TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM|SỐ 24/2022 35
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GERD
BẰNG DEXILANT 60 MG TRONG 8 TUẦN VÀ 4 TUẦN
PGS.TS. Nguyễn Duy Thắng
Viện trưởng Viện nghiên cứu và đào tạo Tiêu hóa, Gan mật
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Gerd bệnh nhiều người mắc phải. Vấn đề điều trị đang khó khăn do nhiều do,
tỷ lệ tái phát cao. Mục tiêu nghiên cứu: So sánh hiệu quả trên lâm sàng nội soi sau điều trị Gerd bằng
Dexlansoprazole ( Dexilant 60 mg ) 8 tuần so với 4 tuần.
Đối tượng phương pháp nghiên cứu: 153 bệnh nhân biểu hiện Gerd được chẩn đoán trên
lâm sàng nội soi được chia vào hai nhóm nghiên cứu. Nhóm I điều trị Dexilant 60 mg, ngày 1 viên trong
8 tuần. Nhóm II ( nhóm chứng) điều trị Dexilant 60 mg, ngày 1 viên trong 4 tuần. Kiểm tra lại sau đợt điều trị.
Kết quả: Sau điều trị, nhóm I 98,4% hết nóng, nhóm II 80,7% (p=0,004). Hết trớ nhóm I
90,0%, nhóm II là74,5% ( p=0,045). Hết nuốt nghẹn, khó nuốt nhóm I là 91,8%, nhóm II 71,4%.
(p=0,017). Hết đau tức ngực và đau thượng vị ở nhóm I là 93,3% và 91,0% , ở nhóm II tương ứng là 71,7%
72,0% ( p= 0,018 0,028 ). Hết ho khan 91,1% nhóm I, nhóm II 63,6% ( p= 0,049). Hết ho kéo dài,
khàn tiếng, đau họng nhóm I 94,6%, nhóm II 71,4% ( p=0,043). Hết khó ngủ ban đêm do trào ngược
nhóm I 95,6%, nhóm II ( 72,7%) (p=0,010). Hết viêm thực quản nhóm I 96,1 % nhóm II 78,7%
(p=0,001). LA-A ở nhóm I còn 4,3%, ở nhóm II là 23,5%. Không còn LA-B và LA-C.
Kết luận: Điều trị GERD với Dexilant 60 mg trong 8 tuần giảm được các triệu chứng trên lâm sàng và
lành viêm thực quản ăn mòn trên nội soi tốt hơn có ý nghĩa thống kê so với 4 tuần.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở đa số người thì việc có dịch và thức ăn trào
ngược lên thực quản được coi là hiện tượng sinh lý
bình thường nếu không gây nên tổn thương gì.
nhiều người, trào ngược khiến các triệu chứng như
ợ nóng hoặc đau dường như đến từ giữa ngực. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, trào ngược không
gây ra bất kỳ triệu chứng nào cả [2]. Chỉ khi việc
trào ngược dịch từ dạ dày lên thực quản gây
nên triệu chứng hoặc biến chứng trên thực quản
hoặc làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống
của người bệnh thì được coi là bệnh lý và được gọi
bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Theo định
nghĩa Montreal thì Trào ngược dạ dày thực quản
(GERD - Gastroesophageal Reflux Disease) tình
trạng bệnh khi chất trong dạ dày trào ngược gây
triệu chứng khó chịu / hoặc gây biến chứng [
11 ]. Bệnh này đã được phân thành các hội chứng
thực quản ngoài thực quản. Mục đích của điều
trị GERD là làm mất các triệu chứng trên lâm sàng,
làm lành tổn thương tại thực quản, chống tái phát
viêm thực quản các biến chứng của bệnh. Cuối
cùng phải cải thiện được chất lượng cuộc sống
cho người bệnh.
Ngày nhận bài: 21/6/2022
Ngày phản biện: 22/6/2022
Ngày chấp nhận đăng: 23/6/2022
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM|SỐ 24/2022
36
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Dexlansoprazole, một chất ức chế bơm proton
thế hệ mới, đánh dấu một tiến bộ đáng kể trong
điều trị các bệnh liên quan đến acid clohydric, chủ
yếu bệnh trào ngược dạ dày thực quản dưới
mọi hình thức. Đặc biệt lợi khi điều trị bằng
dexlansoprazole cho bệnh nhân có triệu chứng trào
ngược đêm và rối loạn giấc ngủ của GERD [ 4].
II. ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
a. Tiêu chuẩn lựa chọn:
Bệnh nhân trưởng thành, từ 18 đến trên 60
tuổi
Không phân biệt giới tính, nghề nghiệp
Bệnh nhân triệu chứng trên lâm sàng như:
nóng trong lòng ngực ( nóng), chua, ngược
thức ăn ( trớ), khó nuốt, nuốt nghẹn, đau tức ngực,
đau thượng vị, ho khan, ho kéo dài, khan tiếng, đau
họng, khó ngủ ban đêm do trào ngược.
Nội soi : viêm thực quản các mức độ theo
phân loại Los Angeles
Được giải thích tự nguyện chấp nhận vào
2 nhóm điều trị
b. Tiêu chuẩn loại trừ:
Phụ nữ đang mang thai , đang cho con bú
Có bệnh lý khác kèm theo như: Tim mạch, nội
tiết, tai mũi họng, tâm thần, dị ứng, khối u vùng hầu
họng, thực quản
Không có chỉ định nội soi dạ dày-thực quản
Bệnh nhân dương tính với Helicobacter
pylori dựa trên kết quả của xét nghiệm urease
test thở.
Bỏ dở đợt dùng thuốc hoặc dùng thuốc khác
kèm theo trong đợt điều trị
2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp tả cắt ngang, so
sánh nhóm chứng hăm khám lâm sàng, khai thác
tiền sử, bệnh sử
Nội soi dạ dày thực quản: Nội soi được thực
hiện bởi các bác sỹ chuyên khoa nội soi tiêu hóa để
đánh giá sự hiện diện mức độ nghiêm trọng của
EO dựa trên các loại Phân loại LA từ lúc bắt đầu
nghiên cứu đến lúc kết thúc 8 tuần nhóm nghiên
cứu và 4 tuần ở nhóm chứng.
Chia ngẫu nhiên các đối tượng vào 2 nhóm
nghiên cứu:
+ Nhóm I điều trị 8 tuần
+ Nhóm II điều trị 4 tuần
Chọn lựa thuốc và thời gian điều trị:
Chúng tôi chọn Dexilant 60 mg của Công ty
Takeda Nhật bản và dựa theo khuyến cáo của FDA
Hoa Kỳ. Liều 60 mg dexlansoprazole được uống
mỗi ngày một lần trong tối đa 8 tuần để chữa lành
tất cả các loại bệnh viêm thực quản ăn mòn [3 ].
Liều dùng, cách dùng : Dexilant 60 mg uống 1
viên/ ngày 30 phút trước khi ăn sáng
Sau điều trị 4 hoặc 8 tuần: tái khám lâm sàng
và nội soi dạ dày thực quản
So sánh kết quả điều trị trên lâm sàng và hình
ảnh nội soi giữa hai nhóm nghiên cứu
Phân tích số liệu theo phương pháp thống
y học
Mục tiêu:
Đánh gía tỷ lệ lành viêm thực quản ăn mòn
qua nội soi ở nhóm 8 tuần so với nhóm 4 tuần
Đánh giá tỷ lệ giảm các triệu chứng trên lâm
sàng sau điều trị ở nhóm 8 tuần so với nhóm 4 tuần
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM|SỐ 24/2022 37
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Độ tuổi
Nhóm I Nhóm II Tổng số
n % n % n %
< 20 33,8 3 4,0 6 4,0
21-30 11 14,1 10 13,3 21 13,7
31-40 18 23,1 17 22,6 35 22,9
41-50 25 32,1 23 30,6 48 31,4
51-60 13 16,6 12 16,0 25 16,3
60 8 10,3 10 13,3 18 11,7
Tổng số 78 100 75 100 153 100
Nhận xét: Độ tuổi thấp nhất <20 , độ tuổi cao nhất >60. Độ tuổi từ 41 đến 50 có tỷ lệ cao nhất ( 31,4%).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ tuổi giữa hai nhóm nghiên cứu.
Bảng 2. Triệu chứng lâm sàng trước điều trị của hai nhóm
Triệu chứng
Nhóm I Nhóm II P
n % n %
Nóng trong lồng ngực (ợ nóng) 62 79,5 57 76,0 0,64
Ợ chua, ợ ngược thức ăn ( ợ trớ) 60 77,0 55 73,3 0,62
Khó nuốt, nuốt nghẹn 49 62,8 42 56,0 0,55
Đau tức ngực 45 57,7 46 61,3 0,76
Đau thượng vị 56 71,8 50 66,7 0,54
Ho khan 34 43,6 30 40,0 0,73
Ho kéo dài, khàn tiếng ,đau họng 37 47,4 35 46,6 0,80
Khó ngủ ban đêm do trào ngược 46 59,0 44 58,6 0,96
Tổng số 78 75
Nhận xét: Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về triệu chứng lâm sàng trước điều trị ( P>0,05)
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM|SỐ 24/2022
38
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Bảng 3. Hết triệu chứng lâm sàng sau điều trị của hai nhóm
Triệu chứng Nhóm I Nhóm II P
n%n%
Nóng trong lồng ngực (ợ nóng) 61/62 98,4 46/57 80,7 0,004
Ợ chua, ợ ngược thức ăn ( ợ trớ) 54/60 90,0 41/55 74,5 0,045
Khó nuốt, nuốt nghẹn 45/49 91,8 30/42 71,4 0,017
Đau tức ngực 42/45 93,3 33/46 71,7 0,018
Đau thượng vị 51/56 91,0 36/50 72,0 0,028
Ho khan 31/34 91,1 19/30 63,6 0,049
Ho kéo dài, khàn tiếng ,đau họng 35/37 94,6 25/35 71,4 0,043
Khó ngủ ban đêm do trào ngược 44/46 95,6 32/44 72,7 0,010
Tổng số 78 75
Nhận xét: Có sự khác biệt giữa hai nhóm về triệu chứng lâm sàng sau điều trị ( P <0,05 )
Bảng 4. Hình ảnh nội soi trước điều trị
Hình ảnh nội soi Nhóm I Nhóm II P
n % n %
LA độ A 70 89,7 68 90,7 0,81
LA độ B 7 9,0 6 8,0 0,053
LA độ C 11,3 11,3
LA độ D 0 0 0 0
Tổng số 78 100 75 100
Nhận xét: Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về hình ảnh nội soi trước điều trị ( P>0,05)
Bảng 5. Hình ảnh nội soi sau điều trị
Hình ảnh nội soi Nhóm I Nhóm II P
n % n %
Hết viêm 75/78 96,1 59/75 78,7 0,001
LA độ A 3/70 4,3 16/68 23,5
LA độ B 0 0 0 0
LA độ C 0 0 0 0
Tổng số 78 100 75 100
Nhận xét: Có sự khác biệt giữa hai nhóm về hình ảnh nội soi sau điều trị ( P <0,001 )
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM|SỐ 24/2022 39
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Bảng 6. Tác dụng phụ
Triệu chứng Nhóm I Nhóm II Tổng số
n%n%n%
Tiêu chảy 1/78 1,2 1/75 1,3 2/153
Buồn nôn 1/78 1,2 0 0 1/153
Đầy hơi 0 0 1/75 1,3 1/153
Tổng số 2 2 4/153 2,6
Nhận xét: Ở cả hai nhóm nghiên cứu, chỉ có 2 trường hợp bị tiêu chảy, 1 trường hợp bị buồn nôn và 1
trường hợp bị đầy hơi.
IV. BÀN LUẬN
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 7 năm 2020
248 ( ITT) bệnh nhân được thăm khám lâm sàng,
nội soi dạ dày thực quản được chẩn đoán mắc
Hội chứng trào ngược dạ dày thực quản (GERD).
Bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu trong 2 nhóm
4 tuần 8 tuần. Sau 4 tuần 8 tuần bệnh nhân
quay lại để tái khám lâm sàng và nội soi. Tuy nhiên
chỉ 153 bệnh nhân quay trở lại theo hẹn, đạt tỷ
lệ 61,7% (PP). Nhóm I điều trị 8 tuần gồm 78 bệnh
nhân. Nhóm II ( nhóm chứng) điều trị 4 tuần gồm
75 bệnh nhân. Độ tuổi của bệnh nhân nghiên cứu
từ dưới 20 đến trên 60 tuổi. Không sự khác biệt
giữa hai nhóm về độ tuổi . Nhóm tuổi thấp nhất
dưới 20 ( 4,0%), nhóm tuổi cao nhất từ 41 đến 50 (
chiếm 31,4%) .
2. Triệu chứng lâm sàng
a. Trước điều trị
Các đối tượng nghiên cứu cả hai nhóm đều
được khám lâm sàng, hỏi tiền sử, bệnh sử, khai
thác các triệu chứng lâm sàng. hai triệu chứng
nổi bật đó là: nóng trong lồng ngực ( nóng)
chua, ngược thức ăn (ợ trớ). Tỷ lệ nóng
nhóm I 79,5% ( 62/78 bệnh nhân), nhóm II
76,0% ( 57/75 bệnh nhân). Sự khác biệt không
ý nghĩa thống kê ( P=0,64). 60/78 bệnh nhân nhóm
I triệu chứng trớ (77,0%). Nhóm II 55/75
bệnh nhân bị ợ trớ ( 73,3%). Không có sự khác biệt
giữa hai nhóm với P =0,62. 49/78 bệnh nhân (
62,8%) nhóm I triệu chứng nuốt nghẹn, khó nuốt.
Trong khi nhóm II có 42/75 bệnh nhân( 56,0%). Sự
khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống
(P=0,55). Đau tức ngực: Nhóm I 57,7% ( 45/78 BN),
nhóm II 61,3% ( 46/75 BN) , (P= 0,76). 71,8% bệnh
nhân nhóm I đau thượng vị ( 45/78 ), trong khi
nhóm II có 66,7% ( 50/75) ( P= 0,54).
Tỷ lệ bệnh nhân bị ho khan ho kéo dài, khàn
tiếng, đau họng nhóm I 43,6% 47,4%. Tỷ lệ
này nhóm II tương ứng 40,0 % 46,6%. Sự
khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu không ý
nghĩa thống ( với P = 0,73 P= 0,80). Có 59,0%
bệnh nhân nhóm I (46/78) 58,6% nhóm II (
44/75) bị khó ngủ ban đêm do trào ngược (P=0,96).
b. Sau điều trị
Trong nghiên cứu này tỷ lệ hết các triệu chứng
nhóm I đều cao hơn ý nghĩa thống so với
nhóm II. Cụ thể: Sau điều trị, nhóm I 98,4%
bệnh nhân hết nóng so với 80,7% nhóm II
(p=0,004). Tỷ lệ bệnh nhân hết trớ sau điều trị
nhóm I 90,0% , trong khi tỷ lệ này nhóm II
là74,5% ( p=0,045). Hết nuốt nghẹn, khó nuốt
nhóm I là 91,8% bệnh nhân, ở nhóm II 71,4%. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,017. Hết triệu
chứng đau tức ngực đau thượng vị nhóm I
93,3%và 91,0% bệnh nhân, ở nhóm II tương ứng
71,7% và 72,0%. Giữa hai nhóm có sự khác biệt có
ý nghĩa thống ( p= 0,018 0,028 ). 91,1%
bệnh nhân nhóm I hết ho khan, trong khi nhóm II có