Đỗ Đình Cường<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
113(13): 53 - 60<br />
<br />
CẢI TIẾN HIỆU NĂNG GIAO THỨC ĐỊNH TUYẾN ĐA ĐƯỜNG<br />
TRONG MẠNG AD HOC THEO CÁCH TIẾP CẬN LIÊN TẦNG<br />
Đỗ Đình Cường*<br />
Trường ĐH Công nghệ thông tin & Truyền thông – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trong mạng không dây, phương pháp dự đoán được xem là một kỹ thuật hiệu quả để thu thập<br />
thông tin về khả năng đáp ứng và tính sẵn sàng của mạng. Thời gian trễ và số gói tin mất là hai<br />
tham số QoS chính của các ứng dụng thời gian thực. Thông thường, các chức năng của tầng MAC<br />
chỉ có thể dự đoán về các đặc tính của liên kết truyền thông. Bài báo này đề xuất một kỹ thuật mới<br />
để thu thập và khai phá thông tin dự đoán về chất lượng đường truyền đầu cuối theo cách tiếp cận<br />
liên tầng nhằm cải tiến hiệu năng của các giao thức định tuyến đa đường trong mạng Ad hoc. Kỹ<br />
thuật thiết kế liên tầng được thực hiện ở đây bằng cách kết hợp giữa tầng ứng dụng và tầng định<br />
tuyến với mục tiêu chính là cải tiến chất lượng dịch vụ cho các chương trình ứng dụng. Lớp các<br />
ứng dụng được sử dụng tuân theo chuẩn ITU G-1000 và giao thức định tuyến đa đường được lựa<br />
chọn để cải tiến là giao thức AOMDV. Đánh giá hiệu năng được thực hiện trên phần mềm mô<br />
phỏng NS2.<br />
Từ khoá: Mạng Ad hoc, QoS, Chất lượng đường truyền, Thiết kế liên tầng, Định tuyến đa đường.<br />
<br />
GIỚI THIỆU*<br />
Các ứng dụng thời gian thực là một trong<br />
những dịch vụ chính của mạng Ad hoc. Vấn<br />
đề định tuyến vẫn là một trong những thử<br />
thách của mạng Ad hoc do tính chất thay đổi<br />
động của mạng. Đã có nhiều đề xuất đưa ra<br />
nhằm cải tiến "chất lượng dịch vụ" (QoS) và<br />
"chất lượng kinh nghiệm" (QoE) trong mạng<br />
Ad hoc. Các phương pháp thu thập thông tin<br />
về chất lượng liên kết và tìm đường đi tốt<br />
nhất cho các gói tin đã được công bố trong<br />
các tài liệu [3], [4], [5] và [7]. Trong khi đó,<br />
các phương pháp thiết kế tiếp cận theo hướng<br />
liên tầng để khai phá thông tin tiềm năng<br />
nhận được từ các tầng phía dưới đã được công<br />
bố trong các tài liệu [1], [2], [8] và [13]. Bài<br />
báo này đề xuất một kỹ thuật tìm kiếm con<br />
đường có đủ tài nguyên thỏa mãn các yêu cầu<br />
xác định trước từ một ứng dụng trong mạng<br />
Ad hoc. Không giống như cách làm của các<br />
tác giả trong [1], [2], [8] và [13], kỹ thuật<br />
khai phá thông tin được đề xuất ở đây không<br />
chỉ lấy thông tin từ các tầng phía dưới mà còn<br />
lấy cả thông tin từ các tầng phía trên để thực<br />
hiện tiến trình định tuyến theo ngữ cảnh và<br />
yêu cầu từ tầng ứng dụng. Các phương pháp<br />
*<br />
<br />
Tel: 0982990908; Email: ddcuong@ictu.edu.vn<br />
<br />
dự đoán trong tầng MAC đã được phát triển<br />
trong [3], [4], [5] và [7] để thu thập thông tin<br />
về chất lượng đường liên kết. Để lấy thông tin<br />
về các đặc tính của ứng dụng, cần có một thiết<br />
kế liên tầng giữa tầng ứng dụng và tầng định<br />
tuyến. Giao thức định tuyến được lựa chọn để<br />
cải tiến theo hướng này là giao thức AOMDV.<br />
Một giao thức định tuyến cân bằng được đề<br />
xuất để thỏa mãn yêu cầu từ các lớp ứng dụng<br />
khác nhau. Phần tiếp theo của bài báo được tổ<br />
chức như sau. Mục 2 sẽ đề xuất về các tiếp cận<br />
thiết kế liên tầng mới để cải tiến giao thức<br />
AOMDV. Mục 3 đưa ra các kết quả cài đặt thử<br />
nghiệm. Cuối cùng, các kết luận và hướng<br />
phát triển được tổng kết trong Mục 4.<br />
ĐỀ XUẤT THIẾT KẾ LIÊN TẦNG GIỮA<br />
TẦNG ỨNG DỤNG VÀ TẦNG MẠNG<br />
Ý tưởng chính được đề xuất ở đây là khai thác<br />
mối tương tác giữa tầng MAC, tầng Định<br />
tuyến và tầng Ứng dụng để nâng cao hiệu<br />
năng định tuyến các ứng dụng thời gian thực<br />
trong mạng Ad hoc. Kiến trúc được đề xuất<br />
bao gồm hai thiết kế liên tầng. Thiết kế thứ<br />
nhất là phương thức khai thác tầng MAC từ<br />
tầng Định tuyến để lấy thông tin về chất<br />
lượng đường truyền đầu-cuối. Thiết kế thứ<br />
hai được sử dụng để cung cấp thông tin về<br />
tầng Ứng dụng. Trên cơ sở các thông tin về<br />
53<br />
<br />
Đỗ Đình Cường<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
tầng MAC và tầng Ứng dụng, giao thức định<br />
tuyến sẽ lựa chọn đường đi thích hợp nhất<br />
cho các gói tin dữ liệu của chương trình ứng<br />
dụng. Đối với tầng MAC truyền thống, thông<br />
tin lấy được thông thường chỉ là thông tin về<br />
chất lượng kênh kết nối với các nút lân cận.<br />
Một trường mới có tên là PQ (Path Quality)<br />
đã được thêm vào các gói tin trả lời đường<br />
(Route Reply) để lấy được toàn bộ thông tin<br />
về đường truyền từ nút nguồn tới nút đích,<br />
một thủ tục. Gói tin này được sử dụng trong<br />
tiến trình tìm đường từ nút nguồn tới nút đích<br />
trong giao thức AOMDV. Trường mới thêm<br />
này dùng để chứa thông tin về chất lượng<br />
đường truyền dưới dạng thời gian trễ và tỷ lệ<br />
mất gói tin. Tiếp theo, một thực thể mới có<br />
tên là CLME (Cross Layer Management<br />
Entity) đã được phát triển để phân biệt sự<br />
khác biệt giữa các gói tin của các chương<br />
trình ứng dụng trong tầng Định tuyến. Thực<br />
thể này được sử dụng để phân lớp các gói tin<br />
dữ liệu theo yêu cầu QoS của chúng. Theo<br />
cách tiếp cận mới này, thông tin về chất lượng<br />
đường truyền được lấy qua thiết kế liên tầng<br />
Định tuyến – MAC trong khi thông tin về các<br />
chương trình ứng dụng được thu thập qua<br />
thực thể CLME trong thiết kế liên tầng Định<br />
tuyến - Ứng dụng.<br />
Phương pháp thu thập thông tin về chất<br />
lượng đường truyền<br />
Đối với tầng MAC truyền thống, mỗi nút chỉ có<br />
thể lấy thông tin về chất lượng liên kết trực tiếp<br />
với các nút lân cận từ tầng Vật lý. Chất lượng<br />
của một đường đầu cuối lại phụ thuộc vào chất<br />
lượng của tất cả các liên kết trực tiếp của nó. Để<br />
cung cấp thông tin về chất lượng đường truyền<br />
đầu cuối, một phương pháp thiết kế liên tầng<br />
Định tuyến – MAC đã được đề xuất.<br />
Chất lượng của liên kết trực tiếp do tầng<br />
MAC dự đoán bằng kỹ thuật cảm nhận môi<br />
trường truyền không dây từ nút hiện tại tới<br />
các nút lân cận. Mỗi nút sẽ thực hiện việc dự<br />
đoán chất lượng liên kết trực tiếp và lưu<br />
thông tin này vào bảng láng giềng của mình.<br />
Để lưu thông tin về chất lượng liên kết trực<br />
tiếp, ta bổ sung thêm hai trường mới là bảng<br />
láng giềng của mỗi nút. Một trường lưu thông<br />
tin về độ trễ liên kết và trường kia lưu thông<br />
54<br />
<br />
113(13): 53 - 60<br />
<br />
tin về tỷ lệ mất gói tin trên liên kết. Vì Ad hoc<br />
là loại mạng thay đổi động dựa trên môi<br />
trường truyền không dây nên phương pháp dự<br />
đoán được sử dụng ở đây là phương pháp<br />
WLSR [10]. Trong phương pháp này, mỗi nút<br />
mạng sẽ lưu trữ các giá trị đo được trong quá<br />
khứ và sử dụng chúng để dự đoán chất lượng<br />
liên kết trực tiếp trong tương lai. Thuật toán<br />
dự đoán WLSR sử dụng trọng số cho các giá<br />
trị đo được trong quá khứ. Nó nhận tham số<br />
đầu vào là một cửa sổ các kết quả đo được<br />
của một độ đo QoS cho trước và dự đoán giá<br />
trị tiếp theo của độ đo này. Trong cài đặt thử<br />
nghiệm của bài báo này, hai giá trị đo được<br />
trong quá khứ sẽ được sử dụng để dự đoán kết<br />
quả trong tương lai. Với giả định thông tin đo<br />
được gần nhất là thông tin có giá trị nhất khi<br />
dự đoán giá trị tiếp theo nên độ đo QoS của<br />
liên kết trực tiếp thứ i tại thời điểm t trong<br />
tương lai được xác định như sau:<br />
Mt,i = Mt-1,i x wt-1 + Mt-2,i x wt-2<br />
Với wt-1 = 0,7 và wt-2 = 0,3<br />
Trong công thức trên, Mt-1,i và Mt-1,i là các giá<br />
trị đo được trong quá khứ của liên kết trực<br />
tiếp thứ i. wt-1 và wt-2 là trọng số của các giá<br />
trị đo được này.<br />
Để lấy thông tin về chất lượng liên kết trực<br />
tiếp, mỗi một nút sẽ dự đoán về độ đo thời<br />
gian trễ và tỷ lệ mất gói tin của các liên kết<br />
với các nút láng giềng của nó. Khi một nút<br />
nguồn cần truyền thông với một nút đích, nó<br />
sẽ khởi động tiến trình tìm đường bằng cách<br />
gửi gói tin yêu cầu đường RREQ. Tiến trình<br />
tìm đường sẽ thực hiện tìm kiếm nhiều con<br />
đường song song từ nút nguồn tới nút đích.<br />
Khi nút đích nhận được gói tin yêu cầu đường<br />
RREQ, nó sẽ sinh ra gói tin trả lời đường<br />
RREP rồi truyền lại cho nút nguồn. Gói tin<br />
RREP này được bổ sung thêm trường mới là<br />
trường chất lượng đường truyền (PQ) để<br />
mang thông tin về chất lượng đường truyền<br />
đầu cuối. Trường PQ này có hai trường con<br />
để chứa thông tin về thời gian trễ và tỷ lệ mất<br />
gói tin của đường truyền đầu cuối. Nút đích<br />
sẽ thiết lập giá trị ban đầu cho hai trường con<br />
này và các nút trung gian trong quá trình<br />
truyền gói tin quay trở lại nguồn cùng với nút<br />
nguồn sẽ cập nhật giá trị của hai trường này.<br />
<br />
Đỗ Đình Cường<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Giá trị của mỗi trường con của trường PQ sẽ<br />
được cập nhật theo độ đo tương ứng. Độ đo<br />
thời gian trễ của đường truyền đầu-cuối là độ<br />
đo được tính bằng tổng các thời gian trễ của<br />
từng liên kết có trong đường truyền. Khi nhận<br />
được một một gói tin RREP mỗi nút sẽ tính<br />
giá trị độ trễ dự đoán liên kết của mình sau đó<br />
cộng với giá trị hiện tại của trường con chứa<br />
thông tin về thời gian trễ rồi cập nhật kết quả<br />
vào trường này. Công việc này cũng được<br />
thực hiện tương tự trên trường con chứa thông<br />
tin về tỷ lệ mất gói tin nhưng công thức tính<br />
tỷ lệ mất gói tin là phép nhân chứ không phải<br />
là phép cộng. Vì vậy tỷ lệ mất gói tin của một<br />
đường truyền đầu-cuối sẽ bằng tích của các<br />
giá trị tỷ lệ mất gói tin của từng liên kết thành<br />
phần có trong đường truyền.<br />
Trên cơ sở các thông tin thu được trong<br />
trường PQ, nút nguồn sẽ lựa chọn đường đi<br />
tốt nhất cho các gói tin dữ liệu của một ứng<br />
dụng nào đó. Sau khi thu thập thông tin về<br />
chất lượng đường truyền, tầng Định tuyến cần<br />
thu thập thông tin về lớp ứng dụng để nâng<br />
cao hiệu năng định tuyến cho các ứng dụng<br />
thời gian thực. Để thực hiện công việc này,<br />
thiết kế liên tầng Định tuyến-Ứng dụng sẽ<br />
được sử dụng.<br />
Phương pháp thu thập thông tin về tầng<br />
Ứng dụng<br />
Khi đứng trên tầng Định tuyến, mỗi giao thức<br />
của chương trình ứng dụng đều có thể được<br />
biểu diễn bằng một socket. Trong bài báo này,<br />
cách thiết kế liên tầng Định tuyến-|Ứng dụng<br />
sẽ khai thác thông tin có trong socket của các<br />
gói truyền từ tầng Chuyển vận xuống tầng<br />
Định tuyến. Mỗi socket gồm 3 thuộc tính<br />
chính: miền, loại, và địa chỉ. Trong thực tế, có<br />
hai miền được sử dụng rộng rãi nhất là Unix<br />
và Internet. Bài báo này chỉ hướng tới phạm<br />
vi lớp dịch vụ thuộc miền Internet như VoIP,<br />
FTP, truyền video hoặc trò chơi tương tác.<br />
Trong miền Internet, có hai loại dòng socket<br />
phổ<br />
biến<br />
là<br />
SOCK_DGRAM<br />
và<br />
<br />
113(13): 53 - 60<br />
<br />
SOCK_STREAM. Giao thức ở tầng Chuyển<br />
vận được sử dụng cho các socket loại<br />
SOCK_STREAM là giao thức tin cậy (giao<br />
thức<br />
TCP).<br />
Đối<br />
với<br />
loại<br />
socket<br />
SOCK_DGRAM, giao thức tầng Chuyển vận<br />
được sử dụng là giao thức không tin cậy và<br />
không hướng kết nối (giao thức UDP). Địa chỉ<br />
của một socket được tổng hợp từ hai thông tin<br />
là địa chỉ IP và số hiệu cổng dịch vụ ứng dụng<br />
trên của nút nguồn hoặc đích. Trong kỹ thuật<br />
được đề xuất ở đây, thông tin được khai thác<br />
chính là thông tin về địa chỉ của socket vì từ số<br />
hiệu cổng dịch vụ, có thể cung cấp thông tin về<br />
yêu cầu QoS của ứng dụng.<br />
Ý tưởng thu thập thông tin từ tầng Ứng dụng<br />
được triển khai bằng thực thể CLME (Cross<br />
Layer Management Entity). Nó được sử dụng<br />
để phân lớp lưu lượng chuyển xuống từ tầng<br />
Chuyển vận theo các yêu cầu QoS. Trên cơ sở<br />
khái niệm socket, thực thể CLME thực hiện<br />
việc trích thông tin về loại lưu lượng từ địa<br />
chỉ socket của chúng. Sau đó CLME sẽ liên<br />
kết mỗi dòng lưu lượng với một lớp được xác<br />
định trước. Thông tin về các lớp phân loại này<br />
sau đó sẽ được truyền tới tầng Định tuyến để<br />
thực hiện cơ chế định tuyến. Chính vì vậy,<br />
thực thể CLME ở đây được đề xuất thiết kế<br />
và đưa vào hoạt động tại vị trí giữa tầng Định<br />
tuyến và tầng Chuyển vận. Hàm<br />
“getsocketport” trong CLME thực hiện công<br />
việc đọc thông tin về số hiệu cổng của socket.<br />
Sau đó CLME sẽ liên kết dòng lưu lượng này<br />
với lớp ứng dụng thích hợp đã được định<br />
nghĩa trước. Cơ chế phân lớp lưu lượng được<br />
đề xuất trong bài báo này sử dung 3 lớp QoS<br />
trên cơ sở các điều kiện chất lượng dịch vụ<br />
được định nghĩa trong chuẩn ITU-G1010 [6]<br />
như trên bảng 1. Sau khi một giao thức định<br />
tuyến đã có thông tin về chất lượng đường<br />
truyền và lớp dữ liệu ứng dụng, nó sẽ lựa<br />
chọn đường đi tốt nhất để định tuyến cho các<br />
gói tin dữ liệu ứng dụng.<br />
<br />
Bảng 1. Các tham số phân lớp dòng dữ liệu ứng dụng<br />
Loại ngưỡng<br />
Lớp 1<br />
Lớp 2<br />
Ngưỡng thời gian trễ (delay)<br />
150 ms<br />
400 ms<br />
Ngưỡng đảo thứ tự gói (jitter)<br />
1 ms<br />
1 ms<br />
Ngưỡng mất gói (packet loss)<br />
3%<br />
1%<br />
Ngưỡng tốc độ dữ liệu (data rate)<br />
4 Kbit/s<br />
16 Kbit/s<br />
<br />
Lớp 3<br />
4 ms<br />
Không áp dụng<br />
0%<br />
20 Kbit/s<br />
55<br />
<br />
Đỗ Đình Cường<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Tiến trình định tuyến<br />
Để cải tiến hiệu năng định tuyến cho các lớp<br />
dữ liệu ứng dụng khác nhau trong mạng Ad<br />
hoc, giao thức định tuyến được đề xuất trong<br />
bài báo này được đặt tên là ABRP (Advanced<br />
Balanced Routing Protocol). Trên cơ sở giao<br />
thức định tuyến gốc là AOMDV [11], giao<br />
thức ABRP được đề xuất ở đây đưa ra các kỹ<br />
thuật cân bằng định tuyến đa đường theo các<br />
thông tin đầu vào là chất lượng đường truyền<br />
và loại lớp dữ liệu ứng dụng.<br />
Trong giao thức AODMV, một nút nguồn có<br />
thể thiết lập nhiều con đường không lặp tới<br />
một nút đích trong một tiến trình khám phá<br />
đường. Nút nguồn sau đó sẽ lựa chọn con<br />
đường ngắn nhất (số chặng ít nhất) để chuyển<br />
tiếp các gói tin dữ liệu. Các cải tiến giao thức<br />
AODMV trong giao thức mới ABRP được<br />
mô tả như sau:<br />
Nút nguồn nhận gói tin RREP từ nút đích, cập<br />
nhật giá trị trường PQ và bảng định tuyến của<br />
mình. Trong giao thức ABRP, bảng định tuyến<br />
của mỗi được bổ sung thêm 2 trường mới để<br />
lưu thông tin về chất lượng đường truyền.<br />
Khi nhận được nhiều gói RREP được gửi đi<br />
từ cùng 1 nút đích theo các con đường khác<br />
nhau, nút nguồn thực hiện việc sắp xếp các<br />
con đường này theo một hàm lượng giá có tên<br />
là PQF (Path Quality Function). Hàm PQF sử<br />
dụng phương pháp tính trọng số theo [9] như<br />
sau: Giá trị hàm PQF của một con đường thứ<br />
i là giá trị tổng của hàm trọng số tỷ lệ mất gói<br />
tin và hàm trọng số thời gian trễ. Công thức<br />
này được biểu diễn như sau:<br />
PQFi = wd ×<br />
<br />
Dth<br />
P<br />
+ w p × th<br />
Di<br />
Pi<br />
<br />
Ở đây, Pi là tỷ lệ mất gói tin được dự đoán, Di<br />
là thời gian trễ dự đoán của đường truyền từ<br />
nút nguồn tới nút đích. Pth và Dth là các ngưỡng<br />
tương ứng của thời gian trễ và tỷ lệ mất gói tin<br />
trong Bảng 1. wp và wd là trọng số tương ứng<br />
của tỷ lệ mất gói tin và thời gian trễ.<br />
Giá trị trọng số được xác định theo lớp lưu<br />
lượng. Tham số nào có giá trị trọng số càng<br />
cao thì nó càng quan trọng đối với lưu lượng<br />
gói tin. Ta giả định rằng với lớp 1, tham số<br />
56<br />
<br />
113(13): 53 - 60<br />
<br />
thời gian trễ là quan trọng hơn các tham số<br />
khác. Với lớp 2, tham số thời gian trễ và tỷ lệ<br />
mất gói tin có trọng số bằng nhau các tham số<br />
này là không quan trọng với các ứng dụng<br />
thuộc lớp này. Với lớp 3, tham số về tỷ lệ mất<br />
gói tin là quan trọng hơn tham số thời gian trễ<br />
bởi vì các ứng dụng lớp này không chấp nhận<br />
lỗi xảy ra. Phương pháp APH được đề xuất<br />
trong [13] được sử dụng ở đây để tính các<br />
trọng số wp và wd cho mỗi lớp và cách đánh<br />
giá độ quan trọng của các tham số cho mỗi<br />
lớp lưu lượng được thực hiện theo [12].<br />
Trên cơ sở thông tin về lớp ứng dụng do thực<br />
thể CLME thu thập được, giao thức ABPR<br />
thực hiện việc tính toán giá trị PQF của các<br />
con đường khác nhau theo các trọng số thích<br />
hợp. Trên cơ sở các yêu cầu từ chương trình<br />
ứng dụng, cùng một con đường có thể có<br />
nhiều trọng số khác nhau cho mỗi một lớp<br />
ứng dụng.<br />
Khi các con đường tìm được đã được sắp xếp<br />
theo giá trị PQF, giao thức ABRP thực hiện<br />
việc phân loại các con đường theo độ bền của<br />
chúng. Độ bền của một con đường được tính<br />
dựa vào thời gian con đường xuất hiện trong<br />
bảng định tuyến. Bảng định tuyến của mỗi nút<br />
sẽ được bổ sung thêm một trường để lưu độ<br />
bền của con đường. Mỗi khi tiến trình cập<br />
nhật bảng định tuyến diễn ra, nếu con đường<br />
còn xuất hiện trong bảng định tuyến thì giá trị<br />
độ bền của con đường sẽ được tăng lên 1 đơn<br />
vị. Con đường nào có giá trị độ bền càng cao<br />
thì được xem là càng bền vững.<br />
Sau khi tìm đường và thực hiện các thủ tục ở<br />
trên, chỉ có tối đa là 3 con đường tới cùng một<br />
đích sẽ được cài đặt vào bảng định tuyến. Con<br />
đường có độ bền lớn nhất sẽ được lựa chọn là<br />
con đường chính và 2 con đường còn lại là<br />
các đường dự phòng. Các đường dự phòng<br />
chỉ được sử dụng khi đường chính bị xóa<br />
hoặc bị lỗi.<br />
Nếu 2 con đường đều có cùng giá trị PQF và<br />
độ bền, trong tiến trình chọn đường, con đường<br />
nào tối ưu hơn đối với lớp lưu lượng đầu vào<br />
sẽ được lựa chọn để thực hiện việc định tuyến.<br />
Nếu lưu lượng dữ liệu thuộc lớp 1 hoặc lớp 2<br />
thì con đường có giá trị thời gian trễ thấp hơn<br />
<br />
Đỗ Đình Cường<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
sẽ được lựa chọn. Nếu lưu lượng dữ liệu thuộc<br />
lớp 3 thì con đường được lựa chọn sẽ là con<br />
đường có tỷ lệ mất gói tin nhỏ hơn.<br />
ĐÁNH GIÁ HIỆU NĂNG<br />
Để đánh giá hiệu năng của giao thức ABRP<br />
được đề xuất, tôi đã thực hiện mô phỏng hai<br />
giao thức ABRP và AOMDV. Việc mô phỏng<br />
được thực hiện trên phần mềm NS2. Mỗi kịch<br />
bản mô phỏng được lặp lại 10 lần. Các giá trị<br />
ngẫu nhiên được sử dụng cho mỗi lần mô<br />
phỏng trên cơ sở module sinh số ngẫu nhiên<br />
của NS2. Việc đánh giá được thực hiện trên<br />
các lớp dịch vụ lưu lượng 1 và 2. Các tham số<br />
mô phỏng được trình bày trong Bảng 2.<br />
Bảng 2. Các tham số mô phỏng<br />
Các tham số mô phỏng<br />
Kích cỡ mạng<br />
{10, 20, 30, 40}<br />
Diện tích mô phỏng<br />
4096m x 4096m<br />
Phạm vi truyền giữa<br />
250 m<br />
hai nút<br />
Tỷ lệ nút đã hoạt<br />
{20%, 40%, 60%, 80%}<br />
động<br />
Công nghệ tầng Vật<br />
802.11b<br />
lý/MAC<br />
Mô hình truyền<br />
Shadowing<br />
Mô hình chuyển<br />
Ngẫu nhiên<br />
động<br />
Tốc độ di chuyển<br />
2 m/s<br />
trung bình<br />
Thời gian mô phỏng<br />
200 s<br />
Cặp (nguồn, đích)<br />
Ngẫu nhiên<br />
Thời điểm sinh lưu<br />
10 s<br />
lượng dữ liệu<br />
Lưu lượng Lớp 1 (VoIP)<br />
Mô hình lưu lượng<br />
CBR<br />
Giao thức tầng<br />
UDP<br />
Chuyển vận<br />
Tốc độ dữ liệu<br />
64 Kbit/s<br />
Trọng số {wd, wp}<br />
{0.6, 0.4}<br />
Lưu lượng Lớp 2 (Video Streaming)<br />
Mô hình lưu lượng<br />
CBR<br />
Giao<br />
thức<br />
tầng UDP<br />
Chuyển vận<br />
Tốc độ dữ liệu<br />
160 Kbit/s<br />
Trọng số {wd, wp} {0.5, 0.5}<br />
<br />
113(13): 53 - 60<br />
<br />
Các độ đo dùng để đánh giá<br />
Các độ đo dùng để đánh giá hiệu năng của<br />
giao thức ABRP được đề xuất trong bài báo<br />
này so với giao thức AOMDV bao gồm:<br />
• Thời gian trễ trung bình: Là thời gian trễ<br />
trung bình khi một gói tin được truyền từ<br />
nguồn tới đích. Đơn vị của độ đo này là miligiây (ms).<br />
• Thông lượng: Là tốc độ truyền các gói dữ<br />
liệu. Đơn vị là Kb/s<br />
• Độ ổn định đường: Biểu diễn tính bền vững<br />
của đường trong mạng. Trong khoảng thời<br />
gian mô phỏng là 200 giây với kích thước<br />
mạng là 30, chu kỳ sinh lưu lượng dữ liệu<br />
được sử dụng nằm trong khoảng từ 20 đến<br />
180 giây.<br />
• Tỷ lệ lỗi định tuyến: Biểu diễn số lượng gói<br />
tin báo lỗi đường (RERR) được sinh ra.<br />
Kết quả mô phỏng<br />
Độ trễ đầu cuối trung bình<br />
Hình 1 biểu diễn thời gian trễ trung bình của<br />
các lưu lượng dữ liệu Lớp 1 và Lớp 2 trong<br />
theo thời gian biến đổi tỷ lệ các nút đã hoạt<br />
động trong mạng có số lượng nút là 30. Theo<br />
kết quả biểu diễn ở Hình 1 thì rõ ràng giao<br />
thức ABRP có thời gian trễ trung bình nhỏ<br />
hơn so với giao thức AOMDV. Thực tế là<br />
giao thức ABRP thực hiện việc chọn đường<br />
để tối ưu thời gian trễ cho mỗi lớp lưu lượng<br />
dữ liệu. Cần chú ý rằng thời gian cần thiết để<br />
ABRP tính toán và xử lý chất lượng cũng như<br />
độ ổn định của các con đường khác nhau so<br />
với AOMDV không ảnh hưởng tới thời gian<br />
trễ trung bình.<br />
<br />
Hình 1. Thời gian trễ đầu-cuối trung bình theo<br />
thời gian biến đổi tỷ lệ các nút đã hoạt động trong<br />
mạng với kích thước mạng là 30 nút và hai lớp lưu<br />
lượng dữ liệu là Lớp 1 và Lớp 2<br />
57<br />
<br />