
Chế độ kế toán DN theo quy định hiện
hành- Những vấn đề cần trao đổi
Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT), hệ thống kế
toán Việt Nam trong những năm qua đã có sự đổi mới sâu sắc
với Luật Kế toán đã được Quốc hội thông qua, Bộ Tài chính đã
ban hành 26 chuẩn mực kế toán (VAS) và các thông tư hướng
dẫn các chuẩn mực kế toán cũng như các văn bản sửa đổi, bổ
sung.
Gần đây nhất, ngày 31/12/2007 Bộ Tài chính cũng đã ban hành
Thông tư số 161/2007/TT-BTC về việc hướng dẫn thực hiện 16
chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-
BTC ngày 31/12/2001, Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày
31/12/2002 và Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003

của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt
được, chế độ kế toán DN hiện hành vẫn còn những tồn tại nhất
định, đó là:
Thứ nhất, những vấn đề liên quan đến lập Báo cáo tài chính
hợp nhất.
Về thời điểm lập Báo cáo tài chính hợp nhất lần đầu tiên, VAS 25
– Báo cáo tài chính hợp nhất và các khoản đầu tư vào công ty
con không quy định, còn VAS 11 – Hợp nhất kinh doanh thì quy
định thời điểm lập BCTC hợp nhất “đó là thời điểm sớm nhất theo
quy định hiện hành”. Thông tư 161/2007/TT-BTC cũng không quy
định. Tuy nhiên, khi hướng dẫn sự điều chỉnh trong quá trình hợp
nhất thì lại luôn xuất hiện cụm từ “…điều chỉnh từ sau ngày đầu
tư đến cuối kỳ trước”. Với cụm từ này đối tượng quan tâm sẽ chỉ
hiểu được đó là ảnh hưởng của những thay đổi trong khoản thời

gian từ sau ngày đầu tư đến đầu năm nay chứ không biết được
ảnh hưởng tại ngay thời điểm hợp nhất hay đầu tư. Điều này sẽ
không chính xác vì không thể tính toán được những khoản chênh
lệch phát sinh tại thời điểm đó (giá phí hợp nhất, lợi thế thương
mại…). Bên cạnh đó, ta cũng không biết được ảnh hưởng của
từng thời điểm đầu tư vì tại ngày đầu tư tỷ lệ vốn đầu tư vào công
ty con có thể là 60% nhưng thời gian sau – chưa kết thúc năm tài
chính, vẫn trong niên độ kế toán đó – tỷ lệ đầu tư của nhà đầu tư
tiếp tục bổ sung thêm là 70% điều này sẽ không xử lý được nếu
cứ áp dụng theo quy định hiện hành. Thực tế hiện nay theo quy
định của Chuẩn mực kế toán quốc tế số 27 (IFRS 27), Báo cáo
tài chính hợp nhất và Báo cáo tài chính riêng có chia thời điểm
lập BCTCHN thành là: thời điểm hợp nhất, thời điểm cuối năm

của năm hợp nhất, thời điểm năm hợp nhất liền kề và thời điểm
những năm tiếp theo.
Theo quy định hiện hành về BCTCHN, đối tượng quan tâm sẽ
thấy hầu như đây là những quy định để lập Bảng cân đối kế toán
hợp nhất mà không có các BCTC khác (vì theo quy định hệ thống
BCTCHN phải gồm 04 mẫu biểu báo cáo), mặc dù Báo cáo kết
quả kinh doanh hợp nhất tuy đề cập tới nhưng chỉ có chỉ tiêu lợi
nhuận sau thuế thu nhập DN rất khó thực hiện. Như vậy, với quy
định này thì cuối kỳ lập BCTCHN sẽ thực hiện rất khó khăn. Đối
với các chuẩn mực kế toán quốc tế thì có quy định đầy đủ đến
Bảng cân đối kế toán hợp nhất, Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh hợp nhất và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ hợp nhất.
Theo Thông tư số 23/2005/TT-BTC ngày 30/3/2005 của Bộ Tài
chính, phần hướng dẫn kế toán Chuẩn mực “Báo cáo tài chính

hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con” tại điểm
hướng dẫn bổ sung Mục C “Lợi ích của cổ đông thiểu số” trong
Bảng cân đối kế toán hợp nhất có mã số là 500. Nhưng phần
“Tổng cộng nguồn vốn” vẫn là mã số 440 là chưa hợp lý nhưng
vấn đề này vẫn chưa được điều chỉnh trong thông tư
161/2007/TT-BTC.
Chưa quy định về việc xác định Lợi ích của cổ đông thiểu số một
cách cụ thể: Hiện nay có thể tính toán và xác định Lợi ích của cổ
đông thiểu số theo một trong ba cách sau:
Cách 1:
Lợi ích của cổ đông
thiểu số (LICĐTS)
=
% sở hữu
của cổ đông
thiểu số
x
Tài sản thuần
của công ty
contheo giá trị

