Vài nét sơ lược về sự Phát triển của
Triết học Trung Hoa
NGỤY, TẤN VÀ LỤC TRIỀU – Phần 2
ĐỜI ĐƯỜNG PHT GIÁO TOÀN THNH
Tới đời Đường, sự kết hợp Ấn Hoa càng thêm chặt chẽ mà Phật giáo
toàn thịnh. Luôn ba thế kỷ, n tộc Trung Hoa được tạm yên n, nh vy
văn hóa phát huy rất mạnh.
Qua thời loạn rồi, Nho giáo thích hợp vi chế độ quân chủ, lại được
trọng, lcòn hơn đời y n nữa. m 637, vua Thái n nhà Đường
tôn Khổng Tử làm Tiên thánh, Nhan Hồi m Tiên sư, cùng thờ với Chu
Công nhà Thái học. Năm 739, vua Huyền n xuống chiếu truy thu
Khổng Tlà Văn Tuyên Vương, nhưng Nho học thì li chỉ thịnh vmt văn
chương và khoa cử, còn vmt tư tưởng rất sút.
Hại nhất là chế độ khoa cử. Đời Tần, Hán chưa khoa cử, các quận
huyện đều cử người i, đức để trdân. Đời Tuỳ bỏ lệ đó mà dùng
khoa cđể lựa người. Nhà Đường tiếp tục chính sách nhà Tuỳ. Muốn đỗ để
làm quan, k sĩ chỉ trọng lối csớ, nghĩa là chcần học thuộc lòng nhng
li chú thích của các nhà Nho đời Hán, kng cần suy xét nghĩa lý. Các kinh
thời đó được chia làm ba hạng: đại kinh là Lễ ký, Xuân Thu, Tả truyện; trung
kinh là Thi, Chu l, Nghi lễ; tiểu kinh là Thư, Dịch, Công Dương truyện, Cốc
Lương truyện. T thư (Luận ngữ, Trung dung, Đại học, Mạnh Tử), sau này
tới đời Tống mới được đề cao ngang hàng với các kinh.
Trong khi Nho chỉ chủ trương về khoa cử, Lão chchú trọng vào việc
tu tiên, vào bùa phép thì Phật nhân i đà đời Lục triều, mỗi ngày một phát
triển thêm, một phần vì các nhà trí thức thấy Nho học cn cỗi quá, Phật
cống hiến được nhiều tưởng mới mẻ; một phần vì Phật giáo những v
đại tài, kn nhn học hỏi để phát huy tm đạo của mình, như Huyền Trang,
Nghĩa Tĩnh.
Lại thêm nhiu ông vua rất mộ Phật. Đường Thái Tôn khuyến khích
việc dịch kinh ca Huyn Trang; Võ Tắc Thiên cũng sai sứ sang Khotan (Vu
Điền) cầu kinh Hoa nghiêm; Đường Hiến Tôn rước Phật cốt về thờ.
Do những lẽ đó, các tôn phái Phật giáo nẩy nở rất nhiều, và ti đời
Đường, đã tất cmười ba n: Trì đàm, Thành thực, Luật, Tam lun, Niết
bàn, Địa luận, Tịnh Độ, Thiền[7], Nhiếp luận, Thiên thai, Hoa Nghiêm, Pháp
tướng, Mật. Rồi sau Niết bàn gộp vi Thiên thai, Địa luận gộp với Hoa
nghiêm, Nhiếp lun gộp vi Pháp tướng; thành thchỉ còn mười n chính
thức lưu truyền. Trong số này, Tịnh độ tôn chuyên ging về nim Phật,
Thiền n không dùng văn tđể giảng mà chú trng vào stham thiền để
đốn ngộ; Luật n trọng sgii hành; Mật tôn chỉ riêng giảng vnhững lẽ
huyền vi, kng quan hệ gì nhiu tới triết học; chỉ còn li sáu n: Thành
thực, Câu xá (thuộc tiểu thừa) và Tam luận, Thiên thai, Pháp tướng, Hoa
nghiêm (thuộc đại thừa) là đáng cho chúng ta để ý tới.
Thành thực tôn n cứ vào thiên Thành thc luận của một phái bên
Ấn Độ, do Cưu Ma La Thập dịch ra chữ Hán; nội dung phát huy đạo
nhân không” pháp không”. Phái đó cho rng con người do nghiệp thức
(gọi là nhân), và cha m (gọi là duyên), to thành. Nhân duyên mà pn
tán thì con người sẽ không có. Nvy gọi là nhân kng”. Thân thcon
người vn là không”, mà i nguyên ttạo thành thân thể, tức “pháp” thì
vĩnh viễn bất diệt, kng phải không”. Nhưng thực ra, trong trụ -
hiện tượng giới mọi vật kể cả pháp” đều do nhân, duyên tạo thành; nhân,
duyên mà phân n tpháp” cũng không còn nốt, cho nên gọi là pháp
không”. Phái đó xuất hiện sớm nhất, đến đời Đường bắt đầu suy.
Câu tôn Căn cứ vào thiên Câu luận của Thế Thân Bồ Tát do
Huyền Trang dịch. Nội dung đem bốn đế: khổ, tập, diệt, đạo để giảng rõ
thế nào i pháp” sinh diệt và i “pháp” kng sinh diệt rồi đưa
tới kết luận là ngã”. n y xuất hiện sau cùng, đa vị tương phản
với tôn trên.
Tam lun tôn Căn cvào Trung quan luận, Thập nhị môn luận của
Long Thụ, vào Bách luận của ĐBà. Chý là ptrtà chấp để làm
chính quan (quan nim chính xác), một mt đả phá tà kiến của ngoại đạo mà
làm chính đạo của đại thừa, tiểu thừa; một mặt đả pmê chấp của đại
thừa, tiểu thừa để làm nghĩa chân xác trong hai phái đó. Cưu Ma La
Thập công dịch kinh và tuyên truyền cho Tam luận n, được người sau
coi ông tđầu tiên của tôn đó Trung Hoa. Tới đời Đường nhCát Tạng
phát huy tm mà Tam luận tôn rất thịnh.
Thiên thai tôn Ba n trên đều gốc Ấn Độ, n pi Thiên thai
hoàn toàn do Trung Quốc ng tạo. Sở dĩ tên đó vì sơ tổ của phái đó,
Trí Giđại sư, tu núi Thiên Thai. Trí Gi đại sư căn cvào Hoa Nghiêm
kinh. Châm chước Trí độ luận, Niết bàn kinh và Đi phẩm kinh mà lập giáo.
Vũ trụ cực kỳ phức tạp nhưng mọi vật đều do nhân và duyên to thành; nhân
và duyên đã phân n tkng còn hết. Vạn vật cứ sinh sinh diệt diệt mà
không thực tại, cho nên gọi là không”. Những vật trong trụ đó, người
ta đặt tên ra để phân biệt; vật đã “không” ti n ca là giả”. Hta ly
khai được hai quan niệm không” và giả” đó, mà quan nim “phi