
Bài 2: Phân loại kiểm toán
24 TXKTKI03_Bai2_v1.0015105212
Theo tính chu kỳ của kiểm toán, có thể phân kiểm toán thành kiểm toán thường kỳ,
kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường (đột xuất). Kiểm toán thường kỳ hướng
đến mục đích thường xuyên củng cố, tăng cường và lành mạnh hóa nề nếp các hoạt
động, đặc biệt là hoạt động tài chính. Kiểm toán bất thường hướng đến việc phát hiện
các tình huống sai sót, gian lận, vi phạm các quy định, thủ tục,.. trong quá trình thực
hiện các hoạt động mà thời gian thực hiện các cuộc kiểm toán dạng này không được
báo trước. Trong khi đó, kiểm toán định kỳ lại gắn liền với các kế hoạch, các lịch trình
kiểm toán mà khách thể kiểm toán đã được biết trước và cần phải chủ động lên
chương trình để thực hiện. Chẳng hạn, các công ty có cổ phiếu niêm yết trên sàn
chứng khoán theo định kỳ hàng năm phải mời kiểm toán độc lập để thực hiện kiểm
toán báo cáo tài chính theo quy định của Luật Chứng khoán và Ủy ban Giao dịch
Chứng khoán Nhà nước.
Theo quan hệ về thời điểm kiểm toán với thời điểm thực hiện nghiệp vụ, kiểm toán
bao gồm kiểm toán trước, kiểm toán hiện hành và kiểm toán sau. Mục đích thực hiện
kiểm toán trước nhằm cung cấp thông tin cho việc ra quyết định, góp phần ngăn chặn
hoặc phòng ngừa những quyết định không hợp lý, không khả thi trong thực tế. Chẳng
hạn, kiểm toán trước đối với khâu xác định chủ trương đầu tư các dự án do ngân sách
nhà nước tài trợ nhằm ngăn chặn tình trạng các dự án đã được phê duyệt nhưng khi đi
vào hoạt động có hiệu quả đầu tư thấp, gây lãng phí ngân sách và tài sản công. Việc
thực hiện kiểm toán song song với thời điểm thực hiện nghiệp vụ giúp cho nhà quản lý
có thể nắm bắt kịp thời diễn tiến của hoạt động, từ đó có những quyết sách điều hành
linh hoạt, hợp lý. Kiểm toán được tiến hành sau khi kết thúc nghiệp vụ lại hướng đến
mục đích đánh giá kết quả thực hiện các hoạt động, đồng thời rút ra các bài học kinh
nghiệm để việc thực hiện các hoạt động này trong tương lai hiệu quả hơn.
Theo tổ chức bộ máy kiểm toán, có thể phân kiểm
toán thành kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập
và kiểm toán nội bộ. Các tổ chức này sẽ được trình
bày trong Mục 2.3 của bài.
Theo quan hệ pháp lý của kiểm toán, có thể có kiểm
toán bắt buộc và kiểm toán tự nguyện. Kiểm toán
bắt buộc là kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng
năm và các thông tin tài chính khác của các doanh nghiệp, tổ chức do pháp luật quy
định. Theo quy định của Luật Kiểm toán độc lập hiện hành, báo cáo tài chính của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động
theo Luật các tổ chức tín dụng; tổ chức tài chính, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm,
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; công ty đại chúng, tổ chức phát hành và tổ chức kinh
doanh chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán; cơ sở thực hiện xã
hội hóa,... bắt buộc phải được kiểm toán hàng năm bởi các doanh nghiệp kiểm toán.
Kiểm toán tự nguyện liên quan đến các khách thể kiểm toán theo quy định của pháp
luật không phải kiểm toán nhưng vẫn có nhu cầu kiểm toán báo cáo tài chính hoặc các
công việc kiểm toán khác.
Theo tính chất và phạm vi của kiểm toán có thể phân thành kiểm toán ngân sách và tài
sản công, kiểm toán dự án các công trình, kiểm toán các đơn vị dự toán,…