Victor Hugo (1802-1885)

3

Trở về nước Pháp

Trong 19 năm, Victor Hugo đã báo trước sự sụp đổ của chế độ độc tài của Vua

Napoléon III và cảnh cáo về những tai họa theo sau. Năm 1870, Vua Napoléon III

đầu hàng tại Sédan vì nước Pháp thua trận trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ và từ

nay tới lượt "Vua Napoléon Bé Nhỏ" bị đưa đi lưu vong. Victor Hugo trở về thành

phố Paris trong tiếng chào mừng trên đường phố, trước khách sạn mọi người đều

hô to câu "Victor Hugo muôn năm". Nhưng Văn Hào Hugo đã không an hưởng

được hòa bình. Thành phố Paris còn bị quân đội Phổ vây hãm và Victor Hugo đã

kêu gọi người Đức nên thiết lập lại hòa bình giữa hai nước Pháp và Đức bởi vì Đế

Chế Thứ Hai đã sụp đổ. Ông viết: "Hãy xóa biên giới. Giòng sông Rhine nên được

dùng cho mọi người. Chúng ta hãy ở trong một liên bang, Liên Bang của châu Âu

. . . Hãy duy trì hòa bình quốc tế. Bây giờ hãy bắt tay với nhau và hãy giúp đỡ lẫn

nhau…". Nhưng mặc dù các lời kêu gọi thống thiết của Văn Hào, vẫn còn các hận

thù giữa người Pháp và người Đức, vẫn còn sự chia rẽ giữa phái tả và phái hữu tại

nước Pháp, một chính quyền ổn định chỉ là một ảo tưởng. Văn Hào Victor Hugo

được bầu làm đại biểu của Quốc Hội Pháp vào năm 1871 nhưng sau một tháng,

ông đã từ chức. Victor Hugo đã tình nguyện rời khỏi nước Pháp một cách cay

đắng và trở về đảo Guernsey vào năm 1872 và từ đây, ông đã trải qua nhiều năm

hướng nhìn về Tổ Quốc.

Năm 1873, Victor Hugo trở lại thành phố Paris và được bầu vào Thượng Viện (the

Senate). Ông luôn luôn chống lại các hình thức độc tài mới, chẳng hạn như ngăn

trở các tham vọng của Thống Chế Mac Mahon.

Vào năm 1868, bà vợ Adèle của Văn Hào Hugo qua đời, để lại cho ông nỗi buồn

vô hạn, rồi sau đó là hai cái tang của hai người con trai, chết vào năm 1871 và

1873. Năm 1882 tới lượt cô Juliette Drouet qua đời, cô là thư ký và cũng là người

tình, người bạn đồng hành trung thành của Văn Hào Hugo. Cùng vào năm 1882, lễ

thượng thọ 80 của Văn Hào được nước Pháp tổ chức long trọng với Đại Lộ

d'Eylau được đổi thành Đại Lộ Victor Hugo và Văn Hào được ca ngợi như một vị

anh hùng quốc gia.

Sức khỏe của Victor Hugo suy yếu dần. Vào mùa hè năm 1883, Văn Hào đã để lại

những điều dặn dò, được coi như lời di chúc: - Tôi cho những kẻ nghèo 50,000

quan. - Tôi ước mong được mang tới nghĩa trang trong quan tài của người nghèo

khó. - Tôi từ chối các lời cầu nguyện của tất cả nhà thờ. - Tôi tin tưởng nơi

Thượng Đế.

Victor Hugo từ trần vào ngày 22 tháng 5 năm 1885. Mặc dù ước vọng của ông là

được chôn cất trong hoàn cảnh của kẻ nghèo, chiếc quan tài của ông được đặt tại

Khải Hoàn Môn (Arc de Triomph) với 12 nhà thơ lớn đứng kế bên, có nhiều kỵ

binh cầm đuốc xếp hàng chung quanh và tang lễ được cử hành long trọng như một

quốc lễ để tôn kính nhà văn vĩ đại nhất của nước Pháp. Vào ngày tang lễ, dân

chúng đứng xếp hàng dài từ Khải Hoàn Môn tới Công Trường Concorde. Văn Hào

Victor Hugo được chôn trong Điện Panthéon, nơi an nghỉ của các vĩ nhân của

nước Pháp.

Victor Hugo là nhà văn, nhà thơ vĩ đại nhất của nước Pháp. Sự rộng lượng trong

các tư tưởng của ông, sự ân cần trong cách diễn tả đã làm rung động tâm hồn

người đọc bởi vì ông là nhà thơ của người bình dân, đã viết ra văn, làm ra thơ với

đặc tính giản dị nhưng bao hàm bên trong sức mạnh, đề cập cả về niềm vui lẫn nỗi

buồn của nhiều người. Khi được hỏi ai là nhà thơ lớn nhất của nước Pháp, Văn

Hào André Gide đã trả lời: "Vẫn là Victor Hugo". Victor Hugo có thể bị chỉ trích

về sự nông cạn của tâm hồn tác giả và sự tầm thường của các nhân vật trong

chuyện, nhưng tầm vóc tài năng của ông về văn chương, bao gồm cả kịch nghệ và

thơ phú, thật là bao la, không có ai sánh kịp trong lịch sử văn học kể từ thời

Shakespeare và Goethe. Mặc dù không phải là nhà tư tưởng sâu sắc, Victor Hugo

vẫn là nhà văn chân thành, hiến mình cho "Chân, Thiện, Mỹ" và ông là Văn Hào

được dân chúng Pháp yêu chuộng nhất.

Về Kịch Nghệ, Victor Hugo là người phát ngôn của trường phái Lãng Mạn, ông đã

lên án sự cứng dắn về ngôn ngữ và hình thức của trường phái Cổ Điển, chỉ quen

dùng đề tài là các vua chúa Hy Lạp hay các anh hùng La Mã. Victor Hugo đề nghị

dùng lịch sử cận đại với nhân vật trong các vở kịch có thể là một người tư sản, một

tên cướp… nhưng vẫn mang vẻ cao thượng trên kịch trường và như vậy đã chuyển

hướng Kịch Nghệ về đường lối Hiện Thực.

Về phương diện tiểu thuyết, Victor Hugo đã đề cập tới các vấn đề luân lý với các

nhân vật trong truyện làm các hành động đơn giản nhưng không thể quên được.

Cuốn truyện "Nhà Thờ Đức Bà" là một tiểu thuyết lịch sử, với thời điểm là các

năm 1400 tại thành phố Paris. Cuốn tiểu thuyết "Chín Mươi Ba" nói về các biến cố

của cuộc Cách Mạng Pháp, còn cuốn "Các Kẻ Khốn Cùng" được đặt vào trong

khung cảnh của nước Pháp cùng thời đại với nhà văn, với nhân vật Jean Valjean

phấn đấu để có thể thực hiện một đời sống hữu ích mặc dù các thành kiến của một

xã hội tàn ác. Như vậy cuốn truyện đã phản ảnh niềm tin của tác giả vào khả năng

tự quyết của cá nhân đối với các thói đời. Cuốn truyện đã mô tả bản chất của xã

hội và bản chất của con người. Victor Hugo cho rằng các điều kiện xã hội phải

thay đổi để cho các trẻ em được nuôi dưỡng đầy đủ, đàn ông có công việc làm ăn,

đàn bà được che chở, nền giáo dục nên dành cho mọi người, cơ hội phải công bằng

và giữa con người với nhau phải có tình huynh đệ. Cuốn tiểu thuyết "Các Kẻ Khốn

Cùng" đã đặt ra nhiều vấn đề liên quan tới chính trị, xã hội, văn chương, lý tưởng

nhân đạo và hướng thiện. Ngoài ra, nhiều tác phẩm của Victor Hugo còn được coi

là xuất sắc vì cách canh tân về ngôn ngữ và hình thức văn chương, vì cách vận

dụng chủ đề theo trừu tượng. Đại Văn Hào Victor Hugo xứng đáng được kể là nhà

văn đại diện lớn nhất cho Tinh Thần của nước Pháp và châu Âu vào Thế Kỷ 19.

Tác phẩm

Kịch

Cromwell (1827)

Hernani (1830)

Marion Delorme (1831)

Le Roi s'amuse (1832)

Lucrèce Borgia (1833)

Marie Tudor (1833)

Angelo, tyran de Padoue (1835)

Ruy Blas (1838)

Les Burgraves (1843)

Torquemada (1882)

Théâtre en liberté (1886)

Tiểu thuyết

Bug-Jargal (1820)

Han d'Islande (1823)

Le Dernier Jour d'un condamné (1829)

Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) (1831)

Claude Gueux (1834)

Những người khốn khổ (Les Misérables) (1862)

Les Travailleurs de la mer (1866)

Người cười (L'Homme qui rit) (1869)

Chín mươi ba (Quatre-vingt-treize) (1874)

Thơ

Odes et poésies diverses (1822)

Nouvelles Odes (1824)

Odes et Ballades (1826)

Les Orientales (1829)

Les Feuilles d’automne (1831)

Les Chants du crépuscule (1835)

Les Voix intérieures (1837)

Les Rayons et les ombres (1840)

Les Châtiments (1853)

Les Contemplations (1856)

Première série de la Légende des Siècles (1859)

Les Chansons des rues et des bois (1865)

L'Année terrible (1872)

L'Art d'être grand-père (1877)

Nouvelle série de la Légende des Siècles (1877)

Religions et religion (1880)

Les Quatre Vents de l'esprit (1881)

Série complémentaire de la Légende des Siècles (1883)

La Fin de Satan (1886)

Toute la Lyre (1888)

Dieu (1891)

Toute la Lyre - nouvelle série (1893)

Les Années funestes (1898)

Dernière Gerbe (1902)

Océan. Tas de pierres (1942)

Tác phẩm khác

Mặt Trời Lặn (1853–1855)

Bạch tuộc và những cái xúc tu (1866)

Étude sur Mirabeau (1834)

Littérature et philosophie mêlées (1834)

Le Rhin (1842)

Napoléon le Petit (pamphlet, 1852)

Lettres à Louis Bonaparte (1855)

William Shakespeare (1864)

Paris-Guide (1867)

Mes Fils (1874)

Actes et paroles - Avant l'exil (1875)

Actes et paroles - Pendant l'exil (1875)

Actes et paroles - Depuis l'exil (1876)

Histoire d'un crime - 1re partie (1877)

Histoire d'un crime - 2e partie (1878)

Le Pape (1878)

L'Âne (1880)

L'Archipel de la Manche (1883)

Œuvres posthumes

Choses vues - 1re série (1887)

Alpes et Pyrénées (1890)

France et Belgique (1892)

Correspondances - Tome I (1896)

Correspondances - Tome II (1898)

Choses vues - 2e série (1900)

Post-scriptum de ma vie (1901)

Mille Francs de récompense (1934)

Pierres (1951)

Mélancholia