Đặc điểm chung của

động vật da gai

Đối xứng cơ thể: Cơ thể động vật da gai trưởng

thành và ấu trùng khác nhau về đối xứng, ấu

trùng có đối xứng 2 bên còn trưởng thành

có đối xứng toả tròn, thường là bậc 5. Định

hướng cơ thể không phải là “đầu - đuôi” mà là

“cực miệng - cực đối miệng” nằm trên trục đối

xứng.

Cũng từ sai khác nhau về kiểu đối xứng giữa

trưởng thành và ấu trùng mà thấy được sự đối

xứng toả tròn của trưởng thành chỉ là biến đổi

thứ sinh bắt nguồn từ đối xứng hai bên của tổ

tiên. Tính chất đối xứng toả tròn của động vật da

gai trưởng thành thể hiện ở cấu tạo ngoài và sự

sắp xếp của các nội quan. Các tấm xương, các

gai, hệ chân ống... trên bề mặt cơ thể được sắp

xếp thành 10 vùng dạng múi (ở các lớp Cầu gai,

Hải sâm) hay dạng cánh (ở các lớp Sao biển,

Đuôi rắn), trục đối xứng đi qua lỗ miệng, 10

vùng này được chia thành 5 vùng phóng xạ

(radius) có chứa chân ống nên được gọi là vùng

chân ống (ambulacral zones) và 5 vùng gian

phóng xạ (interradius zones) không chứa chân

ống nên được gọi là vùng gian chân ống

(interrambulacral zones). Ở tư thế bình thường,

trục cơ thể theo hướng thẳng đứng, lỗ miệng

nằm ở phía dưới, hậu môn nằm phía trên

hay ngược lại. Ở lớp Hải sâm là một trường

ngoại lệ, trục cơ thể nằm ngang.

Thành cơ thể cấu tạo bởi 3 lớp:

Lớp tế bào biểu mô ngoài cấu tạo một tầng, có

tiêm mao vận động để tạo nên dòng nước đưa

thức ăn và ô xy cung cấp cho cơ thể và thải chất

cặn bã ra ngoài. Trong lớp biểu mô này còn có

các tế bào tuyến tiết chất nhầy, chất dính, chất

độc hay chất phát sáng.

Lớp mô liên kết tạo thành 3 tầng khác nhau là

tầng cơ trong cùng, tầng mô liên kết ở giữa và

tầng biểu mô có bộ xương giáp với biểu mô

ngoài. Về nguồn gốc thì bộ xương được hình

thành từ lá phôi giữa, do các tế bào mô liên kết

lấy CaCO3 từ nước biển, lúc đầu tạo thành các

hạt nhỏ, dần dần liên kết lại thành tấm xương

hay mảnh xương nâng đỡ các chân ống. Như

vậy bộ xương của động vật da gai khác hẳn với

bộ xương của thân mềm và chân khớp về

nguồn gốc.

Lớp biểu mô thành thể xoang gồm các tế bào

biểu mô có tiêm mao.

Xoang cơ thể thứ sinh (thể xoang) phát triển tùy

theo nhóm. Ở huệ biển thì thể xoang bị mô liên

kết phát triển lấp đầy, ở đuôi rắn thể xoang bị

thu hẹp lại, còn ở cầu gai và sao biển và các

nhóm khác thì rất phát triển. Dịch thể xoang bao

quanh nội quan, có thành phần rất giống với

nước biển. Ngoài ra có nhiều protein, tế bào

thực bào và các tế bào sắc tố. Chức phận của

thể xoang là vận chuyển chất dinh dưỡng và

chất bã... Mặt khác, thể xoang có sự phân hoá

về cấu tạo, đảm nhận các chức phận khác

nhau, gồm hệ ống dẫn nước - hệ chân ống, hệ

tuần hoàn (hệ xoang máu giả) và phức hệ cơ

quan trụ.

Hệ thống ống dẫn nước của động vật da gai là

một cấu tạo đặc trưng, chúng được bắt nguồn

gốc từ túi thể xoang của ấu trùng. Hệ thống ống

dẫn này lấy nước từ môi trường ngoài thông

qua tấm sàng (madreporit) là cơ quan lọc nước

nằm ở cực đối miệng. Hệ thống ống dẫn nước

gồm có ống dẫn nước vòng quanh hầu, từ đó

toả ra các ống dẫn nước phóng xạ. Dọc theo

ống phóng xạ, về phía 2 bên có các cặp ampun

thông với chân ống ở phía dưới. Ampun ở một

số nhóm còn hoạt động như giác quan hoá học

và tham gia bắt mồi. Chân ống được các tấm

xương nâng đỡ tạo thành 2 dãy chân ống dưới

mỗi cánh tay (sao biển), có thành mỏng, không

có cơ vòng mà chỉ có cơ dọc, chúng duỗi

ra nhờ ampun dồn nước vào, do có van

một chiều không cho nước dồn trở lại ống

phóng xạ. Số lượng chân ống có thể tới 2.000

cái, chúng hoạt động phối hợp với nhau khi di

chuyển nhờ điều chỉnh áp lực trong hệ ống dẫn

nước. Sức bám của chân ống lên nền cứng một

phần nhờ tương tác ion, phần khác nhờ hoạt

động của tế bào tuyến kép như đã gặp ở giun

giẹp. Nước từ tấm sàng đến ống nước vòng qua

ống đá vì có thành cứng, được gia cố bằng các

gai đá vôi. Ngoài ra trên các ống dẫn nước vòng

có túi pôli và thể tideman dự trữ nước. Ngoài ra

thể tideman còn lọc nước để tạo ra dịch thể

xoang và thải chất bài tiết. Ngoài ra chân ống

còn là nơi trao đổi khí.

Thảo Hiên