VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH HẰNG
XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH HẰNG
XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014
Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, các kết luận, số liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo
độ tin cậy./.
Học viên
Nguyễn Thanh Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN, TÀI SẢN PHÁ
SẢN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN ........................................................... 9
1.1. Khái niệm về tài sản, tài sản phá sản ..................................................... 9
1.2. Khái quát thủ tục xử lý tài sản phá sản ................................................ 21
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG XỬ LÝ TÀI SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM ......... 30
2.1. Những quy định pháp luật về thủ tục xử lý tài sản phá sản ................. 30
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật phá sản về xử lý tài sản phá sản ............. 53
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN XỬ LÝ TÀI
SẢN PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014 .......................................... 62
3.1. Phương hướng hoàn thiện .................................................................... 62
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản phá sản ...................... 64
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý tài sản phá sản . 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, dưới tác động của cạnh
tranh, phá sản doanh nghiệp xảy ra hiện tượng tất yếu. Kinh tế thị trường là
mô hình kinh tế mở trong đó coi trọng và tuân thủ các quy luật vận động, điều
tiết của thị trường, tôn trọng tự do cạnh tranh, tự do hợp tác, mở rộng giao lưu
thương mại, tạo cơ hội cho mọi chủ thể kinh tế tham gia thị trường, tìm kiếm
lợi nhuận,....Có thể nói, kinh tế thị trường là mô hình được nhiều quốc gia lựa
chọn cho quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế. Qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau, thái độ ứng xử của công chúng lẫn Nhà nước đối với hiện tượng phá
sản các doanh nghiệp có nhiều sự khác biệt. Bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ,
người lao động, xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp chỉ đơn thuần là một thủ
tục thanh toán nợ đặc biệt kèm với việc trừng phạt chủ doanh nghiệp bị phá sản,
xử lý tài sản phá sản như là một thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh
toán và tìm những giải pháp phục hồi doanh nghiệp trước khi quyết định tuyên
bố phá sản doanh nghiệp.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường quyền tự chủ trong kinh doanh
của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được pháp luật tôn trọng
và bảo vệ. Đi kèm với quyền tự chủ rộng rãi trong kinh doanh là nghĩa vụ tự
chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cũng
tiềm ẩn nguy cơ đối diện với phá sản. Xử lý tài sản phá sản làm phát sinh các
mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan và đòi hỏi pháp luật phải điều chỉnh.
Luật Phá sản năm 2004 được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực
thi hành từ ngày 15/10/2004, thay thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993 với nhiều điểm tiến bộ. Với Luật Phá sản năm 2004 theo Báo cáo của
PGS.TS Dương Đăng Huệ, Thạc sỹ Nguyễn Thanh Tịnh (tháng 11/2008) về
1
thực trạng pháp luật về phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật kinh
doạnh tại Việt Nam thì Tòa án thụ lý gần 350 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản,
ra quyết định mở thủ tục phá sản 236 trường hợp, và thực tế cũng chỉ quyết
định tuyên bố phá sản được 83 trường hợp. So với năm 2004, năm 2012,
doanh nghiệp đăng ký đã vượt trội hơn rất nhiều, có gần 5000 doanh nghiệp
dừng hoạt động và hơn 9.000 doanh nghiệp giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp. Tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản
doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 mặc dù đã được cải thiện nhưng
vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản
so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động là rất thấp, hiệu quả giải quyết
việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa đạt kết quả tốt.
Tại Mục 3 Phần II về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu,
quyền tự do kinh doanh có nhận định: “…Xây dựng một khung pháp luật
chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ đặc quyền
và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất
pháp luật áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài” theo Nghị
quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;
Tại kỳ họp VII, ngày 19/6/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật phá sản số 51/2014/QH13. Có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015. Luật Phá sản 2014 đã có nhiều sửa
đổi bổ sung mới so với Luật Phá sản 2004. Luật Phá sản 2004 có 9 chương và
95 điều luật thì Luật Phá sản 2014 có tận 14 chương và 133 Điều luật. Luật
Phá sản 2014 được đánh giá là có những sửa đổi khá căn bản và toàn diện từ
những khó khăn và bất cập của Luật Phá sản 2004. Sửa đổi, bổ sung một số
nội dung như: tiêu chí xác định Doanh nghiệp, Hợp tác xã (doanh nghiệp, hợp
tác xã) lâm vào tình trạng phá sản, chế định quản tài viên, về thủ tục xử lý tài
2
sản phá sản …
“Tổng hợp hơn 23 báo cáo của các TAND cấp tỉnh cho thấy: Năm
2017, số vụ việc yêu cầu phá sản được các tòa án thụ lý, giải quyết tăng mạnh
với 439 vụ việc, trong đó có 45 quyết định tuyên bố phá sản. Con số này phản
ánh thực tế LPS 2014 đã đi vào cuộc sống, từng bước khắc phục những
vướng mắc, bất cập của LPS năm 2004. Tuy nhiên, trên thực tế, năm 2017, có
38.869 DN tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể; số DN
hoàn tất thủ tục giải thể là 12.113. Năm 2018, có 27.126 DN đăng ký tạm
ngừng kinh doanh có thời hạn và 63.525 DN tạm ngừng hoạt động không
đăng ký hoặc chờ giải thể; số DN hoàn tất thủ tục giải thể là 16.314.” theo
Báo cáo kết quả triển khai thi hành LPS năm 2014 . Như vậy, số DN, HTX
chấm dứt hoạt động thì số vụ xử lý tài sản thông qua thủ tục phá sản tại tòa án
vẫn còn rất khiêm tốn.
Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo Luật Phá
sản 2014 không chỉ nhằm giải quyết vụ việc phá sản đúng pháp luật mà còn
góp phần bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của các chủ nợ, cơ cấu lại nền kinh tế
thị trường phát triển đất nước. Vận dụng những nguyên tắc của pháp luật phá
sản và những quy định về xử lý tài sản phá sản là để tìm ra những giải pháp
góp phần ngày một hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản phá sản. Luật Phá sản
2014, một số vấn đề đã được sửa đổi bổ sung nhưng khi áp dụng các quy định
vào thực tiễn đã cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc về xử lý tài sản phá
sản. Xác định giá trị tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
trong xử lý tài sản phá sản cần phải có những quy định chặt chẽ, cụ thể và đầy
đủ hơn nữa làm căn cứ khi áp dụng với thực tiễn.
Nhận thức được xử lý tài sản phá sản theo Luật phá sản 2014 rất quan
trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Hậu quả của nó không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp, người lao động, chủ nợ trong doanh nghiệp
mà còn tác động đến các thành phần khác tùy vào quy mô của doanh nghiệp
3
phá sản. Đề tài “Xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản 2014” là luận văn
em chọn, với mong muốn phần nào làm rõ và định hướng cụ thể để tháo gỡ
những vướng mắc, bất cập, đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả khi áp dụng
quy định về xử lý tài sản phá sản và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về xử lý tài sản phá sản theo Luật phá sản 2014 đã có
những bước tiến quan trọng, cụ thể có liên quan đến Đề tài như sau:
- “Pháp Luật phá sản của Việt Nam” của PGS, TS. Dương Đăng Huệ,
xuất bản năm 2005;
- “Thực trạng pháp luật về phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật
kinh doạnh tại Việt Nam” tháng 11/2008 – chủ biên PGS.TS Dương Đăng
Huệ, Thạc sỹ Nguyễn Thanh Tịnh;
-“Phá sản doanh nghiệp và thi hành luật phá sản ở Việt Nam”ngày
10/8/2017 - Phan Thị Mỹ Hạnh, Viện Dầu khí Việt Nam;
- “Pháp luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực trạng và giải
pháp hoàn thiện” ngày 29/6/2017 – Thạc sỹ Nguyễn Thị Dung;
- “Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về phá sản ở Việt Nam” - Thạc sỹ Nguyễn Kim Anh;
- “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá
sản Việt Nam” – Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Vũ Thị Hồng Vân,
khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008. Với đề tài “Quản lý và xử lý tài
sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam”, tác giả đã hệ
thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về tài sản phá sản, về quản lý tài sản
phá sản, và xử lý tài sản phá sản. Phân tích những nội dung của pháp luật về
quản lý và xử lý tài sản phá sản, đồng thời chỉ ra một số quy định bất cập
trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam và những hạn chế, vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định về quản lý, xử lý tài sản phá sản.
4
Đưa ra một số đề xuất, kiến nghị về phương hướng và giải pháp sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về quản lý, xử lý tài sản
phá sản nhằm phát huy hiệu lực của những quy định đó;
- “Xử lý tài sản theo pháp luật phá sản Việt Nam” - Luận văn Thạc sĩ
Luật học của Quách Thị Minh Phượng (2009), Khoa Luật trường Đại học
Quốc gia Hà Nội. Về mặt lý luận tác giả đã nêu được khái niệm tình trạng phá
sản, thủ tục thanh lý Tài sản phá sản, mối quan hệ giữa thủ tục thanh lý tài sản
và các thủ tục khác trong thủ tục giải quyết phá sản. Phần thực trạng tác giả
đã phân tích được các quy định về thanh lý tài sản theo pháp luật của Việt
Nam hiện hành: về điều kiện ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản phá
sản, về giải quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định mở thủ tục thanh
lý tài sản phá sản; về xử lý và thanh lý tài sản phá sản. Các giải pháp được
tác giả tập trung vào 2 nhóm: hoàn thiện quy định về thủ tục thanh lý tài sản
phá sản và giải pháp đảm bảo hiệu quả thực thi quy định về thanh lý tài sản
phá sản;
- “Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam
hiện nay”- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Phạm Thị Huệ (2017), Học
Viện Khoa Học Xã Hội đã hệ thống hoá được các khái niệm phá sản, mất khả
năng thanh toán, thủ tục phá sản, nêu sơ lược sự hình thành và phát triển của
quy định về thủ tục thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam và phân tích mối
quan hệ giữa thủ tục thanh lý tài sản với các thủ tục khác trong giải quyết phá
sản. Tác giả đã phân tích thực trạng Thực trạng các quy định của pháp luật về
thanh lý tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức tín dụng.
Đã phân tích thực trạng về quản tài viên, Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản, phân tích thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về thanh lý tài
sản phá sản. Nêu lên các hạn chế, bất cập liên quan đến thanh lý tài sản phá
sản. Đặc biệt tác giả đã nêu được các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
5
luật về thanh lý tài sản phá sản như: Sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 22/2015/NĐ-CP của chính phủ, xây dựng cơ chế phối hợp
giữa Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, ngân hàng, Quản tài
viên và doanh nghiệp hành nghề thanh lý tài sản trong hoạt động quản lý,
thanh lý tài sản, Rà soát các đạo luật có quy định liên quan đến thanh lý tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản để sửa đổi, bổ sung một cách đồng
bộ, thống nhất;
- “Thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn”, bài báo của Th.s Nguyễn Tuấn Hải (Học viện Tư pháp) đăng trên Tạp
chí Toà án Nhân dân ngày 02/04/2018 về “Thanh lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn” đã phân tích những vướng mắc, bất cập
của Luật Phá sản năm 2014. Qua đó nêu lên một số kiến nghị nhằm thực thi
có hiệu quả thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 như:
Quy định cụ thể về giới hạn tài sản phá sản; Bổ sung các quy định về tài sản
được loại trừ khỏi khối tài sản phá sản, nêu những định hướng để thực hiện
hiệu quả chế định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý tài sản, định giá lại tài
sản, thu hồi nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán…
Như vậy, các Đề tài nghiên cứu có nhiều nội dung nhau nhưng về kết
quả đều là làm cho các quy định pháp luật phá sản dễ đi vào cuộc sống và dễ
áp dụng vào thực tiễn, bảo đảm được quyền và lợi ích các chủ thể có liên
quan. Mặc dù trong quá trình vận dụng pháp luật vào thực tiễn vẫn còn một số
vướng mắc về xử lý tài sản phá sản, Luật Phá sản 2014 đã có những thay đổi
mới về xử lý tài sản phá sản đòi hỏi phải có sự nhất quán trong cách hiểu vận
dụng trong thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là chỉ rõ được những khó khăn, bất cập trong xử
lý tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo Luật phá
sản 2014. Phân tích thực trạng về xử lý tài sản phá sản khi áp dụng những quy
6
định hiện hành của Luật Phá sản 2014. Trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu về
xử lý tài sản phá sản để hiện thực hóa các quy định của Luật Phá sản vào cuộc
nhằm tạo môi trường kinh doanh và động lực mới cho phát triển kinh tế đất
nước.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Hệ thống hóa và giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản về tài sản
phá sản xử lý tài sản phá sản;
+ Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những quy định Luật Phá sản 2014 về
thủ tục xử lý tài sản phá sản trong mối quan hệ so sánh với Luật Phá sản
2004;
+ Nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng Luật Phá sản 2004, từ đó đề
ra một số biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả Luật Phá sản 2014.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về xử lý tài sản
phá sản, những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh
lý tài sản, từ việc thành lập, chất lượng hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, sự
phối hợp với Thẩm phán, chấp hành viên, chế độ làm việc, lưu giữ tài liệu
hoạt động của tổ đến vấn đề nhạy cảm là tiền thù lao cho thành viên của Tổ.
Những vướng mắc khác liên quan đến việc thực hiện quản lý và bảo quản tài
sản phá sản, kiểm kê tài sản doanh nghiệp, xác định giá trị tài sản còn lại của
doanh nghiệp, vấn đề thu hồi tài sản phá sản. Quan trọng hơn cả là vấn đề xử
lý tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với vấn đề xác
định giá trị tài sản, giải quyết quyền sử dụng đất của doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản, xử lý các tài sản đảm bảo để thanh toán cho các chủ nợ có bảo đảm,
xử lý tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản nằm rải rác ở nhiều nơi, vấn
đề phân chia tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được viết dựa trên các phương pháp phân tích, tổng hợp các
7
chế định pháp lý về thủ tục phá sản nói chung, về xử lý tài sản phá sản nói
riêng trên phương diện lý luận và phân tích thực tiễn để nhận định, đánh giá
những vướng mắc, khó khăn dẫn đến hạn chế tính khả thi của các quy định
pháp luật. Phương pháp phân tích so sánh những tiến bộ qua các lần sửa đổi,
bổ sung các quy định liên quan đến Luật Phá sản 2014. Các quy định từng
vấn đề pháp lý trong giới hạn nghiên cứu của pháp luật một số quốc gia để rút
ra được kinh nghiệm khi đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục xử lý tài sản phá sản theo
Luật Phá sản 2014
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý về tài sản và thủ tục xử
lý tài sản phá;
- Quy định rõ về tài sản và cách thức xử lý tài sản phá sản;
- Chỉ rõ một số điểm mới giữa Luật Phá sản 2014 và Luật Phá sản 2004;
- Phân tích thực trạng về thi hành pháp luật xử lý tài sản phá sản ở Việt Nam;
- Chỉ ra những hạn chế, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng
các quy định pháp luật về xử lý tài sản phá sản;
- Đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện và thực thi có hiệu quả
pháp luật xử lý tài sản phá sản.
7. Kết cấu luận văn
Toàn bộ Luận văn gồm phần mở đầu,chương 1, chương 2, chương 3,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung chính của luận văn được bố
cục thành ba chương cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản tài sản phá sản và thủ tục xử lý
tài sản phá sản;
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành hoạt động xử lý
tài sản ở Việt Nam hiện nay;
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và thực thi có hiệu quả
8
pháp luật xử lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN, TÀI SẢN PHÁ SẢN VÀ
XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
1.1. Khái niệm về tài sản, tài sản phá sản
1.1.1. Khái niệm về tài sản
“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và
tài sản hình thành trong tương lai.” theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự
năm 2015.
* Tài sản là vật chỉ có ý nghĩa khi trở thành đối tượng của quan hệ pháp
luật, nó được con người kiểm soát và đáp ứng được một nhu cầu nào đó của
con người. Không phải bất cứ một bộ phận nào của thế giới vật chất đều được
coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được
coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật.
Ví dụ, Ô-xi còn ở dạng không khí trong tự nhiên thì chưa thể được coi là
vật, vì chưa thể đưa vào giao dịch dân sự. Chỉ khi con người có thể nắm giữ,
quản lý được thì mới có thể đưa vào giao lưu dân sự và được coi là vật. Chính vì
vậy, để thỏa mãn được thành vật trong dân sự thì phải có những điều kiện sau:
- Là bộ phận của thế giới vật chất;
- Con người chiếm hữu được;
- Mang lại lợi ích cho chủ thể;
- Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch.
Căn cứ xác định giá trị sử dụng của vật để được chia ra thành nhiều phần
nhỏ mà Bộ luật dân sự phân chia vật thành vật chia được và vật không chia
được. Căn cứ vào giá trị của tài sản sau khi sử dụng thì chia thành vật tiêu hao
9
và vật không tiêu hao. Căn cứ vào các dấu hiệu phân biệt của vật mà người ta
phân loại vật thành vật thành vật cùng loại và vật đặc định. Không chỉ vậy,
người ta còn chia ra làm vật đồng bộ và vật không đồng bộ, Vật được phân
loại thành các nhóm khác nhau:
- Vật có đăng ký quyền sở hữu và vật không đăng ký quyền sở hữu Vật
chính là vật độc lập có thể khai thác theo tính năng (ví dụ: ti vi, điều hòa, máy
ảnh…);
- Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật
chính, là một bộ phận của vật chính nhưng có thể tách rời vật chính (ví dụ:
điều khiển ti vi, điều hòa, vỏ máy ảnh,…).
*Tiền: Theo Mác thì tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt, được tách ra
khỏi thế giới hàng hóa, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các
loại hàng hóa khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ
sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa. Bộ luật dân sự năm 2005 và cả
Bộ luật dân sự năm 2015 đều quy định tiền là một loại tà sản nhưng lại không
có quy định để làm rõ bản chất pháp lý của tiền. chỉ có loại tiền có giá trị đang
được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận, mới được coi là
tài sản. Tiền là công cụ thanh toán đa năng, là công cụ tích lũy tài sản và là
thước đo giá trị.
* Giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện
nay đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác. Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển
giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau, có thể có rất nhiều cơ quan ban hành như : kho bạc, các công ty cổ
phần…, có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá, có thể có thời hạn sử
dụng hoặc không có thời hạn sử dụng, có thể ghi danh hoặc không ghi danh
và việc thực hiện quyền định đoạt về số phận thực tế đối với giấy tờ có giá
cũng không bị hạn chế như việc định đoạt tiền. Ví dụ: giấu nhận nợ, tờ vé số
10
trúng thưởng, trái phiếu, cổ phiếu…tất cả những giấy tờ trị gia được bằng
đồng Việt Nam. Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài
sản, giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật
bảo vệ. giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển
nhượng với điều kiện chuyển nhượng tòan bộ một lần, việc chuyển nhượng
một phần giấy tờ có giá là vô hiệu.
Ngoài ra, giấy tờ có giá có tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính
rủi ro, các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản
như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà,
giấy đăng ký xe máy,… không phải là giấy tờ có giá. Những loại giấy tờ này
chỉ được coi là một vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.
* Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản
đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản
khác đã được quy định tại Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015.
* Quyền sử dụng đất là quyền tài sản, Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không được coi là tài sản cũng đã được quy định tại điều 105 Bộ luật dân
sự 2015. Điều 163 Bộ luật dân sự 2005.
=> Quyền tài sản được là một loại tài sản và có thể dùng để trao đổi
trong các giao dịch dân sự, thương mại, thực hiện góp vốn hoặc để lại thừa kế
trong trường hợp cá nhân chết hoặc tuyên bố là đã chết.
Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định bất động sản và động sản
như sau:
“1. Bất động sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
11
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”
Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản là cách phân loại
tài sản dựa vào đặc tính vật lý của tài sản là có thể di dời được hay không thể
di dời được, các tài sản không thể di, dời được do bản chất tự nhiên cấu tạo
nên tài sản đó, bao gồm:
- Đất đai: đất đai trong giao lưu dân sự được xác định bằng diện tích đất
cùng vị trí của mảnh đất đó. Điều này được thể hiện trên bản đồ địa chính,
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận thông qua quyết định giao
đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó.
- Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai: Khoản 1 Điều 104 Luật
Đất đai năm 2013 quy định về cấp Giấy chứng nhận đối với tài sản gắn liền
với đất, như sau: “Tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất bao gồm nhà
ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là rừng trồng và cây lâu năm có
tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất. Như vậy, theo quy định của pháp luật, tài sản
gắn liền với đất bao gồm nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là
rừng trồng và cây lâu năm có tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Cây cối, hoa màu và các tài sản khác trên đất: Khoáng sản, cây cối hoa
màu trên đất cũng được coi là bất động sản chừng nào người ta chưa khai
thác, chặt cây, hay hái lượm.
- Các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đều được coi là bất
động sản. Thông thường, việc gắn một động sản vào nhà, công trình xây dựng
một mặt phải nhằm tạo một chỉnh thể thống nhất phục vụ cho mục đích sử
dụng nhà, công trình đó, mặt khác, việc gắn động sản vào nhà, công trình phải
do người có quyền đối với nhà, công trình xây dựng đó thực hiện. Việc gắn
liền phải mang tính chất kiên cố, không thể tháo ra mà không làm hư hại hoặc
12
mất vẻ mỹ quan của nhà, công trình.
Ví dụ: Hệ thống điện, nước trong nhà, bức tượng… (nếu được gắn vào
hốc tường một cách kiên cố cũng có thể được coi là bất động sản).
Ngoài những tài sản là bất động sản kể trên, pháp luật có quy định
những tài sản khác là bất động sản và bằng các văn bản hướng dẫn cụ thể.
Ví dụ: theo quy định của Điều 5, “Luật Kinh doanh bất động sản năm
2014 thì quyền sử dụng đất là bất động sản”.
Căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản và thời điểm xác lập quyền sở
hữu cho chủ sở hữu, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài
sản hình thành trong tương lai. Tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại vào thời
điểm hiện tại và đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu của tài sản đó
(nhà đã được xây,…). Tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản
chưa tồn tại hoặc chưa hình thành đồng bộ vào thời điểm xem xét nhưng chắc
chắn sẽ có hoặc được hình thành trong tương lai (nhà đang được xây dựng
theo dự án, tiền lương sẽ được hưởng,…).
Ngoài tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại còn có tài sản hình thành trong
tương lai. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm tài sản đã được hình
thành tại thời điểm giao kết giao dịch nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch
tài sản đó mới thuộc sở hữu của các bên (ví dụ: tài sản mua bán, thừa kế
nhưng chưa hoàn thành thủ tục chuyển giao cho chủ sở hữu).
- “Sản nghiệp thương mại là toàn bộ tài sản gồm cả tài sản hữu hình và
vô hình thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của thương
nhân phục vụ cho hoạt động thương mại như trụ sở, cửa hàng, kho tàng,
trang thiết bị, hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu, nhãn hiệu hàng hóa,
mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ” theo khoản 7, Điều 5, Luật
Thương mại 1997.
Thương mại ở thời kỳ trước là hàng đổi hàng,con người trao đổi trực tiếp
hàng hóa hay dịch vụ mà không cần thông qua các phương tiện thanh toán. Ví
13
dụ: Đổi một xe đạp lấy một mảnh đất). Tuy nhiên, hình thức trao đổi trực tiếp
này ít còn tồn tại đến ngày nay do nhiều nguyên nhân.Trong hình thức này
không có sự phân biệt rõ ràng giữa người bán và người mua, do người bán
mặt hàng A lại là người mua mặt hàng B đồng thời điểm. Vì thế tiền được
hình thành như một phương tiện trao đổi đa năng để đơn giản hóa thương mại
giữa “Tiền – Hàng – Tiền). Trước đây, tiền thường được liên kết với các
phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị ví dụ như đồng tiền bằng vàng thì
tiền ngày nay thông thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị (ví dụ:
tiền giấy). Trong thương mại quốc tế người ta gọi các loại tiền khác nhau là tiền
tệ. Giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho chúng.
Chính vì vậy, khi đưa thêm tiền giấy hay tiền kim loại vào sử dụng thì tổng giá
trị của tiền lưu thông trong một nền kinh tế không được nâng cao thêm mà chỉ
dẫn đến lạm phát. Điều này sẽ làm suy giảm phát triển kinh tế thị trường.
Nguyên nhân Thương mại tồn tại vì nó là sự chuyên môn hóa và phân
chia lao động, trong đó các nhóm người nhất định nào đó chỉ tập trung vào
việc sản xuất để cung ứng các hàng hóa hay dịch vụ thuộc về một lĩnh vực
nào đó để đổi lại hàng hóa hay dịch vụ của các nhóm người khác. Thương mại
cũng tồn tại giữa các khu vực là do sự khác biệt giữa các khu vực này đem lại
lợi thế so sánh hay lợi thế tuyệt đối trong quá trình sản xuất ra các hàng hóa
hay dịch vụ có tính thương mại hoặc do sự khác biệt trong các kích thước của
khu vực (dân số chẳng hạn) cho phép thu được lợi thế trong sản xuất hàng
loạt. Vì thế, thương mại theo các giá cả thị trường đem lại lợi ích cho cả hai
khu vực. Thương mại được hiểu theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát
sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng.
Thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: giao dịch về cung cấp hoặc trao
đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương
mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ
thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác
14
hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc
kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường
không, đường sắt hoặc đường bộ.
1.1.2. Khái niệm tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản
Nghiên cứu pháp luật nhiều nước cho thấy, hiện nay có hai loại tiêu chí
để xác định thời điểm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, tiêu chí về
định lượng và tiêu chí về định tính. Kinh nghiệm của một số nước khi xây
dựng khái niệm phá sản theo trường phái định lượng thì trường có quy định
về số nợ cụ thể, về thời hạn chậm thanh toán nợ từ phía doanh nghiệp mắc nợ
sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ. Tính định tính thể hiện ở quy định về những
tài liệu cần thiết mà còn nợ phải gửi cho Tòa án sau khi Tòa thụ lý đơn yêu
cầu giải quyết tuyên bố phá sản để Tòa án đánh giá tổng số nợ và tổng tài sản
của con nợ như danh sách chủ nợ kèm theo số nợ, báo cáo về tình trạng tài
chính, tài sản và khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp mắc nợ. Như vậy,
khái niệm tình trạng phá sản đã được xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa hai
tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính.
Theo từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “phá sản” được hiểu là “lâm vào
tình trạng tài sản không có gì, thường là do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại.
Các văn bản pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa thế nào là phá sản,
phá sản doanh nghiệp mà chỉ giải thích khi nào thì doanh nghiệp, hợp tác xã
được coi là “lâm vào tình trạng phá sản”. Theo Luật Phá sản năm 2014 thì phá
sản được hiểu là “tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”. Như vậy, phá sản
dù chưa định nghĩa thống nhất nhưng về cơ bản được sử dụng để chỉ sự đổ vỡ
trong hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp hoặc cá nhân.
Giống như pháp luật phá sản ở nhiều nước trên thế giới, pháp luật phá
sản ở nước ta hiện nay điều chỉnh hai thủ tục chính là thủ tục phục hồi hoạt
15
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và
thủ tục phá sản. Pháp luật phá sản doanh nghiệp hiện hành bao gồm tất cả các
quy định của pháp luật đang còn hiệu lực điều chỉnh việc phá sản, giải quyết
phá sản doanh nghiệp. Bản chất của pháp luật phá sản hiện đại là pháp luật về
thủ tục đòi nợ tập thể (liên quan đến nhiều người) và cứu vớt doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ. Điều đó có nghĩa là pháp luật phá sản không chỉ
là pháp luật về thanh toán mà còn là pháp luật về quản trị doanh nghiệp gặp
khó khăn về tài chính nhằm cứu vớt doanh nghiệp đó.
Pháp luật phá sản là toàn bộ các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành, quy định về điều kiện mở thủ tục phá sản và điều kiện tuyên bố phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã. Giáo trình Luật Thương Mại tập 2 – Trường Đại
học Luật Hà Nội (2014) có đưa ra khái niệm như sau: “Pháp luật phá sản có
thể hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã..”; quy định trình tự, thủ tục giải quyết và yêu cầu
mở thủ tục phá sản cũng như thi hành quyết định tuyên bố phá sản; về địa vị
pháp lý và mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia tố tụng phá sản và các vấn
đề khác phát sinh liên quan đến giải quyết phá sản.
Pháp luật phá sản là một chế định đặc thù khi vừa chứa đựng các quy
phạm của pháp luật nội dung, vừa chứa đựng các quy phạm của pháp luật hình
thức (pháp luật tố tụng). Với tư cách là pháp luật nội dung, pháp luật phá sản
điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa chủ nợ và con nợ. Với tư cách là pháp luật
hình thức, pháp luật phá sản điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa cơ quan nhà nước
có thẩm quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên quan, quy định
quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Trên cơ sở vận dụng có chọn lọc những thành tựu của các hệ thống luật
tiên tiến trên thế giới kết hợp với việc nghiên cứu quá trình giải quyết phá sản,
16
luận văn đưa ra khái niệm tài sản phá sản:
Tài sản phá sản là khối sản nghiệp của doanh nghiệp, bao gồm toàn bộ
những tài sản có và tài sản nợ của doanh nghiệp từ thời điểm Tòa án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến thời điểm có quyết định của Tòa án về
việc hoàn tất vụ việc phá sản.
Tài sản doanh nghiệp gồm hai loại: tài sản có và tài sản nợ
• Tài sản có
Những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử dụng của
doanh nghiệp được gọi là tài sản có và được phân loại thành tài sản lưu động
và tài sản cố định như sau:
- Tài sản lưu động là biểu hiện dưới hình thái vật chất của các thành
phần tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh sản xuất (các thành phần
này còn được gọi là đối tượng lao động). Tài sản lưu động trong doanh nghiệp
thường được chia thành 2 loại: Tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động
lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất: Các loại nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ
tùng thay thế… dự trữ sản xuất và các loại sản phẩm dở dang, bán thành
phẩm đang trong quá trình sản xuất. TSLĐ lưu thông: Các loại tài sản nằm
trong quá trình lưu thông như thành phẩm chờ tiêu thụ, vốn trong thanh toán,
vốn bằng tiền…
Việc tài sản lưu động sản xuất và lưu thông vận động thường xuyên và
đổi chỗ cho nhau sẽ đảm bảo cho hoạt động sản xuất và kinh doanh trong
doanh nghiệp diễn ra ổn định và nhịp nhàng.
- Tài sản cố định là tư liệu sản xuất chuyên dùng trong sản xuất kinh
doanh, có giá trị lớn và dùng được vào nhiều chu kì sản xuất. Có ba loại tài
sản cố định: tài sản cố định hữu hình, vô hình, tài sản cố định thuê ngoài dài
hạn, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, các khoản đầu tư xây dựng cơ bản...
Những tài sản cố định hữu hình có hình thái vật chất cụ thể do doanh
17
nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh như: trụ sở, cửa
hàng, kho tàng, máy móc, thiết bị công tác, phương tiện vận tải, phương tiện
truyền dẫn...và hao mòn dần theo thời gian.
Những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã
được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào
nhiều chu kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử
dụng; chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền
tác giả… ví dụ như lợi thế của địa điểm kinh doanh, điều này có ý nghĩa quan
trọng khi xác định giá trị quyền sử dụng đất; tay nghề của người lao động trong
doanh nghiệp, có ý nghĩa khi trả một số phụ cấp cho họ khi doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản...
Tài sản cố định tài chính là những tài sản cố định mà doanh nghiệp thuê
của công ty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền
lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận
trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp
đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời
điểm ký hợp đồng. Giá trị của các khoản đầu tư tài chính dài hạn với mục đích
kiếm lời, thời gian thu hồi vốn lớn hơn một năm hay một chu kỳ kinh doanh như:
đầu tư liên doanh dài hạn, cho thuê tài sản cố định, đầu tư chứng khoán dài hạn.
• Tài sản nợ
Tài sản nợ là các loại nợ của doanh nghiệp. Tài sản nợ được phân loại
như sau nợ : nợ có đảm bảo, nợ có đảm bảo một phần, nợ không có đảm bảo.
- Các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc của
người thứ ba thì được gọi là nợ có bảo đảm.
- Các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó thì được gọi là
nợ có đảm bảo một phần.
- Khoản nợ mà theo đó doanh nghiệp chưa phát sinh nghĩa vụ thanh
18
toán. Kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, các khoản nợ được tiếp tục
tính lãi theo thỏa thuận nhưng được tạm dừng việc trả lãi. Đối với khoản nợ
mới phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản đến thời điểm tuyên bố doanh nghiệp,
hợp tác xã phá sản thì tiền lãi của khoản nợ đó được xác định theo thỏa thuận
nhưng không trái với quy định của pháp luật. Kể từ ngày ra quyết định tuyên
bố doanh nghiệp phá sản thì khoản nợ không được tiếp tục tính lãi.
- Việc phân biệt nợ đến hạn thanh toán nợ chưa đến hạn thanh toán giúp
tòa án có thể xác định chính xác doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán. Các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần
đã được các bên xác nhận, có đầy đủ chứng cứ chứng minh các khoản nợ này
là có thật và không có tranh chấp. Chủ nợ phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ
đã có yêu cầu nhưng không được doanh nghiệp thanh toán.
1.1.3. Nguyên tắc và cách thức xác định khối tài sản phá sản
1.1.3.1. Nguyên tắc xác định khối tài sản phá sản
Việc xác định giá trị nghĩa vụ về tài sản khi giải quyết phá sản đã được
quy định cụ thể tại Điều 51 Luật Phá sản 2014. Theo đó, việc xác định giá trị
nghĩa vụ về tài sản khi giải quyết phá sản được quy định như sau:
1. Nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác lập trước
khi Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản được xác định vào thời
điểm ra quyết định mở thủ tục phá sản.
2. Nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác lập sau
khi Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản được xác định vào thời
điểm ra quyết định tuyên bố phá sản.
3. Trường hợp nghĩa vụ về tài sản quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều này không phải là tiền thì Tòa án nhân dân xác định giá trị nghĩa vụ về
tài sản đó bằng tiền.
1.1.3.2. Cách thức xác định khối tài sản phá sản
Xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp được kiểm kê và xác định sau
19
khi có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 64 Luật Phá sản 2014), gồm:
- Tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp có tại thời điểm Tòa án
nhân dân quyết định mở thủ tục phá sản;
- Các khoản lợi nhuận, các tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp sẽ
có việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Tòa án nhân dân mở
thủ tục phá sản;
- Tài sản và quyền tài sản có được sau ngày Tòa án nhân dân ra quyết
định mở thủ tục phá sản;
- Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp. Trường
hợp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo đảm,
nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán thì
phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp;
- Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp được xác định theo quy
định của pháp luật về đất đai;
- Tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của doanh nghiệp;
- Tài sản và quyền tài sản có được do các giao dịch vô hiệu;
- Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, công ty hợp danh còn bao gồm tài sản của chủ doanh nghiệp
tư nhân, thành viên hợp danh không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh.
Đặc điểm điển hình của loại hình công ty hợp danh là thành viên hợp danh
phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ
của doanh nghiệp, khối tài sản của Công ty hợp danh được xác định như thế
nào và có tách bạch với khối tài sản của thành viên hợp danh hay không.
Các tài sản được xác lập theo quy định tại Điều 174 Luật Doanh nghiệp
2014 là tài sản của Công ty hợp danh, khối tài sản này tách bạch hoàn toàn
với khối tài sản của thành viên hợp danh. Tài sản của thành viên hợp danh
cũng không phải là tài sản của Công ty Hợp danh. Việc thành viên hợp danh
phải chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của
20
công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty chỉ là trách nhiệm liên đới
mà Pháp luật buộc thành viên hợp danh phải chấp nhận khi lựa chọn loại hình
doanh nghiệp này.
1.2. Khái quát thủ tục xử lý tài sản phá sản
1.2.1. Đặc trưng của thủ tục xử lý tài sản phá sản
Thủ tục xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán là xác định giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Bên cạnh đó, xử lý tài sản phá sản
của doanh nghiệp cũng góp phần bảo vệ quyền lợi của con nợ, giúp con nợ sử
dụng tài sản hợp lý và hiệu quả hơn. Xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp
còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động. Xử
lý tài sản phá sản của doanh nghiệp một cách khách quan, minh bạch và hiệu
quả giúp cho pháp Luật Phá sản 2014 thực hiện được tính hiệu quả của việc
xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp.
1.2.2. Nội dung cơ bản của thủ tục xử lý tài sản phá sản
Thủ tục xử lý tài sản phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã Phá sản là một
hiện tượng xảy ra có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế – xã hội, nó có
thể gây ra những mâu thuẫn, tình trạng hỗn loạn, mất trật tự xã hội bằng sự
tranh giành tài sản của con nợ từ phía các chủ nợ, bằng sự biểu tình đòi việc
làm, tiền lương, thu nhập ở người lao động. Nếu không có một thủ tục phá sản
chặt chẽ để điều chỉnh ổn thỏa, công bằng những mối quan hệ đó chắc chắn sẽ
gây ra tình trạng lộn xộn, vô tổ chức trong xã hội. Tuy nhiên, đây lại là một
thủ tục đòi nợ đặc biệt. Đó là việc các chủ nợ đòi nợ công khai, bình đẳng và
mang tính tập thể. Có thể coi thủ tục phá sản là một giải pháp để các chủ nợ
thu hồi nợ bằng cách chia nhau tài sản của con nợ một cách có trật tự, tránh
tình trạng "mạnh ai nấy đòi" cũng như tránh việc tẩu tán tài sản của con nợ.
Luật Phá sản năm 2014 quy định thủ tục thông thường giải quyết phá sản có 4
21
bước chủ yếu, bao gồm:
1) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;
2) Hội nghị chủ nợ và thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh;
3) Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản;
4) Thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.
Xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản 2014 thực hiện bước sau khi có
Quyết định mở thủ tục phá sản, bước 2 và bước 4.
● Về đối tượng áp dụng của Luật phá sản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Phá sản (2004) thì đối tượng áp
dụng của Luật này là: “Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được
thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật”. Theo quy định này thì
Luật Phá sản (2004) chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong quá
trình xây dựng Luật Phá sản (2014), nhiều ý kiến cho rằng cần bổ sung đổi
tượng áp dụng của Luật này là cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, xí nghiệp có
đăng ký kinh doanh, trường Đại học và trường ở các cấp học khác nếu lâm
vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì đều có thể giải quyết
theo thủ tục phá sản. Quan điểm này cho rằng, việc mở rộng các đối tượng
này phù hợp với khuyến nghị số 8 và 9 của Khuyến nghị Hướng dẫn xây
dựng pháp Luật Phá sản của Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hiệp
quốc (UNCITRAL) và một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Pháp, Đức,
Anh, Nga, Latvia… đều quy định áp dụng pháp luật phá sản đối với mọi chủ
thể có đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành thì cá nhân, tổ hợp
tác, hộ gia đình khi tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh có đăng ký kinh
doanh nhưng không phải đăng ký vốn pháp định; hoạt động kinh doanh của
nhóm đối tượng này ở quy mô nhỏ, đa số chưa thực hiện tốt về chế độ kế
toán, tài chính nên khi áp dụng thủ tục phá sản sẽ gặp nhiều khó khăn trong
quản lý, thanh lý tài sản. Mặt khác, hiện nay khi các đối tượng này mất khả
22
năng thanh toán thì việc xử lý nợ sẽ thực hiện theo quy định của Bộ Luật dân
sự 2015. Đối với các cơ sở đào tạo hoạt động mang tính nghề nghiệp đặc thù,
hoạt động của các cơ sở này liên quan đến chính sách đối với học sinh, sinh
viên; việc thành lập, hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể được điều chỉnh
theo Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học và Luật dạy nghề. Vì vậy, trong
thời điểm hiện nay, quan điểm Luật Phá sản (2014) là tạm thời chưa nên mở
rộng các đối tượng áp dụng.
Tóm lại , về đối tượng áp dụng Luật Phá sản (2014) quy định tại điều 2:
“Luật này áp dụng đối với doanh nghiệp và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (sau
đây gọi chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của
pháp luật.”
● Về lý do phá sản của một số nước trên thế giới
- Pháp luật Nhật Bản quy định “tình trạng phá sản là không có khả năng
trả các khoản nợ đến hạn và đối với pháp nhân là không có khả năng trả nợ”;
- Luật Phá sản doanh nghiệp 1992 của Liên bang Nga thì quy định “tình
trạng phá sản của doanh nghiệp được hiểu là việc mất khả năng đáp ứng yêu cầu
của chủ nợ về thanh toán hàng hóa (công việc, dịch vụ) kể cả việc mất khả năng
bảo đảm các thanh toán phải nộp ngân sách và các quỹ ngoài ngân sách do nghĩa
vụ của người mắc nợ vượt quá tài sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán
cân thanh toán của người mắc nợ. Tình trạng phá sản của doanh nghiệp là sự
ngừng việc thanh toán bình thường của Doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp không
bảo đảm hoặc rõ ràng không có khả năng thực hiện các yêu cầu của chủ nợ trong
thời hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn thực hiện các yêu cầu đó”. Theo quy định
của pháp luật phá sảnTrung Quốc thì “khi doanh nghiệp không có khả năng
thanh toán khoản nợ đến hạn thì bị xem xét khả năng doanh nghiệp bị phá sản”;
- Luật Phá sản Việt Nam 2014 có nhiều điểm tương đồng với pháp luật
Nhật Bản, Nga, Trung Quốc trong quy định về tình trạng phá sản của doanh
nghiệp. Theo quy định tại Khoản 1, 2 Điều 4 Luật Phá sản (2014) thì phá sản là
23
tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án
nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản; doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
● Về cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản và xử lý tài
sản phá sản
Theo thông lệ chung, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tuyên bố phá sản
doanh nghiệp là Tòa án. Tuy nhiên, do tổ chức hệ thống tòa án và cơ quan tài
phán ở mỗi nước khác nhau nên việc giao cho tòa án nào giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản không phải cũng giống nhau.
Ví dụ, ở hầu hết các nước Châu Âu lục địa, thẩm quyền giải quyết phá sản
thuộc về tòa thương mại. Trong khi đó một số nước như Mỹ, Thụy Điển, Nam
Tư... lại thành lập tòa phá sản riêng. Có những nước như Cộng Hòa Liên Bang
Nga thì việc giải quyết phá sản thuộc chức năng của tòa án trọng tài. Ngược lại,
ở Trung Quốc, Malayxia,... tính chất của một vụ phá sản được pháp luật coi như
một vụ kiện dân sự nên thẩm quyền thuộc về tòa án dân sự.
Ở Việt Nam, Luật Phá sản (2014) quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh và
cấp huyện có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, việc
phân định thẩm quyền giải quyết vụ phá sản dựa trên ba nguyên tắc:
- Theo trụ sở chính;
- Theo nơi đăng ký kinh doanh;
- Theo tính chất phức tạp của vụ việc phá sản.
Cụ thể hơn, thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản được quy định tại Điều 8 của Luật Phá sản (2014).
Chủ thể tham gia giải quyết xử lý tài sản phá sản là Quản tài viên được
Thẩm phán chỉ định bằng Quyết định bao gồm Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản. “Chấp hành viên có trách nhiệm giám sát hoạt động
của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong việc thực hiện
24
thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản sau khi có văn bản yêu
cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tổ chức thực hiện
thanh lý tài sản theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 121 Luật Phá sản.
Chấp hành viên giám sát Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý
tài sản thông qua việc Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý báo cáo
Chấp hành viên”. Trích Thông tư liên tịch 07/2018/TTLT-BTP-VKSNDTC-
TANDTC quy định việc phối hợp thực hiện một số vấn đề về trình tự, thủ tục
trong thi hành quyết định của Tòa án giải quyết phá sản
● Về thủ tục xử lý tài sản phá sản
Xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản ở một số nước trên thế giới như
Pháp, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc đều quy định thủ tục xử lý tài sản phá sản
gồm: thủ tục xác định lại giá trị tài sản còn lại, phục hồi hoạt động kinh doanh,
phân chia theo thứ tự ưu tiên. Điểm chung của các nước là tuỳ theo tình hình cụ
thể của các doanh nghiệp mà áp dụng thủ tục phục hồi (cứu vãn) hay thủ tục xử
lý tài sản (phá sản). Trong quá trình thực hiện không cứng nhắc trong một thủ
tục mà có thể chuyển từ thủ tục này sang thủ tục khác một cách linh hoạt.
Theo quy định xử lý tài sản phá sản trong Luật Phá sản Việt Nam 2014
là một trong những thủ tục giải quyết phá sản gồm: Xác định giá trị tài sản,
phục hồi hoạt động kinh doanh và phân chia tài sản phá sản theo thứ tự ưu
tiên. Thủ tục xử lý tài sản được thực hiện sau trước khi và sau khi ra quyết
định tuyên bố doanh nghiệp phá sản. Xử lý tài sản phá sản được tiến hành
theo các bước sau:
1. Kê biên tài sản phá sản bắt đầu xác định giá trị tài sản phá sản, chủ thể
đảm nhận nhiệm vụ này sẽ phải có nghĩa vụ thông báo cho các chủ nợ rồi tiến
hành kê biên tài sản để thu hồi tài sản phá sản. Xác định phạm vi tài sản phá sản là
những tài sản nợ và tài sản có của doanh nghiệp. Thông thường, việc thu hồi tài
sản thuộc về một cơ quan (Quản tài viên được Thẩm phán ra Quyết định). Việc
25
thu hồi này chỉ diễn ra sau khi có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
2. Xử lý tài sản phá sản là việc xác định giá trị tài sản sản phá sản sau
khi hoàn tất việc thu hồi tài sản phá sản. Đây còn là một thủ tục xử lý nợ
mang tính chất tập thể cao, không mang tính cá nhân, riêng lẻ. Việc xử lý tài
sản phá sản để thanh toán cho các chủ nợ phải được tiến hành tập thể để đảm
bảo quyền lợi công bằng cho các chủ nợ. Công bằng thể hiện ở một thứ tự ưu
tiên thanh toán giữa các chủ nợ, đảm bảo thông tin đến được với chủ nợ là
khác nhau, các chủ nợ trong những điều kiện như nhau thì được hưởng quyền
lợi như nhau.
Mục đích của hoạt động xử lý tài sản phá sản nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ nợ, giúp con nợ sử dụng tài sản hợp lý và hiệu quả
hơn, xử lý tài sản phá sản còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền
lợi của người lao động, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Xử lý tài sản
phá sản khách quan, minh bạch và hiệu quả giúp cho pháp luật phá sản thực
hiện được các mục đích đã đặt ra, đồng thời góp phần tặng tính hiệu quả của
việc quản lý tài sản phá sản. Bởi lẽ, những nội dung khoa học, cùng ý nghĩa
quan trọng và thiết thực, cơ chế xử lý tài sản phá sản sẽ tác động lớn tới các
chủ thể quản lý tài sản phá sản, giúp các chủ thể này phát huy tinh thần trách
nhiệm trong việc quản lý tài sản phá sản nhằm hạn chế thấp nhất việc tẩu tán,
mất mát tài sản phá sản để bảo toàn tài sản phá sản.
3. Thanh toán cho các chủ nợ là bước cuối cùng của thủ tục xử lý tài
phá sản, thực chất của việc xử lý tài sản phá sản là việc xử lý mối quan hệ về
lợi ích tài sản giữa các chủ nợ với con nợ. Việc thanh toán được tiến hành
theo một thứ tự ưu tiên theo quy định của Luật Phá sản 2014. Luật Phá sản
2014 có xu hướng ưu tiên bảo vệ chủ nợ là người lao động thể hiện ở thứ tự
ưu tiên thanh toán như: (i) Các khoản lệ phí, các chi phí theo quy định của
pháp luật cho việc giải quyết phá sản; (ii) các khoản nợ lương, trợ cấp thôi
việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo
26
thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết; (iii) Các khoản nợ
thuế và các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ; (iv) Các chủ sở
hữu doanh nghiệp.
1.2.3. Vai trò của thủ tục xử lý tài sản
Để xử lý tài sản phá sản được tiến hành một cách có trật tự, đúng pháp luật
thì pháp luật phá sản cần thực hiện đúng những quy định cụ thể về trình tự xử lý
tài sản phá sản doanh nghiệp. Những quy định này là cơ sở pháp lý để Tòa án tiến
hành Tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, bảo đảm vụ việc được giải
quyết đúng pháp luật.
Xử lý tài sản theo pháp luật Luật Phá sản 2014 ở nước ta hiện nay, đã
góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho
hoạt động xử lý nợ của các doanh nghiệp, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong
lĩnh vực tài chính, làm cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn.
Mặc dù, Luật Phá sản ở Việt Nam được ban hành chậm so với các nước trên
thế giới nhưng cũng đã góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế
pháp lý, xử lý nợ của các doanh nghiệp, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong lĩnh
vực tài chính, làm cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn trong
thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Việc áp dụng đúng thủ tục xử lý tài sản phá sản sẽ đóng một vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ và người lao
động. Trong kinh doanh, việc công nợ là điều tất yếu có trong bất cứ doanh
nghiệp nào. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên được quyền đòi nợ thông qua
mọi hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp khởi kiện ra Tòa
án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc kiện tụng ra Tòa án không thể
giải quyết được một cách thỏa đáng quyền lợi của các chủ nợ, nhất là khi con
nợ bị mất khả năng thanh toán. Pháp luật phá sản ra đời đã quy định về thủ
tục xử lý tài sản phá sản, một thủ tục đòi nợ đặc biệt cho các chủ nợ. Có thể
nói, điều mà các chủ nợ lo ngại nhất là con nợ không thể trả lại các khoản nợ
27
đã vay của mình. Tuy nhiên, thông qua xử lý tài sản phá sản, các doanh
nghiệp hợp tác xã có nguy cơ phá sản sẽ có cơ hội được phục hồi, trở lại tình
trạng ban đầu, có khả năng thanh toán các khoản nợ của chủ nợ. Còn nếu
doanh nghiệp, hợp tác xã không thể phục hồi, bị tuyên bố phá sản thì các tài
sản phá sản của doanh nghiệp cũng được xác định giá trị tài sản của doanh
nghiệp phá sản để trả nợ cho các chủ nợ.
Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, áp
dụng thủ tục xử lý tài sản phá sản là một giải pháp tránh việc các chủ nợ tự do
tranh dành “xiết nợ”, ngăn cản các chủ nợ đòi nợ theo kiểu mạnh ai nấy đòi,
từ đó dẫn đến tình trạng mất trật tự xã hội. Thủ tục xử lý tài sản phá sản là do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành, đảm bảo cho việc thực thi được
thống nhất, trật tự, bằng mọi cách tạo điều kiện cho con nợ khắc phục khó
khăn, khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường hoặc tạo cơ hội
cho con nợ rút khỏi thương trường một cách có trật tự.
Tóm lại, có thể thấy việc xử lý tài sản phá sản nếu không được quy
định cụ thể về trình tự, cách thức có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng
về kinh tế - xã hội. Các hậu quả này nhiều khi là nguyên nhân của tình trạng
lộn xộn trong đời sống xã hội. Vì vậy, quá trình xử lý tài sản phá sản nhất
thiết phải được tiến hành một cách quy củ, trật tự thông qua một trình tự, thủ
tục giải quyết một vụ phá sản.
Tiểu kết chương 1
Nền kinh tế nào cũng luôn tồn tại một bộ phận quan hệ kinh tế quan
trọng và tương ứng với nó có một bộ phận quy phạm pháp luật điều chỉnh
Thành lập – Phá sản. Các tranh chấp xuất hiện càng nhiều với quy mô phức
tạp, đó cũng là hình thức loại bỏ dần các doanh nghiệp yếu kém và không có
chiến lược đúng đắn trong quá trình sản xuất trao đổi sản phẩm, hàng hoá.
Qua nhiên cứu nội dung của chương 1, tác giả đưa ra một số lết luận về tài
28
sản phá sản như sau:
1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm
bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có
và tài sản hình thành trong tương lai.
2. Xử lý tài sản phá sản là một thủ tục đặc biệt vì bản chất của xử lý tài
sản phá sản là việc Tòa án ra quyết định chấm dứt hoạt động của con nợ và
nhân cơ hội đó mà thu hồi tài sản còn lại của con nợ, xác định giá trị tài sản
bằng tiền và chia cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định. Như vậy,
thủ tục xử lý tài sản phá sản liên quan đến ba hoạt động: thu hồi tài sản, xử lý
tài sản và thanh toán tiền cho các chủ nợ. Xử lý tài sản phá sản quy định trong
Luật Phá sản Việt Nam 2014 bao gồm hai thủ tục chính xác định giá trị tài sản của
doanh nghiệp mất khă năng thanh toán và thanh toán cho các chủ nợ và người
lao động.
3. Nội dung của xử lý tài sản phá sản gồm thu hồi tài sản phá sản,phục
hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, phân
chia tài sản phá sản theo thứ tự ưu tiên. Bắt đầu xác định giá trị tài sản phá
sản, chủ thể đảm nhận nhiệm vụ này sẽ phải có nghĩa vụ thông báo cho các
chủ nợ rồi tiến hành kê biên tài sản để thu hồi tài sản phá sản, xử lý tài sản
phá sản là việc xác định giá trị tài sản phá sản sau khi hoàn tất việc thu hồi tài
sản phá sản. Đây còn là một thủ tục xử lý nợ mang tính chất tập thể cao,
không mang tính cá nhân, riêng lẻ.Thanh toán cho các chủ nợ theo thứ tự ưu
tiên được quy định trong Pháp Luật Phá sản 2014.
Tóm lại, mốc đánh dấu quan trọng cho sự hình thành pháp luật phá sản
ở Việt Nam là sự ra đời của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1994, Luật Phá
sản năm 2004 và mới đây là Luật Phá sản năm 2014. Trên cơ sở kế thừa nền
29
tảng của Luật cũ, Luật Phá sản 2014 có nhiều nội dung mới so với Luật cũ.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
XỬ LÝ TÀI SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM
2.1. Những quy định pháp luật về thủ tục xử lý tài sản phá sản
2.1.1. Quy định về chủ thể tham gia xử lý tài sản phá sản
Pháp luật Phá sản đã có sự đa dạng hóa các loại thủ tục áp dụng đối với
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản bao gồm: thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh, thủ tục xử lý tài sản phá sản, thủ tục tuyên bố phá sản.Theo
truyền thống, tuyên bố doanh nghiệp phá sản là tiền đề pháp lý cho việc thanh
lý tài sản phá sản. Khi tuyên bố phá sản một doanh nghiệp thì đối với con nợ
cũng là một cách thức pháp lý thu hồi nợ của các chủ nợ. Các chủ nợ thu hồi
nợ bằng yêu cầu của Tòa án, quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản trở nên
rườm rà và bị phá sản. Tuy nhiên, hai quyết định này đều có thể bị khiếu nại
và kháng nghị và đòi hỏi thời gian giải quyết.
Thanh lý tài sản phá sản nếu chỉ là một nội dung của thủ tục tuyên bố
phá sản dựa trên quyết định tuyên bố phá sản thì thủ tục phá sản chỉ là một
nội dung của thủ tục tuyên bố phá sản. Thanh lý tài sản có thể có hoặc có thể
không nhưng tuyên bố phá sản là một trong những mục tiêu chính của thủ tục
phá sản khi doanh nghiệp không thể phục hồi. Chủ thể xử lý tài sản của doanh
nghiệp phá sản là một thẩm phán do Tòa án bổ nhiệm, việc quản lý, xử lý tài
sản phá sản được giao cho một nhóm người do Tòa án thành lập ra và gọi là
Tổ quản lý tài sản.
• Tòa án
Thẩm quyền giải quyết việc phá sản ở hầu hết các nước đều có quy
định chung là Tòa án và ở Việt Nam cũng vậy, Thẩm quyền giải quyết việc
phá sản của một doanh nghiệp là Tòa án. Luật phá sản doanh ngiệp năm 1993,
30
Luật Phá sản năm 2004 và nay là Luật Phá sản năm 2014 đều quy định tòa án
là cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc phá sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã. Ở Việt Nam, trong quy định của pháp luật phá sản, Tòa án luôn luôn được
thiết kế như một chủ thể có vai trò quyết định, một nhân vật trung tâm trong
nhiều hoạt động của tố tụng phá sản.
Thẩm quyền của Tòa án, Tòa án phải thụ lý đơn khi có đơn nộp yêu cầu
mở thủ tục phá sản. Theo quy định tại Điều 32 Luật Phá sản (2014) thì Tòa án
sẽ thông báo cho người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản về việc nộp lệ
phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản nếu đơn yêu cầu hợp lệ; có quyền yêu
cầu người nộp đơn sửa đổi, bổ sung đơn nếu có thiếu sót; Tòa án chuyển đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền nếu thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân khác; và Tòa án cũng có thể trả
lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi xảy ra các trường hợp quy định tại
Khoản 1 Điều 35.
Trong việc mở thủ tục phá sản, Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản có quyền ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản (Điều
42 Luật Phá sản (2014)). Nếu ra quyết định mở thủ tục phá sản, trong thời hạn
03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, Thẩm phán của Tòa án thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản có trách nhiệm chỉ định Quản tài viên hoặc doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Trong hội nghị chủ nợ, Tòa án có thẩm quyền triệu tập hội nghị chủ nợ;
thẩm phán được giao phân công phụ trách vụ phá sản tham gia điều hành việc
tiến hành hội nghị chủ nợ.
Tòa án có vai trò trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, trong
đó Thẩm phán được Tòa án giao phân công phụ trách vụ phá sản ra quyết định
công nhận nghị quyết của Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Nghị
quyết này có hiệu lực đối với tất cả người tham gia thủ tục phá sản có liên quan.
31
Theo định kỳ báo cáo, doanh nghiệp, hợp tác xã phải lập báo cáo về tình hình thực
hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã cho
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, xử lý tài sản phá sản có trách nhiệm báo cáo Thẩm phán.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân còn là chủ thể có thẩm quyền ra quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản theo thủ tục rút gọn, khi Hội nghị
chủ nợ không thành hoặc sau khi có Nghị quyết của hội nghị chủ nợ.
Thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp là Tòa án
quyết định. Tòa án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết phá sản.
Thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án đươc quy định tại Điều 8 Luật phá
sản (2014) cụ thể:
Thứ nhất, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết phá sản
đối với doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký doanh nghiệp, hợp tác
xã đăng ký kinh doanh tại tỉnh đó. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị
quyết 03/2016/NQ-HĐTP thì vụ việc phá sản có tính chất phức tạp là vụ việc
không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c khoản 1
Điều 8 của Luật phá sản và doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục
phá sản thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Có từ trên 300 lao động trở lên hoặc có vốn điều lệ từ trên
100.000.000.000 (một trăm tỷ đồng) trở lên;
+ Là tổ chức tín dụng; doanh nghiệp, hợp tác xã cung ứng các sản phẩm,
dịch vụ công ích; doanh nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật;
+ Là tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước; doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài;
+ Có khoản nợ được Nhà nước bảo đảm hoặc có liên quan đến việc thực
hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên, văn bản thỏa thuận về đầu tư với cơ quan, tổ chức nước ngoài;
+ Có giao dịch bị yêu cầu tuyên bố là vô hiệu theo quy định tại Điều 59
32
của Luật phá sản 2014.
Thứ hai, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản
đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính tại huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh đó và không thuộc trường hợp quy định tại mục trên.
Luật phá sản năm 2004 quy định theo hướng doanh nghiệp, hợp tác xã
do cơ quan cấp nào đăng ký kinh doanh thì do Tòa án cấp ấy có thẩm quyền
giải quyết, việc căn cứ vào thẩm quyền đăng ký kinh doanh để quy định thẩm
quyền giải quyết của Tòa án là không phù hợp với các nguyên tắc pháp lý,
không thống nhất với quy định về thẩm quyền của Tòa án trong Bộ luật Tố
tụng dân sự 2004. Quy định thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo cấp, theo
lãnh thổ trong Luật phá sản (2014) được cho là phù hợp và thống nhất với các
quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004
+ Thẩm phán – người trực tiếp thực hiện việc giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp.
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ phá sản là Tòa án, song việc thực
hiện các hành vi tố tụng đều do Thẩm phán phụ trách tiến hành. Vì vậy, xem
xét đến vai trò, vị trí của Tòa án chính là xem xét vai trò, vị trí của Thẩm
phán, Thẩm phán giữ vai trò trung tâm, là chủ thể có vai trò quyết định trong
việc giải quyết các vấn đề pháp lý cơ bản. Thẩm phán là người thay mặt Tòa
án trực tiếp tiến hành các hành vi tố tụng. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán được quy định cụ thể trong Điều 9 Luật Phá sản (2014).
Thẩm phán có quyền quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.
Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán là người xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ liên quan đến việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nếu
Thẩm phán đồng thời là người tham gia thủ tục phá sản. Nếu Thẩm phán đồng
thời là người tham gia thủ tục phá sản; người đại diện người thân thích của
người tham gia thủ tục phá sản; người đại diện, người thân thích của người
tham gia thủ tục phá sản trong vụ việc phá sản đó, đã tham gia với tư cách
33
Kiểm sát viên, Quản tài viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người tham gia thủ tục phá sản, người giám định, thẩm định giá, định giá,
người phiên dịch trong vụ việc phá sản đó cùng trong một Tổ Thẩm phán giải
quyết phá sản đó và là người thân thiết với nhau, đã tham gia ra quyết định
tuyên bố phá sản đối với việc phá sản đó hoặc có căn cứ rõ ràng cho rằng
Thẩm phán có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ thì Thẩm phán phải từ
chối giải quyết yêu cầu phá sản. Thẩm phán còn là người quyết định đình chỉ
tiến hành thủ tục phá sản.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán liên quan đến quản lý tài sản của
doanh nghiệp phá sản bao gồm: Thẩm phán có quyền ra quyết định chỉ định
hoặc thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài sản, giám sát
hoạt động cuẩ Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài sản. Thẩm phán
ra quyết định việc thực hiện kiểm toán doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
trong trường hợp cần thiết; quyết định việc xử lý tài sản sau khi mở thủ tục
phá sản để đảm bảo chi phí phá sản; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời theo quy định của pháp luật để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
người lao động.
Nhiệm vụ, quyền lợi của Thẩm phán còn được thể hiện thông qua các
quyền liên quan đến Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán là người triệu tập, tổ chức
Hội nghị chủ nợ và là người quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị
chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Thẩm phán còn có nhiệm vụ quan trọng là tuyên bố phá sản đối với
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, đó là các trường hợp: Người nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán không còn tiền, tài sản khác để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá
sản; Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà doanh nghiệp, hợp tác
xã mất khả năng thanh toán không còn tài sản để thanh toán chi phí phá sản;
34
Quyết định tuyên bố phá sản khi Hội nghị chủ nợ không thành; Nghị quyết
của Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục vụ hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã; doanh nghiệp hợp tác xã không thực
hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Ngoài ra, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán được thể hiện qua nhóm
quyền liên quan đến việc áp dụng các biện pháp hành chính – tư pháp gồm:
quyết định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền dẫn giải đại diện của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo
quy định của pháp luật; quyết định áp dụng biện pháp xử lý phạt hành chính,
đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý về hình sự theo quy định của pháp luật.
Trong khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thẩm phán có
những mối quan hệ mất thiết với các chủ thể khác, cụ thể:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa Thẩm phán và Quản tài viên, Doanh
nghiệp quản lý, xử lý tài sản.
Thẩm phán có trách nhiệm ra quyết định chỉ định Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trong
quá trình giải quyết phá sản. Đồng thời Thẩm phán cũng là người ra quyết
định thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài sản trong trường
hợp cần thiết.
Thẩm phán có thẩm quyền giám sát hoạt động của Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, xử lý tài sản. Ngoài ra Thẩm phán có thẩm quyền xem xét và
chấp nhận những đề xuất của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài
sản như sau: đề xuất bán tài sản của doanh nghiệp để đảm bảo chi phí phá
sản; đề nghị tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ; áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời; áp dụng biện pháp xử lý tài sản có trách nhiệm thi hành những
quyết định của Thẩm phán về bán tài sản, thi hành các quyết định khác của
Thẩm phán trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, xử lý tài sản phải báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
35
của mình theo yêu cầu của Thẩm phán và chịu trách nhiệm trước Thẩm phán
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Có thể thấy, quan hệ giữa
Thẩm phán và Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài sản là quan hệ
hành chính – nghiệp vụ giữa một bên phụ trách và một bên thừa hành, thực thi
nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chủ nợ
Thẩm phán là người ra quyết định triệu tập Hội nghị chủ nợ. Thẩm
phán cũng là người phụ trách khai mạc Hội nghị chủ nợ, thông báo về những
người tham gia Hội nghị chủ nợ và nội dung việc giải quyết đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản. Khi Hội nghị chủ nợ ra Nghị quyết đề nghị tuyên bố phá sản doanh
nghiệp hoặc khi Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phụ hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Thẩm phán là người lập biên bản và quyết định
tuyên bố phá sản khi Hội nghị chủ nợ ra Nghị quyết đề nghị tuyên bố phá sản
khi Hội nghị chủ nợ không thành (khoản 3 Điều 80 Luật Phá sản (2014).
Thứ ba, mối quan hệ giữa Thẩm phán với doanh nghiệp phá sản
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp vẫn tiếp tục
hoạt động kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của Thẩm phán. Thẩm
phán có quyền ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán; quyết định
đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc quyết
định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc
quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản.
• Các thiết chế quản lý, xử lý tài sản
Việc quản lý, xử lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn do Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, xử lý tài sản
thực hiện, được thành lập bởi quyết định của Thẩm phán, đồng thời với quyết
định mở thủ tục phá sản theo quy định Luật phá sản 2014.
Khoản 2 Điều 9 Luật Phá sản 2004 quy định về tổ quản lý, xử lý tài sản
36
do Thẩm phán quyết định thành lập đồng thời với việc ra quyết định mở thủ
tục phá sản với cơ cấu bao gồm: 01 Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân
sự cùng cấp làm tổ trưởng, 01 cán bộ tòa án, 01 đại diện chủ nợ, 01 đại diện hợp
pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ thục phá sản và trường hợp cần
thiết có đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan
chuyên môn tham gia Tổ quản lý, xử lý tài sản thì Thẩm phán xem xét quyết
định. Tuy nhiên, các thành viên Tổ quản lý, xử lý tài sản đều là những người
thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm, do đó khi tham gia xử lý công việc thường lúng
túng, không chủ động về thời gian và công việc. Chính vì vậy, có nhiều vụ việc,
các thành viên trong tổ có nhiều ý kiến không đồng đều, nhiều khi dẫn đến mâu
thuẫn nội bộ, khó thống nhất, gây khó khăn trong vấn đề xử lý xử lý tài sản, kéo
dài thời gian.
Khắc phục những bất cập của chế định quản lý, xử lý tài sản phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán của luật
cũ, Luật Phá sản 2014, “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, xử lý tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình
giải quyết phá sản”, Luật Phá sản đã đưa ra những quy định mới về Quản tài
viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
• Chủ nợ và con nợ
Chủ nợ
Về nguyên tắc chung, tất cả các chủ nợ đều có quyền bình đẳng như
nhau trong việc đòi nợ và thu hồi nợ từ tài sản của doanh nghiệp mặc nợ. Chủ
nợ là những người có mối quan tâm trực tiếp đến việc phá sản vì các quyền về
tài sản của họ gắn với tài sản còn lại của doanh nghiệp, họ có quyền cùng
được tham gia vào quá trình xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản. Do tính
chất mối quan hệ giữa doanh nghiệp mắc nợ và khoản nợ mà tư cách chủ nợ
có sự khác biệt về tư cách chủ nợ, họ có quyền và nghĩa vụ không hoàn toàn
giống nhau. Với tư cách là chủ thể tham gia thủ tục phá sản, chủ nợ có các
37
quyền như: Nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản; quyền gửi giấy đòi nợ; quyền
khiếu nại danh sách chủ nợ; quyền tham gia Hội nghị chủ nợ và biểu quyết tại
hội nghị chủ nợ. Tất cả các chủ nợ đều có quyền tham gia và thảo luận tại hội
nghị chủ nợ, tuy nhiên chỉ có chủ nợ không có đảm bảo mới có quyền biểu
quyết tại hội nghị chủ nợ.
Khoản 3 Điều 4 Luật Phá sản 2014 quy định, chủ nợ là cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ, bao gồm chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm
một phần và chủ nợ có bảo đảm. Chủ nợ có đảm bảo là cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba. Chủ nợ
có đảm bảo một phần là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh
nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm
bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba mà giá trị tài sản
bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó. Chủ nợ không có đảm bảo là cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa
vụ thanh toán khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Đây là căn cứ để xác định giá trị tài sản phá
sản có đảm bảo hay không đảm bảo.
Con nợ (Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn)
“Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn
thanh toán” theo Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản 2014 đã quy định. Mục tiêu
quan trọng nhất của Luật Phá sản 2014 quan trọng trong quá trình xử lý tài
sản phá sản là bảo đảm quyền lợi của cả chủ nợ và con nợ.
Quyền của Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
như sau:
1. Được tiếp tục hoạt động bình thường kể từ khi có quyết định mở thủ
38
tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp nhưng dưới sự giám sát
của thẩm phán và tổ quản lý tài sản. Giám đốc và các thành viên Hội đồng
quản trị vẫn phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của doanh nghiệp;
2. Xây dựng phương án phục hồi sau khi có quyết định mở thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp để đưa ra Hội nghị chủ nợ
quyết định;
3. Khiếu nại danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ;
4. Đề nghị xem xét lại Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.
2.1.2. Quy định về kiểm kê và xác định giá trị tài sản còn lại của
doanh nghiệp phá sản
• Kiểm kê tài sản phá sản của doanh nghiệp
Việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được
thực hiện theo quy định của pháp luật. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản giám sát hoạt động thanh lý tài sản doanh nghiệp, lập bảng kê
tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ được quy định cụ thể tại
Điều 65 Luật Phá sản 2014. Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá
sản, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong thời hạn 30 ngày
phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản đó.
Đối với những trường hợp cần thiết thì phải có văn bản đề nghị Thẩm
phán gia hạn, thời gian gia hạn không quá 30 ngày mỗi lần nhưng không quá
hai lần.
Đối với trường hợp đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã
vắng mặt thì người được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
chỉ định làm đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện công việc kiểm
kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Sau khi Bảng kiểm
kê tài sản đã được xác định giá trị phải gửi ngay cho Tòa án tiến hành thủ tục
phá sản.
Đối với trường hợp Tòa án nhân dân nhận thấy việc kiểm kê, xác định
39
giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1 Điều này là
không chính xác. Tòa án nhân dân yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Giá trị tài sản được xác định, định giá
theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê. Nếu đại diện doanh nghiệp, hợp tác
xã và những người khác không hợp tác về việc kiểm kê tài sản hoặc cố tình
làm sai lệch việc kiểm kê tài sản thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
• Xác định giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản
Căn cứ xác định nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán, Điều 51 Luật Phá sản 2014 quy định cụ thể: (i) Nghĩa vụ về tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đã được xác lập trước khi Tòa án nhân dân
ra quyết định mở thủ tục phá sản được xác định vào thời điểm ra quyết định
mở thủ tục phá sản; (ii) nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được
xác lập sau khi Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản được xác
định vào thời điểm ra quyết định tuyên bố phá sản.
Trường hợp nghĩa vụ về tài sản theo quy định trên không phải là tiền
thì Tòa án nhân dân xác định giá trị nghĩa vụ về tài sản đó bằng tiền.
Việc xác định giá trị tài sản phá sản của doanh nghiệp có vai trò quan
trọng trong việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả nang thanh toán nợ
đến hạn, nghĩa vụ tài sản chính xác góp phần vào việc xác định tài sản của
doanh nghiệp mắc nợ, hỗ trợ bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, đảm bảo
quyền lợi chính đáng cho chủ nợ và các bên liên quan.
Luật Phá sản 2014 cũng có những quy định cụ thể tài sản phá sản của
doanh nghiệp, bao gồm: Tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp
đang có trong doanh nghiệp; tiền hoặc tài sản góp vốn liên doanh, liên kết với
cá nhân, doanh nghiệp hoặc tổ chức khác; tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp
mà cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khác đang nợ hoặc chiếm đoạt; tài sản
40
đang cho thuê hoặc cho mượn.
Xác định khoản lãi đối với các khoản nợ đến hạn và chưa đến hạn chưa
được quy định cụ thể trong Luật Phá sản 2014, đặc biệt là các khoản nợ mới
phát sinh trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản. Chính vì vậy, đã dẫn đến
tình trạng áp dụng không thống nhất về việc tính lãi đối với các khoản nợ, nên
không bảo đảm quyền, nghĩa vụ các bên trong quá trình giải quyết yêu cầu
mở thủ tục phá sản.
Luật Phá sản 2014 đã bổ sung quy định về xác định tiền lãi đối với
khoản nợ tại Điều 52 để khắc phục tình trạng này. Các khoản nợ được tiếp tục
tính lãi theo thỏa thuận nhưng được tạm dừng việc trả lãi từ ngày ra quyết
định mở thủ tục phá sản.
Điều 86 của Luật Phá sản 2014 quy định đối với trường hợp Thẩm
phán ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản. Đình chỉ thủ tục phá
sản, phục hồi hoạt động kinh doanh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 95
của Luật Phá sản 2014 thì việc tạm dừng trả lãi chấm dứt, các bên tiếp tục
thực hiện việc trả lãi theo thỏa thuận.
Đối với khoản nợ mới phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản đến thời
điểm tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã thì tiền lãi của khoản nợ đó được xác
định theo thỏa thuận nhưng không trái với quy định của pháp luật. Kể từ ngày
ngày ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì khoản nợ
không được tiếp tục tính lãi.
Doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ liên đới về một khoản nợ mà một
hoặc tất cả các doanh nghiệp, hợp tác xã đó mất khả năng thanh toán thì chủ
nợ có quyền đòi bất cứ doanh nghiệp, hợp tác xã nào trong số các doanh
nghiệp, hợp tác xã đó thực hiện việc trả nợ cho mình theo quy định của pháp
luật về với nghĩa vụ về tài sản trong trường hợp liên đới.
Nghĩa vụ về tài sản trong trường hợp bảo lãnh, người bảo lãnh mất khả
41
năng thanh toán thì việc bảo lãnh được cũng được.
Luật Phá sản 2014 quy định về nghĩa vụ về tài sản trong trường hợp
bảo lãnh, người bảo lãnh mất khả năng thanh toán thì việc bảo lãnh được cũng
được cụ thể như sau: (i) Nếu nghĩa vụ bảo lãnh không thanh toán đầy đủ trong
phạm vi bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh
thanh toán phần còn thiếu; (ii) nếu nghĩa vụ bảo lãnh chưa phát sinh thì bên
được bảo lãnh thay thế biện pháp bảo đảm khác, trừ trường hợp người được
bảo lãnh và người nhận bảo lãnh có thỏa thuận khác.
Trường hợp người được bảo lãnh hoặc cả người bảo lãnh và người
được bảo lãnh đều mất khả năng thanh toán thì người bảo lãnh phải chịu trách
nhiệm thay cho người được bảo lãnh theo quy định của pháp luật.
Về nghĩa vụ đối với tài sản không thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp, Luật Phá sản 2014 cũng quy định rất chi tiết về trường hợp tài sản
thuê, mượn khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, tài sản nhận đảm bảo, hàng
hóa đã bán. Đối với tài sản thuê hoặc mượn, trong thời hạn 10 ngày nhận
được quyết định tuyên bố phá sản, chủ sở hữu tài sản cho doanh nghiệp, hợp
tác xã thuê hoặc mượn để dùng vào hoạt động kinh doanh phải xuất trình giấy
tờ chứng minh quyền sở hữu, hợp đồng cho thuê hoặc cho mượn với cơ quan
thi hành án dân sự để nhận lại tài sản của mình. Trường hợp doanh nghiệp,
hợp tác xã bị tuyên bố phá sản đã trả trước tiền thuê nhưng chưa hết thời hạn
thuê thì cho thuê chỉ được nhận lại tài sản sau khi đã thanh toán số tiền thuê
tương ứng với thời gian thuê còn lại để cơ quan thi hành án dân sự nhập vào
khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Trường hợp doanh nghiệp, hợp
tác xã bị tuyên bố phá sản đã chuyển nhượng tài sản cho thuê hoặc mượn cho
người khác mà không đòi lại được thì người cho thuê hoặc cho mượn có
quyền yêu cầu bồi thường đối với tài sản đó như khoản nợ không có bảo đảm.
Đối với tài sản nhận bảo đảm, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán chỉ trả lại tài sản nhận bảo đảm cho cá nhân, tổ chức đã giao tài
42
sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình đối
với doanh nghiệp, hợp tác xã trược khi Tòa án nhân dân mở thủ tục phá sản
trong trường hợp cá nhân, tổ chức đó đã thực hiện nghĩa vụ đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã.
Đối với hàng hóa đã bán, người bán đã gửi hàng hóa cho người mua là
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nhưng chưa được thanh
toán và người mua cũng chưa nhận được hàng hóa thì người bán được nhận
lại hàng hóa đó. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đã
nhận hàng hóa đó và không thể trả lại được thì người bán trở thành chủ nợ
không có bảo đảm.
2.1.3. Quy định về thu hồi, bảo quản tài sản và thứ tự ưu tiên phân
chia tài sản
- Thu hồi tài sản phá sản
Thu hồi tài sản là để bảo quản tài sản, ngăn chặn việc bán, chuyển giao
tài sản mà không được phép của Thẩm phán, ngăn chặn việc tẩu tán tài sản,
tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán thanh lý tài sản.
Quy định chi tiết việc thu hồi và quản lý tài sản, tài liệu, sổ sách kế toán, con
dấu của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý tài sản theo Điều
27 Nghị định 67/2006/NĐ-CP.
Việc thu hồi tài sản phá sản còn gặp nhiều khó khăn khi mà tài sản nằm
rải rác ở nhiều nơi, thậm chí ở các quốc gia, lãnh thổ khác nhau. Pháp luật
việt nam cũng thiếu các quy định về việc giải quyết các tranh chấp liên quan
đến thu hồi tài sản phá sản và việc khiếu nại quyết định thu hồi tài sản phá
sản. Công tác thu hồi nợ đối với doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản. Khi
doanh nghiệp được thành lập luôn tạo nhiều mối quan hệ liên doanh, liên kết,
hợp đồng mua bán, trao đổi hàng hóa qua lại ở nhiều địa phương trong cả
nước. Trong mối quan hệ thương mại, các doanh nghiệp, cá nhân có thể là
chủ nợ hoặc con nợ của nhau. Nếu doanh nghiệp, cá nhân là chủ nợ thì họ có
43
quyền và trách nhiệm báo cáo cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản biết liệt kê vốn
vào danh sách chủ nợ và chờ khi có phương án phân chia tài sản để được nhận
lại toàn bộ hoặc một phần tài sản mà doanh nghiệp, cá nhân đã đầu tư vào
doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản. Ngược lại, nếu con nợ là doanh
nghiệp thì công tác thu hồi nợ gặp nhiều khó khăn, bởi các con nợ thường tìm
mọi cách né tránh công nợ phải trả như là Giám đốc Công ty đi công tác xa
không biết khi nào về, hoặc doanh nghiệp đang đầu tư vào các dự án lớn, nên
chưa tính đến việc thanh toán nợ phải trả, v.v.. Đối với con nợ là cá nhân làm
đại lý và chủ yếu là cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, họ phải tự đi tìm kế sinh nhai ở nhiều địa phương khác nhau và
không có địa chỉ rõ ràng, cho nên công tác thu hồi nợ đối với cá nhân lại càng
khó khăn và phức tạp hơn, không khác gì đi “mò kim đáy biển”.
- Bảo quản tài sản phá sản và các biện pháp bảo quản tài sản
Bảo quản tài sản phá sản để ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà
không được phép của Thẩm phán, ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, tối đa hóa
giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán, thanh lý tài sản.
Để bảo quản tài sản phá sản, cơ quan có thẩm quyền tiến hành các biện
pháp bảo toàn tài sản được quy định trong Luật Phá sản 2014, bao gồm:
“Tuyên bố giao dịch vô hiệu; tạm đình chỉ, đình chỉ thực hiện Hợp đồng đang
có hiệu lực; bù trừ nghĩa vụ; gửi giấy đòi nợ; lập danh sách chủ nợ; lập danh
sách người mắc nợ; đăng ký giao dịch bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã
mất khả năng thanh toán; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời” (điều 60.
61.63, 66, 67, 68, 70 Luật phá sản năm 2014).
Điều 48 Luật Phá sản 2014 đã đưa ra quy định nghiêm cấm doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động sau khi có Quyết định mở thủ tục phá sản, bao
gồm: cất giấu, tẩu tán tài sản, tặng cho tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để
bảo vệ tối đa quyền lợi của các chủ nợ, pháp luật phá sản đã có những quy
định nhằm bảo toàn khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
44
nợ đến hạn không bị thất thoát; từ bỏ đòi nợ của mình; chuyển các khoản nợ
không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài
sản của doanh nghiệp.
Kể từ ngày nhận được Quyết định mở thủ tục phá sản, bên cạnh những
hoạt động bị cấm, doanh nghiệp cũng được phép thực hiện một số hoạt động
sau nhưng phải báo cáo Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
trước khi thực hiện: hoạt động vay, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, mua bán,
chuyển nhượng, cho thuê tài sản, bán, chuyển đổi cổ phần, chuyển nhượng,
cho thuê tài sản, chấm dứt thực hiện hợp đồng có hiệu lực, thanh toán khoản
phát sinh nợ sau khi mở thủ tục phá sản, trả lương cho người lao động trong
doanh nghiệp, hợp tác xã. Theo quy định của pháp luật, các hoạt động trên
được thực hiện mà không có sự đồng ý của Quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản thì bị đình chỉ thực hiện, khôi phục lại tình trạng ban đầu
và giải quyết hậu quả.
Tuyên bố vô hiệu với một số giao dịch của doanh nghiệp, trong khoảng
thời gian trước khi đưa ra Tòa án, doanh nghiệp mắc nợ có thể thực hiện
những hành vi như cất giấu, tẩu tán tài sản, cho tặng tài sản… làm giảm số tài
sản hiện còn. Pháp luật Việt nam quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản phải có trách nhiệm xem xét giao dịch của doanh nghiệp
và có quyền đề nghị Tòa án nhân dân xem xét tuyên bố những giao dịch vô
hiệu để ngăn chặn hành vi đó, bảo đảm quyền lợi của các chủ nợ.
Trong thời gian 06 tháng trước ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở
thủ tục phá sản, giao dịch của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán được
thực hiện bị coi là vô hiệu nếu thuộc một trong các trường hợp như sau: Giao
dịch liên quan đến chuyển nhượng tài sản không theo giá thị trường; chuyển
khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần
bằng tài sản của doanh nghiệp; thanh toán hoặc bù trừ có lợi cho một chủ nợ
45
đối với khoản nợ chưa đến hạn hoặc với số tiền lớn hơn khoản nợ đến hạn;
tặng cho tài sản; giao dịch ngoài mục đích hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp; giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp.
Trong thời gian 18 tháng trước ngày Tòa án nhân dân ra Quyết định mở
thủ tục phá sản, giao dịch của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo quy
định trên được thực hiện với những người liên quan thì bị coi là vô hiệu.
Những người liên quan bao gồm: công ty mẹ, người quản lý công ty mẹ và
người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý đối với công ty con. Công ty
con đối với công ty mẹ, người quản lý doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp,
vợ , chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh chị em
ruột của người quản lý doanh nghiệp hoặc của thành viên, cổ đông sở hữu
phần vốn góp hay cổ phần chi phối, cá nhân được ủy quyền đại diện cho
những người theo quy định trên, doanh nghiệp hoặc của thành viên, cổ đông
sở hữu phần vón góp hay cổ phần chi phối, cá nhân được ủy quyền đại diện
cho những người theo quy định trên, doanh nghiệp trong đó những người quy
định trên có sở hữu đến mức chi phối việc ra quyết định cuẩ cơ quan quản lý
ở doanh nghiệp đó, nhóm người thỏa thuận cùng phối hợp để thâu tóm phần
góp vốn, cổ phần hoặc lợi ích ở công ty hoặc để chi phối việc ra quyết định
của công ty.
- Thứ tự ưu tiên phân chia tài sản phá sản
Luật Phá sản 2014 cũng tách riêng quy định về xử lý các khoản nợ có
bảo đảm thành các chế định riêng và được xử lý trước khi doanh nghiệp, hợp tác
xã bị tuyên bố phá sản. Còn các khoản nợ không có bảo đảm được thanh toán
theo một thứ tự ưu tiên, quy định tại Điều 54 Luật phá sản năm 2014, cụ thể:
- “Chi phí phá sản là khoản tiền phải chi trả cho việc giải quyết phá
sản, theo luật quy định thì chi phí phá sản bao gồm chi phí Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, chi phí kiểm toán, chi phí đăng báo và
46
các chi phí khác theo quy định của pháp luật”.
- Chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được
tính theo quy định của pháp luật tại Điều 21 Nghị định 22/2015/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài viên và hành
nghề quản lý, thanh lý tài sản. “Chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản bao gồm thù lao Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý
tài sản và chi phí khác như tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho
việc thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản”.
- Chi phí trả người lao động là của doanh nghiệp, hợp tác xã là “Khoản
nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao
động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã
ký kết”. Vì vậy, việc xử lý các khoản nợ đối với người lao động cũng là việc
được ưu tiên để bảo đảm quyền lợi chính đáng, người lao động trong doanh
nghiệp, hợp tác xã phá sản được xác định theo quy định tại Điều 2 Nghị định
94/2005/NĐ-CP có nghĩa vụ phải gửi giấy đòi nợ theo quy định của pháp luật
để xác định được khoản nợ của doanh nghiệp đối với mình, đảm bảo quyền và
lợi ích tối đa.
- Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục
hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã. Luật Phá sản 2014 đã
bổ sung một số điểm mới, các chủ nợ mới phát sinh sau khi mở thủ tục phá
sản nhằm phục hồi hoạt động kinh doanh là những chủ nợ có quyền được ưu
tiên thanh toán trong mọi trường hợp đặc trưng của mình. Như vậy, các quy
định của luật về thủ tục phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp mới có tính
khả thi, nếu không có bảo đảm về quyền lợi ưu tiên thanh toán thì không chủ
nợ nào lại giao kết hợp đồng với một con nợ đã có quyết định mở thủ tục phá
sản và mọi cố gắng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ
là không khả thi. Sau khi mở thủ tục phá sản nhằm phục hồi kinh doanh,
quyền ưu tiên thanh toán của chủ nợ mới đã tạo tâm lý yên tâm để đầu tư vào
47
doanh nghiệp đang gặp khó khăn của các chủ nợ mới.
- Khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ
nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm
không đủ thanh toán nợ. Đó là nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước:
- Nếu đã thanh toán xong các khoản về chi phí phá sản; khoản nợ
lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao
động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã
ký kết; khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục
hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã; nghĩa vụ tài chính
đối với Nhà nước mà vẫn còn tài sản để chia thì sẽ tiếp tục trả cho các khoản
nợ còn lại cho tới hết. Trường hợp số tiền còn lại mà không đủ để trả lại hết
các khoản nợ cùng một thứ tự thì phải chia đều theo tỷ lệ phần tram tương
ứng với số nợ. Còn nếu khi thanh toán xong các khoản trên mà không còn tài
sản để thanh toán nợ không bảo đảm hoặc nợ có bảo đảm chưa được thanh
toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ thì sẽ không được
thanh toán nữa.
Khi phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản,
có thể có 3 tình huống xảy ra:
Thứ nhất, mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình nếu giá
trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản còn đủ để thanh toán các khoản nợ
cho các chủ nợ.
Thứ hai, mỗi chủ nợ được thanh toán một phần các khoản nợ của mình
theo tỷ lệ tương ứng nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản
không đủ để thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ.
Thứ ba, chủ sở hữu doanh nghiệp nếu vẫn còn thừa tài sản thì phần còn
lại thuộc chủ sở hữu doanh nghiệp, cụ thể phần còn lại sẽ thuộc về: chủ doanh
nghiệp nếu là doanh nghiệp tư nhân; các thành viên công ty nếu là công ty;
ngân sách nhà nước nếu là doanh nghiệp nhà nước.
48
2.1.4. Quy định về cách thức xử lý các loại tài sản phá sản
• Xử lý tài sản là quyền sử dụng đất
Tài sản phá sản sẽ được giao cho người phải thi hành án là quyền sử
dụng đất đã kê biên trong hai trường hợp: Người được thi hành án nhận quyền
sử dụng đất đã kê biên trừ vào số tiền được thi hành hành án khi đương sự có
thỏa thuận với nhau; Trong trường hợp tiến hành bán đấu giá, nhưng không
có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành.
Xử lý tài sản phá sản, vật kiến trúc của doanh nghiệp gắn liền trên đất
thuê của Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp được thành lập và thuê đất của Nhà
nước đầu tư vốn liếng xây dựng trụ sở làm việc, nhà xưởng… để sản xuất
kinh doanh. Tuy nhiên, trong hoạt động sản xuất kinh doanh chẳng may gặp
rũi ro, đưa đẩy doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ kéo dài, đã có nhiều
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, nhưng không khắc phục được và
các chủ nợ yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản để thu
hồi lại vốn cho vay. Trong thời gian Tòa án đang giải quyết, UBND có thẩm
quyền thu hồi lại đất cho doanh nghiệp thuê xây dựng trụ sở làm việc, nhà
kho, nhà xưởng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
• Xử lý tài sản bảo đảm của chủ nợ có bảo đảm
Theo Luật Phá sản (2014), việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp
đối với chủ nợ có bảo đảm tạm thời bị đình chỉ trong thời hạn 05 ngày kể từ
ngày Tòa án thụ lý vụ việc phá sản trừ trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ
bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị (Khoản 3, Điều 41).
Sau khi mở thủ tục phá sản, nếu không thực hiện thủ tục phục hồi kinh
doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục
hồi kinh doanh thì sẽ được xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối
với trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm đã đến hạn (Điểm b, Khoản 1, Điều
53). Xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện theo nghị quyết của hội nghị chủ
nợ (Điểm a, Khoản 1, Điều 53) Đối với trường hợp tài sản bảo đảm được sử
49
dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh.
Theo quy định tại Khoản 5, Điều 91, việc tài sản bảo đảm có được sử
dụng trong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh hay không là do chủ nợ
có bảo đảm quyết định. Thực tế, sẽ rất hiếm khi chủ nợ có bảo đảm đồng ý để
tài sản bảo đảm được sử dụng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Tòa án đình chỉ hợp đồng và xử lý khoản nợ có bảo đảm theo Điều 53
quy định đối với trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm chưa đến hạn trước khi
tuyên bố doanh nghiệp phá sản thì tòa án. Nói cách khác, lúc này nghĩa vụ
được bảo đảm mặc nhiên đến hạn và chủ nợ có bảo đảm được quyền xử lý tài
sản bảo đảm để thu hồi nợ.
Phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã nếu giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán số
nợ; phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ.
• Xử lý tài sản nằm rải rác ở nước ngoài
Trong bối cảnh hiện nay, các công ty đa quốc gia hoạt động trên toàn
thế giới, vì vậy, pháp luật phá sản các nước cũng cần được áp dụng đối với tất
cả tài sản của con nợ tại tất cả các nước đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ.
• Xử lý tài sản doanh nghiệp có tranh chấp
Trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã, nếu có xảy ra tranh chấp về tài sản thì việc xử lý tài sản tranh chấp được
thực hiện như sau:
Thứ nhất, Đối với tranh chấp tài sản trước khi có quyết định tuyên bố
phá sản thì:
(i) Tòa án nhân dân đang giải quyết vụ việc phá sản phải xem xét, tiến
hành phân các phần tài sản đang có tranh chấp với tài sản không có tranh chấp
50
của doanh nghiệp. Đối với phần tài sản có tranh chấp, thì không tiến hành giải
quyết với thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mà tách ra để giải
quyết bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
(ii) Khi tiến hành tách tài sản đang tranh chấp thành một vụ án khác thì
phải được thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản (2014),
cụ thể: “Quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án nhân dân phải được gửi
cho người nộp đơn, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, chủ
nợ, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ uant hi hành án dân sự, cơ quan
thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở
chính và đăng trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cổng
thông tin điện tử của Tòa án nhân dân và 02 số báo địa phương liên tiếp nơi
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có trụ sở chính”.
(iii) Sau khi có quyết định, bản án có liệu lực của Tòa án nhân dân có
thẩm quyền về giải quyết phần tài sản có tranh chấp đã được tách riêng nói
trên, thì Tòa án nhân dân đang tiến hành xử lý phá sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã như sau:
+ Nếu trước khi có quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản được nhập
vào tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
+ Nếu đã có quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản được phân chia
theo quyết định tuyên bố phá sản trước đó.
Khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thì Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã
tham gia giải quyết tranh chấp về tài sản.
Thứ hai, đối với tranh chấp tài sản trong quá trình thi hành quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản:
Sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, mà việc
thực hiện việc thanh lý tài sản theo quyết định đó có tranh chấp hoặc không thể
thi hành được thì Chấp hành viên, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý
51
tài sản, người tham gia thủ tục phá sản đề nghị Tòa án nhân dân đã giải quyết vụ
việc phá sản xem xét lại, trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị thì
Tòa án nhân dân xem xét và có thể ra các quyết định như sau:
(i) Không chấp nhận đề nghị xem xét lại, việc không chấp nhận phải
được thanh lập văn bản trả lời cho người có đơn yêu cầu. Nếu người nộp đơn
không đồng ý với văn bản không chấp nhận đề nghị của Tòa án có thẩm
quyền thì có quyền kháng nghị quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
phá sản. thủ tục kháng nghị quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá
sản được quy định tại Điều 111, Điều 112, Điều 113 Luật Phá sản (2014).
(ii) Chuyển đơn đề nghị đến người có thẩm quyền để xem xét, kháng
nghị quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định pháp luật.
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đại diện cho doanh
nghiệp, hợp tác xã tham gia giải quyết tranh chấp về tài sản.
2.1.5. Thủ tục bán và thanh toán giá trị tài sản
• Bán tài sản phá sản
Việc bán tài sản của doanh nghiệp mắc nợ thực hiện theo 02 hình thức:
Bán đấu giá và bán đấu giá không qua thủ tục đấu giá.
Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản theo quy định
của pháp luật về phá sản. Bán đấu giá tài sản thực hiện theo nguyên tắc đấu
giá tài sản như: Tuân thủ quy định của pháp luật; bảo đảm tính độc lập, trung
thực, công khai, minh bạch, công bằng, khách quan; bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu
giá, người mua được tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản, đấu giá viên;
cuộc đấu giá phải do đấu giá viên điều hành, trừ trường hợp cuộc đấu giá do
Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện. Bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
Ngoài ra, những tài sản còn lại của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản thường rất khó bán vì đó là các nhà xưởng, trang thiết bị kinh doanh
52
đã qua sử dụng, Tổ quản lý, thanh lý tài sản thi hành nhiệm vụ, quyền hạn của
mình theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Tài sản đưa ra đấu
giá sẽ được điều chỉnh giá đến khi đấu giá thành, tránh xuống cấp tài sản
thanh lý.
Việc bán tài sản phải được thực hiện trong thời hạn không quá 05 ngày
kể từ ngày làm việc kể từ ngày ban hành quyết định tuyên bố phá sản hoặc
quyết định bán tài sản. Bán đấu giá tài sản không qua đấu giá đối với tài sản
có giá trị từ 2.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng hoặc tài sản thanh lý có
nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị.
• Thanh toán giá trị tài sản của doanh nghiệp
Chấp hành viên mở một tài khoản tại Ngân hàng đứng tên cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản, các
khoản tiền thu hồi được từ doanh nghiệp phá sản sẽ được gửi vào đấy. Khi
nhận được báo của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về
kết quả thanh lý tài sản, Chấp hành viên thực hiện phương án phân chia tài
sản theo quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản sau khi nhận
được quyết định phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật phá sản về xử lý tài sản phá sản
2.2.1 Tình hình chung về thi hành pháp luật về xử lý tài sản phá sản
ở Việt Nam
Nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, việc các doanh nghiệp
lớn ngày càng phát triển, đồng thời các doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ, bị
loại khỏi thị trường kinh doanh là chuyện bình thường. Phá sản doanh nghiệp
là giải pháp xử lý dứt điểm những doanh nghiệp yếu kém, gặp khó khăn trong
kinh doanh, thua lỗ kéo dài và không còn khả năng tiếp tục hoạt động. Luật
Phá sản số 51/2014/QH13 đã được sửa đổi căn bản và toàn diện, giúp tháo gỡ
các vướng mắc trong giải quyết phá sản doanh nghiệp. Tòa án ra quyết định
mở thủ tục phá sản là tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp và
53
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của những người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn
theo quy định của pháp luật (Điều 5, Luật Phá sản). Tuy nhiên, tình trạng mất
khả năng thanh toán không nhất thiết sẽ dẫn tới việc mở thủ tục phá sản. Sau
09 năm thi hành Luật phá sản năm 2004, Luật phá sản năm 2004 được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/6/2004, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2004 và thay thế Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993. Có thể nói Luật này đã góp phần quan trọng trong việc bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã (sau đây viết tắt là DN, HTX) được thành lập và hoạt
động theo quy định của pháp luật và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan; đề cao vai trò, trách nhiệm của DN, HTX và các cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong hoạt động giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN, HTX. Bên
cạnh đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN, HTX đang trong tình trạng sản
xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách
có trật tự theo Luật Phá sản năm 2004 .
Tuy nhiên, theo tổng kết thi hành Luật Phá sản cho thấy, qua 9 năm
thực hiện, với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, toàn ngành Tòa án chỉ
thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong đó chỉ tuyên bố
được 46 doanh nghiệp bị phá sản. Tòa án thụ lý tổng số 336 đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản, ra quyết định mở thủ tục phá sản 236 trường hợp, và cũng
chỉ quyết định tuyên bố phá sản được 83 trường hợp theo Luật phá sản năm
2004, Năm 2012, có 69.874 doanh nghiệp đăng ký, trong khi đó có 44.906
doanh nghiệp dừng hoạt động và 9.355 doanh nghiệp giải thể (theo trang
thông tin hỗ trợ đăng ký doanh nghiệp). Theo Luật phá sản năm 2004, tình
hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp đã được
cải thiện nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Số lượng đơn yêu cầu tòa án
tuyên bố phá sản so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động là rất thấp;
54
hiệu quả giải quyết việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa hiệu quả giải
quyết việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn.
Nguyên nhân có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có
nguyên nhân quy định pháp luật phá sản chưa phù hợp với tình hình kinh tế
và xã hội, không tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức yêu cầu tuyên bố phá sản.
Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 còn tồn tại một số vướng
mắc; có những quy định của Luật phá sản năm 2004 còn mâu thuẫn, chưa
tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật khác; có những quy định
chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp), chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có
những cách hiểu khác nhau nhưng chưa được hướng dẫn kịp thời; có những
quy định chưa đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu
mở thủ tục phá sản cũng như doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu tuyên bố
phá sản; có những quy định chưa tương thích với pháp luật quốc tế... dẫn đến
hiệu quả áp dụng quy định Luật phá sản năm 2004 vào thực tiễn không cao.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 sau khi Luật phá sản năm 2004 được ban hành, ngày
24/5/2005; trong đó “Xác định rõ trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu nhà
nước và các chủ sở hữu khác, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền
sở hữu,...Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc
công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Tạo cơ sở pháp luật
để công dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và phát triển sản
xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, gia đình và
góp phần làm giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) và các cam kết quốc tế khác. Xây dựng một khung pháp luật
chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ đặc quyền
và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất
55
pháp luật áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn
thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên
giao kết hợp đồng, không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự
công cộng, phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế. Đổi mới cơ
bản pháp luật về phá sản” tại Mục 3 Phần II về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh có nhận định. Bên cạnh đó, ngày
19/02/2013, Thủ tướng ban hành Quyết định số 339/QĐ-TTg phê duyệt đề án
tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn liền với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo
hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-
2020, trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm các nội dung trên.
Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị và được Quốc hội quyết định đưa Dự án
Luật phá sản (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc
hội khoá XIII (2011-2016) , triển khai tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 và các văn bản có liên quan, đồng thời nhận thức được những bất cập
của thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004 hạn chế, bất cập của thực tiễn thi
hành Luật phá sản năm 2004.
Luật Phá sản năm 2014 được Quốc hội khóa 13 thông qua ngày
19/6/2014 trên cơ sở kế thừa những điểm tích cực, tiến bộ của Luật Phá sản
năm 2004, đồng thời có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật về phá sản, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước và quốc tế.
Tuy nhiên, thực tiễn xử lý tài sản phá sản khi áp dụng các quy định Luật Phá
sản năm 2014 cũng cho thấy, một số quy định còn chưa rõ ràng, thiếu cụ thể,
chưa bao quát toàn diện những phát sinh trong thực tiễn… cần được hướng
dẫn thi hành một cách cụ thể để việc áp dụng pháp luật về phá sản được thống
nhất, hiệu quả. Thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn liền với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và
năng lực cạnh tranh của DN, HTX là cần thiết và cấp bách khi ban hành Luật
56
Phá sản năm 2014; đồng thời tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách tư pháp,
tiếp tục từng bước hoàn thiện một cách căn bản hệ thống pháp luật kinh tế nói
chung và Luật Phá sản nói riêng; khắc phục các quy định của Luật phá sản
chưa phù hợp, gây khó khăn cho việc áp dụng, cũng như các vấn đề mới phát
sinh vướng mắc trong quá trình thực tiễn; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của DN, HTX, cá nhân, cơ quan, tổ chức, xử lý tài sản
phá sản giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản công khai, rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp
dụng và phù hợp quy định pháp luật.
2.2.2. Hạn chế, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng các
quy định pháp luật về xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản 2014
Luật phá sản (2014) đã có bước phát triển và đạt được những kết quả
quan trọng, góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế về thủ tục giải quyết
các vụ việc phá sản theo quy định của Luật Phá sản 2004, tạo hành lang pháp
lý để Tòa án giải quyết nhanh việc phá sản của các doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Đặc biệt là các vấn đề liên quan
đến việc thống nhất giữa các luật. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Luật Phá sản 2014 và Luật Thi hành án dân sự ra quyết định
thi hành án đối với quyết định tuyên bố phá sản không thống nhất với nhau.
Quy định thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản của Tòa
án là của cơ quan thi hành án dân sự. Tại khoản 2 Điều 36 Luật thi hành án
dân sự quy định thời hạn ra quyết định thi hành án đối với quyết định tuyên
bố phá sản là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định. Tại khoản 1
Điều 120 Luật phá sản 2014 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ
ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, cơ quan thi hành án dân sự có trách
nhiệm chủ động ra quyết định thi hành”.
Thứ hai, Những “chủ nợ” trong danh sách chủ nợ tại quyết định tuyên
bố phá sản của Tòa án là những người được thi hành án. Vậy những “chủ nợ”
57
có được hưởng các quyền của người được thi hành án hay không và Chấp
hành viên có phải thực hiện việc thông báo các quyết định về thi hành án và
các văn bản khác liên quan đến việc thi hành án cho các chủ nợ hay không
chưa được làm rõ. Luật Thi hành án dân sự quy định tại khoản 2 Điều 3 thì
người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi
ích trong bản án, quyết định được thi hành và người được thi hành án được
hưởng các quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 7.
Thứ ba, về thẩm quyền của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh
lý tài sản trong việc định giá, tại khoản 1 Điều 122 Luật Phá sản 2014 quy
định: “Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá
sản, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải tổ chức định
giá tài sản theo quy định của pháp luật”. Theo đó thì Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoàn toàn chủ động trong việc định giá tài sản
mà không phụ thuộc vào việc cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi
hành án cũng như việc Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản.
Thứ tư, Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày
16.02.2015 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
phá sản về quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản nêu rõ nếu
phát hiện Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có hành vi vi
phạm quy định của pháp luật về phá sản, pháp luật về định giá tài sản dẫn đến
sai lệch kết quả định giá tài sản, Chấp hành viên yêu cầu Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc định giá lại tài sản, trừ trường
hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đó bị thay đổi theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 18 của Nghị định này. Theo quy định
tại khoản 1 Điều 123 Luật phá sản năm 2014 thì “việc định giá lại tài sản
được thực hiện khi có vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 122 của Luật
này dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản”. Trong khi đó, việc định giá lại
58
tài sản kê biên theo Điều 99 Luật thi hành án dân sự được thực hiện trong các
trường hợp sau đây: “a) Chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng quy định
tại Điều 98 của Luật này dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản; b) Đương
sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu
giá tài sản”. Như vậy, Luật Phá sản 2014 đã thu hẹp các trường hợp định giá
lại so với Luật thi hành án dân sự, chủ nợ (người được thi hành án) có thể sẽ
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án khi
không có quyền yêu cầu việc định giá lại.
Thứ năm, về bán đấu giá tài sản, Luật Phá sản 2014 và các văn bản
hướng dẫn thi hành đều không chỉ ra là khi thực hiện quyết định việc thanh lý
tài sản thì Chấp hành viên làm thủ tục gì (ra quyết định giảm giá hay quyết
định việc tiếp tục bán tài sản …), dẫn đến khó khăn trong việc có tiếp tục bán
đấu giá tài sản. Tại khoản 2 Điều 17 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP của Chính
phủ quy định: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo
cáo của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 17, Chấp hành viên quyết định việc thanh lý tài sản”.
Thứ sáu, về trình tự thủ tục khi Chấp hành viên thực hiện việc thanh lý
tài sản, khoản 4 Điều 121 Luật Phá sản 2014 quy định: sau 02 năm kể từ ngày
nhận được văn bản của Chấp hành viên yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản mà tài sản chưa được
thanh lý thì tài sản được giao trở lại cho cơ quan thi hành án dân sự xử lý,
thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật, gây khó khăn cho cơ quan thi
hành án dân sự trong việc tổ chức thi hành. Chấp hành viên cần áp dụng các
quy định của pháp luật về phá sản hay pháp luật về thi hành án để tiếp tục tổ
chức việc thanh lý tài sản? Trong trường hợp Chấp hành viên khi thực hiện
việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì có phải thực
hiện việc ra quyết định kê biên theo quy định của Luật thi hành án dân sự hay
chỉ tiến hành định giá lại tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Luật Phá
59
sản.
Thứ bảy, về chi phí thực hiện phá sản, chi phí thực hiện phá sản trong
trường hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện,
còn trong trường hợp Chấp hành viên thực hiện cưỡng chế để thu hồi tài sản,
giao tài sản cho người mua được tài sản và thực hiện việc thanh lý tài sản thì
chưa quy định rõ ai là người phải chi trả những chi phí trên. Điều 21 Nghị
định số 22/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi phí Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được thanh toán từ giá trị tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Chi phí Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bao gồm thù lao Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản và chi phí khác. Điều 73 Luật thi hành án dân sự đã
quy định rõ trường hợp nào người phải thi hành án chịu, trường hợp nào
người được thi hành án chịu và trường hợp nào thì ngân sách chịu. Tuy nhiên,
đối với trường hợp thi hành quyết định tuyên bố phá sản thì không có người
phải thi hành án, do đó, các chi phí cưỡng chế khi Chấp hành viên thực hiện
các công việc trên có được được thanh toán từ giá trị tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán hay không?
Thứ tám, yếu tố tâm lý, bên cạnh sự rườm rà trong thủ tục, lo bị phân
chia tài sản khi mà chủ doanh nghiệp, hợp tác xã đều nắm giữ một lượng tài
sản lớn trong công ty thì khi phân chia tài sản, số tài sản còn lại của họ chẳng
còn là bao, thậm chí là không còn gì và họ còn mang thêm nợ nần bản thân các
chủ doanh nghiệp cũng có tâm lý sợ phá sản, sợ gây ảnh hưởng đến uy tín,
danh dự của cá nhân mình hơn là một cơ hội để khôi phục hoạt động kinh
doanh.
Thứ chín, tình trạng chấp hành các quy định về chế độ tài chính – kế
toán trong các doanh nghiệp còn yếu kém, không tuân theo nhưng quy định
về chế độ tài chính – kế toán hiện hành, dẫn đến công nợ không rõ ràng, gian
60
dối về chứng từ kế toán. Do đó ảnh hưởng lớn đến tiến độ giải quyết phá sản
doanh nghiệp khi doanh nghiệp phá sản không minh bạch về tài chính khiến
cho tòa án rất khó xác định tình trạng phá sản của doanh nghiệp.
Thứ mười, việc xử lý tài sản phá sản chưa đáp ứng được yêu cầu của
công tác giải quyết tài sản phá sản, Năng lực xử lý tài sản phá sản đòi hỏi mỗi
thẩm phán không chỉ am hiểu sâu sắc về nội dung Luật phá sản mà còn về các
lĩnh vực chuyên ngành khác như tài chính, ngân hàng, quản lý kinh tế, các
ngành luật khác cho nên cũng ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản phá sản chưa
được hiệu quả cao.
Tiểu kết chương 2
Luật Phá sản 2014 ra đời là một bước tiến mới của pháp luật phá sản,
đã sửa đổi và bổ sung khá nhiều quy định mới về thử thủ xử lý tài sản phá
sản. Sửa đổi Luật Phá sản mới ra đời tạo điều kiện cho việc tiến hành thủ tục
phá sản được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, đảm bảo quyền lợi của tất cả các
chủ thể có liên quan. Tuy nhiên, thực tiễn đã cho thấy việc thực hiện thủ tục phá
sản doanh nghiệp1993, 2004 đã có rất nhiều vướng mắc, bất cập làm ảnh hưởng
đến hiệu quả thực thi trên thực tế, tỷ lệ doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục
phá sản còn ít, chưa phản ảnh đúng thực trạng tài chính của các chủ thể kinh
61
doanh.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014
3.1. Phương hướng hoàn thiện
Thông qua những phân tích, đánh giá về vấn đề lý luận về phá sản nói
chung và về vai trò của cơ chế quản lý, xử lý tài sản phá sản và thực trạng áp
dụng Luật phá sản có những bất cập, khó khăn vướng mắc trong quy định của
pháp luật hiện hành. Thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TƯ về chiến lược xây
dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020, tại Mục 3, phần II về xây dựng hoàn thiện pháp luật về sở hữu,
quyền tự do kinh doanh, hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh
theo nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, tạo
cơ sở pháp luật để công dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và
phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân,
gia đình và cho xã hội, góp phần ổn định trật tự xã hội, đổi mới cơ bản pháp
luật về phá sản. Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý tài sản
phá sản trên cơ sở hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật phá sản, hoàn thiện
trên cơ sở thực tiễn phát sinh để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế như sau:
Một là, thể chế hóa kịp thời đường lối chủ trương của Đảng và Nhà
nước trong việc hoàn thiện pháp luật phá sản nói chung và những quy định
pháp luật về thủ tục thanh lý, xử lý tài sản phá sản nói riêng;
Hai là, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về phá sản phải bảo đảm
tính kế thừa và phát triển, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của Luật
Phá sản với hệ thống pháp luật, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế đất nước
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế;
Ba là, trong thời gian qua LPS và các văn bản pháp luật có liên quan đã
62
được triển khai có hiệu quả trên thực tế. Do đó cần phải tiếp tục khẳng định ý
nghĩa, vai trò của các quy định pháp luật đó, đặc biệt là những quy định về
thanh lý tài sản, xử lý tài sản phá sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam
nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả do phá sản gây ra, bảo và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ kinh tế trước những rủi ro
trong kinh doanh và thông qua đó góp phần ổn định trật tự đời sống xã hội;
Bốn là, việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử
lý tài sản phá sản phải xuất phát yêu cầu phát sinh từ thực tế, công bằng, công
khai và minh bạch;
Năm là, phải bảo đảm cụ thể hoá giữa các quy định của Luật Phá sản
với các quy định của các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên. Đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đời sống xã
hội của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế;
Sáu là, bảo đảm cơ chế phục hồi DN, HTX bị lâm vào tình trạng phá
sản theo chủ trương tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng
trưởng cho DN,HTX có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh,
thoát khỏi tình trạng thua lỗ, phá sản, bảo đảm tính khả thi của các quy định
của Luật Phá sản với điều kiện, tình hình kinh tế đất nước trong giai đoạn
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm trình
tự và xử lý tài sản phá sản dân chủ, công khai, nhanh gọn, công bằng, thuận
lợi; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình
xử lý tài sản phá sản;
Bảy là, trong quá trình xử lý tài sản phá sản, Tòa án tạo điều kiện thuận
lợi nhất để các bên có thể xử lý tài sản phá sản giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản theo quy định của pháp luật phá sản;
Tám là, thực tiễn thi hành Luật phá sản và các văn bản có liên quan đến
xử lý tài sản phá sản đã bộc lộ những hạn chế, gây ra những khó khăn, vướng
63
mắc trong thực tiễn. Do đó, trong quá trình hoàn thiện pháp luật phá sản cần
phải khắc phục những tồn tại đó để các văn bản pháp luật về xử lý tài sản phá
sản đảm bảo.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản phá sản
Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phá sản trong bối cảnh mới hiện
nay, cần thực hiện các giải pháp sau:
1. Sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể, rõ ràng. Vì,
Nghị định 22/2015/NĐ-CP mới chỉ quy định chi phí thực hiện phá sản trong
trường hợp QTV, DNQLTLTS thực hiện còn trong trường hợp Chấp hành
viên thực hiện cưỡng chế để thu hồi tài sản, giao tài sản cho người mua được
tài sản thì chưa quy định rõ ai là người phải chi trả những chi phí trên. Ngoài
ra, trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, tại Điều 17 Nghị định số 22/2015/NĐ-
CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ quy định Chấp hành viên quyết định việc
thanh lý tài sản trong các trường hợp đấu giá không thành. Khi thực hiện
quyết định việc thanh lý tài sản thì Chấp hành viên cần phải làm thủ tục gì,
LPS 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều không chỉ ra nên dẫn đến
khó khăn trong việc có tiếp tục bán đấu giá tài sản hay không;
2. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi
hành án dân sự, ngân hàng, Quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề thanh lý
tài sản trong hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Trong đó, có quy định cơ chế
phối hợp giữa Tổ Thẩm phán với Viện Kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên, cơ
quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản . Ngày 08/10/2015, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hàn Thông
tư số 01/2015/TT-TA quy định về quy chế làm việc của các tổ thẩm phán
trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản. Ngày 28/6/2016 Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP
hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản. Trong thời gian tới
64
BộTư pháp, Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với các Bộ, ngành liên quan
nghiên cứu xây dựng Thông tư 75 liên tịch để hướng dẫn các quy định liên
quan đến thủ tục thi hành quyết định tuyên bố phá sản;
3. Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành hướng dẫn về việc chỉ định
quản tài viên. Một số trường hợp khi chủ nợ nộp đơn đề nghị mở thủ tục phá
sản và kèm theo đó là danh sách QTV đề nghị tòa án chỉ định. Tuy nhiên, chủ
nợ đó nhận được thông báo thụ lí phá sản mà tòa án gửi tòa án chỉ định một
QTV khác không nằm trong danh sách mà QTV mà chủ nợ yêu cầu. Do đó,
Tòa án nhân dân tối cao phối hợp cần với các cơ quan có liên quan cần ban
hành hướng dẫn về việc chỉ định QTV theo hướng: chỉ có những QTV có tên
trong danh sách do Sở Tư pháp tỉnh cung cấp để đảm bảo tính pháp lý, tiêu
chuẩn, năng lực của QTV và ưu tiên những QTV đã được chỉ định theo yêu
cầu của người nộp đơn đề nghị mở thủ tục phá sản hoặc của chủ nợ để xử lý
tài sản phá sản;
4. Thành lập tổ chức nghề nghiệp cho các Quản tài viên, Quản tài viên là
một ngành nghề mới, đầy triển vọng. Do đó vấn đề cấp thiết được đặt ra đó là
cần phải có một tổ chức nghề nghiệp cho các Quản tài viên, có thể lấy tên gọi
là Hiệp hội Quản tài viên Việt Nam. Thông qua đó, tạo tính kết nối nhằm đảm
bảo cơ chế và quyền lợi cho các Quản tài viên hoạt động xử lý tài sản phá sản;
5. Cần xây dựng luật văn bản pháp luật chuyên ngành về xử lý tài sản
phá sản, xác định giá trị tài sản có đảm bảo, giới hạn tài sản, quy chuẩn áp
dụng cụ thể đối với xử lý tài sản phá sản bất động sản.
6. Rà soát các luật có quy định liên quan đến xử lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã phá sản để sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ, thống nhất.
Luật phá sản thì việc xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp phá sản còn được
quy định trong các văn bản khác như: Bộ Luật dân sự, Luật doanh nghiệp,
Luật Đất đai, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản qui phạm pháp luật
hướng dẫn thi hành áp dụng các quy định của pháp luật về phá sản để giải
65
quyết các trường hợp phá sản cụ thể vẫn còn bị hạn chế, chồng chéo, mâu
thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong
hệ thống pháp luật Việt Nam thì thời gian tới cần phải rà soát để sửa đổi, bổ
sung hệ thống luật có liên quan vấn đề xử lý tài sản phá sản, cụ thể như sau:
- Đối với Luật Doanh nghiệp: việc xử lý tài sản phá sản của doanh
nghiệp trong LDN hiện nay vẫn còn có quy định chưa tương thích với LPS.
Theo quy định của LPS, tất cả các cổ đông đều thuộc cùng một thứ tự ưu tiên
thanh toán. Khi xác định giá trị còn lại của doanh nghiệp phá sản thì tất cả các
cổ đông đều được nhận giá trị tài sản còn lại của công ty cùng lúc và theo tỷ
lệ sở hữu cổ phần. Nhưng LDN quy định, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi lại
có cơ sở pháp lý tương đối rõ ràng để được nhận thanh toán trước các cổ đông
khác. Vì vậy, cần phải có sự thống nhất về vấn đề này để xử lý tài sản phá
sản hợp lý khi doanh nghiệp phá sản;
- Đối với Luật thi hành án dân sự: vẫn còn những hạn chế liên quan đến
thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản; về thời hạn ra quyết định
thi hành án; về quyền của người thi hành án; về định giá, định giá lại; về bán
đấu giá tài sản; về trình tự thủ tục khi Chấp hành viên tiến hành việc thanh lý
tài sản; về chi phí phá sản. Cơ quan Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng
trong quá trình xử lý tài sản phá sản và thi hành các quyết định của Tòa án
giải quyết phá sản. Luật THADS và LPS có sự không đồng nhất, cụ thể nên
cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn trong việc áp dụng xử lý tài sản phá sản
được hiệu quả cao hơn;
- Đối với Luật đất đai: Đất đai là lĩnh vực hết sức phức tạp. Liên quan
đến việc xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp liên quan đến quyền sử dụng
đất, LĐĐ và LPS vẫn còn có những quy định chưa đồng bộ trong việc xử lý
tài sản có liên quan đến quyền sử dụng đất, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp cho các bên, nhất là đối với các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
66
Đối với trường hợp giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền
sử dụng đất, cho doanh nghiệp thuê đất hàng năm, các thu hồi đất liên quan
rất vướng mắc, lúng túng.
- Tổ chức đào tạo về nghiệp vụ xử lý tài sản phá sản trước khi cấp chứng
chỉ hành nghề Quản tài viên. Theo quy định tại Điều 12 của LPS thì luật sư,
kiểm toán viên và người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, tài chính, ngân hàng
và có thời gian công tác từ 05 năm trở lên trong lĩnh vực được đào tạo thì
được cấp Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên. LPS không có quy định về đào
tạo nghề xử lý tài sản trước khi được cấp Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên.
7. Trong nền kinh tế thị trường đang phát triển đất nước, đội ngũ Quản
tài viên trong tương lai sẽ có nhiều thách thức cũng như cơ hội mới. Tăng
cường tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về xử lý tài sản tài sản cho các
Quản tài viên mới được cấp Chứng chỉ hành nghề. Đồng thời, tổ chức các lớp
bồi dưỡng kỹ năng hành nghề chuyên sâu về phục hồi doanh nghiệp phá sản
cho đội ngũ Quản tài viên. Tại các lớp tập huấn, bồi dưỡng, các chuyên gia là
Quản tài viên của Hiệp hội Quản tài viên quốc tế, các chuyên gia có kinh
nghiệm trong việc giải quyết vụ việc phá sản đã chia sẻ, cung cấp các kiến
thức pháp luật cơ bản và kỹ năng hành nghề cho đội ngũ Quản tài viên mới
được hình thành. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng vào lợi nhuận thì Quản tài viên
sẽ dễ mắc phải sai lầm trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị
phá sản. Vì vậy, vấn đề đạo đức của quản tài viên được đặt lên hàng đầu;
8. Tăng cường nâng cao đạo đức của Quản tài viên trong xử lý tài sản phá
sản của doanh nghiệp phá sản. Vì Quản tài viên sẽ dễ mắc phải sai lầm trong quá
trình xử lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản nếu chỉ nhìn vào lợi nhuận;
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý tài sản
phá sản
3.3.1. Bổ sung quy định cụ thể về giới hạn tài sản phá sản
Xử lý tài sản phá sản, phân chia tài sản phá sản của doanh nghiệp phá
67
sản bị thiếu tính chính xác, không công bằng cho các chủ thể tham gia xử lý
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Do tài sản phá sản theo
Luật Phá sản (2014) bị giới hạn về thời gian (khối tài sản phá sản tính đến
thời điểm mở thủ tục và những tài sản phát sinh trong quá trình xử lý tài sản
phá sản); không bị giới hạn bởi không gian tài sản tồn tại, loại hình tài sản,
nguồn hình thành tài sản và các danh mục loại trừ.
Về phạm vi lãnh thổ của tài sản, Điều 64 Luật Phá sản 2014 không quy
định rõ về nguyên tắc đối với trường hợp tài sản không nằm trên lãnh thổ Việt
Nam nhưng theo quy định tại Điều 117 về Ủy thác tư pháp của Tòa án nhân
dân Việt Nam đối với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Trong quá
trình xử lý tài sản phá sản, đối với tài sản không nằm trên lãnh thổ Việt Nam,
Tòa án nhân dân thực hiện ủy thác tư pháp theo hiệp định tương trợ tư pháp
mà nước Việt Nam là thành viên.
“Tài sản phá sản” theo Luật Phá sản 2014 khi liệt kê các loại tài sản
phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán tại Điều 64, tài
sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không giới
hạn trong phạm vi lãnh thổ, để các cơ chức năng cũng như những cá nhân có
thẩm quyền dễ hiểu, tránh gây suy đoán dẫn đến nhầm lẫn, áp dụng không
đúng các quy định của pháp luật.
3.3.2. Bổ sung các quy định về tài sản được loại trừ khỏi khối tài sản
phá sản
Danh mục các tài sản thuộc diện loại trừ khỏi khối tài sản phá sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán Luật Phá sản 2014 không đưa ra cụ
thể. Đối với trường hợp con nợ là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp
danh của công ty hợp danh thì pháp luật cũng phải xác định tài sản miễn trừ
khi giải quyết xử lý tài sản phá sản đối với họ. Vì vậy, nên bổ sung Luật Phá
sản 2014 về các loại tài sản miễn trừ khỏi khối tài sản phá sản, không thuộc
khối tài sản phá sản để đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp mất khả năng thanh
68
toán giống như thông lệ của các nước. Các tài sản, quyền về tài sản được
miễn trừ bao gồm: các đồ vật phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mang tính chất
tối thiểu của con nợ và các khoản trợ cấp cho con nợ do không còn khả năng
lao động, do bệnh tật, do mất việc làm; tiền lương hưu, các khoản nhận được
từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, các khoản cấp dưỡng sau khi ly hôn, tiền bồi
thường do sức khoẻ bị tổn hại do hành vi vi phạm pháp luật của người khác
gây ra,… những tài sản được quy định miễn trừ khỏi tài sản phá sản là hợp lý
và cần thiết.
3.3.3. Bổ sung những định hướng để thực hiện hiệu quả chế định
quản tài viên, doanh nghiệp quản lý tài sản, thanh lý tài sản
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 22/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản
tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Nghị định 22/2015/NĐ-CP
quy định tương đối đơn giản về thủ tục cấp Chứng chỉ hành nghề quản tài
viên. Những loại giấy tờ thiết yếu phải nộp đối với người đề nghị cấp Chứng
chỉ này chỉ gồm Đơn đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề quản tài viên, Sơ yếu
lí lịch, giấy tờ chứng minh là đối tượng được cấp Chứng chỉ và Phiếu lý lịch
tư pháp. Nghị định cũng nêu rõ trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc cấp
Chứng chỉ cho người đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề. Thời gian kể từ khi
Luật Phá sản 2014 được thông qua cho đến lúc có hiệu lực trên thực tế chỉ
hơn sáu tháng. Ở giai đoạn Luật Phá sản mới có hiệu lực, để đảm bảo chế
định quản tài viên phát huy tác dụng trên thực tế, các quy định pháp luật về
điều kiện và thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên là khá đơn giản.
Có thể thấy, pháp luật đã không đề cập tới việc đào tạo nghề quản tài viên mà
“đặc cách” trong giai đoạn đầu bằng việc cho người có đủ điều kiện đăng ký
để trở thành Quản tài viên.
Vì vậy, Luật Phá sản 2014 cũng cần thiết sửa đổi, bổ sung là việc thay
đổi chế định tổ quản lý, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thành chế định
69
quản tài viên trong xử lý tài sản phá sản.
Trách nhiệm và quyền hạn của Quản tài viên rất quan trọng trong việc
xử lý tài sản phá sản. Ngoài hiểu biết về pháp luật, quản tài viên còn phải thực
hiện những nhiệm vụ yêu cầu trình độ chuyên môn về kế toán, tài chính như
định giá tài sản; lập bảng kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp; quản lý
tài sản, tài liệu, sổ kế toán của doanh nghiệp… Có thể thấy, không phải luật
sư hay cử nhân luật nào có 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật cũng
am hiểu về lĩnh vực kinh tế, tài chính kế toán, quản trị kinh doanh; và ngược
lại, rất nhiều kiểm toán viên hay cử nhân kinh tế nhiều năm kinh nghiệm lại
có kiến thức rất hạn chế trong lĩnh vực pháp luật.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, việc trang bị, bồi dưỡng kiến thức
cho Quản tài viên là điều hết sức cần thiết để đảm bảo cho sự hoạt động có
hiệu quả của chế định này. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phá sản nên
bổ sung quy định về việc bồi dưỡng kiến thức bắt buộc đối với quản tài viên,
và có mức độ phù hợp với từng đối tượng.
3.3.4. Vấn đề định giá lại tài sản phá sản
Thực tế, việc xác định giá của tài sản phá sản là một việc phức tạp, giá
trị của tài sản phá sản trên thị trường có thể dao động theo từng ngày, từng
thời điểm khác nhau nên việc định giá chính xác tài sản rất khó khăn. Xử lý
tài sản phá sản phá sản trong Luật Phá sản 2014 có quy định trường hợp xét
thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh toán không chính xác thì Tòa án nhân dân yêu cầu Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá
trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Giá trị tài sản
được xác định, định giá theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê. Vậy giá trị
tài sản được định giá không chính xác là không chính xác đến mức độ nào thì
mới cần tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị tài sản. Pháp luật Phá sản nên
ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy định rõ việc xác định giá trị tài sản
70
phá sản trong xử lý tài sản Phá sản được phép dao dộng trong khoảng bao
nhiêu, tỉ lệ chênh lệch ra sao thì được coi là giá trị chính xác của tài sản và lớn
hơn khoảng chênh lệch đó thì bị coi là định giá không chính xác, cần phải
kiểm kê, xác định lại giá trị tài sản.
3.3.5. Về vấn đề thu hồi nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Pháp luật cần quy định rõ thời gian trả nợ của con nợ đối với chủ nợ là
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và hậu quả pháp lý đối với việc trả nợ.
Quá thời hạn quy định, nếu con nợ không trả nợ được thì cần tách ra để giải
quyết bằng vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật. Cần có phương án
giải quyết thống nhất đối với doanh nghiệp sau khi bán hết tài sản mà vẫn còn
một số nợ chưa đòi được, cơ quan thi hành án tiếp tục việc thu hồi nợ theo
quy định và sẽ phân chia cho các chủ nợ theo tỷ lệ đã có tại quyết định phân
chia tài sản ban đầu. Xử lý tài sản theo Luật Phá sản 2014 chưa có quy định rõ
ràng về việc trả nợ cho chủ nợ là doanh nghiệp mắc nợ, điều này gây nên sự
chậm trễ trong việc thu hồi tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
đối với những khoản nợ của doanh nghiệp mà khó đòi.
3.3.6. Làm rõ thời hạn gửi Bản kiểm kê tài sản
Bản kiểm kê tài sản nhằm xác định số lượng, giá trị tài sản của doanh
nghiệp mắc nợ. Việc kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản trong xử lý tài
sản phá sản là một công việc quan trọng trong quá trình thanh lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Theo quy định của pháp
luật Phá sản, bản kiểm kê tài sản đã được xác định giá trị phải gửi ngay cho
Tòa án nhân dân tiến hành thủ tục phá sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản 2014 quy
định là phải “gửi ngay” mà không quy định rõ thời hạn gửi bản kiểm kê tài
sản là trong phạm vi bao nhiêu ngày. Điều này gây nên sự lúng túng trong lúc
áp dụng, vì vậy, cần thiết phải ban hành văn bản hướng dẫn làm rõ quy định
của pháp luật về thời hạn gửi bản kiểm kê tài sản. Văn bản hướng dẫn cần
phải quy định rõ ràng bản kiểm kê tài sản phải gửi đi trong vòng bao nhiêu
71
ngày kể từ khi bản kiểm kê tài sản hoàn thành.
3.3.7. Tăng cường kỷ luật tài chính kế toán
Cần tăng cường công tác kiểm tra việc tuân thủ chế độ kế toán – tài
chính doanh nghiệp, bắt buộc doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính định kỳ; bổ
sung những quy định xử lý nghiêm khắc những vi phạm về kế toán, sổ sách.
Đây là một trong những nguyên nhân làm suy giảm hiệu quả của pháp luật
phá sản và cũng là một trong những nguyên nhân khó xác định được giá trị tài
sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
3.3.8. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật phá sản
Trước đây, việc xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản gặp nhiều khó
khăn một phần là do những chủ thể có liên quan đến phá sản doanh nghiệp
chưa nhận thức đúng và đầy đủ về phá sản và trình tự giải quyết xử lý tài sản
phá sản. Những quy định về xử lý tài sản phá sản thực thi có hiệu quả trong
thực tiễn áp dụng, thì vấn đề nhận thức pháp luật của xã hội là hết sức quan
trọng. Do đó, tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật Phá sản năm 2014,
đặc biệt là những quy định pháp luật về xử lý tài sản phá sản là điều hết sức
cần thiết. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật, xử lý tài sản phá sản theo quy
định hướng đến những người làm công tác áp dụng pháp luật như các cán bộ
trong các ngành Tòa án, Kiểm sát, Thi hành án dân sự, các luật sư và đặc biệt
là các doanh nghiệp để cho những đối tượng này nắm vững những quy định
của pháp luật phá sản, hiểu đúng và rõ ràng hơn, tuân thủ về xử lý tài sản phá
sản theo pháp luật phá sản.
3.3.9. Cần phải bồi dưỡng, nâng cao trình độ thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao cần thường xuyên, định kỳ tổ chức các hội
thảo khoa học, các khóa đào tạo nhằm bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong việc giải quyết xử lý tài
sản phá sản trong việc phá sản. Cần hướng tới đào tạo các Thẩm phán chuyên
trách về giải quyết, xử lý tài sản phá sản vì Thẩm phán là người trực tiếp giải
72
quyết việc phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Chất lượng và hiệu quả của việc
giải quyết, xử lý tài sản phá sản phụ thuộc nhiều vào trình độ chuyên môn của
Thẩm phán. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có các Thẩm phán chuyên
trách về phá sản mà thường là kiêm nhiệm. Tòa án nhân dânTC cũng cần
thường xuyên theo dõi quá trình thực thi giải quyết, xử lý tài sản phá sản theo
pháp luật phá sản. Đồng thời tổng kết rút kinh nghiệm từ các vụ việc phá sản
đã được giải quyết để kịp thời hướng dẫn xử lý những vướng mắc thường nảy
sinh trong quá trình thực hiện giải quyết, xử lý tài sản phá sản.
Tiểu kết chương 3
Luật Phá sản (2014) vừa có hiệu lực với rất nhiều sửa đổi bổ sung về
thủ tục phá sản. Tuy nhiên, để biết được thủ tục phá sản theo Luật mới có
thực sự hiệu quả hay không vẫn cần thời gian để thực tế. Các cơ quan có thẩm
quyền ban hành pháp luật cần phải có những định hướng, giải pháp cụ thể hơn
nữa làm cho luật mới ban hành có hiệu quả thi hành tốt trong thực tế, các cơ
quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc phá sản cũng như những cá nhân, tổ
chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc phá sản cần có cái nhìn
đúng đắn về bản chất, vai trò của Luật phá sản để từ đó cùng nhau góp phần
vào việc thực hiện thực thi hiệu quả Luật phá sản nói chung và thủ tục xử lý
73
tài sản nói riêng.
KẾT LUẬN
Xử lý tài sản phá sản là một thủ tục thanh toán nợ tập thể, nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích của toàn xã hội, cơ chế quản lý, xử lý tài sản phá sản đặt ra
những yêu cầu chặt chẽ cả về mặt quy định, thực thi pháp luật. Đặc biệt, trong
điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế của Việt Nam.
Thực tế, với tinh thần tự do kinh doanh mà Luật Doanh nghiệp ghi
nhận thì ngày càng có nhiều doanh nghiệp ra đời và với số lượng doanh
nghiệp ra đời lớn sẽ có không ít những doanh nghiệp phá sản. Vì vậy, phá sản
và việc quản lý và xử lý tài sản tài sản phá sản sẽ là vấn đề rất nổi cộm trong
thực tiễn, điều này đòi hỏi phải thực hiện tốt công tác xây dựng và áp dụng
các quy định của pháp luật về vấn đề này. Mặc dù Luật Phá sản năm 2014 bổ
sung quy định về áp dụng loại hình phá sản theo thủ tục rút gọn đối với
trường hợp doanh nghiệp nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản kèm theo đầy
đủ căn cứ chứng minh rằng không còn tiền và tài sản khác để nộp lệ phí phá
sản, tạm ứng chi phí phá sản. Đối với trường hợp trên, trong thời hạn 30 ngày
kể từ ngày Tòa án thông báo cho người tham gia thủ tục phá sản về việc giải
quyết phá sản theo thủ tục rút gọn, Tòa án sẽ xem xét, tuyên bố doanh nghiệp
phá sản hoặc tiếp tục giải quyết theo thủ tục thông thường và thông báo cho
người tham gia thủ tục phá sản biết.
Luật Phá sản (2014) đã có sự đổi mới căn bản và toàn diện, giúp tháo
gỡ các vướng mắc trong giải quyết, xử lý tài sản phá sản, song chưa có các
văn bản hướng dẫn chi tiết, còn thiếu cơ sở để triển khai áp dụng. Hiệu quả
của việc giải quyết, xử tài sản phá sản doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào
đối với các doanh nghiệp yếu kém, ngoài biện pháp giải thể, trong trường hợp
cần thiết, Pháp luật Phá sản cần tính đến việc xử lý tài sản phá sản để hạn chế
thiệt hại về tài chính, giải quyết dứt điểm, tránh tình trạng thua lỗ kéo dài,
phục hồi hoạt động kinh doanh hiệu quả, không ảnh hưởng xấu đến hiệu quả
74
đầu tư.
Xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản (2014) mà luận văn đã đi sâu
phân tích một số lý luận cơ bản về xử lý tài sản phá sản, khái niệm tài sản phá
sản trên cơ sở phân biệt rõ tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, phân tích những nét cơ bản xử lý tài sản phá sản, xác định giá
trị còn lại của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, thanh toán cho các chủ
nợ. Mối quan hệ giữa chủ thể giải quyết thủ tục sản phá sản với các chủ thể
xử lý tài sản phá sản. Làm sáng tỏ những quy định của LPS và PL liên quan
đến xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Luận
văn cũng phân tích rõ vai trò, thẩm quyền của các chủ thể tham gia xử lý tài
sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo quy định của
Luật Phá sản (2014).
Thu hồi tài sản phá sản, biện pháp bảo toàn tài sản và mục đích xử lý
tài sản phá sản nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ, người lao động, đảm
bảo an sinh xã hội. Luận văn cũng chỉ ra được những nguyên tắc và cách thức
cơ bản của chủ thể tham gia xử lý tài sản phá sản, nghĩa vụ về tài sản của
doanh nghiệp, các thiết chế quản lý tài sản, các phương thức xử lý tài sản, các
quyền về tài sản,thứ tự ưu tiên phân chia tài sản phá sản…. Vấn đề xử lý các
khoản nợ và phân chia tài sản phá sản theo thứ tự ưu tiên của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản theo quy định của pháp luật việt nam được đề cập
chi tiết khi áp dụng pháp luật về xử lý tài sản phá sản.
Luận văn đã nêu những nguyên nhân, khó khăn, vướng mắc mà các chủ
thể thường gặp khi áp dụng xử lý tài sản theo Luật Phá sản 2014 trong thực
tiễn và đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm sửa đổi bổ sung, hoàn thiện hệ
thống pháp luật về xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản 2014, một số giải
pháp về tổ chức thực hiện những quy định của pháp luật về xử lý tài sản phá
75
sản để những quy định của luật pháp và thực tế được hiệu quả hơn nữa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng kết thi hành Luật Phá sản của Tòa án Nhân dân tối cao.
23/09/2013.
2. Pháp luật phá sản tại Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Đặc
san Tuyên truyền pháp luật. 9/2014
3. Pháp luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp
hoàn thiện ngày 29/6/2017
4. Luật Doanh nghiệp năm 2005.
5. Luật Doanh nghiệp năm 2014.
6. Luật Đất đai năm 2003.
7. Luật Đất đai năm 2013.
8. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993.
9. Luật Phá sản 2004.
10. Luật Phá sản 2014.
11. Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
12. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án
dân sự;
13. Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài
viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản;
14. Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008
đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 ngày
25 tháng 11 năm 2014;
15. PGS.TS Dương Đăng Huệ, Thạc sỹ Nguyễn Thanh Tịnh (tháng 11/2008)
- “Thực trạng pháp luật về phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật
76
kinh doạnh tại Việt Nam”;
16. Phan Thị Mỹ Hạnh, Viện Dầu khí Việt Nam ngày 10/8/2017) - “Phá sản
doanh nghiệp và thi hành luật phá sản ở Việt Nam”;
17. Thạc sỹ Nguyễn Thị Dung (ngày 29/6/2017) - “ Pháp luật phá sản
doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”;
18. Thạc sỹ Nguyễn Kim Anh -“Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về phá sản ở Việt Nam”;
19. Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Vũ Thị Hồng Vân, khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2008 - “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy
định của pháp luật phá sản Việt Nam”;
20. Nghị quyết số 48/NQ-TƯ về chiến lược xây dựng hoàn thiện hệ thống
pháp luật việt nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
21. Nghị định 22/2015/NĐ-CP
22. Thạc sỹ Nguyễn Tuấn Hải (2016) “Thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo
Luật Phá sản (2014)”
23. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TƯ về chiến lược xây dựng
hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020;
24. Bộ Tư pháp, Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật – Tòa án nhân dân tối cao,
Viện Khoa học xét xử (2014) “ Đề cương giới thiệu Luật phá sản”;
25. Chính phủ nước CHXHCNVN (2005), Nghị định số 94/NĐ-CP ngày
15/07/2005 về việc giải quyết quyền lợi của người lao động ở doanh
nghiệp và hợp tác xã bị phá sản;
26. Chính phủ nước CHXHCNVN (2015), Nghị định số 22/NĐ-CP ngày
16/2/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về
Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản;
27. Chính phủ nước CHXHCNVN, Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/7/2015
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành
77
án dân sự;
28. Bộ Tư pháp – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao,
Thông tư liên tịch số 07/2018/TTLT – BTP-VKSNDTC-Tòa án nhân
dânTC ngày 12/6/2016 quy định việc phối hợp trong thi hành quyết định
của tào án giải quyết phá sản
29. https://baomoi.com/hoi-thao-thuc-tien-thi-hanh-luat-pha-san-nam-2014-
va-cac-van-ban-huong-dan/c/27808035.epi ngày 20/9/2018 Hội thảo
Thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2014 và các văn bản hướng dẫn
(truy cập ngày 07/3/2019);
30. Lê Ngọc Anh (2014), Pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam-
Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội;
31. Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tếTrung ương;
32. Đồng Ngọc Ba (2005), Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội;
33. BộTư pháp (2002), Đánh giá thực trạng thực hiện nghiên cứu, phân tích
để khuyến nghị hoàn thiện Luật Phá sản doanh nghiệp và các quy định
pháp luật khác có liên quan, Báo cáo phúc trình, chủ nhiệm đề tài TS
Dương Đăng Huệ;
34. https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0%C6%A1ng_m%E1%BA%A1i
35. http://vnclp.gov.vn/ct/cms/tintuc/Lists/NhaNuocVaPhapLuat/View_Deta
il.aspx?ItemID=302 Pháp luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện
78
36. 29/06/2017 Ths Nguyễn Thị Dung