
phải có trách nhiệm tìm cho ra thủ
phạm. Quy định đối với việc xử phạt
thủ phạm trộm cắp như sau: Nếu là
người trong bản thì phạt ngày công làm
các việc công ích còn nếu là người ngoài
bản thì sẽ phạt tiền. Số tiền phạt này
được nộp vào quỹ hương hội của bản để
chỉ vào việc chung, mức tiền phạt tuỳ
thuộc vào mức độ phạm tội.
đường đi công cộng...
Một nét nổi bật ở bản người Nùng
An là tính cố kết cộng đồng rất cao, thể
hiện như: các gia đình trong bản
thường xuyên giúp đỡ nhau trong mọi
công việc đồng áng, làm nhà hoặc
những lúc khó khăn hoạn nạn, luôn
luôn bảo vệ lẫn nhau, nếu trong bản
một gia đình nào đó bị mất trộm, hoặc
bị xâm phạm đến thân thể thì cả bản
cùng đứng ra bảo vệ và cùng truy bắt
kẻ gian. Truyền thuyết kể rằng khi mới
dừng chân lập bản ở Phya Chang, ba
ông trưởng họ đã làm một lễ thề rằng
từ nay ba đòng họ sẽ cùng gắn bó giúp
đỡ lẫn nhau, sống cùng sống, chết cùng
chết. Vì lời thể này mà về sau có tục
nếu một trong ba họ có người chết,
người trong họ ấy sẽ đến nhà các gia
đình thuộc hai họ kia để xin tro bếp về
lót áo quan cho người chết với ý nghĩa
cùng nhau đắp da thịt cho người chết!
Chính nhờ có các quy ước nghiêm
ngặt như trên cùng với tỉnh thần cố kết
cộng đồng cao mà bao đời nay ở các
làng bản của người Nùng An nói chung
và ở Phya Chang nói riêng luôn luôn
giữ được hoà khí với tỉnh thần đoàn
kết nhất trí cao. Đây cũng chính là cơ
sở quan trọng giúp họ thành công trong
việc tổ chức và quản lý việc nuôi trồng
rừng. Thực tế cho thấy mặc dù sau này
nhiều địa phương khác của người Tày
trong huyện Quảng Hoà cũng học tập
Phúc Sen trồng cây mác rạc nhưng hiệu
quả không cao. Theo nhận định của các
nhà nghiên cứu thì sở dĩ Phúc Sen
thành công trong việc nuôi trồng rừng vì
họ đã để ra được những quy ước nghiêm
ngặt được cả cộng đồng tuân thủ thực
hiện. Dưới đây là sơ lược cách thức tổ
chức và quản lý việc nuôi trồng rừng của
đồng bào Nùng An ở Phúc Sen:
Lúc đầu, ban lãnh đạo xã là người
đứng ra chỉ đạo việc khoanh nuôi và
bảo vệ rừng. Phương thức quản lý đầu
tiên là khoanh rừng chia cho các xóm
quản lý. Cả xã lúc đầu có 300 ha rừng
giao cho các xóm, bình quân mỗi xóm
có khoảng 30 ha rừng khoanh nuôi và
bảo vệ chung. Sau này phát động các cá
nhân tự khoanh nuôi bảo vệ nên hiện
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
47
nay ở mỗi bản đều có hai loại rừng là
rừng chung và rừng riêng.
Như đã trình bày, bản là một đơn
vị xã hội cơ bản của người Nùng An mà
ở đó có các nội quy, quy chế khá nghiêm
ngặt, buộc các thành viên trong bản
phải tuân thủ. Việc điều hành quản lý
rừng do ông trưởng bản và ông bí thư
chì bộ phụ trách.
Đối với rừng chung: Việc khoanh
nuôi khu rừng chung lúc đầu giao cho
các cụ cao tuổi trong các bản thực hiện,
Hàng năm môi xóm đều có những ngày
quy định chung để tu bổ và khai thác
rừng, ngoài những ngày đó ra al VI
phạm sẽ bị xử phạt. Việc khai thác
rừng chung được tiến hành vào 3 ngày
của mùa khô, trong các tháng 11 hoặc
12 hàng năm. Đến ngày quy định, mỗi
nhà cử một người đi tham gia khai
thác, theo quy định chỉ được khai thác
củi chứ không được chặt gỗ.
Gỗ ở khu rừng chung chỉ được khai
thác để phục vụ các công việc trong quy
định như xây dựng các công trình công
cộng của xã như làm trường sở, tu bổ
trạm xá, làm cầu cống... Ngoài ra, các
gia đình nào trong xóm có đám tang
đều được phép khai thác
tang ma.
đê phục vụ
Đối uới rừng riêng: Rừng riêng do
các cá nhân tự khoanh nuôi bảo vệ và '
toàn quyền sử dụng. Hiện ở Phúc Sen
rừng trở thành tài sản của mỗi gia
đình, mỗi người con trai ở đây khi ra
lập gia đình riêng. ngoài những tài sản
theo quy định còn được cha mẹ chia
một phần rừng để trực tiếp khoanh
nuôi và bảo vệ. Do vậy có thể thấy rằng
bên cạnh diện tích rừng chung cố định
thì rừng riêng ngày càng được xé lẻ cho
các hộ gia đình theo thời gian và mức
độ gia tăng dân số. Có thể hình dung sự
phân chia rừng ở đây theo sơ đồ sau:
ÔNG NỘI
CON TRAI I
CON TRAI 2
CHÁU TRAI 1| |CHÁU TRAI2{ |CHÁU TRAI3{ [CHÁU TRAI 4
Nhìn chung việc chia rừng cho con
cái là theo mức tương đối, chủ yếu căn
cứ vào các vạt rừng có sẵn để chia.
Hiện nay, mỗi hộ gia đình ở đây có từ
3- 5 ha rừng, tính trung bình mỗi hộ có
3 ha rừng. Ngoài ra gia đình nào có
điều kiện có thể mua thêm rừng của hộ
khác. Giá trị một vạt rừng ở đây phụ
thuộc vào số lượng cây ở đó nhiều hoặc
ít, giá trung bình hiện nay là
4.000.000đ (tiền Việt Nam) một vạt
rừng. Ranh giới phân chia giữa các vạt
rừng là một cây to hoặc một hòn đá,
mỏm đá...
Tổ chức nuôi trồng rừng đã khó
nhưng quản lý và bảo vệ rừng lại càng
khó hơn. Kế thừa nội dung những quy
ước trong truyền thống của làng bản ở
đây người ta đã lập ra các quy ước
chung về xây dựng đời sống văn hoá
mới trong đó có một bản quy ước chung
về việc bảo vệ môi sinh môi trường.
Nhìn chung các quy ước về bảo vệ môi
sinh khá nghiêm ngặt, cụ thể:
1. Không được tha rông trâu bò,
ngựa, gia súc, gia cầm trong thời uụ đã
gieo cấy, chưa thu hoạch, lúc thu hoạch
chưa xong, không được chăn dắt bờ rấy,
bờ ruộng... ai 0i phạm hoặc không chấp
48
NGUYÊN THỊ YÊN - NGUYỄN THUÝ LOAN
CN Dễ
hành sẽ xử phạt từ 10.000đ - 30.000đ,
tuỳ theo mức độ thiệt hạt 0uò hành 0ì
phạm phúp.
— 3. Ai uỉ phạm rừng lâm nghiệp
chung cũng như riêng của người bhác
sẽ căn cứ uào nội dung quy định của
từng thôn mà xử phạt.
3. Không được dùng thuốc độc uà
các loại cây uà lá để ruốc cá xuống các
nguồn nước ao, hồ, sông ngòi. Không
được quăng lưới bắt cá ao hồ để đấu
thầu. Không được quay mô tơ điện để
bắt cá. Mức độ xử phạt từ 100.000” trở
lên.
4. Không được uứt bỏ bừa bãi xác
chết động uật xuống các nguồn nước,
nơi công cộng mà phúi đem chôn cất
bhông gây ô nhiễm.
5. Không được tự do săn bắn các
loạt động uật hoang dã, chim muông...
Không được đào bởi bờ mương, bờ ruộng
để bắt rắn, ếch, cú, bể cd trong 0uà ngoại
địa phận của xã.
Không được sử dụng thuốc chuột,
bắt được xử phạt 200.000đ 0.0...
Như vậy trong quy ước chung của
xã, việc bảo vệ rừng được xã cho phép
các bản được toàn quyển để ra những
quy định riêng về bảo vệ rừng và về
mức độ xử phạt vi phạm rừng. Điều này
cho phép việc quản lý và xử phạt chặt
chẽ hơn đồng thời cũng uyển chuyển
hơn tuỳ theo mức độ vị phạm và tuỳ
theo quy định của từng bản. Các quy
ước của từng bản về vấn đề bảo vệ rừng
có các nội dung chính như sau:
- Quy định uề tu bổ: Một năm cả
xóm tập trung tu bổ rừng chung một
ngày với công việc chính là phát cây
gal, cây bụi.
- Diện tích bhoanh nuôi: ngoài diện
tích rừng chung, phần diện tích riêng
được giao cho từng hộ quản lý, tu bổ và
khai thác, giữa các hộ không được phép
lấn chiếm của nhau, nếu vi phạm thì
tuỳ theo mức độ mà xử phạt.
- Quy định uề bhai thác: Một năm cả
xóm được khai thác củi trong 3 ngày
trong rừng chung; việc khai thác gỗ
phải trong quy định và được phép của
trưởng bản...
- Quy định mức xử phạt đôi uới
người Uu¡ phạm ca rừng chung 0à rừng
riêng: Người nơi khác đến khai thác
hoặc người trong xóm khai thác của
nhau đều bị xử phạt, mức độ tuỳ vào
mức vi phạm thực tế. Ví dụ chặt một
cây trong rừng chung và riêng có thể bị
xử phạt từ 20.000đ đến 50.000đ hoặc
cao hơn tuỳ từng bản và tuỳ từng
trường hợp cụ thể.
- Quy định uề mức xử phạt đối uới
người cố tình ui phạm luật bảo uệ rừng,
đốt phú rừng...
Do quy chế chặt chẽ và nghiêm
minh như vậy nên việc trồng và bảo vệ
rừng ở Phúc Sen thực hiện tốt, hạn chế
được thấp nhất hiện tượng ăn cắp và
chặt phá rừng bừa bãi.
Tính đến thời điểm năm 1989 xã
Phúc Sen đã phủ xanh 100% diện tích
rừng núi đá bằng cây mác rạc với tổng
điện tích là 1010 ha, tính trung bình
môi xóm có khoảng 101 ha rừng. Do
ngay từ đầu người dân đã có ý thức
trồng xen cây mác rạc với các loại cây
có giá trị kinh tế khác nên rừng ở xã
Phúc Sen hiện nay phổ biến là rừng đa
dạng nhiều tầng lớp cây, trong đó lớp
cây cao nhất là nghiến, xoan, tiếp theo
là thế hệ cây mác rạc còi lâu năm tạo
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
49
— — Ẽ_Ẽ_ễŸễ£ễŸễỀẼẽẼẽẼẽẼẽẼễŸẼẶỀŸ£Ÿ£€ OO —"
thành lớp cây thấp ở dưới. Nhiều gia
đình trồng nghiến xen cây mác rạc lâu
năm, nay đường kính của các cây
nghiến đã đạt từ 20em - 40 em.
Hiện Phúc Sen là xã đi đầu trong 5
xã của huyện Quảng Hoà đã phủ xanh
đồi núi trọc. Chính vì vậy người dân ở
đây đã nói rằng có thể phân biệt được
địa giới của xã Phúc Sen với xã khác
thông qua việc quan sát rừng của họ.
Theo quan sát thực tế của chúng tôi thì
tại các điểm giáp ranh rừng của xã
Phúc Sen với các xã khác như xã Chí
Thảo, rừng của Phúc Sen đều đã được
phủ xanh trong khi nhiều vạt rừng ở
các xã này vẫn nằm trong tình trạng bị
khai thác trơ trụi, chỉ có bụi rậm và cỏ.
Hiện nay Phúc Sen không trồng
cây mác rạc nữa, cây chủ yếu được phát
triển bằng hình thức tự phát tán và tự
tái sinh.
Như đã trình bày, cây mác rạc
thường được khai thác sử dụng để phục
vụ sản xuất và sinh hoạt như rào vườn,
làm nhà, một số gia đình có sử dụng lá
cho trâu bò ngựa ăn, cành cây làm củi
đun. Những năm gần đây người ta còn
tập trung khai thác hạt cây mác rạc để
bán cho nơi khác làm giống là chính.
Đối với các khu rừng chung, người ta
giao cho học sinh thu hoạch. Năm 1997
là năm thu hoạch cao nhất, cả xã thu
hoạch được 3 tấn hạt, mỗi kg hạt trị giá
3000d - 3500d. Các hộ gia đình cũng
khai thác hạt để đem ra chợ bán lẻ hoặc
bán xi.
IVĐÓNG GÓP CỦA SÁNG KIẾỂN
TRỒNG CÂY MÁC RẠC ĐỐI VỚI
VIỆC PHỦ XANH NÚI ĐÁ VÔI Ở
VÙNG NỨI PHÍA BẮC VIỆT NAM
Ngay từ năm 1961, sau khi triển
khai việc trồng cây mác rạc được một
năm, ông Đức Vịnh nguyên là chủ tịch
xã lúc bấy giờ đã được cử đi báo cáo
trong hội nghị Báo cáo điển hình về
công tác trồng cây gây rừng tổ chức tại
Ninh Bình. Với một sáng kiến ra đời
mới được một năm chắc chắn sẽ chưa có
sức thuyết phục người khác học tập.
Phải mất khoảng 30 năm sau, sáng
kiến này mới được nhân dân quanh
vùng chú ý.
Do tính ích dụng trông thấy của
việc trồng cây mác rạc ở Phúc Sen mà
kể từ những năm tám mươi trở lại đây
việc trồng cây mác rạc đã được người
đân trong huyện Quang Hoà quan tâm
học tập, trước hết là trong nội bộ đồng
bào Nùng An ở các xã lân cận Phúc
Sen. Có thể nói rằng ở đâu có đồng bào
Nùng An là ở đó có trồng cây mác rạc.
Sở dĩ sáng kiến trồng cây mác rạc được
nhân rộng ra trong nội bộ đồng bào
Nùng An đầu tiên là bởi vì ở các nơi
này đều có con em là người Nùng An ở
xã Phúc Sen đến cư trú hoặc lấy chồng
hoặc lấy vợ, họ đã học tập kinh nghiệm
trồng cây ở Phúc Sen để áp dụng vào nơi
cư trú mới của mình. Hiện nay một số nơi
trong huyện Quảng Hoà có người Nùng
An đã áp dụng tốt việc phủ xanh núi đá
bằng cây mác rạc là: Xã Quốc Dân (xã
thuần dân tộc Nùng An); xóm Pác Mất
của xã Độc Lập; xóm Tục Ngôn của xã
Chí Thảo; các xóm Lũng Rì, Lũng Kác,
Canh Man của xã Tự Do, v.v...
Ngoài ra, xu hướng trồng cây mác
rạc cũng đã lan rộng trong phạm vì
nhiều dân tộc anh em khác trong vùng
như người Tày, người Kinh và các nhóm
Nùng khác. Vì vậy mà hàng năm, đến
mùa thu hoạch dân các vùng thường
kéo về chợ Phúc Sen để mua hạt giống.
50 NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYỄN THUÝ LOAN
Tuy nhiên, có lẽ do phương thức quản Dưới đây là bản đối chiếu tình hình
lý chưa tốt nên hiệu quả thu được chưa diện tích đất lâm nghiệp của các xã có
cao như ở Phúc Sen và những điểm cự núi đá trong huyện Quảng Hoà đã dược
trú khác của người Nùng An. phủ xanh bằng cây mác rạc:
Tổng diện Tổng diện Diện tích núi | Tỉ lệ % rừng | Diện tích núi
tích đất lâm tích núi đả đá có rừng trên núi đá đá cỏ cây bụi
nghiệp
340
1738.0 17380 8623 | 406 | 8757 —
œn"n
H ứ
1 nãN n mã ¬
5579 628.3
20079 | 20079 990.5 10174
¬—j
—
E=
=„Ì
©
[lo | 17 | 1062 | 1062 | to | co —
[Beikhn | +02 | n2 | t2 | tp | co |
:
[HốngĐm | d051 | 1053 | d6 | dp | co —
Thịtấn CCT2 5n pH ra
20 | %0 | 1g | 0 —
[auáeon | l3838 | d3: | dạ | d | co —
| co —
_
—
Bình Lang 6838 1261 567.7
14752 522.7 2744 2403
33476 4290 436
_— . | —.- _.ÝXã lÍmẬÁH1m:G =5 ÓC D=k PT
œ&Aú6§ | #+> ÍCG2 |hà
œ
Quảng Hưng | 1790 | da | 0 | 9 | 16 —-
h2
h3 |h›š |hhà |hà [Ra _—
Œứé [|+> |C |héh | ỊC ỊC
=
=
EIE
3
G
[Tuuấu | 2879 | 1965 | d083 | 8e —-
22713
T
MỹHữmg | 30796 | ti — _ |
45961 | - 31818
Như vậy, huyện Quảng Hoà có 24 xã có 5 điểm hoàn toàn có điện tích núi đá
và một thị trấn thì tất cả các điểm này ít vôi đã được phủ xanh bằng cây mác rạc
nhiều đều có diện tích núi đá. Trong đó là: Phúc Sen, Đoài Khôn, Quốc Dân,
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
DĐ]
—— —Ẽ__________________ẼễẼễẼễÊễÊễEÊễẼŸẼŸẼŸẼŸỀẶỀ
Quốc Phong và thị trấn Quảng Uyên.
Ngoài ra, xã Tự Do là xã có 1068,9 ha núi
đá vôl/1294,7 ha đất lâm nghiệp thì cä
1068,2 ha núi đá vôi nói trên đều đã được
phủ xanh. Nhìn trên bản đồ chúng ta dễ
dàng nhận thấy rằng cả 5 địa điểm trên
đều có vị trí quây quần xung quanh xã
Phúc Sen, có thể nói xã Phúc Sen là
trung tâm của các địa điểm trên. Điều
thú vị hơn là trong đó lại có mặt cả 3 xã
chỉ có duy nhất một dân tộc Nùng An cư
trú ở huyện Quảng Hoà là các xã Phúc
Sen, Quốc Dân và Đoài Khôn. Phúc Sen
là xã đi đầu trong phong trào phủ xanh
núi đá của người Nùng An ở khu vực này.
Từ sáng kiến tự phát trong nội bộ
dân tộc Nùng An, đến nay sáng kiến
trồng cây mác rạc của Phúc Sen đã
được các địa phương có địa hình núi đá
vôi trong và ngoài tỉnh đến học tập
kinh nghiệm và ký hợp đồng mua giống
như: Sở Khoa học công nghệ Hà Giang
và một số huyện có địa hình núi đá vôi
như huyện Yên Minh ở Hoà Bình,
huyện Bắc Sơn của Lạng Sơn... Đặc
biệt, theo ông Nông Minh Nhật bí thư
xã Phúc Sen cho biết thì tháng 10/1999
còn có người ở tỉnh Nam Định lên tận
Phúc Sen xin giống cây mác rạc về
trồng ở những gò đá trống ở giữa cánh
đồng với mục đích là tạo cảnh quan cho
cánh đồng vì ở những gò đá này không
thể trồng được loại cây nào khác. Đây
là một sáng kiến rất hay, nếu thử
nghiệm mà thấy các yếu tố về độ cao và
nhiệt độ thích hợp thì có thể áp dụng ở
những vùng tương tự. Riêng ở Hà
Giang, từ năm 1997- 1999 đã liên tục
về Phúc Sen mua giống. Năm 1997 sau
khi mua 50 kg hạt về trồng thử nghiệm
có kết quả, năm 1999 đã mua tiếp thêm
400kg. Hiện Phúc Sen là điểm cung cấp
hạt giống mác rạc chính cho các địa
phương khác trong cùng khu vực.
Đặc biệt, sáng kiến trồng cây mác
rạc của người Nùng An gần đây đã được
giới khoa học trong nước quan tâm
nghiên cứu dưới góc độ là một cây bản
địa có tác dụng phủ xanh núi đá. Vừa
qua, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh
vật (Trung tâm khoa học tự nhiên quốc
gia) đã tiến hành một dự án nghiên cứu
khoa học 5 năm (1996-2000) về trồng
cây mác rạc ở các huyện Trà Lĩnh,
Quảng Hoà (Cao Bằng). Mô hình thử
nghiệm đầu tiên được thực hiện tại xã
Phúc Sen với 100 ha trồng xen với lát
và nghiến là thành công nhất vì xã này
có hương ước qui định chặt chẽ việc bảo
vệ rừng. Viện Sinh thái cũng đang thử
nghiệm việc trồng xen mác rạc với các
cây thuốc để tăng giá trị của rừng và có
nguồn thu trong thời gian ngắn. Đây là
dự án đầu tiên về cây mác rạc được
thực hiện ở Phúc Sen. Hình thức đầu tư
cho dự án là cung cấp vốn để nhân
giống. Theo địa phương cho biết thì để
thực hiện nghiên cứu dự án của Viện
nh thái, từ 1995 - 1999 Phúc Sen đã
được Sở Khoa học công nghệ môi trường
tỉnh Cao Bằng cung cấp 2 đợt kinh phí
để nhân giống cây: Năm 1995 được
2.000.000đ để nhân giống cây nghiến,
năm 1999 được 1.500.000đ để nhân
giống cây mác mật.
Ngoài ra, một số trường đại học
cũng đã quan tâm nghiên cứu đến vấn
đề này. Được biết năm 1999 Trường Đại
học Nông lâm Thái Nguyên đã đến
Phúc Sen ký hợp đồng thu mua 100 kg
hạt cây mác rạc để trồng nghiên cứu
thử nghiệm ở một số điểm thuộc tỉnh
Thái Nguyên.
52
NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYỄN THUÝ LOAN
— ———— —_—————ˆˆˆ——— ———— Ầ—— co 7
V. NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG
TRONG VIỆC TRÔNG CÂY GÂY
RỪNG CỦA NGƯỜI NÙNG AN Ở XÃ
PHÚC SEN
Trước hết phải kể đến vai trò của
những người lãnh đạo của địa phương
này. Thực tế, vấn đề trồng cây mác rạc
bản địa đã thực sự được các cấp lãnh đạo
chính quyền ở xã Phúc Sen trực tiếp
quan tâm chỉ đạo. Có thể nói các cán bộ
lãnh đạo xã ở Phúc Sen qua các thời kỳ
đã biết vạch ra chủ trương chính sách
đúng đắn trong việc phát triển trồng cây
gây rừng tại địa phương. Quan trọng
nhất là họ đã biết phát huy vai trò của
các già làng trưởng bản trong việc phát
triển cây bản địa và trong công tác
khoanh nuôi và bảo vệ rừng. Có thể
theo đõi tình hình chỉ đạo việc phát
triển và bảo vệ rừng ở đây qua nội dung
báo cáo hàng năm về công tác phát
triển lâm nghiệp của Phúc Sen từ 1988
trở lại đây như sau:
- Năm 1988: “... Tiếp tục biên quyết
ngăn chặn uiệc chặt phá rừng, đốt
rừng, đồng thời có các biện pháp tích
cực để bảo uệ lấy các khu rừng chung.
Số diện tích rừng chung cấm bhông
được ai tuỳ tiện lên trồng hoặc bảo uệ
cá nhân. Các cơ sở có rừng bị phú phải
có bế hoạch trồng mới tập thể. Mặt bhác
cần đưa ra xét xử những uụ chặt phá
rừng uà đốt rừng. Nếu mọi người chúng
ta bhông có ý thức trồng cây bảo uệ
rừng mà chỉ chặt phú thì đổi núi của xã
ta sẽ bị trơ trụi."
- Năm 1995: “...Trên cơ sở đã giao
đất giao rừng cho các đơn U} xóm 0ò
từng cá nhân gia đình, hầu hết các đơn
Uj đã duy trì nội quy, quy ước bảo uệ
tốt, bhông có trường hợp nào u¡ phạm
lớn như chúy rừng, phú hoại rừng. Tuy
nhiên cũng còn ít cơ sở do cán bộ không
xử lý được hịp thời nên một số gia đình
đã lén lút uL phạm rừng bao Uuệ chung
(chặt trộm gỗ trong rừng)”.
- Năm 1996: “...7rong cơ cấu nông
lâm bết hợp, nếu nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu thì lâm nghiệp đốt uới
hình tế xã nhà bhông bhém quan trọng.
Đồi núi xã nhà đã được phủ xanh 0à có
sản phẩm gỗ củi phục uụ đời sống sinh
hoạt hàng ngày. Nạn phú rừng hhông
còn nữa. Xong bên cạnh đó do một số
xóm còn thiếu biên quyết nên uẫn còn số
ít gia đừnh lén lút 0ì phạm rừng bdo uệ
chung của xóm cũng như ut phạm xóm
khác mà chưa xử lý bịp thời. Còn để xẩy
ra một uụ cháy rừng chưa được xử lý...".
- Năm 1998: *... Đ¿ đôi uới sản xuất
nông nghiệp, xã đã chú trọng 0iệc chỉ
đạo hhoanh nuôi bdo uệ rừng trên cơ sở
đã giao cho các đơn uị xóm uà cá nhân
hộ gta đình tự quản. Năm 1997 bhông
có trường hợp bị cháy rừng uà phú rừng
bừa bãi. Các đơn uị cơ sở đã phát huy
đân chủ trong công tác trồng rừng , bảo
Uuệ rừng, nhiều xóm đã duy trì tốt nội
quy, quy ước thôn xóm tự quan trong
đó có nội quy bdo uệ rừng. Bên cạnh đó
còn một số ít hộ còn lén lút u¡ phạm, có
người uì phạm đã thành hệ thống. Các
cơ sở cần phối hợp quần chúng phái
hiện uà có biện pháp thích đáng...
Ngoài cây mác rạc uấn trồng thường
xuyên hàng năm các hộ còn trồng xen
được thêm 23.000 cây nghiễn uè lát ."
- Năm 1999: “...Các khu bdo uệ của
từng đơn Uuị cũng như rừng giao trồng
của các hộ cơ bản được bảo uệ tốt, nhân
dân có ý thức trồng cây hàng năm như
trồng xen thêm cây nghiến, lát uới cây
Niif£ FñE...ˆ
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Như vậy, qua theo đõi mấy năm trở
lại đây thì tình hình quản lý rừng của
Phúc Sen càng ngày càng tốt hơn, điều
đó xuất phát từ sự chỉ đạo kiên quyết
của những người lãnh đạo xã. Không
những có sự theo đõi và chỉ đạo sát sao
tình hình khoanh nuôi và quản lý rừng
của từng đơn vị thôn xóm, họ còn là
những người biết chú ý lắng nghe ý
kiến của người dân, biết vận dụng một
cách sáng tạo các chủ trương chính
sách của Nhà nước vào điều kiện thực
tế của địa phương mình. Những năm
gần đây, ngoài việc vận dụng trồng
thành công một số cây thích hợp với địa
phương như lát,
xoan... họ cũng đã mạnh dạn dưa một
mác rạc, nghiến,
số giống cây khác để trồng thí điểm tại
địa phương.
Hiện nay, lãnh đạo và nhân dân ở
đây đang mày mò tìm ra những nguồn
thu nhập lón hơn từ kinh tế rừng. Đối
với họ, vấn để phủ xanh đổi núi trọc,
vấn đề môi trường coi như đã thực hiện
xong, việc còn lại là bảo vệ và tiếp tục
phát huy thế mạnh của điều kiện tự
nhiên ở đây vào việc phát triển kinh tế.
Hiện nay, Phúc Sen đang trồng thử
nghiệm thêm cây mác mật là loại cây
ăn quả giống như cây hồng bì của miền
xuôi, đây là một loại cây bản địa rất
thích hợp với địa hình núi đá. Xã Phúc
Sen đang dự kiến hai năm nữa ở dây sẽ
có thêm hai cây bản địa thích nghỉ với
núi đá nữa được trồng đại trà là nghiến
Theo
phương án trồng cây mác mật thành
và mác mật. chúng tôi, nếu
công thì rất có thể nó sẽ trở thành một
nguồn thu nhập đáng kể cho người dân
ở đây vì hiện cây mác mật đang là loại
HN
cây ăn quả được thị trường tiêu thụ ưa
chuộng đồng thời cũng là cây có khá
nhiều giá trị sử dụng, nhất là về quả và
lá. Rất có thể nó cũng sẽ trở thành một
sáng kiến của Phúc Sen trong việc
trồng cây ăn quả bản địa để tăng thêm
thu nhập từ rừng.
Tuy nhiên, yếu tế quyết định nhất
cho việc thành công của họ chính là ở
vai trò tự quản của các đơn vị làng bản
trong việc khoanh nuôi và bảo vệ rừng
ở Phúc Sen. Như đã trình bày, Phúc
Sen là xã đầu tiên có phong trào trồng
cây mác rạc phủ xanh núi đá. Tuy
nhiên, phong trào này thực sự thu được
hiệu quả cao là từ sau khi có chủ
trương giao cho từng xóm khoanh nuôi
và bảo vệ rừng thực hiện vào năm 1983
- 1984.
Theo chủ trương này, mỗi xóm
thành lập ban quản lý việc khoanh nuôi
và bảo vệ rừng, gồm ba người: trưởng
xóm, bí thư chỉ bộ và một tổ trưởng
kiểm lâm. Ban quản lý trực tiếp điều
hành việc quản lý công việc khoanh
nuôi và bảo vệ rừng và trực tiếp xử lý
ác vụ việc vi phạm rừng xảy ra trong
phạm vi xóm mình. Cách thức xử phạt
được căn cứ vào những qui định riêng
của từng xóm. Ví dụ ở bản Phya Chang
sử dụng hình thức phạt tiền. Mức phạt
thấp nhất là 20.000đ. Số tiền phạt căn
cứ vào số lần vi phạm. Vị phạm lần đầu
phạt 20.000d. Vi phạm lần 2 phạt
40.000d. Lần 3 phạt nặng hơn.
Khi bắt được người vi phạm, ban
quản lý sẽ họp định mức phạt. Số tiền
thu được trưởng bản giữ dể sử dụng
công khai vào các việc thờ cúng của bản
như cúng Thổ công vào các tháng 9, 5, 8
âm lịch.
Tuy nhiên, do quy chế nghiêm ngặt
nên các vụ vi phạm ít xảy ra, nếu có cũng
54
NGUYỄN THỊ YÊN - NGUYÊN THUÝ LOAN
—_—————————————=————ễ— Ố C0ó0Ó0ó0Ó0ỖÓỖ
chỉ tập trung vào một số đối tượng. Có
thể nói cơ chế tự quản cùng với việc phát
huy vai trò của nội quy, quy ước nghiêm
ngặt của mỗi thôn bản đã góp phần
quan trọng vào thành công của việc
khoanh nuôi và bảo vệ rừng ở đây.
Như vậy, có thể khái quát những
nguyên nhân chính đưa đến sự thành
công trong việc trồng cây gây rừng của
người dân ở đây là:
1. Trước hết, thành công của người
dân Phúc Sen là hệ quả tất yếu của
tỉnh thần cần cù lao động, luôn sáng
tạo vươn lên khắc phục khó khăn trong
cuộc sống để tạo dựng cuộc sống của
mình. Tỉnh thần ấy có nguồn gốc sâu xa
từ ý thức bảo lưu các truyền thống văn
hoá lâu đời của dân tộc, từ lòng tự hào
và tự tin dân tộc của đồng bào Nùng An
ở đây. Chính nhờ đó mà họ đã biết phát
huy nội lực, đúc kết kinh nghiệm qua
cuộc đấu tranh với thiên nhiên để tồn
tại. Sáng kiến trồng cây mác rạc là một
trong những dẫn chứng cụ thể về sự lao
động sáng tạo của người Nùng An.
2. Truyền thống văn hoá lâu đời với
tỉnh thần đoàn kết và ý thức cố kết
cộng đồng cao, đó là những yếu tố cơ
bản giúp họ có được tiếng nói thống
nhất chung vì quyển lợi của cả cộng
đồng. Việc biết vận dụng có hiệu quả
những nội quy quy ước của thôn xóm
vào việc khoanh nuôi và bảo vệ rừng.
chính là một trong những điều kiện
tiên quyết giúp họ duy trì và bảo vệ
sáng kiến của mình.
3. Chính quyền địa phương ở đây
đã có nhận thức sáng suốt, biết dựa vào
chính người dân bản địa và vào điều
kiện thực tế của địa phương mình để
vận dụng sáng tạo những chủ trương
chính sách của Nhà nước trong công tác
lãnh đạo ở địa phương mình.
VI. KẾT LUẬN VÀ KIỂN NGHỊ
1. Việc trồng cây mác rạc trên địa
hình núi đá vôi là một sáng kiến rất có
giá trị của người Nùng An trong việc
bảo vệ môi trường. Nhờ có sáng kiến
này mà sau 40 năm (1960 - 2000) môi
trường sinh thái của xã Phúc Sen đã
được cải thiện vượt bậc. Xuất phát từ
yêu cầu cuộc sống, người dân ở đây đã
biết đặt mục tiêu môi trường lên
trên mục tiêu kinh tế Người dân
Nùng An đã có được cái nhìn lâu dài vì
sự phát triển bền vững của địa phương
mình. Đây là vấn để mà không phải địa
phương nào cũng nhận thức được.
2. Bài học thành công trong việc
trồng cây mác rạc ở xã Phúc Sen là một
điển hình về tỉnh thần tự lực tự cường,
phát huy nội lực từ kinh nghiệm thực
tế và những tri thức dân gian bản địa
của người dân địa phương. Qua sáng
kiến này có thể rút ra bài học kinh
nghiệm cho việc triển khai có hiệu quả
các dự án là:
- Phải xuất phát từ điều kiện thực
tế và nhu cầu của từng địa phương
- Col trọng và vận dụng tri thức
dân gian bản địa của người dân địa
phương vào trong quá trình triển khai
dự án.
- Phát huy tỉnh thần tự giác của
người dân thông qua truyền thống văn
hoá cộng đồng của từng địa phương
trong việc quản lý và phát huy hiệu
quả của dự án.
3. Sáng kiến phủ xanh núi đá bằng
cây bản địa mác rạc cần được tuyên
truyền rộng rãi ở những địa phương có
điều kiện tự nhiên tương tự trong và
ngoài tỉnh. Các nhà khoa học cần sớm
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
DĐ
——===============—ễ E E =ễẦễỄỄ———_— ———
đưa ra những thông số khoa học để tạo
sức thuyết phục và thu hút sự quan
tâm của các cấp có thẩm quyền đối với
vấn đề này.
4. Huyện Quảng Hoà là huyện có
địa hình núi đá vôi là chủ yếu mà hiện
nay đa phần chưa được phủ xanh. Vì
vậy các cấp chính quyền ở đây nên có
những chính sách quan tâm cụ thể hơn
nữa đối với việc trồng cây bản địa mác
rạc ở các xã trong huyện. Trước hết là
để phủ xanh điện tích núi đá để rồi từ
đó có thể làm nền tạo độ ẩm để cho các
cây có giá trị kinh tế cao hơn phát
triển. Cần coi trọng yếu tố môi trường
trước rồi mới đến yếu tố kinh tế.
5. Từ trước đến nay các cấp lãnh
đạo ở trung ương mới chỉ quan tâm chủ
yếu đến vấn đề phủ xanh đồi trọc trong
khi vấn đề phủ xanh núi đá còn đang bị
bỏ ngỏ. Thực tế, phục hồi rừng núi đá ở
Việt Nam là một việc làm cần thiết, đặc
biệt là ở vùng biên giới quốc gia. Bởi lẽ,
có rừng thì các điều kiện sống như
nước, củi được đảm bảo sẽ hạn chế được
hiện tượng người dân bỏ đất ra đi, đời
sống nhân dân được ổn định, trật tự an
ninh ở vùng biên giới được đảm bảo
hơn. Do vậy, tới đây các cấp có thẩm
quyền cần có những dự án đầu tư cho
việc phủ xanh núi đá từ cây bản địa
mác rạc và các cây bản địa thích hợp
khác.
ÑN.1. vi, .lị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I- Từn hiểu sáng biến trông cây bạn
địa mác rạc của người Nùng An ở xã Phúc
Sen, huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng
(Nguyễn Thị Yên - Nguyễn Thị Kiều Viễn -
Trần Nguyên Anh Thư - Lê Thị Doanh,
Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi
trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.
2- Báo cáo của Đảng uỷ - Chính quyền
Uuà nhân dân xã Phúc Sen sau 10 năm xây
dựng cuộc sống mới (1989 - 1999).
3- Báo cáo hàng năm của Ủy ban nhân
dân xã Phúc Sen, các năm: 1988, 1995,
1996, 1998, 1999.
4- Các tộc người ở miền núi phía bắc
Việt Nam uà môi trường - Hoàng Hữu Bình,
Nxb Khoa học xã hội, 1998.
- Dân tộc Nùng ở Việt Nam,
Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, 1992.
G- Dự án quy hoạch tổng thể phát triển
hinh tế - xã hội huyện Quang Hoà - tỉnh
Cao Bằng thời kỳ 1996 - 2000 uà 2010, Uỷ
ban nhân dân tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban
nhân dân huyện Quảng Hoà, 1997.
Hoàng
T- Đảng bộ xã Phúc Sen (huyện Quảng
Hoà tỉnh Cao Băng) lãnh đạo công tác hhoa
. giáo góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
phát triển nghề, nâng cao đời Sống nhân
dân, báo cáo tại Hội nghị báo cáo điển hình
về công tác khoa giáo trung ương tháng
8/1998.
8- Kiến thức bản địa của đồng bào
Uùng cao trong quan lý tài nguyên thiên
nhiên - Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc
chủ biên, Nxb Nông nghiệp, 1998.
9- Luật tục uới uiệc phát triển nông
thôn hiện nay ở Việt Nam, Ngô Đức Thịnh,
Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1/2000.
10- Lịch sử cách mạng Quảng Hoà
1930 - 1945, Huyện uỷ Quảng Hoà 19929.
- Nội quy, quy ước của xã Phúc Sen,
Uỷ ban nhân dân xã Phúc Sen.
12- Vai trò của luật tục uùng cao trong
công tác giao đất, khoán rừng uà qudn lý
tài nguyên thiên nhiên, Hoàng Xuân Tý,
Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1/2000.
13- Văn hoá truyền thống của người
Nùng An ở bản Phya Chang, xã Phúc Sen,
huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng, Nguyễn
Thị Yên biên soạn, cộng tác viên Hoàng Thị
Nhuận, Công trình tham gia chương trình
tài trợ sắng tạo của Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam năm 2000, 250 tr. bản thảo.
14- Vietnam Forest Trees,
Inventory and Planning
Agricultural Publishing House.
EForest
Institute,