VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH HẰNG

XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN

THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH HẰNG

XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN

THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014

Ngành:Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi, các kết luận, số liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo

độ tin cậy./.

Học viên

Nguyễn Thanh Hằng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN, TÀI SẢN PHÁ

SẢN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN ........................................................... 9

1.1. Khái niệm về tài sản, tài sản phá sản ..................................................... 9

1.2. Khái quát thủ tục xử lý tài sản phá sản ................................................ 21

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT

ĐỘNG XỬ LÝ TÀI SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM ......... 30

2.1. Những quy định pháp luật về thủ tục xử lý tài sản phá sản ................. 30

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật phá sản về xử lý tài sản phá sản ............. 53

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN XỬ LÝ TÀI

SẢN PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014 .......................................... 62

3.1. Phương hướng hoàn thiện .................................................................... 62

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản phá sản ...................... 64

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý tài sản phá sản . 67

KẾT LUẬN .................................................................................................... 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, dưới tác động của cạnh

tranh, phá sản doanh nghiệp xảy ra hiện tượng tất yếu. Kinh tế thị trường là

mô hình kinh tế mở trong đó coi trọng và tuân thủ các quy luật vận động, điều

tiết của thị trường, tôn trọng tự do cạnh tranh, tự do hợp tác, mở rộng giao lưu

thương mại, tạo cơ hội cho mọi chủ thể kinh tế tham gia thị trường, tìm kiếm

lợi nhuận,....Có thể nói, kinh tế thị trường là mô hình được nhiều quốc gia lựa

chọn cho quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế. Qua các thời kỳ lịch sử khác

nhau, thái độ ứng xử của công chúng lẫn Nhà nước đối với hiện tượng phá

sản các doanh nghiệp có nhiều sự khác biệt. Bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ,

người lao động, xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp chỉ đơn thuần là một thủ

tục thanh toán nợ đặc biệt kèm với việc trừng phạt chủ doanh nghiệp bị phá sản,

xử lý tài sản phá sản như là một thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh

toán và tìm những giải pháp phục hồi doanh nghiệp trước khi quyết định tuyên

bố phá sản doanh nghiệp.

Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường quyền tự chủ trong kinh doanh

của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được pháp luật tôn trọng

và bảo vệ. Đi kèm với quyền tự chủ rộng rãi trong kinh doanh là nghĩa vụ tự

chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cũng

tiềm ẩn nguy cơ đối diện với phá sản. Xử lý tài sản phá sản làm phát sinh các

mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan và đòi hỏi pháp luật phải điều chỉnh.

Luật Phá sản năm 2004 được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực

thi hành từ ngày 15/10/2004, thay thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp năm

1993 với nhiều điểm tiến bộ. Với Luật Phá sản năm 2004 theo Báo cáo của

PGS.TS Dương Đăng Huệ, Thạc sỹ Nguyễn Thanh Tịnh (tháng 11/2008) về

1

thực trạng pháp luật về phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật kinh

doạnh tại Việt Nam thì Tòa án thụ lý gần 350 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản,

ra quyết định mở thủ tục phá sản 236 trường hợp, và thực tế cũng chỉ quyết

định tuyên bố phá sản được 83 trường hợp. So với năm 2004, năm 2012,

doanh nghiệp đăng ký đã vượt trội hơn rất nhiều, có gần 5000 doanh nghiệp

dừng hoạt động và hơn 9.000 doanh nghiệp giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá

sản doanh nghiệp. Tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản

doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 mặc dù đã được cải thiện nhưng

vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản

so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động là rất thấp, hiệu quả giải quyết

việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa đạt kết quả tốt.

Tại Mục 3 Phần II về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu,

quyền tự do kinh doanh có nhận định: “…Xây dựng một khung pháp luật

chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ đặc quyền

và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất

pháp luật áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài” theo Nghị

quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;

Tại kỳ họp VII, ngày 19/6/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật phá sản số 51/2014/QH13. Có

hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015. Luật Phá sản 2014 đã có nhiều sửa

đổi bổ sung mới so với Luật Phá sản 2004. Luật Phá sản 2004 có 9 chương và

95 điều luật thì Luật Phá sản 2014 có tận 14 chương và 133 Điều luật. Luật

Phá sản 2014 được đánh giá là có những sửa đổi khá căn bản và toàn diện từ

những khó khăn và bất cập của Luật Phá sản 2004. Sửa đổi, bổ sung một số

nội dung như: tiêu chí xác định Doanh nghiệp, Hợp tác xã (doanh nghiệp, hợp

tác xã) lâm vào tình trạng phá sản, chế định quản tài viên, về thủ tục xử lý tài

2

sản phá sản …

“Tổng hợp hơn 23 báo cáo của các TAND cấp tỉnh cho thấy: Năm

2017, số vụ việc yêu cầu phá sản được các tòa án thụ lý, giải quyết tăng mạnh

với 439 vụ việc, trong đó có 45 quyết định tuyên bố phá sản. Con số này phản

ánh thực tế LPS 2014 đã đi vào cuộc sống, từng bước khắc phục những

vướng mắc, bất cập của LPS năm 2004. Tuy nhiên, trên thực tế, năm 2017, có

38.869 DN tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể; số DN

hoàn tất thủ tục giải thể là 12.113. Năm 2018, có 27.126 DN đăng ký tạm

ngừng kinh doanh có thời hạn và 63.525 DN tạm ngừng hoạt động không

đăng ký hoặc chờ giải thể; số DN hoàn tất thủ tục giải thể là 16.314.” theo

Báo cáo kết quả triển khai thi hành LPS năm 2014 . Như vậy, số DN, HTX

chấm dứt hoạt động thì số vụ xử lý tài sản thông qua thủ tục phá sản tại tòa án

vẫn còn rất khiêm tốn.

Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo Luật Phá

sản 2014 không chỉ nhằm giải quyết vụ việc phá sản đúng pháp luật mà còn

góp phần bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của các chủ nợ, cơ cấu lại nền kinh tế

thị trường phát triển đất nước. Vận dụng những nguyên tắc của pháp luật phá

sản và những quy định về xử lý tài sản phá sản là để tìm ra những giải pháp

góp phần ngày một hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản phá sản. Luật Phá sản

2014, một số vấn đề đã được sửa đổi bổ sung nhưng khi áp dụng các quy định

vào thực tiễn đã cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc về xử lý tài sản phá

sản. Xác định giá trị tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

trong xử lý tài sản phá sản cần phải có những quy định chặt chẽ, cụ thể và đầy

đủ hơn nữa làm căn cứ khi áp dụng với thực tiễn.

Nhận thức được xử lý tài sản phá sản theo Luật phá sản 2014 rất quan

trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Hậu quả của nó không chỉ ảnh

hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp, người lao động, chủ nợ trong doanh nghiệp

mà còn tác động đến các thành phần khác tùy vào quy mô của doanh nghiệp

3

phá sản. Đề tài “Xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản 2014” là luận văn

em chọn, với mong muốn phần nào làm rõ và định hướng cụ thể để tháo gỡ

những vướng mắc, bất cập, đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả khi áp dụng

quy định về xử lý tài sản phá sản và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nghiên cứu về xử lý tài sản phá sản theo Luật phá sản 2014 đã có

những bước tiến quan trọng, cụ thể có liên quan đến Đề tài như sau:

- “Pháp Luật phá sản của Việt Nam” của PGS, TS. Dương Đăng Huệ,

xuất bản năm 2005;

- “Thực trạng pháp luật về phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật

kinh doạnh tại Việt Nam” tháng 11/2008 – chủ biên PGS.TS Dương Đăng

Huệ, Thạc sỹ Nguyễn Thanh Tịnh;

-“Phá sản doanh nghiệp và thi hành luật phá sản ở Việt Nam”ngày

10/8/2017 - Phan Thị Mỹ Hạnh, Viện Dầu khí Việt Nam;

- “Pháp luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực trạng và giải

pháp hoàn thiện” ngày 29/6/2017 – Thạc sỹ Nguyễn Thị Dung;

- “Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật

về phá sản ở Việt Nam” - Thạc sỹ Nguyễn Kim Anh;

- “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá

sản Việt Nam” – Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Vũ Thị Hồng Vân,

khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008. Với đề tài “Quản lý và xử lý tài

sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam”, tác giả đã hệ

thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về tài sản phá sản, về quản lý tài sản

phá sản, và xử lý tài sản phá sản. Phân tích những nội dung của pháp luật về

quản lý và xử lý tài sản phá sản, đồng thời chỉ ra một số quy định bất cập

trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam và những hạn chế, vướng

mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định về quản lý, xử lý tài sản phá sản.

4

Đưa ra một số đề xuất, kiến nghị về phương hướng và giải pháp sửa đổi, bổ

sung và hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về quản lý, xử lý tài sản

phá sản nhằm phát huy hiệu lực của những quy định đó;

- “Xử lý tài sản theo pháp luật phá sản Việt Nam” - Luận văn Thạc sĩ

Luật học của Quách Thị Minh Phượng (2009), Khoa Luật trường Đại học

Quốc gia Hà Nội. Về mặt lý luận tác giả đã nêu được khái niệm tình trạng phá

sản, thủ tục thanh lý Tài sản phá sản, mối quan hệ giữa thủ tục thanh lý tài sản

và các thủ tục khác trong thủ tục giải quyết phá sản. Phần thực trạng tác giả

đã phân tích được các quy định về thanh lý tài sản theo pháp luật của Việt

Nam hiện hành: về điều kiện ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản phá

sản, về giải quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định mở thủ tục thanh

lý tài sản phá sản; về xử lý và thanh lý tài sản phá sản. Các giải pháp được

tác giả tập trung vào 2 nhóm: hoàn thiện quy định về thủ tục thanh lý tài sản

phá sản và giải pháp đảm bảo hiệu quả thực thi quy định về thanh lý tài sản

phá sản;

- “Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam

hiện nay”- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Phạm Thị Huệ (2017), Học

Viện Khoa Học Xã Hội đã hệ thống hoá được các khái niệm phá sản, mất khả

năng thanh toán, thủ tục phá sản, nêu sơ lược sự hình thành và phát triển của

quy định về thủ tục thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam và phân tích mối

quan hệ giữa thủ tục thanh lý tài sản với các thủ tục khác trong giải quyết phá

sản. Tác giả đã phân tích thực trạng Thực trạng các quy định của pháp luật về

thanh lý tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức tín dụng.

Đã phân tích thực trạng về quản tài viên, Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài

sản, phân tích thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về thanh lý tài

sản phá sản. Nêu lên các hạn chế, bất cập liên quan đến thanh lý tài sản phá

sản. Đặc biệt tác giả đã nêu được các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp

5

luật về thanh lý tài sản phá sản như: Sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực

hiện Nghị định số 22/2015/NĐ-CP của chính phủ, xây dựng cơ chế phối hợp

giữa Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, ngân hàng, Quản tài

viên và doanh nghiệp hành nghề thanh lý tài sản trong hoạt động quản lý,

thanh lý tài sản, Rà soát các đạo luật có quy định liên quan đến thanh lý tài

sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản để sửa đổi, bổ sung một cách đồng

bộ, thống nhất;

- “Thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến

hạn”, bài báo của Th.s Nguyễn Tuấn Hải (Học viện Tư pháp) đăng trên Tạp

chí Toà án Nhân dân ngày 02/04/2018 về “Thanh lý tài sản của doanh nghiệp

mất khả năng thanh toán nợ đến hạn” đã phân tích những vướng mắc, bất cập

của Luật Phá sản năm 2014. Qua đó nêu lên một số kiến nghị nhằm thực thi

có hiệu quả thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 như:

Quy định cụ thể về giới hạn tài sản phá sản; Bổ sung các quy định về tài sản

được loại trừ khỏi khối tài sản phá sản, nêu những định hướng để thực hiện

hiệu quả chế định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý tài sản, định giá lại tài

sản, thu hồi nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán…

Như vậy, các Đề tài nghiên cứu có nhiều nội dung nhau nhưng về kết

quả đều là làm cho các quy định pháp luật phá sản dễ đi vào cuộc sống và dễ

áp dụng vào thực tiễn, bảo đảm được quyền và lợi ích các chủ thể có liên

quan. Mặc dù trong quá trình vận dụng pháp luật vào thực tiễn vẫn còn một số

vướng mắc về xử lý tài sản phá sản, Luật Phá sản 2014 đã có những thay đổi

mới về xử lý tài sản phá sản đòi hỏi phải có sự nhất quán trong cách hiểu vận

dụng trong thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu là chỉ rõ được những khó khăn, bất cập trong xử

lý tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo Luật phá

sản 2014. Phân tích thực trạng về xử lý tài sản phá sản khi áp dụng những quy

6

định hiện hành của Luật Phá sản 2014. Trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu về

xử lý tài sản phá sản để hiện thực hóa các quy định của Luật Phá sản vào cuộc

nhằm tạo môi trường kinh doanh và động lực mới cho phát triển kinh tế đất

nước.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Hệ thống hóa và giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản về tài sản

phá sản xử lý tài sản phá sản;

+ Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những quy định Luật Phá sản 2014 về

thủ tục xử lý tài sản phá sản trong mối quan hệ so sánh với Luật Phá sản

2004;

+ Nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng Luật Phá sản 2004, từ đó đề

ra một số biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả Luật Phá sản 2014.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về xử lý tài sản

phá sản, những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh

lý tài sản, từ việc thành lập, chất lượng hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, sự

phối hợp với Thẩm phán, chấp hành viên, chế độ làm việc, lưu giữ tài liệu

hoạt động của tổ đến vấn đề nhạy cảm là tiền thù lao cho thành viên của Tổ.

Những vướng mắc khác liên quan đến việc thực hiện quản lý và bảo quản tài

sản phá sản, kiểm kê tài sản doanh nghiệp, xác định giá trị tài sản còn lại của

doanh nghiệp, vấn đề thu hồi tài sản phá sản. Quan trọng hơn cả là vấn đề xử

lý tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với vấn đề xác

định giá trị tài sản, giải quyết quyền sử dụng đất của doanh nghiệp bị tuyên bố

phá sản, xử lý các tài sản đảm bảo để thanh toán cho các chủ nợ có bảo đảm,

xử lý tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản nằm rải rác ở nhiều nơi, vấn

đề phân chia tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được viết dựa trên các phương pháp phân tích, tổng hợp các

7

chế định pháp lý về thủ tục phá sản nói chung, về xử lý tài sản phá sản nói

riêng trên phương diện lý luận và phân tích thực tiễn để nhận định, đánh giá

những vướng mắc, khó khăn dẫn đến hạn chế tính khả thi của các quy định

pháp luật. Phương pháp phân tích so sánh những tiến bộ qua các lần sửa đổi,

bổ sung các quy định liên quan đến Luật Phá sản 2014. Các quy định từng

vấn đề pháp lý trong giới hạn nghiên cứu của pháp luật một số quốc gia để rút

ra được kinh nghiệm khi đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp

dụng quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục xử lý tài sản phá sản theo

Luật Phá sản 2014

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý về tài sản và thủ tục xử

lý tài sản phá;

- Quy định rõ về tài sản và cách thức xử lý tài sản phá sản;

- Chỉ rõ một số điểm mới giữa Luật Phá sản 2014 và Luật Phá sản 2004;

- Phân tích thực trạng về thi hành pháp luật xử lý tài sản phá sản ở Việt Nam;

- Chỉ ra những hạn chế, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng

các quy định pháp luật về xử lý tài sản phá sản;

- Đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện và thực thi có hiệu quả

pháp luật xử lý tài sản phá sản.

7. Kết cấu luận văn

Toàn bộ Luận văn gồm phần mở đầu,chương 1, chương 2, chương 3,

kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung chính của luận văn được bố

cục thành ba chương cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản tài sản phá sản và thủ tục xử lý

tài sản phá sản;

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành hoạt động xử lý

tài sản ở Việt Nam hiện nay;

Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và thực thi có hiệu quả

8

pháp luật xử lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam.

Chương 1

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN, TÀI SẢN PHÁ SẢN VÀ

XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN

1.1. Khái niệm về tài sản, tài sản phá sản

1.1.1. Khái niệm về tài sản

“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất

động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và

tài sản hình thành trong tương lai.” theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự

năm 2015.

* Tài sản là vật chỉ có ý nghĩa khi trở thành đối tượng của quan hệ pháp

luật, nó được con người kiểm soát và đáp ứng được một nhu cầu nào đó của

con người. Không phải bất cứ một bộ phận nào của thế giới vật chất đều được

coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được

coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật.

Ví dụ, Ô-xi còn ở dạng không khí trong tự nhiên thì chưa thể được coi là

vật, vì chưa thể đưa vào giao dịch dân sự. Chỉ khi con người có thể nắm giữ,

quản lý được thì mới có thể đưa vào giao lưu dân sự và được coi là vật. Chính vì

vậy, để thỏa mãn được thành vật trong dân sự thì phải có những điều kiện sau:

- Là bộ phận của thế giới vật chất;

- Con người chiếm hữu được;

- Mang lại lợi ích cho chủ thể;

- Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở

hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch.

Căn cứ xác định giá trị sử dụng của vật để được chia ra thành nhiều phần

nhỏ mà Bộ luật dân sự phân chia vật thành vật chia được và vật không chia

được. Căn cứ vào giá trị của tài sản sau khi sử dụng thì chia thành vật tiêu hao

9

và vật không tiêu hao. Căn cứ vào các dấu hiệu phân biệt của vật mà người ta

phân loại vật thành vật thành vật cùng loại và vật đặc định. Không chỉ vậy,

người ta còn chia ra làm vật đồng bộ và vật không đồng bộ, Vật được phân

loại thành các nhóm khác nhau:

- Vật có đăng ký quyền sở hữu và vật không đăng ký quyền sở hữu Vật

chính là vật độc lập có thể khai thác theo tính năng (ví dụ: ti vi, điều hòa, máy

ảnh…);

- Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật

chính, là một bộ phận của vật chính nhưng có thể tách rời vật chính (ví dụ:

điều khiển ti vi, điều hòa, vỏ máy ảnh,…).

*Tiền: Theo Mác thì tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt, được tách ra

khỏi thế giới hàng hóa, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các

loại hàng hóa khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ

sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa. Bộ luật dân sự năm 2005 và cả

Bộ luật dân sự năm 2015 đều quy định tiền là một loại tà sản nhưng lại không

có quy định để làm rõ bản chất pháp lý của tiền. chỉ có loại tiền có giá trị đang

được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận, mới được coi là

tài sản. Tiền là công cụ thanh toán đa năng, là công cụ tích lũy tài sản và là

thước đo giá trị.

* Giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện

nay đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng

khác. Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển

giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá tồn tại dưới nhiều hình thức

khác nhau, có thể có rất nhiều cơ quan ban hành như : kho bạc, các công ty cổ

phần…, có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá, có thể có thời hạn sử

dụng hoặc không có thời hạn sử dụng, có thể ghi danh hoặc không ghi danh

và việc thực hiện quyền định đoạt về số phận thực tế đối với giấy tờ có giá

cũng không bị hạn chế như việc định đoạt tiền. Ví dụ: giấu nhận nợ, tờ vé số

10

trúng thưởng, trái phiếu, cổ phiếu…tất cả những giấy tờ trị gia được bằng

đồng Việt Nam. Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài

sản, giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật

bảo vệ. giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển

nhượng với điều kiện chuyển nhượng tòan bộ một lần, việc chuyển nhượng

một phần giấy tờ có giá là vô hiệu.

Ngoài ra, giấy tờ có giá có tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính

rủi ro, các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản

như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà,

giấy đăng ký xe máy,… không phải là giấy tờ có giá. Những loại giấy tờ này

chỉ được coi là một vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.

* Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản

đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản

khác đã được quy định tại Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015.

* Quyền sử dụng đất là quyền tài sản, Giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất không được coi là tài sản cũng đã được quy định tại điều 105 Bộ luật dân

sự 2015. Điều 163 Bộ luật dân sự 2005.

=> Quyền tài sản được là một loại tài sản và có thể dùng để trao đổi

trong các giao dịch dân sự, thương mại, thực hiện góp vốn hoặc để lại thừa kế

trong trường hợp cá nhân chết hoặc tuyên bố là đã chết.

Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định bất động sản và động sản

như sau:

“1. Bất động sản bao gồm:

a) Đất đai;

b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;

c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;

d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.

11

2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”

Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản là cách phân loại

tài sản dựa vào đặc tính vật lý của tài sản là có thể di dời được hay không thể

di dời được, các tài sản không thể di, dời được do bản chất tự nhiên cấu tạo

nên tài sản đó, bao gồm:

- Đất đai: đất đai trong giao lưu dân sự được xác định bằng diện tích đất

cùng vị trí của mảnh đất đó. Điều này được thể hiện trên bản đồ địa chính,

được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận thông qua quyết định giao

đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó.

- Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai: Khoản 1 Điều 104 Luật

Đất đai năm 2013 quy định về cấp Giấy chứng nhận đối với tài sản gắn liền

với đất, như sau: “Tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất bao gồm nhà

ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là rừng trồng và cây lâu năm có

tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và

tài sản khác gắn liền với đất. Như vậy, theo quy định của pháp luật, tài sản

gắn liền với đất bao gồm nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là

rừng trồng và cây lâu năm có tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

- Cây cối, hoa màu và các tài sản khác trên đất: Khoáng sản, cây cối hoa

màu trên đất cũng được coi là bất động sản chừng nào người ta chưa khai

thác, chặt cây, hay hái lượm.

- Các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đều được coi là bất

động sản. Thông thường, việc gắn một động sản vào nhà, công trình xây dựng

một mặt phải nhằm tạo một chỉnh thể thống nhất phục vụ cho mục đích sử

dụng nhà, công trình đó, mặt khác, việc gắn động sản vào nhà, công trình phải

do người có quyền đối với nhà, công trình xây dựng đó thực hiện. Việc gắn

liền phải mang tính chất kiên cố, không thể tháo ra mà không làm hư hại hoặc

12

mất vẻ mỹ quan của nhà, công trình.

Ví dụ: Hệ thống điện, nước trong nhà, bức tượng… (nếu được gắn vào

hốc tường một cách kiên cố cũng có thể được coi là bất động sản).

Ngoài những tài sản là bất động sản kể trên, pháp luật có quy định

những tài sản khác là bất động sản và bằng các văn bản hướng dẫn cụ thể.

Ví dụ: theo quy định của Điều 5, “Luật Kinh doanh bất động sản năm

2014 thì quyền sử dụng đất là bất động sản”.

Căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản và thời điểm xác lập quyền sở

hữu cho chủ sở hữu, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài

sản hình thành trong tương lai. Tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại vào thời

điểm hiện tại và đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu của tài sản đó

(nhà đã được xây,…). Tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản

chưa tồn tại hoặc chưa hình thành đồng bộ vào thời điểm xem xét nhưng chắc

chắn sẽ có hoặc được hình thành trong tương lai (nhà đang được xây dựng

theo dự án, tiền lương sẽ được hưởng,…).

Ngoài tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại còn có tài sản hình thành trong

tương lai. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm tài sản đã được hình

thành tại thời điểm giao kết giao dịch nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch

tài sản đó mới thuộc sở hữu của các bên (ví dụ: tài sản mua bán, thừa kế

nhưng chưa hoàn thành thủ tục chuyển giao cho chủ sở hữu).

- “Sản nghiệp thương mại là toàn bộ tài sản gồm cả tài sản hữu hình và

vô hình thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của thương

nhân phục vụ cho hoạt động thương mại như trụ sở, cửa hàng, kho tàng,

trang thiết bị, hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu, nhãn hiệu hàng hóa,

mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ” theo khoản 7, Điều 5, Luật

Thương mại 1997.

Thương mại ở thời kỳ trước là hàng đổi hàng,con người trao đổi trực tiếp

hàng hóa hay dịch vụ mà không cần thông qua các phương tiện thanh toán. Ví

13

dụ: Đổi một xe đạp lấy một mảnh đất). Tuy nhiên, hình thức trao đổi trực tiếp

này ít còn tồn tại đến ngày nay do nhiều nguyên nhân.Trong hình thức này

không có sự phân biệt rõ ràng giữa người bán và người mua, do người bán

mặt hàng A lại là người mua mặt hàng B đồng thời điểm. Vì thế tiền được

hình thành như một phương tiện trao đổi đa năng để đơn giản hóa thương mại

giữa “Tiền – Hàng – Tiền). Trước đây, tiền thường được liên kết với các

phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị ví dụ như đồng tiền bằng vàng thì

tiền ngày nay thông thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị (ví dụ:

tiền giấy). Trong thương mại quốc tế người ta gọi các loại tiền khác nhau là tiền

tệ. Giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho chúng.

Chính vì vậy, khi đưa thêm tiền giấy hay tiền kim loại vào sử dụng thì tổng giá

trị của tiền lưu thông trong một nền kinh tế không được nâng cao thêm mà chỉ

dẫn đến lạm phát. Điều này sẽ làm suy giảm phát triển kinh tế thị trường.

Nguyên nhân Thương mại tồn tại vì nó là sự chuyên môn hóa và phân

chia lao động, trong đó các nhóm người nhất định nào đó chỉ tập trung vào

việc sản xuất để cung ứng các hàng hóa hay dịch vụ thuộc về một lĩnh vực

nào đó để đổi lại hàng hóa hay dịch vụ của các nhóm người khác. Thương mại

cũng tồn tại giữa các khu vực là do sự khác biệt giữa các khu vực này đem lại

lợi thế so sánh hay lợi thế tuyệt đối trong quá trình sản xuất ra các hàng hóa

hay dịch vụ có tính thương mại hoặc do sự khác biệt trong các kích thước của

khu vực (dân số chẳng hạn) cho phép thu được lợi thế trong sản xuất hàng

loạt. Vì thế, thương mại theo các giá cả thị trường đem lại lợi ích cho cả hai

khu vực. Thương mại được hiểu theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát

sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng.

Thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: giao dịch về cung cấp hoặc trao

đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương

mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ

thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác

14

hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc

kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường

không, đường sắt hoặc đường bộ.

1.1.2. Khái niệm tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng

phá sản

Nghiên cứu pháp luật nhiều nước cho thấy, hiện nay có hai loại tiêu chí

để xác định thời điểm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, tiêu chí về

định lượng và tiêu chí về định tính. Kinh nghiệm của một số nước khi xây

dựng khái niệm phá sản theo trường phái định lượng thì trường có quy định

về số nợ cụ thể, về thời hạn chậm thanh toán nợ từ phía doanh nghiệp mắc nợ

sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ. Tính định tính thể hiện ở quy định về những

tài liệu cần thiết mà còn nợ phải gửi cho Tòa án sau khi Tòa thụ lý đơn yêu

cầu giải quyết tuyên bố phá sản để Tòa án đánh giá tổng số nợ và tổng tài sản

của con nợ như danh sách chủ nợ kèm theo số nợ, báo cáo về tình trạng tài

chính, tài sản và khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp mắc nợ. Như vậy,

khái niệm tình trạng phá sản đã được xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa hai

tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính.

Theo từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “phá sản” được hiểu là “lâm vào

tình trạng tài sản không có gì, thường là do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại.

Các văn bản pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa thế nào là phá sản,

phá sản doanh nghiệp mà chỉ giải thích khi nào thì doanh nghiệp, hợp tác xã

được coi là “lâm vào tình trạng phá sản”. Theo Luật Phá sản năm 2014 thì phá

sản được hiểu là “tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh

toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”. Như vậy, phá sản

dù chưa định nghĩa thống nhất nhưng về cơ bản được sử dụng để chỉ sự đổ vỡ

trong hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp hoặc cá nhân.

Giống như pháp luật phá sản ở nhiều nước trên thế giới, pháp luật phá

sản ở nước ta hiện nay điều chỉnh hai thủ tục chính là thủ tục phục hồi hoạt

15

động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và

thủ tục phá sản. Pháp luật phá sản doanh nghiệp hiện hành bao gồm tất cả các

quy định của pháp luật đang còn hiệu lực điều chỉnh việc phá sản, giải quyết

phá sản doanh nghiệp. Bản chất của pháp luật phá sản hiện đại là pháp luật về

thủ tục đòi nợ tập thể (liên quan đến nhiều người) và cứu vớt doanh nghiệp

mất khả năng thanh toán nợ. Điều đó có nghĩa là pháp luật phá sản không chỉ

là pháp luật về thanh toán mà còn là pháp luật về quản trị doanh nghiệp gặp

khó khăn về tài chính nhằm cứu vớt doanh nghiệp đó.

Pháp luật phá sản là toàn bộ các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban

hành, quy định về điều kiện mở thủ tục phá sản và điều kiện tuyên bố phá sản

doanh nghiệp, hợp tác xã. Giáo trình Luật Thương Mại tập 2 – Trường Đại

học Luật Hà Nội (2014) có đưa ra khái niệm như sau: “Pháp luật phá sản có

thể hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều

chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản

doanh nghiệp, hợp tác xã..”; quy định trình tự, thủ tục giải quyết và yêu cầu

mở thủ tục phá sản cũng như thi hành quyết định tuyên bố phá sản; về địa vị

pháp lý và mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia tố tụng phá sản và các vấn

đề khác phát sinh liên quan đến giải quyết phá sản.

Pháp luật phá sản là một chế định đặc thù khi vừa chứa đựng các quy

phạm của pháp luật nội dung, vừa chứa đựng các quy phạm của pháp luật hình

thức (pháp luật tố tụng). Với tư cách là pháp luật nội dung, pháp luật phá sản

điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa chủ nợ và con nợ. Với tư cách là pháp luật

hình thức, pháp luật phá sản điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa cơ quan nhà nước

có thẩm quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên quan, quy định

quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu

phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

Trên cơ sở vận dụng có chọn lọc những thành tựu của các hệ thống luật

tiên tiến trên thế giới kết hợp với việc nghiên cứu quá trình giải quyết phá sản,

16

luận văn đưa ra khái niệm tài sản phá sản:

Tài sản phá sản là khối sản nghiệp của doanh nghiệp, bao gồm toàn bộ

những tài sản có và tài sản nợ của doanh nghiệp từ thời điểm Tòa án thụ lý

đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến thời điểm có quyết định của Tòa án về

việc hoàn tất vụ việc phá sản.

Tài sản doanh nghiệp gồm hai loại: tài sản có và tài sản nợ

• Tài sản có

Những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử dụng của

doanh nghiệp được gọi là tài sản có và được phân loại thành tài sản lưu động

và tài sản cố định như sau:

- Tài sản lưu động là biểu hiện dưới hình thái vật chất của các thành

phần tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh sản xuất (các thành phần

này còn được gọi là đối tượng lao động). Tài sản lưu động trong doanh nghiệp

thường được chia thành 2 loại: Tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động

lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất: Các loại nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ

tùng thay thế… dự trữ sản xuất và các loại sản phẩm dở dang, bán thành

phẩm đang trong quá trình sản xuất. TSLĐ lưu thông: Các loại tài sản nằm

trong quá trình lưu thông như thành phẩm chờ tiêu thụ, vốn trong thanh toán,

vốn bằng tiền…

Việc tài sản lưu động sản xuất và lưu thông vận động thường xuyên và

đổi chỗ cho nhau sẽ đảm bảo cho hoạt động sản xuất và kinh doanh trong

doanh nghiệp diễn ra ổn định và nhịp nhàng.

- Tài sản cố định là tư liệu sản xuất chuyên dùng trong sản xuất kinh

doanh, có giá trị lớn và dùng được vào nhiều chu kì sản xuất. Có ba loại tài

sản cố định: tài sản cố định hữu hình, vô hình, tài sản cố định thuê ngoài dài

hạn, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, các khoản đầu tư xây dựng cơ bản...

Những tài sản cố định hữu hình có hình thái vật chất cụ thể do doanh

17

nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh như: trụ sở, cửa

hàng, kho tàng, máy móc, thiết bị công tác, phương tiện vận tải, phương tiện

truyền dẫn...và hao mòn dần theo thời gian.

Những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã

được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào

nhiều chu kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử

dụng; chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền

tác giả… ví dụ như lợi thế của địa điểm kinh doanh, điều này có ý nghĩa quan

trọng khi xác định giá trị quyền sử dụng đất; tay nghề của người lao động trong

doanh nghiệp, có ý nghĩa khi trả một số phụ cấp cho họ khi doanh nghiệp bị

tuyên bố phá sản...

Tài sản cố định tài chính là những tài sản cố định mà doanh nghiệp thuê

của công ty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền

lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận

trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp

đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời

điểm ký hợp đồng. Giá trị của các khoản đầu tư tài chính dài hạn với mục đích

kiếm lời, thời gian thu hồi vốn lớn hơn một năm hay một chu kỳ kinh doanh như:

đầu tư liên doanh dài hạn, cho thuê tài sản cố định, đầu tư chứng khoán dài hạn.

• Tài sản nợ

Tài sản nợ là các loại nợ của doanh nghiệp. Tài sản nợ được phân loại

như sau nợ : nợ có đảm bảo, nợ có đảm bảo một phần, nợ không có đảm bảo.

- Các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc của

người thứ ba thì được gọi là nợ có bảo đảm.

- Các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã

của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó thì được gọi là

nợ có đảm bảo một phần.

- Khoản nợ mà theo đó doanh nghiệp chưa phát sinh nghĩa vụ thanh

18

toán. Kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, các khoản nợ được tiếp tục

tính lãi theo thỏa thuận nhưng được tạm dừng việc trả lãi. Đối với khoản nợ

mới phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản đến thời điểm tuyên bố doanh nghiệp,

hợp tác xã phá sản thì tiền lãi của khoản nợ đó được xác định theo thỏa thuận

nhưng không trái với quy định của pháp luật. Kể từ ngày ra quyết định tuyên

bố doanh nghiệp phá sản thì khoản nợ không được tiếp tục tính lãi.

- Việc phân biệt nợ đến hạn thanh toán nợ chưa đến hạn thanh toán giúp

tòa án có thể xác định chính xác doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng mất khả

năng thanh toán. Các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần

đã được các bên xác nhận, có đầy đủ chứng cứ chứng minh các khoản nợ này

là có thật và không có tranh chấp. Chủ nợ phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ

đã có yêu cầu nhưng không được doanh nghiệp thanh toán.

1.1.3. Nguyên tắc và cách thức xác định khối tài sản phá sản

1.1.3.1. Nguyên tắc xác định khối tài sản phá sản

Việc xác định giá trị nghĩa vụ về tài sản khi giải quyết phá sản đã được

quy định cụ thể tại Điều 51 Luật Phá sản 2014. Theo đó, việc xác định giá trị

nghĩa vụ về tài sản khi giải quyết phá sản được quy định như sau:

1. Nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác lập trước

khi Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản được xác định vào thời

điểm ra quyết định mở thủ tục phá sản.

2. Nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác lập sau

khi Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản được xác định vào thời

điểm ra quyết định tuyên bố phá sản.

3. Trường hợp nghĩa vụ về tài sản quy định tại khoản 1 và khoản 2

Điều này không phải là tiền thì Tòa án nhân dân xác định giá trị nghĩa vụ về

tài sản đó bằng tiền.

1.1.3.2. Cách thức xác định khối tài sản phá sản

Xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp được kiểm kê và xác định sau

19

khi có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 64 Luật Phá sản 2014), gồm:

- Tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp có tại thời điểm Tòa án

nhân dân quyết định mở thủ tục phá sản;

- Các khoản lợi nhuận, các tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp sẽ

có việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Tòa án nhân dân mở

thủ tục phá sản;

- Tài sản và quyền tài sản có được sau ngày Tòa án nhân dân ra quyết

định mở thủ tục phá sản;

- Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp. Trường

hợp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo đảm,

nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán thì

phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp;

- Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp được xác định theo quy

định của pháp luật về đất đai;

- Tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của doanh nghiệp;

- Tài sản và quyền tài sản có được do các giao dịch vô hiệu;

- Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, công ty hợp danh còn bao gồm tài sản của chủ doanh nghiệp

tư nhân, thành viên hợp danh không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh.

Đặc điểm điển hình của loại hình công ty hợp danh là thành viên hợp danh

phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ

của doanh nghiệp, khối tài sản của Công ty hợp danh được xác định như thế

nào và có tách bạch với khối tài sản của thành viên hợp danh hay không.

Các tài sản được xác lập theo quy định tại Điều 174 Luật Doanh nghiệp

2014 là tài sản của Công ty hợp danh, khối tài sản này tách bạch hoàn toàn

với khối tài sản của thành viên hợp danh. Tài sản của thành viên hợp danh

cũng không phải là tài sản của Công ty Hợp danh. Việc thành viên hợp danh

phải chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của

20

công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty chỉ là trách nhiệm liên đới

mà Pháp luật buộc thành viên hợp danh phải chấp nhận khi lựa chọn loại hình

doanh nghiệp này.

1.2. Khái quát thủ tục xử lý tài sản phá sản

1.2.1. Đặc trưng của thủ tục xử lý tài sản phá sản

Thủ tục xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh

toán là xác định giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản nhằm bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Bên cạnh đó, xử lý tài sản phá sản

của doanh nghiệp cũng góp phần bảo vệ quyền lợi của con nợ, giúp con nợ sử

dụng tài sản hợp lý và hiệu quả hơn. Xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp

còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động. Xử

lý tài sản phá sản của doanh nghiệp một cách khách quan, minh bạch và hiệu

quả giúp cho pháp Luật Phá sản 2014 thực hiện được tính hiệu quả của việc

xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp.

1.2.2. Nội dung cơ bản của thủ tục xử lý tài sản phá sản

Thủ tục xử lý tài sản phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã Phá sản là một

hiện tượng xảy ra có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế – xã hội, nó có

thể gây ra những mâu thuẫn, tình trạng hỗn loạn, mất trật tự xã hội bằng sự

tranh giành tài sản của con nợ từ phía các chủ nợ, bằng sự biểu tình đòi việc

làm, tiền lương, thu nhập ở người lao động. Nếu không có một thủ tục phá sản

chặt chẽ để điều chỉnh ổn thỏa, công bằng những mối quan hệ đó chắc chắn sẽ

gây ra tình trạng lộn xộn, vô tổ chức trong xã hội. Tuy nhiên, đây lại là một

thủ tục đòi nợ đặc biệt. Đó là việc các chủ nợ đòi nợ công khai, bình đẳng và

mang tính tập thể. Có thể coi thủ tục phá sản là một giải pháp để các chủ nợ

thu hồi nợ bằng cách chia nhau tài sản của con nợ một cách có trật tự, tránh

tình trạng "mạnh ai nấy đòi" cũng như tránh việc tẩu tán tài sản của con nợ.

Luật Phá sản năm 2014 quy định thủ tục thông thường giải quyết phá sản có 4

21

bước chủ yếu, bao gồm:

1) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;

2) Hội nghị chủ nợ và thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh;

3) Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản;

4) Thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.

Xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản 2014 thực hiện bước sau khi có

Quyết định mở thủ tục phá sản, bước 2 và bước 4.

● Về đối tượng áp dụng của Luật phá sản

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Phá sản (2004) thì đối tượng áp

dụng của Luật này là: “Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được

thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật”. Theo quy định này thì

Luật Phá sản (2004) chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong quá

trình xây dựng Luật Phá sản (2014), nhiều ý kiến cho rằng cần bổ sung đổi

tượng áp dụng của Luật này là cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, xí nghiệp có

đăng ký kinh doanh, trường Đại học và trường ở các cấp học khác nếu lâm

vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì đều có thể giải quyết

theo thủ tục phá sản. Quan điểm này cho rằng, việc mở rộng các đối tượng

này phù hợp với khuyến nghị số 8 và 9 của Khuyến nghị Hướng dẫn xây

dựng pháp Luật Phá sản của Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hiệp

quốc (UNCITRAL) và một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Pháp, Đức,

Anh, Nga, Latvia… đều quy định áp dụng pháp luật phá sản đối với mọi chủ

thể có đăng ký kinh doanh.

Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành thì cá nhân, tổ hợp

tác, hộ gia đình khi tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh có đăng ký kinh

doanh nhưng không phải đăng ký vốn pháp định; hoạt động kinh doanh của

nhóm đối tượng này ở quy mô nhỏ, đa số chưa thực hiện tốt về chế độ kế

toán, tài chính nên khi áp dụng thủ tục phá sản sẽ gặp nhiều khó khăn trong

quản lý, thanh lý tài sản. Mặt khác, hiện nay khi các đối tượng này mất khả

22

năng thanh toán thì việc xử lý nợ sẽ thực hiện theo quy định của Bộ Luật dân

sự 2015. Đối với các cơ sở đào tạo hoạt động mang tính nghề nghiệp đặc thù,

hoạt động của các cơ sở này liên quan đến chính sách đối với học sinh, sinh

viên; việc thành lập, hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể được điều chỉnh

theo Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học và Luật dạy nghề. Vì vậy, trong

thời điểm hiện nay, quan điểm Luật Phá sản (2014) là tạm thời chưa nên mở

rộng các đối tượng áp dụng.

Tóm lại , về đối tượng áp dụng Luật Phá sản (2014) quy định tại điều 2:

“Luật này áp dụng đối với doanh nghiệp và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (sau

đây gọi chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của

pháp luật.”

● Về lý do phá sản của một số nước trên thế giới

- Pháp luật Nhật Bản quy định “tình trạng phá sản là không có khả năng

trả các khoản nợ đến hạn và đối với pháp nhân là không có khả năng trả nợ”;

- Luật Phá sản doanh nghiệp 1992 của Liên bang Nga thì quy định “tình

trạng phá sản của doanh nghiệp được hiểu là việc mất khả năng đáp ứng yêu cầu

của chủ nợ về thanh toán hàng hóa (công việc, dịch vụ) kể cả việc mất khả năng

bảo đảm các thanh toán phải nộp ngân sách và các quỹ ngoài ngân sách do nghĩa

vụ của người mắc nợ vượt quá tài sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán

cân thanh toán của người mắc nợ. Tình trạng phá sản của doanh nghiệp là sự

ngừng việc thanh toán bình thường của Doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp không

bảo đảm hoặc rõ ràng không có khả năng thực hiện các yêu cầu của chủ nợ trong

thời hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn thực hiện các yêu cầu đó”. Theo quy định

của pháp luật phá sảnTrung Quốc thì “khi doanh nghiệp không có khả năng

thanh toán khoản nợ đến hạn thì bị xem xét khả năng doanh nghiệp bị phá sản”;

- Luật Phá sản Việt Nam 2014 có nhiều điểm tương đồng với pháp luật

Nhật Bản, Nga, Trung Quốc trong quy định về tình trạng phá sản của doanh

nghiệp. Theo quy định tại Khoản 1, 2 Điều 4 Luật Phá sản (2014) thì phá sản là

23

tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án

nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản; doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả

năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh

toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.

● Về cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản và xử lý tài

sản phá sản

Theo thông lệ chung, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tuyên bố phá sản

doanh nghiệp là Tòa án. Tuy nhiên, do tổ chức hệ thống tòa án và cơ quan tài

phán ở mỗi nước khác nhau nên việc giao cho tòa án nào giải quyết yêu cầu

tuyên bố phá sản không phải cũng giống nhau.

Ví dụ, ở hầu hết các nước Châu Âu lục địa, thẩm quyền giải quyết phá sản

thuộc về tòa thương mại. Trong khi đó một số nước như Mỹ, Thụy Điển, Nam

Tư... lại thành lập tòa phá sản riêng. Có những nước như Cộng Hòa Liên Bang

Nga thì việc giải quyết phá sản thuộc chức năng của tòa án trọng tài. Ngược lại,

ở Trung Quốc, Malayxia,... tính chất của một vụ phá sản được pháp luật coi như

một vụ kiện dân sự nên thẩm quyền thuộc về tòa án dân sự.

Ở Việt Nam, Luật Phá sản (2014) quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh và

cấp huyện có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, việc

phân định thẩm quyền giải quyết vụ phá sản dựa trên ba nguyên tắc:

- Theo trụ sở chính;

- Theo nơi đăng ký kinh doanh;

- Theo tính chất phức tạp của vụ việc phá sản.

Cụ thể hơn, thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết yêu cầu tuyên

bố phá sản được quy định tại Điều 8 của Luật Phá sản (2014).

Chủ thể tham gia giải quyết xử lý tài sản phá sản là Quản tài viên được

Thẩm phán chỉ định bằng Quyết định bao gồm Quản tài viên, doanh nghiệp

quản lý, thanh lý tài sản. “Chấp hành viên có trách nhiệm giám sát hoạt động

của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong việc thực hiện

24

thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản sau khi có văn bản yêu

cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tổ chức thực hiện

thanh lý tài sản theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 121 Luật Phá sản.

Chấp hành viên giám sát Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý

tài sản thông qua việc Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý báo cáo

Chấp hành viên”. Trích Thông tư liên tịch 07/2018/TTLT-BTP-VKSNDTC-

TANDTC quy định việc phối hợp thực hiện một số vấn đề về trình tự, thủ tục

trong thi hành quyết định của Tòa án giải quyết phá sản

● Về thủ tục xử lý tài sản phá sản

Xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản ở một số nước trên thế giới như

Pháp, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc đều quy định thủ tục xử lý tài sản phá sản

gồm: thủ tục xác định lại giá trị tài sản còn lại, phục hồi hoạt động kinh doanh,

phân chia theo thứ tự ưu tiên. Điểm chung của các nước là tuỳ theo tình hình cụ

thể của các doanh nghiệp mà áp dụng thủ tục phục hồi (cứu vãn) hay thủ tục xử

lý tài sản (phá sản). Trong quá trình thực hiện không cứng nhắc trong một thủ

tục mà có thể chuyển từ thủ tục này sang thủ tục khác một cách linh hoạt.

Theo quy định xử lý tài sản phá sản trong Luật Phá sản Việt Nam 2014

là một trong những thủ tục giải quyết phá sản gồm: Xác định giá trị tài sản,

phục hồi hoạt động kinh doanh và phân chia tài sản phá sản theo thứ tự ưu

tiên. Thủ tục xử lý tài sản được thực hiện sau trước khi và sau khi ra quyết

định tuyên bố doanh nghiệp phá sản. Xử lý tài sản phá sản được tiến hành

theo các bước sau:

1. Kê biên tài sản phá sản bắt đầu xác định giá trị tài sản phá sản, chủ thể

đảm nhận nhiệm vụ này sẽ phải có nghĩa vụ thông báo cho các chủ nợ rồi tiến

hành kê biên tài sản để thu hồi tài sản phá sản. Xác định phạm vi tài sản phá sản là

những tài sản nợ và tài sản có của doanh nghiệp. Thông thường, việc thu hồi tài

sản thuộc về một cơ quan (Quản tài viên được Thẩm phán ra Quyết định). Việc

25

thu hồi này chỉ diễn ra sau khi có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

2. Xử lý tài sản phá sản là việc xác định giá trị tài sản sản phá sản sau

khi hoàn tất việc thu hồi tài sản phá sản. Đây còn là một thủ tục xử lý nợ

mang tính chất tập thể cao, không mang tính cá nhân, riêng lẻ. Việc xử lý tài

sản phá sản để thanh toán cho các chủ nợ phải được tiến hành tập thể để đảm

bảo quyền lợi công bằng cho các chủ nợ. Công bằng thể hiện ở một thứ tự ưu

tiên thanh toán giữa các chủ nợ, đảm bảo thông tin đến được với chủ nợ là

khác nhau, các chủ nợ trong những điều kiện như nhau thì được hưởng quyền

lợi như nhau.

Mục đích của hoạt động xử lý tài sản phá sản nhằm bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của các chủ nợ, giúp con nợ sử dụng tài sản hợp lý và hiệu quả

hơn, xử lý tài sản phá sản còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền

lợi của người lao động, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Xử lý tài sản

phá sản khách quan, minh bạch và hiệu quả giúp cho pháp luật phá sản thực

hiện được các mục đích đã đặt ra, đồng thời góp phần tặng tính hiệu quả của

việc quản lý tài sản phá sản. Bởi lẽ, những nội dung khoa học, cùng ý nghĩa

quan trọng và thiết thực, cơ chế xử lý tài sản phá sản sẽ tác động lớn tới các

chủ thể quản lý tài sản phá sản, giúp các chủ thể này phát huy tinh thần trách

nhiệm trong việc quản lý tài sản phá sản nhằm hạn chế thấp nhất việc tẩu tán,

mất mát tài sản phá sản để bảo toàn tài sản phá sản.

3. Thanh toán cho các chủ nợ là bước cuối cùng của thủ tục xử lý tài

phá sản, thực chất của việc xử lý tài sản phá sản là việc xử lý mối quan hệ về

lợi ích tài sản giữa các chủ nợ với con nợ. Việc thanh toán được tiến hành

theo một thứ tự ưu tiên theo quy định của Luật Phá sản 2014. Luật Phá sản

2014 có xu hướng ưu tiên bảo vệ chủ nợ là người lao động thể hiện ở thứ tự

ưu tiên thanh toán như: (i) Các khoản lệ phí, các chi phí theo quy định của

pháp luật cho việc giải quyết phá sản; (ii) các khoản nợ lương, trợ cấp thôi

việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo

26

thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết; (iii) Các khoản nợ

thuế và các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ; (iv) Các chủ sở

hữu doanh nghiệp.

1.2.3. Vai trò của thủ tục xử lý tài sản

Để xử lý tài sản phá sản được tiến hành một cách có trật tự, đúng pháp luật

thì pháp luật phá sản cần thực hiện đúng những quy định cụ thể về trình tự xử lý

tài sản phá sản doanh nghiệp. Những quy định này là cơ sở pháp lý để Tòa án tiến

hành Tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, bảo đảm vụ việc được giải

quyết đúng pháp luật.

Xử lý tài sản theo pháp luật Luật Phá sản 2014 ở nước ta hiện nay, đã

góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho

hoạt động xử lý nợ của các doanh nghiệp, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong

lĩnh vực tài chính, làm cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn.

Mặc dù, Luật Phá sản ở Việt Nam được ban hành chậm so với các nước trên

thế giới nhưng cũng đã góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế

pháp lý, xử lý nợ của các doanh nghiệp, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong lĩnh

vực tài chính, làm cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn trong

thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Việc áp dụng đúng thủ tục xử lý tài sản phá sản sẽ đóng một vai trò

quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ và người lao

động. Trong kinh doanh, việc công nợ là điều tất yếu có trong bất cứ doanh

nghiệp nào. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên được quyền đòi nợ thông qua

mọi hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp khởi kiện ra Tòa

án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc kiện tụng ra Tòa án không thể

giải quyết được một cách thỏa đáng quyền lợi của các chủ nợ, nhất là khi con

nợ bị mất khả năng thanh toán. Pháp luật phá sản ra đời đã quy định về thủ

tục xử lý tài sản phá sản, một thủ tục đòi nợ đặc biệt cho các chủ nợ. Có thể

nói, điều mà các chủ nợ lo ngại nhất là con nợ không thể trả lại các khoản nợ

27

đã vay của mình. Tuy nhiên, thông qua xử lý tài sản phá sản, các doanh

nghiệp hợp tác xã có nguy cơ phá sản sẽ có cơ hội được phục hồi, trở lại tình

trạng ban đầu, có khả năng thanh toán các khoản nợ của chủ nợ. Còn nếu

doanh nghiệp, hợp tác xã không thể phục hồi, bị tuyên bố phá sản thì các tài

sản phá sản của doanh nghiệp cũng được xác định giá trị tài sản của doanh

nghiệp phá sản để trả nợ cho các chủ nợ.

Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, áp

dụng thủ tục xử lý tài sản phá sản là một giải pháp tránh việc các chủ nợ tự do

tranh dành “xiết nợ”, ngăn cản các chủ nợ đòi nợ theo kiểu mạnh ai nấy đòi,

từ đó dẫn đến tình trạng mất trật tự xã hội. Thủ tục xử lý tài sản phá sản là do

cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành, đảm bảo cho việc thực thi được

thống nhất, trật tự, bằng mọi cách tạo điều kiện cho con nợ khắc phục khó

khăn, khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường hoặc tạo cơ hội

cho con nợ rút khỏi thương trường một cách có trật tự.

Tóm lại, có thể thấy việc xử lý tài sản phá sản nếu không được quy

định cụ thể về trình tự, cách thức có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng

về kinh tế - xã hội. Các hậu quả này nhiều khi là nguyên nhân của tình trạng

lộn xộn trong đời sống xã hội. Vì vậy, quá trình xử lý tài sản phá sản nhất

thiết phải được tiến hành một cách quy củ, trật tự thông qua một trình tự, thủ

tục giải quyết một vụ phá sản.

Tiểu kết chương 1

Nền kinh tế nào cũng luôn tồn tại một bộ phận quan hệ kinh tế quan

trọng và tương ứng với nó có một bộ phận quy phạm pháp luật điều chỉnh

Thành lập – Phá sản. Các tranh chấp xuất hiện càng nhiều với quy mô phức

tạp, đó cũng là hình thức loại bỏ dần các doanh nghiệp yếu kém và không có

chiến lược đúng đắn trong quá trình sản xuất trao đổi sản phẩm, hàng hoá.

Qua nhiên cứu nội dung của chương 1, tác giả đưa ra một số lết luận về tài

28

sản phá sản như sau:

1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm

bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có

và tài sản hình thành trong tương lai.

2. Xử lý tài sản phá sản là một thủ tục đặc biệt vì bản chất của xử lý tài

sản phá sản là việc Tòa án ra quyết định chấm dứt hoạt động của con nợ và

nhân cơ hội đó mà thu hồi tài sản còn lại của con nợ, xác định giá trị tài sản

bằng tiền và chia cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định. Như vậy,

thủ tục xử lý tài sản phá sản liên quan đến ba hoạt động: thu hồi tài sản, xử lý

tài sản và thanh toán tiền cho các chủ nợ. Xử lý tài sản phá sản quy định trong

Luật Phá sản Việt Nam 2014 bao gồm hai thủ tục chính xác định giá trị tài sản của

doanh nghiệp mất khă năng thanh toán và thanh toán cho các chủ nợ và người

lao động.

3. Nội dung của xử lý tài sản phá sản gồm thu hồi tài sản phá sản,phục

hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, phân

chia tài sản phá sản theo thứ tự ưu tiên. Bắt đầu xác định giá trị tài sản phá

sản, chủ thể đảm nhận nhiệm vụ này sẽ phải có nghĩa vụ thông báo cho các

chủ nợ rồi tiến hành kê biên tài sản để thu hồi tài sản phá sản, xử lý tài sản

phá sản là việc xác định giá trị tài sản phá sản sau khi hoàn tất việc thu hồi tài

sản phá sản. Đây còn là một thủ tục xử lý nợ mang tính chất tập thể cao,

không mang tính cá nhân, riêng lẻ.Thanh toán cho các chủ nợ theo thứ tự ưu

tiên được quy định trong Pháp Luật Phá sản 2014.

Tóm lại, mốc đánh dấu quan trọng cho sự hình thành pháp luật phá sản

ở Việt Nam là sự ra đời của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1994, Luật Phá

sản năm 2004 và mới đây là Luật Phá sản năm 2014. Trên cơ sở kế thừa nền

29

tảng của Luật cũ, Luật Phá sản 2014 có nhiều nội dung mới so với Luật cũ.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG

XỬ LÝ TÀI SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM

2.1. Những quy định pháp luật về thủ tục xử lý tài sản phá sản

2.1.1. Quy định về chủ thể tham gia xử lý tài sản phá sản

Pháp luật Phá sản đã có sự đa dạng hóa các loại thủ tục áp dụng đối với

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản bao gồm: thủ tục phục hồi hoạt động

kinh doanh, thủ tục xử lý tài sản phá sản, thủ tục tuyên bố phá sản.Theo

truyền thống, tuyên bố doanh nghiệp phá sản là tiền đề pháp lý cho việc thanh

lý tài sản phá sản. Khi tuyên bố phá sản một doanh nghiệp thì đối với con nợ

cũng là một cách thức pháp lý thu hồi nợ của các chủ nợ. Các chủ nợ thu hồi

nợ bằng yêu cầu của Tòa án, quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản trở nên

rườm rà và bị phá sản. Tuy nhiên, hai quyết định này đều có thể bị khiếu nại

và kháng nghị và đòi hỏi thời gian giải quyết.

Thanh lý tài sản phá sản nếu chỉ là một nội dung của thủ tục tuyên bố

phá sản dựa trên quyết định tuyên bố phá sản thì thủ tục phá sản chỉ là một

nội dung của thủ tục tuyên bố phá sản. Thanh lý tài sản có thể có hoặc có thể

không nhưng tuyên bố phá sản là một trong những mục tiêu chính của thủ tục

phá sản khi doanh nghiệp không thể phục hồi. Chủ thể xử lý tài sản của doanh

nghiệp phá sản là một thẩm phán do Tòa án bổ nhiệm, việc quản lý, xử lý tài

sản phá sản được giao cho một nhóm người do Tòa án thành lập ra và gọi là

Tổ quản lý tài sản.

• Tòa án

Thẩm quyền giải quyết việc phá sản ở hầu hết các nước đều có quy

định chung là Tòa án và ở Việt Nam cũng vậy, Thẩm quyền giải quyết việc

phá sản của một doanh nghiệp là Tòa án. Luật phá sản doanh ngiệp năm 1993,

30

Luật Phá sản năm 2004 và nay là Luật Phá sản năm 2014 đều quy định tòa án

là cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc phá sản của doanh nghiệp, hợp tác

xã. Ở Việt Nam, trong quy định của pháp luật phá sản, Tòa án luôn luôn được

thiết kế như một chủ thể có vai trò quyết định, một nhân vật trung tâm trong

nhiều hoạt động của tố tụng phá sản.

Thẩm quyền của Tòa án, Tòa án phải thụ lý đơn khi có đơn nộp yêu cầu

mở thủ tục phá sản. Theo quy định tại Điều 32 Luật Phá sản (2014) thì Tòa án

sẽ thông báo cho người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản về việc nộp lệ

phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản nếu đơn yêu cầu hợp lệ; có quyền yêu

cầu người nộp đơn sửa đổi, bổ sung đơn nếu có thiếu sót; Tòa án chuyển đơn

yêu cầu mở thủ tục phá sản cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền nếu thuộc

thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân khác; và Tòa án cũng có thể trả

lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi xảy ra các trường hợp quy định tại

Khoản 1 Điều 35.

Trong việc mở thủ tục phá sản, Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ

tục phá sản có quyền ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản (Điều

42 Luật Phá sản (2014)). Nếu ra quyết định mở thủ tục phá sản, trong thời hạn

03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, Thẩm phán của Tòa án thụ lý đơn

yêu cầu mở thủ tục phá sản có trách nhiệm chỉ định Quản tài viên hoặc doanh

nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.

Trong hội nghị chủ nợ, Tòa án có thẩm quyền triệu tập hội nghị chủ nợ;

thẩm phán được giao phân công phụ trách vụ phá sản tham gia điều hành việc

tiến hành hội nghị chủ nợ.

Tòa án có vai trò trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, trong

đó Thẩm phán được Tòa án giao phân công phụ trách vụ phá sản ra quyết định

công nhận nghị quyết của Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Nghị

quyết này có hiệu lực đối với tất cả người tham gia thủ tục phá sản có liên quan.

31

Theo định kỳ báo cáo, doanh nghiệp, hợp tác xã phải lập báo cáo về tình hình thực

hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã cho

Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Quản tài viên, doanh nghiệp

quản lý, xử lý tài sản phá sản có trách nhiệm báo cáo Thẩm phán.

Ngoài ra, Tòa án nhân dân còn là chủ thể có thẩm quyền ra quyết định

tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản theo thủ tục rút gọn, khi Hội nghị

chủ nợ không thành hoặc sau khi có Nghị quyết của hội nghị chủ nợ.

Thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp là Tòa án

quyết định. Tòa án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết phá sản.

Thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án đươc quy định tại Điều 8 Luật phá

sản (2014) cụ thể:

Thứ nhất, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết phá sản

đối với doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký doanh nghiệp, hợp tác

xã đăng ký kinh doanh tại tỉnh đó. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị

quyết 03/2016/NQ-HĐTP thì vụ việc phá sản có tính chất phức tạp là vụ việc

không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c khoản 1

Điều 8 của Luật phá sản và doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục

phá sản thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Có từ trên 300 lao động trở lên hoặc có vốn điều lệ từ trên

100.000.000.000 (một trăm tỷ đồng) trở lên;

+ Là tổ chức tín dụng; doanh nghiệp, hợp tác xã cung ứng các sản phẩm,

dịch vụ công ích; doanh nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật;

+ Là tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước; doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài;

+ Có khoản nợ được Nhà nước bảo đảm hoặc có liên quan đến việc thực

hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành

viên, văn bản thỏa thuận về đầu tư với cơ quan, tổ chức nước ngoài;

+ Có giao dịch bị yêu cầu tuyên bố là vô hiệu theo quy định tại Điều 59

32

của Luật phá sản 2014.

Thứ hai, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản

đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính tại huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh đó và không thuộc trường hợp quy định tại mục trên.

Luật phá sản năm 2004 quy định theo hướng doanh nghiệp, hợp tác xã

do cơ quan cấp nào đăng ký kinh doanh thì do Tòa án cấp ấy có thẩm quyền

giải quyết, việc căn cứ vào thẩm quyền đăng ký kinh doanh để quy định thẩm

quyền giải quyết của Tòa án là không phù hợp với các nguyên tắc pháp lý,

không thống nhất với quy định về thẩm quyền của Tòa án trong Bộ luật Tố

tụng dân sự 2004. Quy định thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo cấp, theo

lãnh thổ trong Luật phá sản (2014) được cho là phù hợp và thống nhất với các

quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004

+ Thẩm phán – người trực tiếp thực hiện việc giải quyết yêu cầu phá

sản doanh nghiệp.

Cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ phá sản là Tòa án, song việc thực

hiện các hành vi tố tụng đều do Thẩm phán phụ trách tiến hành. Vì vậy, xem

xét đến vai trò, vị trí của Tòa án chính là xem xét vai trò, vị trí của Thẩm

phán, Thẩm phán giữ vai trò trung tâm, là chủ thể có vai trò quyết định trong

việc giải quyết các vấn đề pháp lý cơ bản. Thẩm phán là người thay mặt Tòa

án trực tiếp tiến hành các hành vi tố tụng. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm

phán được quy định cụ thể trong Điều 9 Luật Phá sản (2014).

Thẩm phán có quyền quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.

Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán là người xác minh, thu thập tài liệu,

chứng cứ liên quan đến việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nếu

Thẩm phán đồng thời là người tham gia thủ tục phá sản. Nếu Thẩm phán đồng

thời là người tham gia thủ tục phá sản; người đại diện người thân thích của

người tham gia thủ tục phá sản; người đại diện, người thân thích của người

tham gia thủ tục phá sản trong vụ việc phá sản đó, đã tham gia với tư cách

33

Kiểm sát viên, Quản tài viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

người tham gia thủ tục phá sản, người giám định, thẩm định giá, định giá,

người phiên dịch trong vụ việc phá sản đó cùng trong một Tổ Thẩm phán giải

quyết phá sản đó và là người thân thiết với nhau, đã tham gia ra quyết định

tuyên bố phá sản đối với việc phá sản đó hoặc có căn cứ rõ ràng cho rằng

Thẩm phán có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ thì Thẩm phán phải từ

chối giải quyết yêu cầu phá sản. Thẩm phán còn là người quyết định đình chỉ

tiến hành thủ tục phá sản.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán liên quan đến quản lý tài sản của

doanh nghiệp phá sản bao gồm: Thẩm phán có quyền ra quyết định chỉ định

hoặc thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài sản, giám sát

hoạt động cuẩ Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài sản. Thẩm phán

ra quyết định việc thực hiện kiểm toán doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

trong trường hợp cần thiết; quyết định việc xử lý tài sản sau khi mở thủ tục

phá sản để đảm bảo chi phí phá sản; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp

tạm thời theo quy định của pháp luật để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp,

hợp tác xã mất khả năng thanh toán, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của

người lao động.

Nhiệm vụ, quyền lợi của Thẩm phán còn được thể hiện thông qua các

quyền liên quan đến Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán là người triệu tập, tổ chức

Hội nghị chủ nợ và là người quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị

chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

Thẩm phán còn có nhiệm vụ quan trọng là tuyên bố phá sản đối với

doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, đó là các trường hợp: Người nộp đơn

yêu cầu mở thủ tục phá sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh

toán không còn tiền, tài sản khác để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá

sản; Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà doanh nghiệp, hợp tác

xã mất khả năng thanh toán không còn tài sản để thanh toán chi phí phá sản;

34

Quyết định tuyên bố phá sản khi Hội nghị chủ nợ không thành; Nghị quyết

của Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục vụ hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã; doanh nghiệp hợp tác xã không thực

hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

Ngoài ra, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán được thể hiện qua nhóm

quyền liên quan đến việc áp dụng các biện pháp hành chính – tư pháp gồm:

quyết định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, yêu cầu cơ quan có

thẩm quyền dẫn giải đại diện của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo

quy định của pháp luật; quyết định áp dụng biện pháp xử lý phạt hành chính,

đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý về hình sự theo quy định của pháp luật.

Trong khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thẩm phán có

những mối quan hệ mất thiết với các chủ thể khác, cụ thể:

Thứ nhất, mối quan hệ giữa Thẩm phán và Quản tài viên, Doanh

nghiệp quản lý, xử lý tài sản.

Thẩm phán có trách nhiệm ra quyết định chỉ định Quản tài viên, doanh

nghiệp quản lý, xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trong

quá trình giải quyết phá sản. Đồng thời Thẩm phán cũng là người ra quyết

định thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài sản trong trường

hợp cần thiết.

Thẩm phán có thẩm quyền giám sát hoạt động của Quản tài viên, doanh

nghiệp quản lý, xử lý tài sản. Ngoài ra Thẩm phán có thẩm quyền xem xét và

chấp nhận những đề xuất của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài

sản như sau: đề xuất bán tài sản của doanh nghiệp để đảm bảo chi phí phá

sản; đề nghị tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ; áp dụng các biện pháp khẩn

cấp tạm thời; áp dụng biện pháp xử lý tài sản có trách nhiệm thi hành những

quyết định của Thẩm phán về bán tài sản, thi hành các quyết định khác của

Thẩm phán trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Quản tài viên, doanh

nghiệp quản lý, xử lý tài sản phải báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn

35

của mình theo yêu cầu của Thẩm phán và chịu trách nhiệm trước Thẩm phán

về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Có thể thấy, quan hệ giữa

Thẩm phán và Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài sản là quan hệ

hành chính – nghiệp vụ giữa một bên phụ trách và một bên thừa hành, thực thi

nhiệm vụ được giao.

Thứ hai, mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chủ nợ

Thẩm phán là người ra quyết định triệu tập Hội nghị chủ nợ. Thẩm

phán cũng là người phụ trách khai mạc Hội nghị chủ nợ, thông báo về những

người tham gia Hội nghị chủ nợ và nội dung việc giải quyết đơn yêu cầu mở thủ

tục phá sản. Khi Hội nghị chủ nợ ra Nghị quyết đề nghị tuyên bố phá sản doanh

nghiệp hoặc khi Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phụ hồi hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp. Thẩm phán là người lập biên bản và quyết định

tuyên bố phá sản khi Hội nghị chủ nợ ra Nghị quyết đề nghị tuyên bố phá sản

khi Hội nghị chủ nợ không thành (khoản 3 Điều 80 Luật Phá sản (2014).

Thứ ba, mối quan hệ giữa Thẩm phán với doanh nghiệp phá sản

Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp vẫn tiếp tục

hoạt động kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của Thẩm phán. Thẩm

phán có quyền ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán; quyết định

đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc quyết

định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc

quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản.

• Các thiết chế quản lý, xử lý tài sản

Việc quản lý, xử lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng

thanh toán nợ đến hạn do Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài sản

thực hiện, được thành lập bởi quyết định của Thẩm phán, đồng thời với quyết

định mở thủ tục phá sản theo quy định Luật phá sản 2014.

Khoản 2 Điều 9 Luật Phá sản 2004 quy định về tổ quản lý, xử lý tài sản

36

do Thẩm phán quyết định thành lập đồng thời với việc ra quyết định mở thủ

tục phá sản với cơ cấu bao gồm: 01 Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân

sự cùng cấp làm tổ trưởng, 01 cán bộ tòa án, 01 đại diện chủ nợ, 01 đại diện hợp

pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ thục phá sản và trường hợp cần

thiết có đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan

chuyên môn tham gia Tổ quản lý, xử lý tài sản thì Thẩm phán xem xét quyết

định. Tuy nhiên, các thành viên Tổ quản lý, xử lý tài sản đều là những người

thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm, do đó khi tham gia xử lý công việc thường lúng

túng, không chủ động về thời gian và công việc. Chính vì vậy, có nhiều vụ việc,

các thành viên trong tổ có nhiều ý kiến không đồng đều, nhiều khi dẫn đến mâu

thuẫn nội bộ, khó thống nhất, gây khó khăn trong vấn đề xử lý xử lý tài sản, kéo

dài thời gian.

Khắc phục những bất cập của chế định quản lý, xử lý tài sản phá sản

doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán của luật

cũ, Luật Phá sản 2014, “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, xử lý tài

sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình

giải quyết phá sản”, Luật Phá sản đã đưa ra những quy định mới về Quản tài

viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.

• Chủ nợ và con nợ

Chủ nợ

Về nguyên tắc chung, tất cả các chủ nợ đều có quyền bình đẳng như

nhau trong việc đòi nợ và thu hồi nợ từ tài sản của doanh nghiệp mặc nợ. Chủ

nợ là những người có mối quan tâm trực tiếp đến việc phá sản vì các quyền về

tài sản của họ gắn với tài sản còn lại của doanh nghiệp, họ có quyền cùng

được tham gia vào quá trình xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản. Do tính

chất mối quan hệ giữa doanh nghiệp mắc nợ và khoản nợ mà tư cách chủ nợ

có sự khác biệt về tư cách chủ nợ, họ có quyền và nghĩa vụ không hoàn toàn

giống nhau. Với tư cách là chủ thể tham gia thủ tục phá sản, chủ nợ có các

37

quyền như: Nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản; quyền gửi giấy đòi nợ; quyền

khiếu nại danh sách chủ nợ; quyền tham gia Hội nghị chủ nợ và biểu quyết tại

hội nghị chủ nợ. Tất cả các chủ nợ đều có quyền tham gia và thảo luận tại hội

nghị chủ nợ, tuy nhiên chỉ có chủ nợ không có đảm bảo mới có quyền biểu

quyết tại hội nghị chủ nợ.

Khoản 3 Điều 4 Luật Phá sản 2014 quy định, chủ nợ là cá nhân, cơ

quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ

thanh toán khoản nợ, bao gồm chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm

một phần và chủ nợ có bảo đảm. Chủ nợ có đảm bảo là cá nhân, cơ quan, tổ

chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba. Chủ nợ

có đảm bảo một phần là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh

nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm

bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba mà giá trị tài sản

bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó. Chủ nợ không có đảm bảo là cá nhân, cơ

quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa

vụ thanh toán khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp,

hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Đây là căn cứ để xác định giá trị tài sản phá

sản có đảm bảo hay không đảm bảo.

Con nợ (Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn)

“Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không thực hiện

nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn

thanh toán” theo Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản 2014 đã quy định. Mục tiêu

quan trọng nhất của Luật Phá sản 2014 quan trọng trong quá trình xử lý tài

sản phá sản là bảo đảm quyền lợi của cả chủ nợ và con nợ.

Quyền của Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn

như sau:

1. Được tiếp tục hoạt động bình thường kể từ khi có quyết định mở thủ

38

tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp nhưng dưới sự giám sát

của thẩm phán và tổ quản lý tài sản. Giám đốc và các thành viên Hội đồng

quản trị vẫn phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của doanh nghiệp;

2. Xây dựng phương án phục hồi sau khi có quyết định mở thủ tục giải

quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp để đưa ra Hội nghị chủ nợ

quyết định;

3. Khiếu nại danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ;

4. Đề nghị xem xét lại Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.

2.1.2. Quy định về kiểm kê và xác định giá trị tài sản còn lại của

doanh nghiệp phá sản

• Kiểm kê tài sản phá sản của doanh nghiệp

Việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được

thực hiện theo quy định của pháp luật. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,

thanh lý tài sản giám sát hoạt động thanh lý tài sản doanh nghiệp, lập bảng kê

tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ được quy định cụ thể tại

Điều 65 Luật Phá sản 2014. Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá

sản, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong thời hạn 30 ngày

phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản đó.

Đối với những trường hợp cần thiết thì phải có văn bản đề nghị Thẩm

phán gia hạn, thời gian gia hạn không quá 30 ngày mỗi lần nhưng không quá

hai lần.

Đối với trường hợp đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã

vắng mặt thì người được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

chỉ định làm đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện công việc kiểm

kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Sau khi Bảng kiểm

kê tài sản đã được xác định giá trị phải gửi ngay cho Tòa án tiến hành thủ tục

phá sản.

Đối với trường hợp Tòa án nhân dân nhận thấy việc kiểm kê, xác định

39

giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1 Điều này là

không chính xác. Tòa án nhân dân yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản

lý, thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ

tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Giá trị tài sản được xác định, định giá

theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê. Nếu đại diện doanh nghiệp, hợp tác

xã và những người khác không hợp tác về việc kiểm kê tài sản hoặc cố tình

làm sai lệch việc kiểm kê tài sản thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.

• Xác định giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản

Căn cứ xác định nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp mất khả năng

thanh toán, Điều 51 Luật Phá sản 2014 quy định cụ thể: (i) Nghĩa vụ về tài

sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đã được xác lập trước khi Tòa án nhân dân

ra quyết định mở thủ tục phá sản được xác định vào thời điểm ra quyết định

mở thủ tục phá sản; (ii) nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được

xác lập sau khi Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản được xác

định vào thời điểm ra quyết định tuyên bố phá sản.

Trường hợp nghĩa vụ về tài sản theo quy định trên không phải là tiền

thì Tòa án nhân dân xác định giá trị nghĩa vụ về tài sản đó bằng tiền.

Việc xác định giá trị tài sản phá sản của doanh nghiệp có vai trò quan

trọng trong việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả nang thanh toán nợ

đến hạn, nghĩa vụ tài sản chính xác góp phần vào việc xác định tài sản của

doanh nghiệp mắc nợ, hỗ trợ bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, đảm bảo

quyền lợi chính đáng cho chủ nợ và các bên liên quan.

Luật Phá sản 2014 cũng có những quy định cụ thể tài sản phá sản của

doanh nghiệp, bao gồm: Tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp

đang có trong doanh nghiệp; tiền hoặc tài sản góp vốn liên doanh, liên kết với

cá nhân, doanh nghiệp hoặc tổ chức khác; tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp

mà cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khác đang nợ hoặc chiếm đoạt; tài sản

40

đang cho thuê hoặc cho mượn.

Xác định khoản lãi đối với các khoản nợ đến hạn và chưa đến hạn chưa

được quy định cụ thể trong Luật Phá sản 2014, đặc biệt là các khoản nợ mới

phát sinh trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản. Chính vì vậy, đã dẫn đến

tình trạng áp dụng không thống nhất về việc tính lãi đối với các khoản nợ, nên

không bảo đảm quyền, nghĩa vụ các bên trong quá trình giải quyết yêu cầu

mở thủ tục phá sản.

Luật Phá sản 2014 đã bổ sung quy định về xác định tiền lãi đối với

khoản nợ tại Điều 52 để khắc phục tình trạng này. Các khoản nợ được tiếp tục

tính lãi theo thỏa thuận nhưng được tạm dừng việc trả lãi từ ngày ra quyết

định mở thủ tục phá sản.

Điều 86 của Luật Phá sản 2014 quy định đối với trường hợp Thẩm

phán ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản. Đình chỉ thủ tục phá

sản, phục hồi hoạt động kinh doanh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 95

của Luật Phá sản 2014 thì việc tạm dừng trả lãi chấm dứt, các bên tiếp tục

thực hiện việc trả lãi theo thỏa thuận.

Đối với khoản nợ mới phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản đến thời

điểm tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã thì tiền lãi của khoản nợ đó được xác

định theo thỏa thuận nhưng không trái với quy định của pháp luật. Kể từ ngày

ngày ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì khoản nợ

không được tiếp tục tính lãi.

Doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ liên đới về một khoản nợ mà một

hoặc tất cả các doanh nghiệp, hợp tác xã đó mất khả năng thanh toán thì chủ

nợ có quyền đòi bất cứ doanh nghiệp, hợp tác xã nào trong số các doanh

nghiệp, hợp tác xã đó thực hiện việc trả nợ cho mình theo quy định của pháp

luật về với nghĩa vụ về tài sản trong trường hợp liên đới.

Nghĩa vụ về tài sản trong trường hợp bảo lãnh, người bảo lãnh mất khả

41

năng thanh toán thì việc bảo lãnh được cũng được.

Luật Phá sản 2014 quy định về nghĩa vụ về tài sản trong trường hợp

bảo lãnh, người bảo lãnh mất khả năng thanh toán thì việc bảo lãnh được cũng

được cụ thể như sau: (i) Nếu nghĩa vụ bảo lãnh không thanh toán đầy đủ trong

phạm vi bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh

thanh toán phần còn thiếu; (ii) nếu nghĩa vụ bảo lãnh chưa phát sinh thì bên

được bảo lãnh thay thế biện pháp bảo đảm khác, trừ trường hợp người được

bảo lãnh và người nhận bảo lãnh có thỏa thuận khác.

Trường hợp người được bảo lãnh hoặc cả người bảo lãnh và người

được bảo lãnh đều mất khả năng thanh toán thì người bảo lãnh phải chịu trách

nhiệm thay cho người được bảo lãnh theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ đối với tài sản không thuộc quyền sở hữu của doanh

nghiệp, Luật Phá sản 2014 cũng quy định rất chi tiết về trường hợp tài sản

thuê, mượn khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, tài sản nhận đảm bảo, hàng

hóa đã bán. Đối với tài sản thuê hoặc mượn, trong thời hạn 10 ngày nhận

được quyết định tuyên bố phá sản, chủ sở hữu tài sản cho doanh nghiệp, hợp

tác xã thuê hoặc mượn để dùng vào hoạt động kinh doanh phải xuất trình giấy

tờ chứng minh quyền sở hữu, hợp đồng cho thuê hoặc cho mượn với cơ quan

thi hành án dân sự để nhận lại tài sản của mình. Trường hợp doanh nghiệp,

hợp tác xã bị tuyên bố phá sản đã trả trước tiền thuê nhưng chưa hết thời hạn

thuê thì cho thuê chỉ được nhận lại tài sản sau khi đã thanh toán số tiền thuê

tương ứng với thời gian thuê còn lại để cơ quan thi hành án dân sự nhập vào

khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Trường hợp doanh nghiệp, hợp

tác xã bị tuyên bố phá sản đã chuyển nhượng tài sản cho thuê hoặc mượn cho

người khác mà không đòi lại được thì người cho thuê hoặc cho mượn có

quyền yêu cầu bồi thường đối với tài sản đó như khoản nợ không có bảo đảm.

Đối với tài sản nhận bảo đảm, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng

thanh toán chỉ trả lại tài sản nhận bảo đảm cho cá nhân, tổ chức đã giao tài

42

sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình đối

với doanh nghiệp, hợp tác xã trược khi Tòa án nhân dân mở thủ tục phá sản

trong trường hợp cá nhân, tổ chức đó đã thực hiện nghĩa vụ đối với doanh

nghiệp, hợp tác xã.

Đối với hàng hóa đã bán, người bán đã gửi hàng hóa cho người mua là

doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nhưng chưa được thanh

toán và người mua cũng chưa nhận được hàng hóa thì người bán được nhận

lại hàng hóa đó. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đã

nhận hàng hóa đó và không thể trả lại được thì người bán trở thành chủ nợ

không có bảo đảm.

2.1.3. Quy định về thu hồi, bảo quản tài sản và thứ tự ưu tiên phân

chia tài sản

- Thu hồi tài sản phá sản

Thu hồi tài sản là để bảo quản tài sản, ngăn chặn việc bán, chuyển giao

tài sản mà không được phép của Thẩm phán, ngăn chặn việc tẩu tán tài sản,

tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán thanh lý tài sản.

Quy định chi tiết việc thu hồi và quản lý tài sản, tài liệu, sổ sách kế toán, con

dấu của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý tài sản theo Điều

27 Nghị định 67/2006/NĐ-CP.

Việc thu hồi tài sản phá sản còn gặp nhiều khó khăn khi mà tài sản nằm

rải rác ở nhiều nơi, thậm chí ở các quốc gia, lãnh thổ khác nhau. Pháp luật

việt nam cũng thiếu các quy định về việc giải quyết các tranh chấp liên quan

đến thu hồi tài sản phá sản và việc khiếu nại quyết định thu hồi tài sản phá

sản. Công tác thu hồi nợ đối với doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản. Khi

doanh nghiệp được thành lập luôn tạo nhiều mối quan hệ liên doanh, liên kết,

hợp đồng mua bán, trao đổi hàng hóa qua lại ở nhiều địa phương trong cả

nước. Trong mối quan hệ thương mại, các doanh nghiệp, cá nhân có thể là

chủ nợ hoặc con nợ của nhau. Nếu doanh nghiệp, cá nhân là chủ nợ thì họ có

43

quyền và trách nhiệm báo cáo cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản biết liệt kê vốn

vào danh sách chủ nợ và chờ khi có phương án phân chia tài sản để được nhận

lại toàn bộ hoặc một phần tài sản mà doanh nghiệp, cá nhân đã đầu tư vào

doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản. Ngược lại, nếu con nợ là doanh

nghiệp thì công tác thu hồi nợ gặp nhiều khó khăn, bởi các con nợ thường tìm

mọi cách né tránh công nợ phải trả như là Giám đốc Công ty đi công tác xa

không biết khi nào về, hoặc doanh nghiệp đang đầu tư vào các dự án lớn, nên

chưa tính đến việc thanh toán nợ phải trả, v.v.. Đối với con nợ là cá nhân làm

đại lý và chủ yếu là cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp lâm vào tình

trạng phá sản, họ phải tự đi tìm kế sinh nhai ở nhiều địa phương khác nhau và

không có địa chỉ rõ ràng, cho nên công tác thu hồi nợ đối với cá nhân lại càng

khó khăn và phức tạp hơn, không khác gì đi “mò kim đáy biển”.

- Bảo quản tài sản phá sản và các biện pháp bảo quản tài sản

Bảo quản tài sản phá sản để ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà

không được phép của Thẩm phán, ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, tối đa hóa

giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán, thanh lý tài sản.

Để bảo quản tài sản phá sản, cơ quan có thẩm quyền tiến hành các biện

pháp bảo toàn tài sản được quy định trong Luật Phá sản 2014, bao gồm:

“Tuyên bố giao dịch vô hiệu; tạm đình chỉ, đình chỉ thực hiện Hợp đồng đang

có hiệu lực; bù trừ nghĩa vụ; gửi giấy đòi nợ; lập danh sách chủ nợ; lập danh

sách người mắc nợ; đăng ký giao dịch bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã

mất khả năng thanh toán; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời” (điều 60.

61.63, 66, 67, 68, 70 Luật phá sản năm 2014).

Điều 48 Luật Phá sản 2014 đã đưa ra quy định nghiêm cấm doanh

nghiệp thực hiện các hoạt động sau khi có Quyết định mở thủ tục phá sản, bao

gồm: cất giấu, tẩu tán tài sản, tặng cho tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để

bảo vệ tối đa quyền lợi của các chủ nợ, pháp luật phá sản đã có những quy

định nhằm bảo toàn khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

44

nợ đến hạn không bị thất thoát; từ bỏ đòi nợ của mình; chuyển các khoản nợ

không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài

sản của doanh nghiệp.

Kể từ ngày nhận được Quyết định mở thủ tục phá sản, bên cạnh những

hoạt động bị cấm, doanh nghiệp cũng được phép thực hiện một số hoạt động

sau nhưng phải báo cáo Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

trước khi thực hiện: hoạt động vay, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, mua bán,

chuyển nhượng, cho thuê tài sản, bán, chuyển đổi cổ phần, chuyển nhượng,

cho thuê tài sản, chấm dứt thực hiện hợp đồng có hiệu lực, thanh toán khoản

phát sinh nợ sau khi mở thủ tục phá sản, trả lương cho người lao động trong

doanh nghiệp, hợp tác xã. Theo quy định của pháp luật, các hoạt động trên

được thực hiện mà không có sự đồng ý của Quản tài viên, doanh nghiệp quản

lý, thanh lý tài sản thì bị đình chỉ thực hiện, khôi phục lại tình trạng ban đầu

và giải quyết hậu quả.

Tuyên bố vô hiệu với một số giao dịch của doanh nghiệp, trong khoảng

thời gian trước khi đưa ra Tòa án, doanh nghiệp mắc nợ có thể thực hiện

những hành vi như cất giấu, tẩu tán tài sản, cho tặng tài sản… làm giảm số tài

sản hiện còn. Pháp luật Việt nam quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản

lý, thanh lý tài sản phải có trách nhiệm xem xét giao dịch của doanh nghiệp

và có quyền đề nghị Tòa án nhân dân xem xét tuyên bố những giao dịch vô

hiệu để ngăn chặn hành vi đó, bảo đảm quyền lợi của các chủ nợ.

Trong thời gian 06 tháng trước ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở

thủ tục phá sản, giao dịch của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán được

thực hiện bị coi là vô hiệu nếu thuộc một trong các trường hợp như sau: Giao

dịch liên quan đến chuyển nhượng tài sản không theo giá thị trường; chuyển

khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần

bằng tài sản của doanh nghiệp; thanh toán hoặc bù trừ có lợi cho một chủ nợ

45

đối với khoản nợ chưa đến hạn hoặc với số tiền lớn hơn khoản nợ đến hạn;

tặng cho tài sản; giao dịch ngoài mục đích hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp; giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp.

Trong thời gian 18 tháng trước ngày Tòa án nhân dân ra Quyết định mở

thủ tục phá sản, giao dịch của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo quy

định trên được thực hiện với những người liên quan thì bị coi là vô hiệu.

Những người liên quan bao gồm: công ty mẹ, người quản lý công ty mẹ và

người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý đối với công ty con. Công ty

con đối với công ty mẹ, người quản lý doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp,

vợ , chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh chị em

ruột của người quản lý doanh nghiệp hoặc của thành viên, cổ đông sở hữu

phần vốn góp hay cổ phần chi phối, cá nhân được ủy quyền đại diện cho

những người theo quy định trên, doanh nghiệp hoặc của thành viên, cổ đông

sở hữu phần vón góp hay cổ phần chi phối, cá nhân được ủy quyền đại diện

cho những người theo quy định trên, doanh nghiệp trong đó những người quy

định trên có sở hữu đến mức chi phối việc ra quyết định cuẩ cơ quan quản lý

ở doanh nghiệp đó, nhóm người thỏa thuận cùng phối hợp để thâu tóm phần

góp vốn, cổ phần hoặc lợi ích ở công ty hoặc để chi phối việc ra quyết định

của công ty.

- Thứ tự ưu tiên phân chia tài sản phá sản

Luật Phá sản 2014 cũng tách riêng quy định về xử lý các khoản nợ có

bảo đảm thành các chế định riêng và được xử lý trước khi doanh nghiệp, hợp tác

xã bị tuyên bố phá sản. Còn các khoản nợ không có bảo đảm được thanh toán

theo một thứ tự ưu tiên, quy định tại Điều 54 Luật phá sản năm 2014, cụ thể:

- “Chi phí phá sản là khoản tiền phải chi trả cho việc giải quyết phá

sản, theo luật quy định thì chi phí phá sản bao gồm chi phí Quản tài viên,

doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, chi phí kiểm toán, chi phí đăng báo và

46

các chi phí khác theo quy định của pháp luật”.

- Chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được

tính theo quy định của pháp luật tại Điều 21 Nghị định 22/2015/NĐ-CP quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài viên và hành

nghề quản lý, thanh lý tài sản. “Chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,

thanh lý tài sản bao gồm thù lao Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý

tài sản và chi phí khác như tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho

việc thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản”.

- Chi phí trả người lao động là của doanh nghiệp, hợp tác xã là “Khoản

nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao

động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã

ký kết”. Vì vậy, việc xử lý các khoản nợ đối với người lao động cũng là việc

được ưu tiên để bảo đảm quyền lợi chính đáng, người lao động trong doanh

nghiệp, hợp tác xã phá sản được xác định theo quy định tại Điều 2 Nghị định

94/2005/NĐ-CP có nghĩa vụ phải gửi giấy đòi nợ theo quy định của pháp luật

để xác định được khoản nợ của doanh nghiệp đối với mình, đảm bảo quyền và

lợi ích tối đa.

- Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục

hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã. Luật Phá sản 2014 đã

bổ sung một số điểm mới, các chủ nợ mới phát sinh sau khi mở thủ tục phá

sản nhằm phục hồi hoạt động kinh doanh là những chủ nợ có quyền được ưu

tiên thanh toán trong mọi trường hợp đặc trưng của mình. Như vậy, các quy

định của luật về thủ tục phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp mới có tính

khả thi, nếu không có bảo đảm về quyền lợi ưu tiên thanh toán thì không chủ

nợ nào lại giao kết hợp đồng với một con nợ đã có quyết định mở thủ tục phá

sản và mọi cố gắng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ

là không khả thi. Sau khi mở thủ tục phá sản nhằm phục hồi kinh doanh,

quyền ưu tiên thanh toán của chủ nợ mới đã tạo tâm lý yên tâm để đầu tư vào

47

doanh nghiệp đang gặp khó khăn của các chủ nợ mới.

- Khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ

nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm

không đủ thanh toán nợ. Đó là nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước:

- Nếu đã thanh toán xong các khoản về chi phí phá sản; khoản nợ

lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao

động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã

ký kết; khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục

hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã; nghĩa vụ tài chính

đối với Nhà nước mà vẫn còn tài sản để chia thì sẽ tiếp tục trả cho các khoản

nợ còn lại cho tới hết. Trường hợp số tiền còn lại mà không đủ để trả lại hết

các khoản nợ cùng một thứ tự thì phải chia đều theo tỷ lệ phần tram tương

ứng với số nợ. Còn nếu khi thanh toán xong các khoản trên mà không còn tài

sản để thanh toán nợ không bảo đảm hoặc nợ có bảo đảm chưa được thanh

toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ thì sẽ không được

thanh toán nữa.

Khi phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản,

có thể có 3 tình huống xảy ra:

Thứ nhất, mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình nếu giá

trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản còn đủ để thanh toán các khoản nợ

cho các chủ nợ.

Thứ hai, mỗi chủ nợ được thanh toán một phần các khoản nợ của mình

theo tỷ lệ tương ứng nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản

không đủ để thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ.

Thứ ba, chủ sở hữu doanh nghiệp nếu vẫn còn thừa tài sản thì phần còn

lại thuộc chủ sở hữu doanh nghiệp, cụ thể phần còn lại sẽ thuộc về: chủ doanh

nghiệp nếu là doanh nghiệp tư nhân; các thành viên công ty nếu là công ty;

ngân sách nhà nước nếu là doanh nghiệp nhà nước.

48

2.1.4. Quy định về cách thức xử lý các loại tài sản phá sản

• Xử lý tài sản là quyền sử dụng đất

Tài sản phá sản sẽ được giao cho người phải thi hành án là quyền sử

dụng đất đã kê biên trong hai trường hợp: Người được thi hành án nhận quyền

sử dụng đất đã kê biên trừ vào số tiền được thi hành hành án khi đương sự có

thỏa thuận với nhau; Trong trường hợp tiến hành bán đấu giá, nhưng không

có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành.

Xử lý tài sản phá sản, vật kiến trúc của doanh nghiệp gắn liền trên đất

thuê của Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp được thành lập và thuê đất của Nhà

nước đầu tư vốn liếng xây dựng trụ sở làm việc, nhà xưởng… để sản xuất

kinh doanh. Tuy nhiên, trong hoạt động sản xuất kinh doanh chẳng may gặp

rũi ro, đưa đẩy doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ kéo dài, đã có nhiều

phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, nhưng không khắc phục được và

các chủ nợ yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản để thu

hồi lại vốn cho vay. Trong thời gian Tòa án đang giải quyết, UBND có thẩm

quyền thu hồi lại đất cho doanh nghiệp thuê xây dựng trụ sở làm việc, nhà

kho, nhà xưởng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

• Xử lý tài sản bảo đảm của chủ nợ có bảo đảm

Theo Luật Phá sản (2014), việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp

đối với chủ nợ có bảo đảm tạm thời bị đình chỉ trong thời hạn 05 ngày kể từ

ngày Tòa án thụ lý vụ việc phá sản trừ trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ

bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị (Khoản 3, Điều 41).

Sau khi mở thủ tục phá sản, nếu không thực hiện thủ tục phục hồi kinh

doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục

hồi kinh doanh thì sẽ được xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối

với trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm đã đến hạn (Điểm b, Khoản 1, Điều

53). Xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện theo nghị quyết của hội nghị chủ

nợ (Điểm a, Khoản 1, Điều 53) Đối với trường hợp tài sản bảo đảm được sử

49

dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh.

Theo quy định tại Khoản 5, Điều 91, việc tài sản bảo đảm có được sử

dụng trong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh hay không là do chủ nợ

có bảo đảm quyết định. Thực tế, sẽ rất hiếm khi chủ nợ có bảo đảm đồng ý để

tài sản bảo đảm được sử dụng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

Tòa án đình chỉ hợp đồng và xử lý khoản nợ có bảo đảm theo Điều 53

quy định đối với trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm chưa đến hạn trước khi

tuyên bố doanh nghiệp phá sản thì tòa án. Nói cách khác, lúc này nghĩa vụ

được bảo đảm mặc nhiên đến hạn và chủ nợ có bảo đảm được quyền xử lý tài

sản bảo đảm để thu hồi nợ.

Phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của

doanh nghiệp, hợp tác xã nếu giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán số

nợ; phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác

xã nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ.

• Xử lý tài sản nằm rải rác ở nước ngoài

Trong bối cảnh hiện nay, các công ty đa quốc gia hoạt động trên toàn

thế giới, vì vậy, pháp luật phá sản các nước cũng cần được áp dụng đối với tất

cả tài sản của con nợ tại tất cả các nước đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của các chủ nợ.

• Xử lý tài sản doanh nghiệp có tranh chấp

Trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác

xã, nếu có xảy ra tranh chấp về tài sản thì việc xử lý tài sản tranh chấp được

thực hiện như sau:

Thứ nhất, Đối với tranh chấp tài sản trước khi có quyết định tuyên bố

phá sản thì:

(i) Tòa án nhân dân đang giải quyết vụ việc phá sản phải xem xét, tiến

hành phân các phần tài sản đang có tranh chấp với tài sản không có tranh chấp

50

của doanh nghiệp. Đối với phần tài sản có tranh chấp, thì không tiến hành giải

quyết với thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mà tách ra để giải

quyết bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

(ii) Khi tiến hành tách tài sản đang tranh chấp thành một vụ án khác thì

phải được thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản (2014),

cụ thể: “Quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án nhân dân phải được gửi

cho người nộp đơn, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, chủ

nợ, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ uant hi hành án dân sự, cơ quan

thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở

chính và đăng trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cổng

thông tin điện tử của Tòa án nhân dân và 02 số báo địa phương liên tiếp nơi

doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có trụ sở chính”.

(iii) Sau khi có quyết định, bản án có liệu lực của Tòa án nhân dân có

thẩm quyền về giải quyết phần tài sản có tranh chấp đã được tách riêng nói

trên, thì Tòa án nhân dân đang tiến hành xử lý phá sản của doanh nghiệp, hợp

tác xã như sau:

+ Nếu trước khi có quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản được nhập

vào tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã

+ Nếu đã có quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản được phân chia

theo quyết định tuyên bố phá sản trước đó.

Khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thì Quản tài viên,

doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã

tham gia giải quyết tranh chấp về tài sản.

Thứ hai, đối với tranh chấp tài sản trong quá trình thi hành quyết định

tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản:

Sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, mà việc

thực hiện việc thanh lý tài sản theo quyết định đó có tranh chấp hoặc không thể

thi hành được thì Chấp hành viên, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý

51

tài sản, người tham gia thủ tục phá sản đề nghị Tòa án nhân dân đã giải quyết vụ

việc phá sản xem xét lại, trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị thì

Tòa án nhân dân xem xét và có thể ra các quyết định như sau:

(i) Không chấp nhận đề nghị xem xét lại, việc không chấp nhận phải

được thanh lập văn bản trả lời cho người có đơn yêu cầu. Nếu người nộp đơn

không đồng ý với văn bản không chấp nhận đề nghị của Tòa án có thẩm

quyền thì có quyền kháng nghị quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã

phá sản. thủ tục kháng nghị quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá

sản được quy định tại Điều 111, Điều 112, Điều 113 Luật Phá sản (2014).

(ii) Chuyển đơn đề nghị đến người có thẩm quyền để xem xét, kháng

nghị quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định pháp luật.

Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đại diện cho doanh

nghiệp, hợp tác xã tham gia giải quyết tranh chấp về tài sản.

2.1.5. Thủ tục bán và thanh toán giá trị tài sản

• Bán tài sản phá sản

Việc bán tài sản của doanh nghiệp mắc nợ thực hiện theo 02 hình thức:

Bán đấu giá và bán đấu giá không qua thủ tục đấu giá.

Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản theo quy định

của pháp luật về phá sản. Bán đấu giá tài sản thực hiện theo nguyên tắc đấu

giá tài sản như: Tuân thủ quy định của pháp luật; bảo đảm tính độc lập, trung

thực, công khai, minh bạch, công bằng, khách quan; bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu

giá, người mua được tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản, đấu giá viên;

cuộc đấu giá phải do đấu giá viên điều hành, trừ trường hợp cuộc đấu giá do

Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện. Bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp

tác xã bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.

Ngoài ra, những tài sản còn lại của doanh nghiệp lâm vào tình trạng

phá sản thường rất khó bán vì đó là các nhà xưởng, trang thiết bị kinh doanh

52

đã qua sử dụng, Tổ quản lý, thanh lý tài sản thi hành nhiệm vụ, quyền hạn của

mình theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Tài sản đưa ra đấu

giá sẽ được điều chỉnh giá đến khi đấu giá thành, tránh xuống cấp tài sản

thanh lý.

Việc bán tài sản phải được thực hiện trong thời hạn không quá 05 ngày

kể từ ngày làm việc kể từ ngày ban hành quyết định tuyên bố phá sản hoặc

quyết định bán tài sản. Bán đấu giá tài sản không qua đấu giá đối với tài sản

có giá trị từ 2.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng hoặc tài sản thanh lý có

nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị.

• Thanh toán giá trị tài sản của doanh nghiệp

Chấp hành viên mở một tài khoản tại Ngân hàng đứng tên cơ quan thi

hành án dân sự có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản, các

khoản tiền thu hồi được từ doanh nghiệp phá sản sẽ được gửi vào đấy. Khi

nhận được báo của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về

kết quả thanh lý tài sản, Chấp hành viên thực hiện phương án phân chia tài

sản theo quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản sau khi nhận

được quyết định phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật phá sản về xử lý tài sản phá sản

2.2.1 Tình hình chung về thi hành pháp luật về xử lý tài sản phá sản

ở Việt Nam

Nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, việc các doanh nghiệp

lớn ngày càng phát triển, đồng thời các doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ, bị

loại khỏi thị trường kinh doanh là chuyện bình thường. Phá sản doanh nghiệp

là giải pháp xử lý dứt điểm những doanh nghiệp yếu kém, gặp khó khăn trong

kinh doanh, thua lỗ kéo dài và không còn khả năng tiếp tục hoạt động. Luật

Phá sản số 51/2014/QH13 đã được sửa đổi căn bản và toàn diện, giúp tháo gỡ

các vướng mắc trong giải quyết phá sản doanh nghiệp. Tòa án ra quyết định

mở thủ tục phá sản là tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp và

53

đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của những người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn

theo quy định của pháp luật (Điều 5, Luật Phá sản). Tuy nhiên, tình trạng mất

khả năng thanh toán không nhất thiết sẽ dẫn tới việc mở thủ tục phá sản. Sau

09 năm thi hành Luật phá sản năm 2004, Luật phá sản năm 2004 được Quốc

hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/6/2004, có

hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2004 và thay thế Luật phá sản doanh

nghiệp năm 1993. Có thể nói Luật này đã góp phần quan trọng trong việc bảo

vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã,

liên hiệp hợp tác xã (sau đây viết tắt là DN, HTX) được thành lập và hoạt

động theo quy định của pháp luật và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên

quan; đề cao vai trò, trách nhiệm của DN, HTX và các cá nhân, cơ quan, tổ

chức trong hoạt động giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN, HTX. Bên

cạnh đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN, HTX đang trong tình trạng sản

xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách

có trật tự theo Luật Phá sản năm 2004 .

Tuy nhiên, theo tổng kết thi hành Luật Phá sản cho thấy, qua 9 năm

thực hiện, với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, toàn ngành Tòa án chỉ

thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong đó chỉ tuyên bố

được 46 doanh nghiệp bị phá sản. Tòa án thụ lý tổng số 336 đơn yêu cầu

tuyên bố phá sản, ra quyết định mở thủ tục phá sản 236 trường hợp, và cũng

chỉ quyết định tuyên bố phá sản được 83 trường hợp theo Luật phá sản năm

2004, Năm 2012, có 69.874 doanh nghiệp đăng ký, trong khi đó có 44.906

doanh nghiệp dừng hoạt động và 9.355 doanh nghiệp giải thể (theo trang

thông tin hỗ trợ đăng ký doanh nghiệp). Theo Luật phá sản năm 2004, tình

hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp đã được

cải thiện nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Số lượng đơn yêu cầu tòa án

tuyên bố phá sản so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động là rất thấp;

54

hiệu quả giải quyết việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa hiệu quả giải

quyết việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn.

Nguyên nhân có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có

nguyên nhân quy định pháp luật phá sản chưa phù hợp với tình hình kinh tế

và xã hội, không tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức yêu cầu tuyên bố phá sản.

Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 còn tồn tại một số vướng

mắc; có những quy định của Luật phá sản năm 2004 còn mâu thuẫn, chưa

tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật khác; có những quy định

chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp), chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có

những cách hiểu khác nhau nhưng chưa được hướng dẫn kịp thời; có những

quy định chưa đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu

mở thủ tục phá sản cũng như doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu tuyên bố

phá sản; có những quy định chưa tương thích với pháp luật quốc tế... dẫn đến

hiệu quả áp dụng quy định Luật phá sản năm 2004 vào thực tiễn không cao.

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng

đến năm 2020 sau khi Luật phá sản năm 2004 được ban hành, ngày

24/5/2005; trong đó “Xác định rõ trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu nhà

nước và các chủ sở hữu khác, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền

sở hữu,...Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc

công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Tạo cơ sở pháp luật

để công dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và phát triển sản

xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, gia đình và

góp phần làm giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh

lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế

giới (WTO) và các cam kết quốc tế khác. Xây dựng một khung pháp luật

chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ đặc quyền

và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất

55

pháp luật áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn

thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên

giao kết hợp đồng, không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự

công cộng, phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế. Đổi mới cơ

bản pháp luật về phá sản” tại Mục 3 Phần II về xây dựng và hoàn thiện pháp

luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh có nhận định. Bên cạnh đó, ngày

19/02/2013, Thủ tướng ban hành Quyết định số 339/QĐ-TTg phê duyệt đề án

tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn liền với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo

hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-

2020, trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm các nội dung trên.

Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị và được Quốc hội quyết định đưa Dự án

Luật phá sản (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc

hội khoá XIII (2011-2016) , triển khai tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

24/5/2005 và các văn bản có liên quan, đồng thời nhận thức được những bất cập

của thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004 hạn chế, bất cập của thực tiễn thi

hành Luật phá sản năm 2004.

Luật Phá sản năm 2014 được Quốc hội khóa 13 thông qua ngày

19/6/2014 trên cơ sở kế thừa những điểm tích cực, tiến bộ của Luật Phá sản

năm 2004, đồng thời có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần hoàn thiện

pháp luật về phá sản, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước và quốc tế.

Tuy nhiên, thực tiễn xử lý tài sản phá sản khi áp dụng các quy định Luật Phá

sản năm 2014 cũng cho thấy, một số quy định còn chưa rõ ràng, thiếu cụ thể,

chưa bao quát toàn diện những phát sinh trong thực tiễn… cần được hướng

dẫn thi hành một cách cụ thể để việc áp dụng pháp luật về phá sản được thống

nhất, hiệu quả. Thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn liền với

chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và

năng lực cạnh tranh của DN, HTX là cần thiết và cấp bách khi ban hành Luật

56

Phá sản năm 2014; đồng thời tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách tư pháp,

tiếp tục từng bước hoàn thiện một cách căn bản hệ thống pháp luật kinh tế nói

chung và Luật Phá sản nói riêng; khắc phục các quy định của Luật phá sản

chưa phù hợp, gây khó khăn cho việc áp dụng, cũng như các vấn đề mới phát

sinh vướng mắc trong quá trình thực tiễn; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền

và lợi ích hợp pháp của DN, HTX, cá nhân, cơ quan, tổ chức, xử lý tài sản

phá sản giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản công khai, rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp

dụng và phù hợp quy định pháp luật.

2.2.2. Hạn chế, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng các

quy định pháp luật về xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản 2014

Luật phá sản (2014) đã có bước phát triển và đạt được những kết quả

quan trọng, góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế về thủ tục giải quyết

các vụ việc phá sản theo quy định của Luật Phá sản 2004, tạo hành lang pháp

lý để Tòa án giải quyết nhanh việc phá sản của các doanh nghiệp, hợp tác xã

lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Đặc biệt là các vấn đề liên quan

đến việc thống nhất giữa các luật. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, Luật Phá sản 2014 và Luật Thi hành án dân sự ra quyết định

thi hành án đối với quyết định tuyên bố phá sản không thống nhất với nhau.

Quy định thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản của Tòa

án là của cơ quan thi hành án dân sự. Tại khoản 2 Điều 36 Luật thi hành án

dân sự quy định thời hạn ra quyết định thi hành án đối với quyết định tuyên

bố phá sản là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định. Tại khoản 1

Điều 120 Luật phá sản 2014 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ

ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, cơ quan thi hành án dân sự có trách

nhiệm chủ động ra quyết định thi hành”.

Thứ hai, Những “chủ nợ” trong danh sách chủ nợ tại quyết định tuyên

bố phá sản của Tòa án là những người được thi hành án. Vậy những “chủ nợ”

57

có được hưởng các quyền của người được thi hành án hay không và Chấp

hành viên có phải thực hiện việc thông báo các quyết định về thi hành án và

các văn bản khác liên quan đến việc thi hành án cho các chủ nợ hay không

chưa được làm rõ. Luật Thi hành án dân sự quy định tại khoản 2 Điều 3 thì

người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi

ích trong bản án, quyết định được thi hành và người được thi hành án được

hưởng các quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 7.

Thứ ba, về thẩm quyền của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh

lý tài sản trong việc định giá, tại khoản 1 Điều 122 Luật Phá sản 2014 quy

định: “Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá

sản, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải tổ chức định

giá tài sản theo quy định của pháp luật”. Theo đó thì Quản tài viên, doanh

nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoàn toàn chủ động trong việc định giá tài sản

mà không phụ thuộc vào việc cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi

hành án cũng như việc Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Quản tài viên,

doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản.

Thứ tư, Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày

16.02.2015 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

phá sản về quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản nêu rõ nếu

phát hiện Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có hành vi vi

phạm quy định của pháp luật về phá sản, pháp luật về định giá tài sản dẫn đến

sai lệch kết quả định giá tài sản, Chấp hành viên yêu cầu Quản tài viên, doanh

nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc định giá lại tài sản, trừ trường

hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đó bị thay đổi theo

quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 18 của Nghị định này. Theo quy định

tại khoản 1 Điều 123 Luật phá sản năm 2014 thì “việc định giá lại tài sản

được thực hiện khi có vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 122 của Luật

này dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản”. Trong khi đó, việc định giá lại

58

tài sản kê biên theo Điều 99 Luật thi hành án dân sự được thực hiện trong các

trường hợp sau đây: “a) Chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng quy định

tại Điều 98 của Luật này dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản; b) Đương

sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu

giá tài sản”. Như vậy, Luật Phá sản 2014 đã thu hẹp các trường hợp định giá

lại so với Luật thi hành án dân sự, chủ nợ (người được thi hành án) có thể sẽ

làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án khi

không có quyền yêu cầu việc định giá lại.

Thứ năm, về bán đấu giá tài sản, Luật Phá sản 2014 và các văn bản

hướng dẫn thi hành đều không chỉ ra là khi thực hiện quyết định việc thanh lý

tài sản thì Chấp hành viên làm thủ tục gì (ra quyết định giảm giá hay quyết

định việc tiếp tục bán tài sản …), dẫn đến khó khăn trong việc có tiếp tục bán

đấu giá tài sản. Tại khoản 2 Điều 17 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP của Chính

phủ quy định: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo

cáo của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo quy định

tại điểm d khoản 1 Điều 17, Chấp hành viên quyết định việc thanh lý tài sản”.

Thứ sáu, về trình tự thủ tục khi Chấp hành viên thực hiện việc thanh lý

tài sản, khoản 4 Điều 121 Luật Phá sản 2014 quy định: sau 02 năm kể từ ngày

nhận được văn bản của Chấp hành viên yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp

quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản mà tài sản chưa được

thanh lý thì tài sản được giao trở lại cho cơ quan thi hành án dân sự xử lý,

thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật, gây khó khăn cho cơ quan thi

hành án dân sự trong việc tổ chức thi hành. Chấp hành viên cần áp dụng các

quy định của pháp luật về phá sản hay pháp luật về thi hành án để tiếp tục tổ

chức việc thanh lý tài sản? Trong trường hợp Chấp hành viên khi thực hiện

việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì có phải thực

hiện việc ra quyết định kê biên theo quy định của Luật thi hành án dân sự hay

chỉ tiến hành định giá lại tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Luật Phá

59

sản.

Thứ bảy, về chi phí thực hiện phá sản, chi phí thực hiện phá sản trong

trường hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện,

còn trong trường hợp Chấp hành viên thực hiện cưỡng chế để thu hồi tài sản,

giao tài sản cho người mua được tài sản và thực hiện việc thanh lý tài sản thì

chưa quy định rõ ai là người phải chi trả những chi phí trên. Điều 21 Nghị

định số 22/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi phí Quản tài viên, doanh

nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được thanh toán từ giá trị tài sản của doanh

nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Chi phí Quản tài viên, doanh

nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bao gồm thù lao Quản tài viên, doanh nghiệp

quản lý, thanh lý tài sản và chi phí khác. Điều 73 Luật thi hành án dân sự đã

quy định rõ trường hợp nào người phải thi hành án chịu, trường hợp nào

người được thi hành án chịu và trường hợp nào thì ngân sách chịu. Tuy nhiên,

đối với trường hợp thi hành quyết định tuyên bố phá sản thì không có người

phải thi hành án, do đó, các chi phí cưỡng chế khi Chấp hành viên thực hiện

các công việc trên có được được thanh toán từ giá trị tài sản của doanh

nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán hay không?

Thứ tám, yếu tố tâm lý, bên cạnh sự rườm rà trong thủ tục, lo bị phân

chia tài sản khi mà chủ doanh nghiệp, hợp tác xã đều nắm giữ một lượng tài

sản lớn trong công ty thì khi phân chia tài sản, số tài sản còn lại của họ chẳng

còn là bao, thậm chí là không còn gì và họ còn mang thêm nợ nần bản thân các

chủ doanh nghiệp cũng có tâm lý sợ phá sản, sợ gây ảnh hưởng đến uy tín,

danh dự của cá nhân mình hơn là một cơ hội để khôi phục hoạt động kinh

doanh.

Thứ chín, tình trạng chấp hành các quy định về chế độ tài chính – kế

toán trong các doanh nghiệp còn yếu kém, không tuân theo nhưng quy định

về chế độ tài chính – kế toán hiện hành, dẫn đến công nợ không rõ ràng, gian

60

dối về chứng từ kế toán. Do đó ảnh hưởng lớn đến tiến độ giải quyết phá sản

doanh nghiệp khi doanh nghiệp phá sản không minh bạch về tài chính khiến

cho tòa án rất khó xác định tình trạng phá sản của doanh nghiệp.

Thứ mười, việc xử lý tài sản phá sản chưa đáp ứng được yêu cầu của

công tác giải quyết tài sản phá sản, Năng lực xử lý tài sản phá sản đòi hỏi mỗi

thẩm phán không chỉ am hiểu sâu sắc về nội dung Luật phá sản mà còn về các

lĩnh vực chuyên ngành khác như tài chính, ngân hàng, quản lý kinh tế, các

ngành luật khác cho nên cũng ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản phá sản chưa

được hiệu quả cao.

Tiểu kết chương 2

Luật Phá sản 2014 ra đời là một bước tiến mới của pháp luật phá sản,

đã sửa đổi và bổ sung khá nhiều quy định mới về thử thủ xử lý tài sản phá

sản. Sửa đổi Luật Phá sản mới ra đời tạo điều kiện cho việc tiến hành thủ tục

phá sản được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, đảm bảo quyền lợi của tất cả các

chủ thể có liên quan. Tuy nhiên, thực tiễn đã cho thấy việc thực hiện thủ tục phá

sản doanh nghiệp1993, 2004 đã có rất nhiều vướng mắc, bất cập làm ảnh hưởng

đến hiệu quả thực thi trên thực tế, tỷ lệ doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục

phá sản còn ít, chưa phản ảnh đúng thực trạng tài chính của các chủ thể kinh

61

doanh.

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014

3.1. Phương hướng hoàn thiện

Thông qua những phân tích, đánh giá về vấn đề lý luận về phá sản nói

chung và về vai trò của cơ chế quản lý, xử lý tài sản phá sản và thực trạng áp

dụng Luật phá sản có những bất cập, khó khăn vướng mắc trong quy định của

pháp luật hiện hành. Thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TƯ về chiến lược xây

dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam đến năm 2010, định hướng đến

năm 2020, tại Mục 3, phần II về xây dựng hoàn thiện pháp luật về sở hữu,

quyền tự do kinh doanh, hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh

theo nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, tạo

cơ sở pháp luật để công dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và

phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân,

gia đình và cho xã hội, góp phần ổn định trật tự xã hội, đổi mới cơ bản pháp

luật về phá sản. Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý tài sản

phá sản trên cơ sở hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật phá sản, hoàn thiện

trên cơ sở thực tiễn phát sinh để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế như sau:

Một là, thể chế hóa kịp thời đường lối chủ trương của Đảng và Nhà

nước trong việc hoàn thiện pháp luật phá sản nói chung và những quy định

pháp luật về thủ tục thanh lý, xử lý tài sản phá sản nói riêng;

Hai là, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về phá sản phải bảo đảm

tính kế thừa và phát triển, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của Luật

Phá sản với hệ thống pháp luật, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế đất nước

trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế;

Ba là, trong thời gian qua LPS và các văn bản pháp luật có liên quan đã

62

được triển khai có hiệu quả trên thực tế. Do đó cần phải tiếp tục khẳng định ý

nghĩa, vai trò của các quy định pháp luật đó, đặc biệt là những quy định về

thanh lý tài sản, xử lý tài sản phá sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam

nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả do phá sản gây ra, bảo và

lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ kinh tế trước những rủi ro

trong kinh doanh và thông qua đó góp phần ổn định trật tự đời sống xã hội;

Bốn là, việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử

lý tài sản phá sản phải xuất phát yêu cầu phát sinh từ thực tế, công bằng, công

khai và minh bạch;

Năm là, phải bảo đảm cụ thể hoá giữa các quy định của Luật Phá sản

với các quy định của các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là thành viên. Đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đời sống xã

hội của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế;

Sáu là, bảo đảm cơ chế phục hồi DN, HTX bị lâm vào tình trạng phá

sản theo chủ trương tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng

trưởng cho DN,HTX có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh,

thoát khỏi tình trạng thua lỗ, phá sản, bảo đảm tính khả thi của các quy định

của Luật Phá sản với điều kiện, tình hình kinh tế đất nước trong giai đoạn

phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm trình

tự và xử lý tài sản phá sản dân chủ, công khai, nhanh gọn, công bằng, thuận

lợi; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình

xử lý tài sản phá sản;

Bảy là, trong quá trình xử lý tài sản phá sản, Tòa án tạo điều kiện thuận

lợi nhất để các bên có thể xử lý tài sản phá sản giải quyết yêu cầu tuyên bố

phá sản theo quy định của pháp luật phá sản;

Tám là, thực tiễn thi hành Luật phá sản và các văn bản có liên quan đến

xử lý tài sản phá sản đã bộc lộ những hạn chế, gây ra những khó khăn, vướng

63

mắc trong thực tiễn. Do đó, trong quá trình hoàn thiện pháp luật phá sản cần

phải khắc phục những tồn tại đó để các văn bản pháp luật về xử lý tài sản phá

sản đảm bảo.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản phá sản

Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phá sản trong bối cảnh mới hiện

nay, cần thực hiện các giải pháp sau:

1. Sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể, rõ ràng. Vì,

Nghị định 22/2015/NĐ-CP mới chỉ quy định chi phí thực hiện phá sản trong

trường hợp QTV, DNQLTLTS thực hiện còn trong trường hợp Chấp hành

viên thực hiện cưỡng chế để thu hồi tài sản, giao tài sản cho người mua được

tài sản thì chưa quy định rõ ai là người phải chi trả những chi phí trên. Ngoài

ra, trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, tại Điều 17 Nghị định số 22/2015/NĐ-

CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ quy định Chấp hành viên quyết định việc

thanh lý tài sản trong các trường hợp đấu giá không thành. Khi thực hiện

quyết định việc thanh lý tài sản thì Chấp hành viên cần phải làm thủ tục gì,

LPS 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều không chỉ ra nên dẫn đến

khó khăn trong việc có tiếp tục bán đấu giá tài sản hay không;

2. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi

hành án dân sự, ngân hàng, Quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề thanh lý

tài sản trong hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Trong đó, có quy định cơ chế

phối hợp giữa Tổ Thẩm phán với Viện Kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên, cơ

quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,

thanh lý tài sản . Ngày 08/10/2015, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hàn Thông

tư số 01/2015/TT-TA quy định về quy chế làm việc của các tổ thẩm phán

trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản. Ngày 28/6/2016 Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP

hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản. Trong thời gian tới

64

BộTư pháp, Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với các Bộ, ngành liên quan

nghiên cứu xây dựng Thông tư 75 liên tịch để hướng dẫn các quy định liên

quan đến thủ tục thi hành quyết định tuyên bố phá sản;

3. Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành hướng dẫn về việc chỉ định

quản tài viên. Một số trường hợp khi chủ nợ nộp đơn đề nghị mở thủ tục phá

sản và kèm theo đó là danh sách QTV đề nghị tòa án chỉ định. Tuy nhiên, chủ

nợ đó nhận được thông báo thụ lí phá sản mà tòa án gửi tòa án chỉ định một

QTV khác không nằm trong danh sách mà QTV mà chủ nợ yêu cầu. Do đó,

Tòa án nhân dân tối cao phối hợp cần với các cơ quan có liên quan cần ban

hành hướng dẫn về việc chỉ định QTV theo hướng: chỉ có những QTV có tên

trong danh sách do Sở Tư pháp tỉnh cung cấp để đảm bảo tính pháp lý, tiêu

chuẩn, năng lực của QTV và ưu tiên những QTV đã được chỉ định theo yêu

cầu của người nộp đơn đề nghị mở thủ tục phá sản hoặc của chủ nợ để xử lý

tài sản phá sản;

4. Thành lập tổ chức nghề nghiệp cho các Quản tài viên, Quản tài viên là

một ngành nghề mới, đầy triển vọng. Do đó vấn đề cấp thiết được đặt ra đó là

cần phải có một tổ chức nghề nghiệp cho các Quản tài viên, có thể lấy tên gọi

là Hiệp hội Quản tài viên Việt Nam. Thông qua đó, tạo tính kết nối nhằm đảm

bảo cơ chế và quyền lợi cho các Quản tài viên hoạt động xử lý tài sản phá sản;

5. Cần xây dựng luật văn bản pháp luật chuyên ngành về xử lý tài sản

phá sản, xác định giá trị tài sản có đảm bảo, giới hạn tài sản, quy chuẩn áp

dụng cụ thể đối với xử lý tài sản phá sản bất động sản.

6. Rà soát các luật có quy định liên quan đến xử lý tài sản của doanh

nghiệp, hợp tác xã phá sản để sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ, thống nhất.

Luật phá sản thì việc xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp phá sản còn được

quy định trong các văn bản khác như: Bộ Luật dân sự, Luật doanh nghiệp,

Luật Đất đai, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản qui phạm pháp luật

hướng dẫn thi hành áp dụng các quy định của pháp luật về phá sản để giải

65

quyết các trường hợp phá sản cụ thể vẫn còn bị hạn chế, chồng chéo, mâu

thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong

hệ thống pháp luật Việt Nam thì thời gian tới cần phải rà soát để sửa đổi, bổ

sung hệ thống luật có liên quan vấn đề xử lý tài sản phá sản, cụ thể như sau:

- Đối với Luật Doanh nghiệp: việc xử lý tài sản phá sản của doanh

nghiệp trong LDN hiện nay vẫn còn có quy định chưa tương thích với LPS.

Theo quy định của LPS, tất cả các cổ đông đều thuộc cùng một thứ tự ưu tiên

thanh toán. Khi xác định giá trị còn lại của doanh nghiệp phá sản thì tất cả các

cổ đông đều được nhận giá trị tài sản còn lại của công ty cùng lúc và theo tỷ

lệ sở hữu cổ phần. Nhưng LDN quy định, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi lại

có cơ sở pháp lý tương đối rõ ràng để được nhận thanh toán trước các cổ đông

khác. Vì vậy, cần phải có sự thống nhất về vấn đề này để xử lý tài sản phá

sản hợp lý khi doanh nghiệp phá sản;

- Đối với Luật thi hành án dân sự: vẫn còn những hạn chế liên quan đến

thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản; về thời hạn ra quyết định

thi hành án; về quyền của người thi hành án; về định giá, định giá lại; về bán

đấu giá tài sản; về trình tự thủ tục khi Chấp hành viên tiến hành việc thanh lý

tài sản; về chi phí phá sản. Cơ quan Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng

trong quá trình xử lý tài sản phá sản và thi hành các quyết định của Tòa án

giải quyết phá sản. Luật THADS và LPS có sự không đồng nhất, cụ thể nên

cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn trong việc áp dụng xử lý tài sản phá sản

được hiệu quả cao hơn;

- Đối với Luật đất đai: Đất đai là lĩnh vực hết sức phức tạp. Liên quan

đến việc xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp liên quan đến quyền sử dụng

đất, LĐĐ và LPS vẫn còn có những quy định chưa đồng bộ trong việc xử lý

tài sản có liên quan đến quyền sử dụng đất, đảm bảo quyền và lợi ích hợp

pháp cho các bên, nhất là đối với các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.

66

Đối với trường hợp giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền

sử dụng đất, cho doanh nghiệp thuê đất hàng năm, các thu hồi đất liên quan

rất vướng mắc, lúng túng.

- Tổ chức đào tạo về nghiệp vụ xử lý tài sản phá sản trước khi cấp chứng

chỉ hành nghề Quản tài viên. Theo quy định tại Điều 12 của LPS thì luật sư,

kiểm toán viên và người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, tài chính, ngân hàng

và có thời gian công tác từ 05 năm trở lên trong lĩnh vực được đào tạo thì

được cấp Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên. LPS không có quy định về đào

tạo nghề xử lý tài sản trước khi được cấp Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên.

7. Trong nền kinh tế thị trường đang phát triển đất nước, đội ngũ Quản

tài viên trong tương lai sẽ có nhiều thách thức cũng như cơ hội mới. Tăng

cường tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về xử lý tài sản tài sản cho các

Quản tài viên mới được cấp Chứng chỉ hành nghề. Đồng thời, tổ chức các lớp

bồi dưỡng kỹ năng hành nghề chuyên sâu về phục hồi doanh nghiệp phá sản

cho đội ngũ Quản tài viên. Tại các lớp tập huấn, bồi dưỡng, các chuyên gia là

Quản tài viên của Hiệp hội Quản tài viên quốc tế, các chuyên gia có kinh

nghiệm trong việc giải quyết vụ việc phá sản đã chia sẻ, cung cấp các kiến

thức pháp luật cơ bản và kỹ năng hành nghề cho đội ngũ Quản tài viên mới

được hình thành. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng vào lợi nhuận thì Quản tài viên

sẽ dễ mắc phải sai lầm trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị

phá sản. Vì vậy, vấn đề đạo đức của quản tài viên được đặt lên hàng đầu;

8. Tăng cường nâng cao đạo đức của Quản tài viên trong xử lý tài sản phá

sản của doanh nghiệp phá sản. Vì Quản tài viên sẽ dễ mắc phải sai lầm trong quá

trình xử lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản nếu chỉ nhìn vào lợi nhuận;

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý tài sản

phá sản

3.3.1. Bổ sung quy định cụ thể về giới hạn tài sản phá sản

Xử lý tài sản phá sản, phân chia tài sản phá sản của doanh nghiệp phá

67

sản bị thiếu tính chính xác, không công bằng cho các chủ thể tham gia xử lý

tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Do tài sản phá sản theo

Luật Phá sản (2014) bị giới hạn về thời gian (khối tài sản phá sản tính đến

thời điểm mở thủ tục và những tài sản phát sinh trong quá trình xử lý tài sản

phá sản); không bị giới hạn bởi không gian tài sản tồn tại, loại hình tài sản,

nguồn hình thành tài sản và các danh mục loại trừ.

Về phạm vi lãnh thổ của tài sản, Điều 64 Luật Phá sản 2014 không quy

định rõ về nguyên tắc đối với trường hợp tài sản không nằm trên lãnh thổ Việt

Nam nhưng theo quy định tại Điều 117 về Ủy thác tư pháp của Tòa án nhân

dân Việt Nam đối với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Trong quá

trình xử lý tài sản phá sản, đối với tài sản không nằm trên lãnh thổ Việt Nam,

Tòa án nhân dân thực hiện ủy thác tư pháp theo hiệp định tương trợ tư pháp

mà nước Việt Nam là thành viên.

“Tài sản phá sản” theo Luật Phá sản 2014 khi liệt kê các loại tài sản

phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán tại Điều 64, tài

sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không giới

hạn trong phạm vi lãnh thổ, để các cơ chức năng cũng như những cá nhân có

thẩm quyền dễ hiểu, tránh gây suy đoán dẫn đến nhầm lẫn, áp dụng không

đúng các quy định của pháp luật.

3.3.2. Bổ sung các quy định về tài sản được loại trừ khỏi khối tài sản

phá sản

Danh mục các tài sản thuộc diện loại trừ khỏi khối tài sản phá sản của

doanh nghiệp mất khả năng thanh toán Luật Phá sản 2014 không đưa ra cụ

thể. Đối với trường hợp con nợ là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp

danh của công ty hợp danh thì pháp luật cũng phải xác định tài sản miễn trừ

khi giải quyết xử lý tài sản phá sản đối với họ. Vì vậy, nên bổ sung Luật Phá

sản 2014 về các loại tài sản miễn trừ khỏi khối tài sản phá sản, không thuộc

khối tài sản phá sản để đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp mất khả năng thanh

68

toán giống như thông lệ của các nước. Các tài sản, quyền về tài sản được

miễn trừ bao gồm: các đồ vật phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mang tính chất

tối thiểu của con nợ và các khoản trợ cấp cho con nợ do không còn khả năng

lao động, do bệnh tật, do mất việc làm; tiền lương hưu, các khoản nhận được

từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, các khoản cấp dưỡng sau khi ly hôn, tiền bồi

thường do sức khoẻ bị tổn hại do hành vi vi phạm pháp luật của người khác

gây ra,… những tài sản được quy định miễn trừ khỏi tài sản phá sản là hợp lý

và cần thiết.

3.3.3. Bổ sung những định hướng để thực hiện hiệu quả chế định

quản tài viên, doanh nghiệp quản lý tài sản, thanh lý tài sản

Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 22/2015/NĐ-CP ngày

16/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản

tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Nghị định 22/2015/NĐ-CP

quy định tương đối đơn giản về thủ tục cấp Chứng chỉ hành nghề quản tài

viên. Những loại giấy tờ thiết yếu phải nộp đối với người đề nghị cấp Chứng

chỉ này chỉ gồm Đơn đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề quản tài viên, Sơ yếu

lí lịch, giấy tờ chứng minh là đối tượng được cấp Chứng chỉ và Phiếu lý lịch

tư pháp. Nghị định cũng nêu rõ trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc cấp

Chứng chỉ cho người đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề. Thời gian kể từ khi

Luật Phá sản 2014 được thông qua cho đến lúc có hiệu lực trên thực tế chỉ

hơn sáu tháng. Ở giai đoạn Luật Phá sản mới có hiệu lực, để đảm bảo chế

định quản tài viên phát huy tác dụng trên thực tế, các quy định pháp luật về

điều kiện và thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên là khá đơn giản.

Có thể thấy, pháp luật đã không đề cập tới việc đào tạo nghề quản tài viên mà

“đặc cách” trong giai đoạn đầu bằng việc cho người có đủ điều kiện đăng ký

để trở thành Quản tài viên.

Vì vậy, Luật Phá sản 2014 cũng cần thiết sửa đổi, bổ sung là việc thay

đổi chế định tổ quản lý, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thành chế định

69

quản tài viên trong xử lý tài sản phá sản.

Trách nhiệm và quyền hạn của Quản tài viên rất quan trọng trong việc

xử lý tài sản phá sản. Ngoài hiểu biết về pháp luật, quản tài viên còn phải thực

hiện những nhiệm vụ yêu cầu trình độ chuyên môn về kế toán, tài chính như

định giá tài sản; lập bảng kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp; quản lý

tài sản, tài liệu, sổ kế toán của doanh nghiệp… Có thể thấy, không phải luật

sư hay cử nhân luật nào có 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật cũng

am hiểu về lĩnh vực kinh tế, tài chính kế toán, quản trị kinh doanh; và ngược

lại, rất nhiều kiểm toán viên hay cử nhân kinh tế nhiều năm kinh nghiệm lại

có kiến thức rất hạn chế trong lĩnh vực pháp luật.

Từ những phân tích trên, có thể thấy, việc trang bị, bồi dưỡng kiến thức

cho Quản tài viên là điều hết sức cần thiết để đảm bảo cho sự hoạt động có

hiệu quả của chế định này. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phá sản nên

bổ sung quy định về việc bồi dưỡng kiến thức bắt buộc đối với quản tài viên,

và có mức độ phù hợp với từng đối tượng.

3.3.4. Vấn đề định giá lại tài sản phá sản

Thực tế, việc xác định giá của tài sản phá sản là một việc phức tạp, giá

trị của tài sản phá sản trên thị trường có thể dao động theo từng ngày, từng

thời điểm khác nhau nên việc định giá chính xác tài sản rất khó khăn. Xử lý

tài sản phá sản phá sản trong Luật Phá sản 2014 có quy định trường hợp xét

thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất

khả năng thanh toán không chính xác thì Tòa án nhân dân yêu cầu Quản tài

viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá

trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Giá trị tài sản

được xác định, định giá theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê. Vậy giá trị

tài sản được định giá không chính xác là không chính xác đến mức độ nào thì

mới cần tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị tài sản. Pháp luật Phá sản nên

ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy định rõ việc xác định giá trị tài sản

70

phá sản trong xử lý tài sản Phá sản được phép dao dộng trong khoảng bao

nhiêu, tỉ lệ chênh lệch ra sao thì được coi là giá trị chính xác của tài sản và lớn

hơn khoảng chênh lệch đó thì bị coi là định giá không chính xác, cần phải

kiểm kê, xác định lại giá trị tài sản.

3.3.5. Về vấn đề thu hồi nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

Pháp luật cần quy định rõ thời gian trả nợ của con nợ đối với chủ nợ là

doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và hậu quả pháp lý đối với việc trả nợ.

Quá thời hạn quy định, nếu con nợ không trả nợ được thì cần tách ra để giải

quyết bằng vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật. Cần có phương án

giải quyết thống nhất đối với doanh nghiệp sau khi bán hết tài sản mà vẫn còn

một số nợ chưa đòi được, cơ quan thi hành án tiếp tục việc thu hồi nợ theo

quy định và sẽ phân chia cho các chủ nợ theo tỷ lệ đã có tại quyết định phân

chia tài sản ban đầu. Xử lý tài sản theo Luật Phá sản 2014 chưa có quy định rõ

ràng về việc trả nợ cho chủ nợ là doanh nghiệp mắc nợ, điều này gây nên sự

chậm trễ trong việc thu hồi tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

đối với những khoản nợ của doanh nghiệp mà khó đòi.

3.3.6. Làm rõ thời hạn gửi Bản kiểm kê tài sản

Bản kiểm kê tài sản nhằm xác định số lượng, giá trị tài sản của doanh

nghiệp mắc nợ. Việc kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản trong xử lý tài

sản phá sản là một công việc quan trọng trong quá trình thanh lý tài sản của

doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Theo quy định của pháp

luật Phá sản, bản kiểm kê tài sản đã được xác định giá trị phải gửi ngay cho

Tòa án nhân dân tiến hành thủ tục phá sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản 2014 quy

định là phải “gửi ngay” mà không quy định rõ thời hạn gửi bản kiểm kê tài

sản là trong phạm vi bao nhiêu ngày. Điều này gây nên sự lúng túng trong lúc

áp dụng, vì vậy, cần thiết phải ban hành văn bản hướng dẫn làm rõ quy định

của pháp luật về thời hạn gửi bản kiểm kê tài sản. Văn bản hướng dẫn cần

phải quy định rõ ràng bản kiểm kê tài sản phải gửi đi trong vòng bao nhiêu

71

ngày kể từ khi bản kiểm kê tài sản hoàn thành.

3.3.7. Tăng cường kỷ luật tài chính kế toán

Cần tăng cường công tác kiểm tra việc tuân thủ chế độ kế toán – tài

chính doanh nghiệp, bắt buộc doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính định kỳ; bổ

sung những quy định xử lý nghiêm khắc những vi phạm về kế toán, sổ sách.

Đây là một trong những nguyên nhân làm suy giảm hiệu quả của pháp luật

phá sản và cũng là một trong những nguyên nhân khó xác định được giá trị tài

sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.

3.3.8. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật phá sản

Trước đây, việc xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản gặp nhiều khó

khăn một phần là do những chủ thể có liên quan đến phá sản doanh nghiệp

chưa nhận thức đúng và đầy đủ về phá sản và trình tự giải quyết xử lý tài sản

phá sản. Những quy định về xử lý tài sản phá sản thực thi có hiệu quả trong

thực tiễn áp dụng, thì vấn đề nhận thức pháp luật của xã hội là hết sức quan

trọng. Do đó, tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật Phá sản năm 2014,

đặc biệt là những quy định pháp luật về xử lý tài sản phá sản là điều hết sức

cần thiết. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật, xử lý tài sản phá sản theo quy

định hướng đến những người làm công tác áp dụng pháp luật như các cán bộ

trong các ngành Tòa án, Kiểm sát, Thi hành án dân sự, các luật sư và đặc biệt

là các doanh nghiệp để cho những đối tượng này nắm vững những quy định

của pháp luật phá sản, hiểu đúng và rõ ràng hơn, tuân thủ về xử lý tài sản phá

sản theo pháp luật phá sản.

3.3.9. Cần phải bồi dưỡng, nâng cao trình độ thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao cần thường xuyên, định kỳ tổ chức các hội

thảo khoa học, các khóa đào tạo nhằm bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên

môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong việc giải quyết xử lý tài

sản phá sản trong việc phá sản. Cần hướng tới đào tạo các Thẩm phán chuyên

trách về giải quyết, xử lý tài sản phá sản vì Thẩm phán là người trực tiếp giải

72

quyết việc phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Chất lượng và hiệu quả của việc

giải quyết, xử lý tài sản phá sản phụ thuộc nhiều vào trình độ chuyên môn của

Thẩm phán. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có các Thẩm phán chuyên

trách về phá sản mà thường là kiêm nhiệm. Tòa án nhân dânTC cũng cần

thường xuyên theo dõi quá trình thực thi giải quyết, xử lý tài sản phá sản theo

pháp luật phá sản. Đồng thời tổng kết rút kinh nghiệm từ các vụ việc phá sản

đã được giải quyết để kịp thời hướng dẫn xử lý những vướng mắc thường nảy

sinh trong quá trình thực hiện giải quyết, xử lý tài sản phá sản.

Tiểu kết chương 3

Luật Phá sản (2014) vừa có hiệu lực với rất nhiều sửa đổi bổ sung về

thủ tục phá sản. Tuy nhiên, để biết được thủ tục phá sản theo Luật mới có

thực sự hiệu quả hay không vẫn cần thời gian để thực tế. Các cơ quan có thẩm

quyền ban hành pháp luật cần phải có những định hướng, giải pháp cụ thể hơn

nữa làm cho luật mới ban hành có hiệu quả thi hành tốt trong thực tế, các cơ

quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc phá sản cũng như những cá nhân, tổ

chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc phá sản cần có cái nhìn

đúng đắn về bản chất, vai trò của Luật phá sản để từ đó cùng nhau góp phần

vào việc thực hiện thực thi hiệu quả Luật phá sản nói chung và thủ tục xử lý

73

tài sản nói riêng.

KẾT LUẬN

Xử lý tài sản phá sản là một thủ tục thanh toán nợ tập thể, nhằm bảo vệ

quyền, lợi ích của toàn xã hội, cơ chế quản lý, xử lý tài sản phá sản đặt ra

những yêu cầu chặt chẽ cả về mặt quy định, thực thi pháp luật. Đặc biệt, trong

điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế của Việt Nam.

Thực tế, với tinh thần tự do kinh doanh mà Luật Doanh nghiệp ghi

nhận thì ngày càng có nhiều doanh nghiệp ra đời và với số lượng doanh

nghiệp ra đời lớn sẽ có không ít những doanh nghiệp phá sản. Vì vậy, phá sản

và việc quản lý và xử lý tài sản tài sản phá sản sẽ là vấn đề rất nổi cộm trong

thực tiễn, điều này đòi hỏi phải thực hiện tốt công tác xây dựng và áp dụng

các quy định của pháp luật về vấn đề này. Mặc dù Luật Phá sản năm 2014 bổ

sung quy định về áp dụng loại hình phá sản theo thủ tục rút gọn đối với

trường hợp doanh nghiệp nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản kèm theo đầy

đủ căn cứ chứng minh rằng không còn tiền và tài sản khác để nộp lệ phí phá

sản, tạm ứng chi phí phá sản. Đối với trường hợp trên, trong thời hạn 30 ngày

kể từ ngày Tòa án thông báo cho người tham gia thủ tục phá sản về việc giải

quyết phá sản theo thủ tục rút gọn, Tòa án sẽ xem xét, tuyên bố doanh nghiệp

phá sản hoặc tiếp tục giải quyết theo thủ tục thông thường và thông báo cho

người tham gia thủ tục phá sản biết.

Luật Phá sản (2014) đã có sự đổi mới căn bản và toàn diện, giúp tháo

gỡ các vướng mắc trong giải quyết, xử lý tài sản phá sản, song chưa có các

văn bản hướng dẫn chi tiết, còn thiếu cơ sở để triển khai áp dụng. Hiệu quả

của việc giải quyết, xử tài sản phá sản doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào

đối với các doanh nghiệp yếu kém, ngoài biện pháp giải thể, trong trường hợp

cần thiết, Pháp luật Phá sản cần tính đến việc xử lý tài sản phá sản để hạn chế

thiệt hại về tài chính, giải quyết dứt điểm, tránh tình trạng thua lỗ kéo dài,

phục hồi hoạt động kinh doanh hiệu quả, không ảnh hưởng xấu đến hiệu quả

74

đầu tư.

Xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản (2014) mà luận văn đã đi sâu

phân tích một số lý luận cơ bản về xử lý tài sản phá sản, khái niệm tài sản phá

sản trên cơ sở phân biệt rõ tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình

trạng phá sản, phân tích những nét cơ bản xử lý tài sản phá sản, xác định giá

trị còn lại của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, thanh toán cho các chủ

nợ. Mối quan hệ giữa chủ thể giải quyết thủ tục sản phá sản với các chủ thể

xử lý tài sản phá sản. Làm sáng tỏ những quy định của LPS và PL liên quan

đến xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Luận

văn cũng phân tích rõ vai trò, thẩm quyền của các chủ thể tham gia xử lý tài

sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo quy định của

Luật Phá sản (2014).

Thu hồi tài sản phá sản, biện pháp bảo toàn tài sản và mục đích xử lý

tài sản phá sản nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ, người lao động, đảm

bảo an sinh xã hội. Luận văn cũng chỉ ra được những nguyên tắc và cách thức

cơ bản của chủ thể tham gia xử lý tài sản phá sản, nghĩa vụ về tài sản của

doanh nghiệp, các thiết chế quản lý tài sản, các phương thức xử lý tài sản, các

quyền về tài sản,thứ tự ưu tiên phân chia tài sản phá sản…. Vấn đề xử lý các

khoản nợ và phân chia tài sản phá sản theo thứ tự ưu tiên của doanh nghiệp

lâm vào tình trạng phá sản theo quy định của pháp luật việt nam được đề cập

chi tiết khi áp dụng pháp luật về xử lý tài sản phá sản.

Luận văn đã nêu những nguyên nhân, khó khăn, vướng mắc mà các chủ

thể thường gặp khi áp dụng xử lý tài sản theo Luật Phá sản 2014 trong thực

tiễn và đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm sửa đổi bổ sung, hoàn thiện hệ

thống pháp luật về xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản 2014, một số giải

pháp về tổ chức thực hiện những quy định của pháp luật về xử lý tài sản phá

75

sản để những quy định của luật pháp và thực tế được hiệu quả hơn nữa.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo tổng kết thi hành Luật Phá sản của Tòa án Nhân dân tối cao.

23/09/2013.

2. Pháp luật phá sản tại Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Đặc

san Tuyên truyền pháp luật. 9/2014

3. Pháp luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp

hoàn thiện ngày 29/6/2017

4. Luật Doanh nghiệp năm 2005.

5. Luật Doanh nghiệp năm 2014.

6. Luật Đất đai năm 2003.

7. Luật Đất đai năm 2013.

8. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993.

9. Luật Phá sản 2004.

10. Luật Phá sản 2014.

11. Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

12. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án

dân sự;

13. Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài

viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản;

14. Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008

đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 ngày

25 tháng 11 năm 2014;

15. PGS.TS Dương Đăng Huệ, Thạc sỹ Nguyễn Thanh Tịnh (tháng 11/2008)

- “Thực trạng pháp luật về phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật

76

kinh doạnh tại Việt Nam”;

16. Phan Thị Mỹ Hạnh, Viện Dầu khí Việt Nam ngày 10/8/2017) - “Phá sản

doanh nghiệp và thi hành luật phá sản ở Việt Nam”;

17. Thạc sỹ Nguyễn Thị Dung (ngày 29/6/2017) - “ Pháp luật phá sản

doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”;

18. Thạc sỹ Nguyễn Kim Anh -“Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải

pháp hoàn thiện pháp luật về phá sản ở Việt Nam”;

19. Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Vũ Thị Hồng Vân, khoa Luật, Đại

học Quốc gia Hà Nội, 2008 - “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy

định của pháp luật phá sản Việt Nam”;

20. Nghị quyết số 48/NQ-TƯ về chiến lược xây dựng hoàn thiện hệ thống

pháp luật việt nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020

21. Nghị định 22/2015/NĐ-CP

22. Thạc sỹ Nguyễn Tuấn Hải (2016) “Thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo

Luật Phá sản (2014)”

23. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TƯ về chiến lược xây dựng

hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam đến năm 2010, định hướng đến

năm 2020;

24. Bộ Tư pháp, Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật – Tòa án nhân dân tối cao,

Viện Khoa học xét xử (2014) “ Đề cương giới thiệu Luật phá sản”;

25. Chính phủ nước CHXHCNVN (2005), Nghị định số 94/NĐ-CP ngày

15/07/2005 về việc giải quyết quyền lợi của người lao động ở doanh

nghiệp và hợp tác xã bị phá sản;

26. Chính phủ nước CHXHCNVN (2015), Nghị định số 22/NĐ-CP ngày

16/2/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về

Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản;

27. Chính phủ nước CHXHCNVN, Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/7/2015

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành

77

án dân sự;

28. Bộ Tư pháp – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao,

Thông tư liên tịch số 07/2018/TTLT – BTP-VKSNDTC-Tòa án nhân

dânTC ngày 12/6/2016 quy định việc phối hợp trong thi hành quyết định

của tào án giải quyết phá sản

29. https://baomoi.com/hoi-thao-thuc-tien-thi-hanh-luat-pha-san-nam-2014-

va-cac-van-ban-huong-dan/c/27808035.epi ngày 20/9/2018 Hội thảo

Thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2014 và các văn bản hướng dẫn

(truy cập ngày 07/3/2019);

30. Lê Ngọc Anh (2014), Pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam-

Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại

học Luật Hà Nội;

31. Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tếTrung ương;

32. Đồng Ngọc Ba (2005), Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hoàn thiện

pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường

Đại học Luật Hà Nội;

33. BộTư pháp (2002), Đánh giá thực trạng thực hiện nghiên cứu, phân tích

để khuyến nghị hoàn thiện Luật Phá sản doanh nghiệp và các quy định

pháp luật khác có liên quan, Báo cáo phúc trình, chủ nhiệm đề tài TS

Dương Đăng Huệ;

34. https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0%C6%A1ng_m%E1%BA%A1i

35. http://vnclp.gov.vn/ct/cms/tintuc/Lists/NhaNuocVaPhapLuat/View_Deta

il.aspx?ItemID=302 Pháp luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam - Thực

trạng và giải pháp hoàn thiện

78

36. 29/06/2017 Ths Nguyễn Thị Dung