30 Lời Tâm Sự - Ngô Thụy Miên

Trong nền tân nhạc Việt nam, đặc biệt là tình ca, dòng nhạc Ngô Thụy Miên

là một nét đẹp đài cát, mang một phong cách rất riêng. Người ta thường

cho rằng không có gì trong cuộc đời là vĩnh cữu. Nhưng Ngô Thụy Miên đã

đóng góp cho âm nhạc Việt nam những bản tình ca mà tôi tin rằng sẽ bất

tử.

Tôi đã hân hạnh được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên cho phép làm một bài phỏng

vấn sau đây. Hy vọng rằng qua bài phỏng vấn này, chúng ta sẽ cảm thấy

gần gũi hơn với tác giả của những bài tình ca tuyệt vời.

Hoàng Vi Kha

1. Trong các chủ đề sáng tác, thông thường là: Tình Yêu (đôi lứa), Thân

Phận, và Quê Hương, phần lớn các nhạc sĩ đều viết cho cả ba chủ đề này,

riêng chú, tất cả cho tình yêu (đôi lứa), vì hễ nói đến nhạc của chú, là nghĩ

ngay đến “tình ca”, vậy chú có thể cho biết tại sao chú lại chỉ chọn một chủ

đề mà thôi?

Từ bao nhiêu năm nay tôi chỉ viết tình ca vì thấy thích hợp với con người,

với cá tính của mình, và cũng vì tình yêu mãi mãi vẫn là một đề tài muôn

thưở cho người nghệ sĩ sáng tác. Các chủ đề Tình Yêu, Thân Phận, và Quê

Hương đã được khai triển rộng rãi trong nhiều thập niên vừa qua với bao

nhiêu tác giả và tác phẩm. Được biết đến như một người viết tình ca (đôi

lứa) cũng đã là quá đủ cho tôi rồi.

2. Chú viết rất nhiều cho tình yêu. Vậy theo chú, định nghĩa của chú về

tình yêu ra sao?

Cho, Chấp Nhận, và Tha Thứ.

Cho người, Chấp Nhận tình, và Tha Thứ cho mình, như một lần tôi đã

nói: Tình ơi! Dù sao đi nữa xin vẫn yêu em.

3. Trải theo thời gian, cái nhìn (hay quan niệm) về tình yêu của một người

sẽ có ít nhiều thay đổi, vậy ở chú thì sao? Có hay không sự đổi thay quan

niệm về tình yêu từ những tình khúc đầu tay của chú và những tình khúc

mới nhất? Sự thay đổi (nếu có) là nguyên do nào và thay đổi ra sao?

Dĩ nhiên, tình yêu cũng như đời sống, đều luôn biến đổi theo thời gian, và

không gian. Lấy 1975 làm dấu mốc quan trọng trong tình ca Ngô Thụy

Miên. Trước Em Còn Nhớ Mùa Xuân là một thời của tuổi trẻ, mộng mơ, lãng

mạn. Sau Em Còn Nhớ Mùa Xuân là hạnh phúc, khổ đau, là những mất

mát, hiện thực của đời sống. Ở tuổi 20, tình yêu nồng nàn, say đắm, miệt

mài… và khi cuộc tình đã chết thì là nỗi buồn đau, xót xa nhẹ nhàng của

Bản Tình Cuối, là tiếc nuối chất ngất của Niệm Khúc Cuối. Tuổi 30, tình yêu

thổi qua đời như cơn gió lạ đầu mùa, là bát ngát mộng mơ, rồi bỗng thành

chia lìa, tan tác. Đó là thời kỳ của Em Còn Nhớ Mùa Xuân, của Dốc Mơ. Còn

ở tuổi 40, tình sâu lắng cùng những tiếc nhớ khôn nguôi của một thời đã

qua với Trong Nỗi Nhớ Muộn Màng, Riêng Một Góc Trời. Tuổi 50, nhìn lại

mình, những sợi tóc xanh xưa đã bỏ đi như những kỷ niệm cũ, nhưng trái

tim hồng ngày nào vẫn rung động cùng Mưa Trên Cuộc Tình Tôi, Nỗi Đau

Muộn Màng...

4. Tình yêu đi liền với tính lãng mạn. Trong giòng nhạc của chú, bàng bạc

vẻ trữ tình, lãng mạn. Nhưng tính lãng mạn của Ngô Thụy Miên khác với

những nghệ sĩ khác. Chú có thể nào nói về sự lãng mạn đó?

Tính lãng mạn trong giòng nhạc Ngô Thụy Miên? Có thể nói từ những ngày

còn trẻ, tôi đã nghe và yêu thích những giòng nhạc tình tự, trong sáng của

các tác giả thời tiền chiến, và cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của nhạc cổ

điển tây phương, nhất là nhạc classique của thế kỷ 19, mà tôi đã theo học

tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn trong thập niên 60. Cho nên có lẽ vì

thế mà sự lãng mạn trong giòng nhạc NTM có một chút trang nghiêm cổ

kính, và pha một chút “thơ” của những Lamartine, Chopin, George Sand…

cùng Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn…

5. Thông thường, ở tuổi mới lớn, đó là tuổi của hoa mộng, ngọt ngào men

say của những rung động trinh nguyên, ban đầu và vì vậy, đó cũng là tuổi

mà đưa đến sự xuất hiện của hầu hết những văn sĩ, thi sĩ, hay nhạc sĩ. Với

chú điều này đúng không? Và tại sao chú lại chọn âm nhạc mà không chọn

thơ, hay văn?

Đúng đấy chứ, tôi hoàn tất tình khúc đầu tiên Chiều Nay Không Có Em năm

17 tuổi. Tuổi trẻ tôi cũng viết văn, làm thơ…nhưng chỉ được biết đến trong

giới bạn bè thân cận. Còn âm nhạc, thì nhờ được học hành trường lớp đàng

hoàng về nhạc lý, nhạc sử, hòa âm, vĩ cầm…và còn chơi đàn trong ban

nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng, nên phương tiện sáng tác, cũng như phổ biến

có phần dễ dàng hơn.

6. Khi viết một tình ca, thông thường cảm xúc dẫn dắt chú đến điều nào

trước: giai điệu hay ngôn ngữ (ca từ)?

Tiết tấu và ca từ, cả 2 điều này đều rất quan trọng trong việc sáng tác một

tình khúc. Như VK đã nói, tôi thường để cảm xúc tự nhiên dẫn dắt trong

việc sáng tác, không gò bó theo một khuôn khổ, qui luật nhất định nào.

Tuy nhiên nhìn lại quá trình sáng tác thì có thể thấy ngoài những ca khúc

phổ thơ, và 4 bài tôi đã hoàn tất giai điệu trước (Mắt Biếc, Từ Giọng Hát

Em, Dốc Mơ, Miên Khúc), phần còn lại là kết hợp của cả hai, ý nhạc và lời

ca.

7. Hầu hết các tình ca đầu tay của chú đều được diễn đạt qua thể điệu

chậm, thướt tha của Boston, chú có chủ đích chọn thể điệu này như một

hướng sáng tác riêng? (cũng như hễ nói đến thơ lục bát thì nghĩ ngay đến

Nguyễn Du hoặc thơ năm chữ thì Nguyễn Tất Nhiên, hoặc thể điệu Bolero

thì nhạc Lam Phương)

Giản dị thôi, như đã nói tiết tấu và ca từ của một tình khúc đều rất quan

trọng, tôi vẫn quan niệm là khi nghe một bài tình ca, nếu ta yêu được ý

nhạc thì hạnh phúc một, mà nếu thấu được lời ca nữa thì hạnh phúc gấp

đôi. Do đó rất nhiều sáng tác của tôi đã được viết theo thể điệu chậm của

Boston để ca sĩ có thể trình bầy, diễn tả hết được cái nồng nàn, tha thiết

của lời ca ý nhạc. Tôi nghĩ rằng khi bản nhạc được làm mới thêm với phần

hòa âm viết lại từ những thể điệu chậm thành Tango, Samba, ChaChaCha…

đều đã làm mất đi cái đẹp nguyên thủy của nó.

8. Nghe những tình khúc của chú, có thể nói, đối tượng thính giả là những

người ở thành thị hơn là ở nông thôn. Hơn thế, không chỉ âm hưởng mà

ngay cả ngôn ngữ của những tình ca của chú cũng đòi hỏi người nghe ở

một trình độ cảm nhận (hoặc kinh nghiệm sống) nào đó chứ không là

quảng đại, bình dân. Chú nghĩ sao về nhận xét này? Phải chăng nhạc của

chú cần có đối tượng thích hợp?

Thật ra những sáng tác của tôi viết ra không hẳn cho một đối tượng thính

giả nào, mà chỉ dành cho những người có thể chia sẻ những tình cảm, tâm

tư riêng với mình mà thôi. Nhưng có lẽ đây là một sự tình cờ của định

mệnh. Tôi sinh trưởng tại 2 thành phố lớn Hải Phòng, và Sài Gòn. Chịu ảnh

hưởng của nền âm nhạc, cũng như sách báo, phim ảnh tây phương. Đọc

nhiều thơ văn viết về Sài Gòn, Hà Nội, Paris…Chỉ một dịp duy nhất được

bước chân về miền quê yêu dấu của mình trong lần đi vượt biên dưới Cà

Mâu! Cho nên dù muốn cũng không thể dối mình để viết những bài tình ca

Quê Hương. May mắn là trong bao năm qua, đã có nhiều nhạc sĩ để lại cho

chúng ta những ca khúc với chủ đề Quê Hương thật tuyệt vời.

9. Khi mang tình yêu vào âm nhạc, đơn thuần chỉ là bày tỏ cảm xúc của

chính mình hay chú còn nhắn gởi thông điệp nào khác về tình yêu?

Ở cái tuổi bắt đầu sáng tác, cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ là tất cả những

hận thù, đố kỵ, bon chen, lừa lọc đều sẽ qua đi, chỉ còn tình yêu là sẽ ở lại

mãi với chúng ta. Tình yêu giữa người và người, giữa người và cuộc sống,

cũng như thiên nhiên. Đối với tôi âm nhạc cũng chính là tình yêu. Xin hãy

để âm nhạc ngự trị trên khắp quả địa cầu khô khan, nơi chúng ta đang tạm

trú đây.

10. Tình yêu có lúc làm cho trái tim con người đi qua, hoặc cưu mang khổ

hạnh. Trong tình ca của chú nỗi khổ hạnh của tình yêu được chú trình bày

có nét riêng biệt – không sến – không quy lụy. Xin chú cho biết thêm về

điều này?

Tình yêu đối với tôi dù sung sướng hay khổ đau cũng là một điều rất thiêng

liêng. Yêu không có nghĩa là phải chiếm hữu cho riêng mình, yêu là cho tận

cùng, là chấp nhận hết những buồn vui, khổ hận để mang lại hạnh phúc

cho người yêu. Yêu cũng là tha thứ cho những vấp ngã của người và của

chính mình. Đó chính là cái nét riêng biệt của tình ca NTM.

11. Có phải chăng càng đau khổ, càng ma sát với đời, người sáng tác càng

có nhiều tác phẩm hơn và tác phẩm càng sâu sắc hơn? Hay nói cách khác,

khi trọn vẹn hạnh phúc, dường như sáng tác ít đi ? Chú có bị trường hợp

này không? Chú nghĩ gì về điều này từ kinh nghiệm sáng tác của chính

chú?

Có lẽ đây là một nhận định, một quan điểm chung của mọi người, là càng

đau khổ, càng hận sầu thì viết văn, làm thơ, họa tranh, hay sáng tác nhạc

càng hay hơn? Người nghệ sĩ càng sống bệ rạc, phóng túng thì sáng tác

càng sâu sắc hơn? Tôi nghĩ không hẳn là như vậy. Bằng chứng là vào thế

kỷ 19, nhạc sĩ Mendelssohn là một người sung sướng từ đầu đến cuối,

không bị một đau khổ nào trong cuộc sống, ngoại trừ lúc ông ra đi vào cái

tuổi rất trẻ, nhưng ông đã viết, đã để lại rất nhiều tác phẩm bất hủ cho đời.

Riêng tôi có lẽ được may mắn sinh trưởng trong một gia đình tương đối ổn

định về cả 2 mặt vật chất cũng như tinh thần, nên những sáng tác của tôi

từ trước cho đến nay vẫn là một đời nhạc NTM, chỉ có khác biệt là những

tình khúc viết trước 75 là của tuổi trẻ mộng mơ, tươi mát, tràn đầy hy

vọng, còn sau 75 thì mang nỗi khổ đau, xót xa, mất mát của cuộc sống

tạm dung nơi đây. Những đau khổ, mất mát này đã xẩy ra hàng ngày

quanh tôi từ những kinh nghiệm sống của chính mình, của bạn bè, gia đình

và những người thân của một thời.

12. Khi tạo ra một tác phẩm, thường so sánh như một đứa con tinh thần

vừa chào đời, chú có mong muốn gì ở nó và mong muốn gì từ những người

chung quanh?

Nói chung, những người làm công việc sáng tạo, khi cho ra đời một đứa con

tinh thần thì điều đầu tiên là họ mong muốn tác phẩm của mình được phổ

biến rộng rãi, và được người thưởng ngoạn yêu thích (dĩ nhiên điều này

không đúng với những người chỉ viết cho riêng mình). Với những người

sáng tác có tinh thần trách nhiệm thì ngoài điều mong muốn trên, còn hy

vọng là tác phẩm của mình đã nói lên được những điều mình muốn nói.

13. Có thể nói rằng tất cả các sáng tác của chú đều rất giá trị vì không phải

chỉ qua ngôn ngữ, âm điệu mà còn vì chú viết từ rung động chân thật (điều

này người nghe có thể cảm nhận được). Chú không chạy theo thị hiếu và

thời đại. Vậy chú có nghĩ sẽ gặp khó khăn từ phía thính giả trẻ không? Chú

nghĩ thế nào về việc sáng tác cần hoặc nên thích hợp với thời đại khác

nhau?

Cám ơn VK. Một lần nào đó tôi cũng đã có nói là “Tôi không viết nhạc để

sống, mà sống để viết nhạc”. Tôi yêu âm nhạc từ bao nhiêu năm nay, và

vẫn tiếp tục sáng tác cho mình, cho bạn bè, cho người thân, và cho tất cả

những ai đã có thể chia sẻ những tâm tình của tôi thể hiện qua tình ca

NTM.

Tôi không có nhu cầu chạy theo thị hiếu của thời đại. Giòng nhạc thính

phòng nói chung, giòng nhạc NTM nói riêng, hiện nay vẫn được rất nhiều

bạn trẻ chú ý, theo dõi và ủng hộ. Qua những lần tham dự các chương trình

nhạc chủ đề tại nhiều nơi, tôi đã có dịp gặp gỡ những người trẻ này, và tôi

vẫn nhận được khá nhiều email của các bạn trẻ yêu nhạc khắp nơi từ

những làng xóm, thành phố ở Việt Nam, cho đến những tỉnh thành khắp nơi

trên thế giới. Email từ các em, các cháu sinh ra, và lớn lên tại hải ngoại thì

cũng có, nhưng không nhiều lắm. Tôi vẫn nghĩ nền tân nhạc Việt Nam dù

mới có mặt trên dưới 70 năm, nhưng đã trải qua rất nhiều giai đoạn, thời

kỳ, mà mỗi một giai đoạn, thời kỳ, chúng ta đều có những giòng nhạc đáp

ứng được những bước đi thăng trầm của lịch sử quê hương dân tộc. Hiện

nay ở hải ngoại, dù vẫn có nhiều người sáng tác, nhưng nếu muốn tiếp tục

duy trì nền tân nhạc (đây chỉ nói đến nhạc phổ thông) các tác giả phải viết

nhiều hơn nữa những ca khúc nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn của lớp

trẻ ngày hôm nay. Tuy cần những tiết điệu mới, nhưng vẫn phải không mất

đi cái đặc thù của nhạc Việt chúng ta.

14. Những ca khúc sau này của chú (từ thập niên 80 trở đi) giòng giai điệu

thay đổi hẳn so với thập niên 70. Thưa chú, nhận xét này có đúng không?

Và nếu đúng thì có nguyên do nào không? Không những vậy, nét trau

chuốc trong ngôn ngữ cũng thay đổi. Chú nghĩ sao?

Tôi vẫn nghĩ thời gian ở quê hương (trước 75) với những thân yêu quanh

mình, với những lụa là, mưa nắng Sàigòn, những quán hàng, con đường

quen thuộc từng dấu chân, từng buổi sáng, buổi chiều…đã cho tôi những

cảm xúc để viết lên những tình khúc với ý nhạc nhẹ nhàng, trong sáng,

những lời ca dịu dàng, đầy thơ tính. Còn bây giờ, ở đây, người ta thật vội

vàng, xa lạ, bận rộn…Những thành phố, nhà cửa thật huy hoàng, thật to

lớn, nhưng cũng thật lạnh lẽo, cô đơn. Ngày tháng bên này đã để lại trong

tôi những nét nhạc muộn phiền, ghi lại những lời ca mệt mỏi, buồn bã của

cuộc sống tạm dung, của một phần đời tỵ nạn.

15. Chú có những ca khúc viết cho Sài Gòn (Hát Cho Người Ra Đi, Nắng

Paris – Nắng Sài Gòn, Sài Gòn Còn Đó Nỗi Buồn, Thu Sài Gòn) Qua những

lời chú viết cho thấy nỗi gắn bó giữa chú và Sài gòn rất tha thiết. Xin chú

có thể cho biết cảm xúc của chú khi rời Sài Gòn và khi viết những bài nhạc

trên.

Tôi sinh ra ở Hải Phòng miền Bắc Việt Nam, nhưng đã lớn lên tại Sàigòn, đã

được nuôi dưỡng bởi cái tánh khí bình dị, cái tinh thần mộc mạc của miền

Nam, đã có cả một thời mơ mộng, cả một tuổi trẻ với bao mộng ước đầu

đời, khát khao…

Hỏi nếu vì lý do nào đó phải rời xa nơi chốn ấy thì làm sao không khỏi đau

lòng, không khỏi xót xa cho được. Trong nỗi nhớ thương tận cùng, tôi đã

viết một số ca khúc cho Sàigòn, và sáng tác gần đây nhất có tựa đề Biết

Bao Giờ Trở Lại, đã được nữ danh ca Khánh Ly trình bầy lần đầu tiên trong

2 đêm nhạc NTM tại Sydney, và Melbourne, Australia. Một bài hát đã một

lần nữa nói lên nỗi gắn bó của tôi với Sàigòn sẽ là mãi mãi.

16. Xưa nay, “thi-ca” thường đi chung với nhau và chú là một nhạc sĩ có rất

nhiều tác phẩm phổ thơ rất thành công. Nhưng phổ nhạc một bài thơ là

một việc không dễ, vì nó không chỉ đòi hỏi ở kỹ thuật mà còn cả ở sự cảm

nhận. Chú có thể chia xẻ một vài kinh nghiệm về việc phổ thơ thành nhạc

không? Đối với chú, đâu là điều quan trọng nhất của bài thơ có thể phổ

nhạc (vì không phải bài thơ nào cũng có thể phổ nhạc được).

Thực ra thì tôi phổ thơ đâu có nhiều, chỉ trên dưới 10 bài thôi, thì kinh

nghiệm làm gì mà có chứ! Tôi chỉ biết phổ thơ là một việc không khó,

nhưng phổ để có được một bài nhạc hay, tồn tại được với thử thách của

thời gian thì không phải là chuyện dễ. Tôi vẫn nghĩ bản nhạc với những

niêm luật gò bó, nhất định, sẽ không bao giờ có thể nói lên hết được ý thơ

của tác giả (đó là cảm nghĩ của tôi khi phổ thơ Nguyên Sa).

Điều quan trọng nhất của bài thơ có thể phổ nhạc, không nằm ở bài thơ,

mà nằm trong lòng người muốn phổ bài thơ đó, có cảm xúc khi đọc bài thơ?

có chia sẻ, cảm nhận được những gì nhà thơ muốn nói? có đặt được mình

vào cương vị của nhà thơ khi sáng tác bài thơ? có đủ khả năng dùng nốt

nhạc để trình bầy ý thơ của tác giả… Khó như vậy, nên tôi không còn phổ

thơ nhiều như trước nữa.

17. Thơ ngay tự nó cũng đã có vần điệu. Có những bài thơ mà khi đọc lên

đã nghe như một nhạc khúc. Thưa chú, vậy đối với kinh nghiệm sáng tác

của chú, khi một bài thơ được phổ nhạc, có nên không tạo ra sự khác biệt

giữa vần điệu của thơ và âm giai của nhạc?

Người ta vẫn thường nói trong thơ đã có nhạc. Tôi nghĩ là không những

nhạc, thơ còn chất chứa cả hội họa, và vượt thoát được những gò bó, giới

hạn của quy luật, văn phạm trong ngôn ngữ thông thường nữa. Tuy nhiên

vần điệu của thơ dễ bị lập đi lập lại (tùy theo thể loại), và như vậy dễ trở

nên nhàm chán, nhạt nhẽo…Người phổ nên đem những âm giai của nhạc

vào thơ, sáng tạo những thang âm khác lạ, làm mới câu thơ hơn, và hy

vọng người nghe sẽ có thể chia sẻ những cảm nhận chung với mình.

18. Thơ có nhiều thể loại khác nhau như lục bát, đường luật, tự do . và số

chữ, cũng như cách gieo vần tùy vào thể lọai thơ mà khác nhau. Khi đem

thơ phổ nhạc, chú có gặp sự hạn chế trong sáng tác về những luật thơ, và

vần thơ không? Đối với kinh nghiệm của chú, thể thơ nào là dễ phổ nhạc

nhất (nhận thấy lọai 5 chữ là được đi vào nhạc nhiều nhất có phải chăng vì

nó dễ dàng hơn các lọai khác?)

Như đã nói bản nhạc với những niêm luật gò bó, nhất định, sẽ không bao

giờ có thể nói lên hết được ý thơ. Dĩ nhiên thơ cũng có những niêm luật,

những cách gieo vần riêng…Như vậy khi phổ thơ thì phải biết dung hoà 2

vấn đề này, nghĩa là có khi phải du di, thay đổi nốt nhạc để họa vần thơ,

hay đôi khi phải thay đổi lời thơ để nhập với ý nhạc. Tôi thường phổ thơ 5

chữ, hay 7, 8 chữ… cũng có 1, 2 bài theo thể tự do. Thể thơ nào dễ phổ

nhất? Thì tùy người phổ thôi. Thông thường những bài thơ có vần điệu dễ

phổ hơn thơ tự do.

19. Khi một người ca sĩ trình bày ca khúc của chú, những điều gì chú mong

mỏi ở ca sĩ đó? Có những ca khúc được hát qua nhiều giọng ca khác nhau,

qua nhiều thời đại khác nhau. Mỗi cái khác nhau đó là một diễn đạt khác

(kỹ thuật cũng như cảm xúc) Đối với một nhạc sĩ như chú, chú có thể chia

sẻ một nhạc phẩm nào đó mà khi nghe qua nhiều cách trình bày, đã tạo

cho chú sự thích thú, khám phá khác cho chính tác phẩm của mình, hoặc

một cảm xúc mới?

Dĩ nhiên mong người ca sĩ đó có thể diễn tả được lời ca ý nhạc, chuyên chở

được nhưng tình cảm tâm tư mà mình muốn gửi đến người nghe… Điều này

không phải là dễ! Lý tưởng nhất là có điều kiện tập cho ca sĩ như khi tôi

thực hiện cuốn băng tình ca NTM đầu tiên tại Sàigòn năm 1974.

Một ca khúc muốn được tồn tại với thời gian thì phải được trình bầy bởi

những giọng ca của nhiều thế hệ khác nhau, qua nhiều thời đại khác nhau.

Trong 4 thập niên vừa qua tôi đã được nghe Áo Lụa Hà Đông qua rất nhiều

tiếng hát như Duy Trác, Sĩ Phú, Tuấn Ngọc, Vũ Khanh, Hoàng Nam… Mỗi

giọng hát đều có một lối diễn tả khác, một kỹ thuật trình bầy riêng, từ

mượt mà, sâu lắng, đến ngọt ngào, trầm ấm, từ tiếng hát trẻ trung, mới

mẻ, cho đến nồng nàn, sống động của các ca sĩ, đã cho tôi nhiều nỗi xúc

động khi nghe một sáng tác của mình được trình bầy bởi nhiều tiếng hát,

mà tiếng hát nào cũng để lại trong tôi một nỗi thích thú, một nỗi sung

sướng nhẹ nhàng,dù không bao giờ có thể tìm lại được cái cảm giác hôm

nào khi nghe anh Duy Trác hát bài này lần đầu tiên.

20. Nếu có thể điều khiển (thay đổi) được thời gian và không gian, chú sẽ

làm gì?

À, nếu có thể thay đổi được thời gian, thì tôi muốn trở lại cái thưở tuổi trẻ,

mộng mơ ngày nào, để sẽ viết nhiều hơn, và yêu nhiều hơn nữa. Dĩ nhiên

muốn là mình sẽ được ở mãi trên đất nước thân yêu, và sẽ dành thật nhiều

thì giờ để đi thăm khắp nẻo đường quê hương.

21. Giai đọan sáng tác (hay cũng là cuộc đời) nào tạo cho chú nhiều gắn bó

nhất?

Trước 75, là vì giai đoạn này là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời tôi.

Vẫn là một thanh niên trẻ tuổi, sống giữa lòng quê hương với đầy nhiệt

tình,hy vọng, và lạc quan trước tương lai, nhưng không còn quá trẻ để ngu

ngơ trước cuộc đời, cũng như chưa già hẳn để học được, để nhìn thấy

những lọc lừa, những xấu xa, hiện thực đầy chua xót của đời sống. Và đó

cũng chính là giai đoạn sáng tác gắn bó nhất trong đời tôi.

22. Chú có theo dõi các sáng tác của các nhạc sĩ trẻ tại hải ngọai và tại Việt

nam không? Nếu có, xin chú cho vài nhận xét về giòng nhạc trẻ tại hải

ngọai cũng như tại Việt nam.

Trong những năm tháng vừa qua, tại hải ngoại, cũng như trong nước đều

có những tác giả trẻ với những tác phẩm có giá trị. Nhưng chủ yếu các tác

phẩm được giới thiệu và phổ biến rộng rãi vẫn chỉ là những ca khúc. Chúng

ta không thể phủ nhận sự đóng góp quan trọng của ca khúc phổ thông vào

vườn hoa âm nhạc Việt Nam, nhưng tôi vẫn kỳ vọng nhiều hơn nơi các nhạc

sĩ trẻ bây giờ, vì tôi nghĩ rằng họ đã có một cơ hội thật đầy đủ, thật tốt đẹp

để nghiên cứu, trau dồi, cũng như học hỏi những giòng nhạc mới lạ trên

khắp thế giới qua những phương tiện như CDs, Internet, concerts, books…

mà những người viết nhạc chúng tôi 30, 40 năm trước không thể có. Họ là

những người có thể làm mới lạ hơn cho âm nhạc Việt của chúng ta với

những kiến thức tổng hợp của cả 2 nền âm nhạc Đông Tây. Dĩ nhiên khi

viết những tác phẩm này, họ cần phải có một cơ hội để phổ biến. Tôi hy

vọng các trung tâm video sẽ dành ít nhất một tiết mục trong chương trình

để giới thiệu, cũng như đưa giới thưởng ngoạn đến một cuộc hành trình mới

vào âm nhạc Việt Nam của chúng ta ở thể kỷ thứ 21 này.

23. Chú nhận thấy ra sao về ngôn ngữ trong âm nhạc Việt nam hiện nay?

Có nhiều ý kiến cho rằng đã không còn sự đậm đà, sâu sắc, giàu hình ảnh

tượng hình như xưa mà hầu hết là đơn giản, không trau chuốt. Theo chú thì

điều này đúng không và sự quan trọng (cần thiết) của ngôn ngữ trong âm

nhạc như thế nào?

Hiện nay chúng ta đang ở một thời kỳ mà nền âm nhạc Việt Nam đang cố

gắng tìm cho mình một vị trí, tìm cho mình một lối đi riêng để thoát khỏi

những ảnh hưởng của các luồng nhạc thổi đến từ các nước bạn. Cho đến

khi chúng ta có được một định nghĩa chính đáng của nhạc Việt bây giờ, thì

khó có thể tránh được ảnh hưởng từ những điệu nhạc vay mượn, ảnh

hưởng từ những phương cách trang phục, và lối trình diễn của nước ngoài!

cũng như ca từ của chúng ta sẽ không thể sâu sắc, giầu tượng hình như

trước kia được nữa! Nhưng điều đó có quan trọng không khi hiện nay người

ta đi xem nhạc nhiều hơn là nghe nhạc, khi ca sĩ không chỉ còn là người

hát, mà còn phải là người trình diễn nữa?

Những ca khúc Việt Nam tồn tại đến ngày hôm nay là nhờ một phần rất lớn

vào ca từ. Nhạc hay, cấu trúc đẹp, thì rất khó bàn, nhưng khi hát lên một

câu, thì chỉ vài lời ca đơn giản thôi cũng đã có thể đem lại sự xúc động tột

cùng cho người nghe, cũng có thể gợi nhớ lại cả một cuộc hành trình trong

đời người. Ca từ trong nhạc Việt Nam quan trọng là như thế đó.

24. Cũng có nhiều bạn trẻ cho rằng họ không được sự lưu ý đúng mức của

thế hệ đi trước. Không có sự dìu dắt, nâng đỡ hoặc tận tình chỉ bảo, san sẻ

kinh nghiệm. Đặc biệt là trong âm nhạc. Những nhạc sĩ sáng tác trẻ hầu

như bị bế tắt trong vấn đề phổ biến sáng tác. Chú nghĩ sao về điều này?

Chú có những điều gì san sẻ cho những nhạc sĩ trẻ không?

Thực sự tôi không nghĩ là những bạn trẻ bây giờ cần có sự dìu dắt, nâng

đỡ, hay tận tình chỉ bảo của những người đi trước. Họ có đầy đủ khả năng,

điều kiện để viết những tác phẩm có giá trị. Cái mà họ cần là được giúp đỡ

phổ biến những sáng tác mới của họ, và đây đúng như VK đã nói là một

vấn đề bế tắc từ căn bản. Trong nước thì tôi không rõ lắm về những

phương tiện truyền thông, điều kiện phổ biến, cũng như phát hành sáng tác

của những người viết mới? Ở hải ngoại, chúng ta chỉ có 2, 3 trung tâm

video đang hoạt động mạnh, các trung tâm băng nhạc nhỏ thì cũng có khá

nhiều, nhưng hoạt động rời rạc, hạn hẹp! Như vậy thì lấy đâu ra chỗ cho

các người viết mới chen chân vào thị trường âm nhạc? Chưa kể đất nước

người quá rộng lớn, vấn đề phát hành cũng là một trở ngại không nhỏ. Hiện

nay trên mạng lưới Internet đã có khá nhiều diễn đàn văn học, nghệ thuật.

Ở đây các bạn có thể gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm, học hỏi cùng nhau để có

thể tiến bộ hơn trong lãnh vực sáng tác. Nhưng dù sao tất cả vẫn còn trong

một hoàn cảnh, một môi trường hạn hẹp.

Nếu có lời gì muốn nói với những bạn trẻ muốn lập sự nghiệp âm nhạc?

một điều rất quan trọng, đó là cho dù gặp bao nhiêu khó khăn trước mặt

thì các bạn đừng nản lòng, phải tiếp tục sáng tác, tiếp tục cố gắng học hỏi

trau dồi để những sáng tác của mình mỗi ngày một đặc sắc hơn. Có những

chuyện các bạn có thể làm thử: Trước hết gửi một vài bài mà bạn vừa ý

nhất đến một vài trung tâm. Nếu họ không trả lời! thì bạn phải tự thực hiện

CD với những tiếng hát và hòa âm thích hợp với giòng nhạc của mình, rồi

gửi đến các trung tâm video, băng nhạc, nhờ họ phổ biến hay phát hành

dùm. Nếu các trung tâm không thể giúp đỡ, thì phải tìm cách giới thiệu trên

internet, và nhờ đến bạn bè, anh em, để tổ chức những đêm hát, những

chương trình ra mắt những sáng tác mới của mình... Nhiều khi phải hy

sinh, và chấp nhận nhiều thiệt thòi, mới có cơ hội tạo dựng tên tuổi.

25. Có nhiều nhạc sĩ vẫn chạy theo thị hiếu hoặc danh vọng mà có những

sáng tác “vay mượn” từ người khác. Xưa nay, chữ đức vẫn luôn quan trọng

trong mọi ngành nghề nói chung và nghệ sĩ nói riêng. Thưa chú, xin chú nói

vài lời (quan điểm) về “đức” của người nghệ sĩ được không?

Từ trước tới nay tôi vẫn nghĩ người nghệ sĩ phải thẳng với mình, và thật với

người. Một lần nào đó tôi đã có nói “Là một người viết nhạc, có 2 điều mà

tôi không thích là giả dối và vay mượn”. Người nghệ sĩ nói chung, người

nhạc sĩ nói riêng cần phải có một tấm lòng độ lượng, chân thành yêu đời,

một trái tim chan chứa, nồng nàn yêu người, và nên tìm cho mình một

hướng đi riêng, một con đường mới để phục vụ nhân sinh.

26. Đối với chú, trong sáng tác âm nhạc, kỹ thuật và nội dung điều nào

quan trọng hơn? Có những tác giả chú trọng khai thác kỹ thuật viết nhưng

lại thiếu cân bằng trong ngôn ngữ hay nội dung bài nhạc.

Mặc dù trong việc sáng tác ca khúc, cả 2 phương diện kỹ thuật, và nội dung

đều rất quan trọng, nhưng căn bản của ca khúc là những bài hát ngắn gọn,

dễ nghe, dễ hát, và bản chất của người Việt chúng ta hiền hòa, giản dị,

thích nghe những điệu nhạc êm tai, những câu hát dễ nhớ. Do đó nếu quá

chú ý đến kỹ thuật thì bản nhạc sẽ trở nên cầu kỳ, khô khan khó hát. Vì

vậy nói tới ca khúc (tấu khúc là một đề tài khác) nội dung, ngôn ngữ trở

thành quan trọng hơn.

27. Thông thường, tính đa cảm, lãng mạn, giàu mơ mộng là những yếu tố

chính đối với một nghệ sĩ. Nhưng ngòai đời, họ có thể lại là một con người

khác. Vậy, Thưa chú, giữa một Ngô Thụy Miên trong âm nhạc và một Ngô

Thụy Miên ngoài đời có điều gì khác nhau không?

Khi còn trẻ, còn độc thân thì chẳng khác gì đâu. Bây giờ đã có gia đình, thì

ở ngoài đời tôi xử sự cân nhắc hơn với trái tim đầy tình cảm, cũng như tính

lãng mạn, mơ mộng của mình. Sống trong đời, mình có nhiều trách nhiệm

với những người xung quanh, cần phải làm sao dung hòa được cả 2 phần,

trái tim và lý trí.

28. Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật như một phương tiện để nói về

cuộc sống và con người, cũng như về chân thiện mỹ. Chú là một nhạc sĩ có

tài, xin chú cho biết quan niệm của chú về thế nào là “chân thiện mỹ”?

Là một người viết nhạc, thì đối với tôi, âm nhạc là một phương tiện biểu

hiện được tất cả những tình cảm giao hòa giữa con người và con người,

giữa con người và cuộc sống, giữa con người và thiên nhiên. Nghe nhạc,

hòa mình trong nhạc vẫn là nỗi sung sướng, niềm hạnh phúc nhất sau tình

yêu. Như vậy có thể nói âm nhạc chính là tình yêu vậy.

29. Đối với chú thế nào là một sáng tác thành công? Được số đông khán

thính giả yêu thích? Đạt được kỹ thuật viết nhạc cao? Hay chuyển đạt, bộc

bạch được những điều mà mình muốn gởi gắm (cho dù có thể không cần kỹ

thuật hoặc số đông người yêu mộ)?

Tất cả những gì VK đề cập tới đều có thể coi như là những câu trả lời đúng.

Tuy nhiên giản dị mà nói, với tôi thì sự thành công của một ca khúc chính

là sự tồn tại của ca khúc đó sau những tháng năm, những thử thách của

thời gian và không gian. Hiện nay những tác phẩm của 2 thập niên 40, 50,

và vẫn đang còn được trình bầy, được yêu thích bởi mọi từng lớp khán

thính giả là những tác phẩm được coi là thực sự thành công.

30. Trải qua một thời gian dài miệt mài với âm nhạc và có nhiều đóng góp

giá trị cho nền âm nhạc Việt nam, nếu chính chú là người nhìn lại tất cả

những sáng tác của mình, chú có suy nghĩ gì hay nhận xét gì về chính các

tác phẩm của chú?

Cám ơn VK. Tôi đóng góp không được bao nhiêu, nhưng rất hãnh diện về

những gì mình đã viết, những gì mình đã chia sẻ được với người, với đời.

Đôi khi tôi nghĩ là mình viết đã đủ rồi; đời đã nghe, người đã hiểu, nhưng

khi ý nhạc tới thì lại ngồi xuống phím đàn, để mong tiếp tục gửi tới khách

tri âm những tình ca của một đời nhạc NTM.

Thành thật cảm ơn chú Ngô Thụy Miên đã dành thời gian quý báu để trả lời

những câu hỏi của VK. Mến chúc chú luôn bình an và tiếp tục đem lại cho

đời những sáng tác tuyệt vời. VK tin rằng, trên bầu trời âm nhạc Việt nam

mãi mãi lóng lánh một ngôi sao đẹp mang tên - nhạc sĩ Ngô Thụy Miên.