
1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm virus viêm gan B (VRVGB) là một vấn đề có tính chất
toàn cầu. Khoảng 30% dân số trên thế giới tức 2 tỷ người bị nhiễm
VRVGB, trong đó 350 triệu người là mang VRVGB mạn tính. Hàng
năm, ước tính trên thế giới có khoảng 1 triệu người mang VRVGB
mạn tính chết vì ung thư gan nguyên phát và xơ gan. Trong những
vùng có tỷ lệ VRVGB lưu hành cao phương thức lây truyền dọc từ
mẹ sang con là chủ yếu, có thể xảy ra trong tử cung, trong khi đẻ
hoặc một thời gian ngắn sau khi đẻ. Nguy cơ nhiễm VRVGB mạn
tính lên tới 70-90% nếu trẻ sinh ra từ các bà mẹ mang đồng thời hai
kháng nguyên HBsAg và HBeAg, nhưng chỉ khoảng 20% nếu bà mẹ
có HBeAg(-). Việt Nam ở khu vực có tỷ lệ lưu hành HBsAg cao
nhất thế giới từ 10-25%. Năm 2006 thông tin về các tai biến sau tiêm
phòng vắcxin ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Tĩnh làm tỷ lệ trẻ
được tiêm phòng mũi vắcxin VGB trong vòng 24 giờ đầu giảm
xuống từ 67,0% năm 2006 xuống 24,0% năm 2007 và 22,0% năm
2008. Việc tiêm phòng muộn ở nhóm trẻ có nguy cơ cao này có thể là
một trong những lý do ảnh hưởng đến hiệu quả của việc phòng bệnh
viêm gan ở nước ta hiện nay. Thực tế đòi hỏi có những bằng chứng
khoa học để nâng cao hiệu quả phòng bệnh viêm gan B ở nước ta. Đề
tài nghiên cứu này được tiến hành nhằm các mục tiêu:
1.Mô tả hiện trạng nhiễm virus viêm gan B ngay sau sinh ở
con của các bà mẹ có HBsAg(+) khi sinh.
2.Đánh giá mức độ đáp ứng miễn dịch chống virus viêm
gan B của trẻ sơ sinh có mẹ HBsAg(+) sinh ra được tiêm phòng
vắcxin viêm gan B.
3.Khảo sát mối liên quan giữa một số dấu ấn virus viêm gan
B trong máu mẹ, máu cuống rốn với mức độ đáp ứng miễn dịch
chống virus viêm gan B của trẻ sau tiêm phòng đủ 4 mũi vắcxin
viêm gan B.
Những đóng góp mới của luận án
Đây là công trình nghiên cứu cơ bản về đánh giá đáp ứng tạo
kháng thể đối với vắcxin phòng viêm gan B ở đối tượng trẻ con các