Xử lý nước thải thủy sản
Nước thải ngành chế biến thủy sản chứa phần lớn các chất thải hữu
cơ có nguồn gốc từ động vật và có thành phần chủ yếu là protein
và các chất béo. Trong nước thải chứa các chất như cacbonhydrat,
protein, chất béo… khi xả vào nguồn nước sẽ làm suy giảm nồng
độ oxy hòa tan trong nước do vi sinh vật sử dụng ôxy hòa tan để
phân hủy các chất hữu cơ. Các chất rắn lơ lửng làm cho nước đục
hoặc có màu, nó hạn chế độ sâu tầng nước được ánh sáng chiếu
xuống, gây ảnh hưởng tới quá trình quang hợp của tảo, rong rêu…
Các chất dinh dưỡng (N,P) với nồng độ cao gây ra hiện tượng phú
dưỡng nguồn nước, rong tảo phát triển làm suy giảm chất lượng
nguồn nước. Các vi sinh vật đặc biệt vi khuẩn gây bệnh và trứng
giun sán trong nguồn nước là nguồn ô nhiễm đặc biệt. Con người
trực tiếp sử dụng nguồn nước nhiễm bẩn hay qua các nhân tố lây
bệnh sẽ truyền dẫn các bệnh dịch cho người như bệnh lỵ, thương
hàn, bại liệt, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, tiêu chảy cấp tính…
Nồng độ ô nhiễm của nước thải tinh thủy sản thể hiện cụ thể ở
bảng sau.
Nước thải từ các phân xưởng sản xuất theo mạng lưới thoát nước
riêng dẫn đến bể lắng cát được đặt âm sâu dưới đất, ở đây sẽ giữ
lại cát và các chất rắn lơ lửng có kích thước lớn để đảm bảo sự
hoạt động ổn định của các công trình xử lý tiếp theo. Trước khi
vào bể lắng cát, nước thải được dẫn qua thiết bị lọc rác thô nhằm
loại bỏ các chất rắn có kích thước lớn như: giấy, gỗ, nilông, lá cây
… ra khỏi nước thải. Nước thải ra khỏi bể lắng cát sẽ đến hầm tiếp
nhận rồi bơm qua máy sàng rác để loại bỏ các chất rắn có kích
thước lớn hơn 1mm. Sau đó nước tự chảy xuống bể điều hòa
Sau bể UASB nước thải được dẫn qua cụm bể anoxic và MBBR.
Bể anoxic kết hợp MBBR là bước tiến lớn của kỹ thuật xử lý nước
thải. Giá thể này có dạng cầu với diện tích tiếp xúc đáng nể: 350
m2- 400 m2/1 m3. Nhờ vậy sự trao đổi chất, nitrat hóa diễn ra
nhanh nhờ vào mật độ vi sinh lớn tập trung trong giá thể lưu động.
Vi sinh được di động khắp nơi trong bể, lúc xuống lúc lên, lúc trái
lúc phải trong “ngôi nhà” giá thể lưu động. Lượng khí cấp cho quá
trình xử lý hiếu khí đủ để giá thể lưu động vì giá thể nhẹ, xấp xỉ
khối lượng riêng của nước. Do tế bào vi sinh đã có “nhà” để ở
(bám dính) nên chúng ta không cần bể lắng sinh học mà chỉ lọc thô
rồi khử trùng nước. Khi cần tăng công suất lên 10-30% chỉ cần
thêm giá thể vào bể là được. Tiếp theo, nước trong chảy qua bể
anoxic kết hợp MBBR được bơm lên bể lọc áp lực gồm các lớp vật
liệu: sỏi đỡ, cát thạch anh và than hoạt tính để loại bỏ các hợp chất
hữu cơ hòa tan, các nguyên tố dạng vết, những chất khó hoặc
không phân giải sinh học. Nước thải sau khi qua bể lọc áp lực sẽ đi
qua bể nano dạng khô để loại bỏ lượng SS còn lại, đồng thời khử
trùng nước thải. Nước sau khi qua bể nano dạng khô đạt yêu cầu xả
thải vào nguồn tiếp nhận theo quy định hiện hành của pháp luật.
Bùn ở bể chứa bùn được được bơm qua máy ép bùn băng tải để
loại bỏ nước, giảm khối tích bùn. Bùn khô được cơ quan chức
năng thu gom và xử lý định kỳ. Tại bể chứa bùn, không khí được
cấp vào bể để tránh mùi hôi sinh ra do sự phân hủy sinh học các
chất hữu cơ.