
TNU Journal of Science and Technology
230(05): 286 - 292
http://jst.tnu.edu.vn 286 Email: jst@tnu.edu.vn
EVALUATION OF INSECTICIDAL ACTIVITY AGAINST FRANKLINIELLA
SPP. OF THYME OIL-ENCAPSULATED LIPID NANOEMULSIONS AND
BASIL OIL-ENCAPSULATED LIPID NANOEMULSIONS
Nguyen Vo Duy Tuan1, Vu Ngoc Bich Dao1, Tran Thi Ngoc Mai1, Trinh Ngoc Ai2,
Nguyen Thi Huynh Nga3, Nguyen Minh Hiep1*
1Center of Radiation Technology and Biotechnology - Nuclear Research Institute
2Tra Vinh University, 3Department of Biology - Da Lat University
ARTICLE INFO
ABSTRACT
Received:
09/10/2024
This study evaluates and compares the larvicidal and adulticidal efficacy
of Frankliniella spp. in vitro conditions using thyme essential oil-
encapsulated lipid nanoemulsions and basil essential oil-encapsulated
lipid nanoemulsions. Both LN-X and LN-H were synthesized using high-
speed homogenization combined with ultrasonic size reduction. The
average particle size of LN-X and LN-H was less than 150 nm with high
size uniformity, a high absolute zeta potential greater than 53 mV, and
strong stability. Results indicated that both LN-X and LN-H were
effective in killing Frankliniella spp. at both larval and adult stages. LN-
X, at a 150-fold dilution (corresponding to an essential oil concentration
of 667 µg/mL) demonstrated the highest thrip-killing efficacy. In
addition, the findings revealed that both nanoemulsions were non-toxic to
plants, even at essential oil concentrations exceeding 667 µg/mL. This
suggests the potential of these two nanocarriers as effective biological
agents in controlling Frankliniella spp., thereby supporting the
development of sustainable agriculture in Vietnam.
Revised:
06/02/2025
Published:
07/02/2025
KEYWORDS
Basil essential oil
Frankliniella spp.
Insecticide
Nano emulsion based on lipid
Thyme essential oil
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG TIÊU DIỆT BỌ TRĨ FRANKLINIELLA SPP. CỦA HỆ
NHŨ NANO BẢN CHẤT LIPID CHỨA TINH DẦU XẠ HƯƠNG VÀ HỆ NHŨ
NANO BẢN CHẤT LIPID CHỨA TINH DẦU HÚNG QUẾ
Nguyễn Võ Duy Tuân1, Vũ Ngọc Bích Đào1, Trần Thị Ngọc Mai1, Trịnh Ngọc Ái2,
Nguyễn Thị Huỳnh Nga3, Nguyễn Minh Hiệp1*
1Trung tâm Công nghệ bức xạ và Công nghệ sinh học - Viện Nghiên cứu hạt nhân
2Trường Đại học Trà Vinh, 3Khoa sinh học - Trường Đại học Đà Lạt
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Ngày nhận bài:
09/10/2024
Nghiên cứu này đánh giá và so sánh khả năng tiêu diệt ấu trùng và con
trưởng thành của bọ trĩ Frankliniella spp. trong điều kiện in vitro của hệ
nhũ nano bản chất lipid chứa tinh dầu xạ hương và hệ nhũ nano bản chất
lipid chứa tinh dầu húng quế. Hai hệ LN-X và LN-H được tổng hợp
bằng phương pháp đồng hóa tốc độ cao kết hợp với giảm kích thước
bằng sóng siêu âm. Cả LN-X và LN-H đều có kích thước hạt trung bình
nhỏ hơn 150 nm và khá đồng đều về mặt kích thước, giá trị tuyệt đối thế
zeta lớn hơn 53 mV và có độ bền cao. Kết quả cho thấy cả LN-X và LN-
H đều có khả năng tiêu diệt bọ trĩ Frankliniella spp. ở cả hai giai đoạn ấu
trùng và giai đoạn trưởng thành. LN-X ở độ pha loãng 150 lần (tương
ứng với nồng độ tinh dầu là 667 µg/mL) cho hiệu quả tiêu diệt cao nhất.
Kết quả cũng cho thấy cả 2 hệ nano này đều không gây độc tính cho cây
trồng. Do đó, hai hệ nano này có tiềm năng lớn để tạo ra chế phẩm sinh
học phòng trị bọ trĩ Frankliniella spp. giúp hỗ trợ phát triển nông nghiệp
sạch tại Việt Nam.
Ngày hoàn thiện:
06/02/2025
Ngày đăng:
07/02/2025
TỪ KHÓA
Diệt côn trùng
Frankliniella spp.
Hệ nhũ nano bản chất lipid
Tinh dầu húng quế
Tinh dầu xạ hương
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.11271
* Corresponding author. Email: jackminhhiep@yahoo.com

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 286 - 292
http://jst.tnu.edu.vn 287 Email: jst@tnu.edu.vn
1. Giới thiệu
Bọ trĩ (Frankliniella spp.) là loài đa thực gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau như: cây ăn
quả công nghiệp, hoa, cây cảnh [1]. Bọ trĩ chích hút gây tổn thương lá làm giảm khả năng quang
hợp của cây, gây tổn thương hoa và quả làm cho chất lượng nông sản không đạt yêu cầu của thị
trường, gây nên tổn thất kinh tế cho nông dân. Hơn nữa, bọ trĩ còn là vector trung gian truyền các
virus gây bệnh hại cây trồng chủ yếu thuộc các chi Orthotospovirus, Ilarvirus, Alphacarmovirus và
Machlomovirus gây ra các bệnh như héo rũ, đốm vòng, bệnh khảm [1], [2]. Do đó, bọ trĩ
Frankliniella spp. trở thành dịch hại hàng đầu cho ngành nông nghiệp toàn cầu [3] - [6].
Ở Việt Nam, đã thống kê được hơn 30 loài bọ trĩ gây hại cây trồng [7]. Người nông dân luôn
ưu tiên thuốc hóa học vì giá thành rẻ và dễ dàng mua được ở các hiệu thuốc bảo vệ thực vật. Dù
mang lại hiệu quả phòng trị nhưng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) có chứa nguồn gốc hóa học lại
gây ô nhiễm môi trường, tiêu diệt các loài sinh vật có lợi và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong
nông sản gây ảnh hưởng sức khỏe cho người tiêu dùng. Hơn nữa, phòng trừ bọ trĩ ngày càng khó
khăn do việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học đã gây nên tình trạng kháng thuốc [7] - [9].
Từ những năm cuối của thế kỷ 20, tinh dầu từ thực vật đã được biết đến là nguồn nguyên liệu
tiềm năng để tạo ra chế phẩm sinh học nhằm giảm lượng thuốc BVTV hóa học trong kiểm soát
côn trùng và bệnh hại. Bên cạnh đó, với cơ chế tác động đa điểm, tinh dầu còn giúp làm giảm
tính kháng của các đối tượng gây hại [10]. Ở dạng thô, tinh dầu xạ hương và tinh dầu húng quế
đã được chứng minh là có khả năng gây tử vong cho bọ trĩ bằng phương pháp xông hơi [11],
[12]. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng tinh dầu dạng thô thường không cao và phải dùng với liều
lượng lớn do khả năng phân tán trong nước và tính thấm kém, dễ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện
bất lợi ngoài môi trường. Để khắc phục những nhược điểm này, hệ nhũ nano bản chất lipid (lipid
based nanoemulsions - LN) đã được nghiên cứu và ứng dụng phổ biến trong lĩnh vực nông
nghiệp. Hệ nano này có khả năng làm tăng độ phân tán trong nước của tinh dầu lên hàng ngàn
lần, giúp tinh dầu dễ dàng thấm vào các mô của rễ, thân, lá và côn trùng và giúp bảo vệ các hoạt
chất chứa trong tinh dầu trước tác động bất lợi từ môi trường bên ngoài [13]. Bên cạnh đó, LN đã
được chứng minh là có khả năng giúp tinh dầu xâm nhập sâu vào cơ thể côn trùng thông qua con
đường tiêu hóa và da nhờ vào kích thước nhỏ, khả năng phân tán tốt trong nước và khả năng
thấm vào mô tế bào cao hơn so với tinh dầu dạng thô [14]. Từ đó, giúp tăng hiệu quả tiêu diệt côn
trùng của tinh dầu lên gấp nhiều lần.
Với mục tiêu tạo ra chế phẩm sinh học giúp tiêu diệt bọ trĩ Frankliniella spp. từ tinh dầu xạ
hương và tinh dầu húng quế, đồng thời so sánh hiệu quả giữa chúng, trong nghiên cứu này, LN
chứa tinh dầu xạ hương (LN-X) và LN chứa tinh dầu húng quế (LN-H) sẽ được điều chế và phân
tích thông số đặc điểm. Sau đó, hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ của LN-X và LN-H sẽ được đánh giá và so
sánh. Cuối cùng, độc tính cây trồng của LN-X và LN-H cũng đã được đánh giá trên cây rau xà lách.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp điều chế LN-X và LN-H
Hai hệ LN-X và LN-H được điều chế bằng phương pháp đồng hóa tốc độ cao kết hợp với
sóng siêu âm [15]. Đầu tiên, 1,5 g lecithin và 1,5 g tween 80 được phân tán trong 24 g nước ở 80
oC. Tiếp theo, 3 g tinh dầu (tinh dầu xạ hương hoặc tinh dầu húng quế) được thêm vào dịch phân
tán của hỗn hợp chất hoạt động bề mặt đã chuẩn bị và được đồng hoá bằng thiết bị ULTRA
TURRAX® (IKA®-Werke, Staufen, Germany) ở tốc độ 22.000 vòng/phút trong 4 phút. Cuối
cùng, dịch phân tán thô được giảm kích thước bằng thiết bị siêu âm đầu dò Ultrasonic Liquid
Processor (Sonics and Materials, Newtown, CT) với công suất 25% trong 4 phút.
2.2. Khảo sát thông số đặc điểm của LN-X và LN-H
Đầu tiên, dịch phân tán nano (LN-X hoặc LN-H) được pha loãng 100 lần với nước cất 2 lần.
Sau đó, dịch phân tán được trộn đều bằng thiết bị vortex (IKA, Malaysia) và tiến hành đo kích

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 286 - 292
http://jst.tnu.edu.vn 288 Email: jst@tnu.edu.vn
thước hạt, chỉ số phân tán kích thước hạt (PDI) và thế zeta bằng thiết bị Zetasizer Nano ZS
(Malvern, UK). Phép đo được thực hiện ở 25 oC với góc đo 173o.
2.3. Nhân nuôi bọ trĩ
Mẫu bọ trĩ Frankliniella spp. được lấy tại vườn hoa
thuộc tỉnh Lâm Đồng và nhân nuôi theo phương pháp của
Price và cộng sự [16]. Cụ thể, bọ trĩ được nuôi trong hộp
nhựa cao 15 cm × 10 cm ở nhiệt độ phòng, trên nắp được
khoét lỗ và dùng giấy lọc làm màng chắn. Hạt đậu ngự
(Phaseolus lunatus L.) được mua tại chợ Đà Lạt, Lâm
Đồng. Sau khi ươm trồng 10 ngày tuổi, lá mầm được thu
hoạch làm thức ăn cho bọ trĩ và lá sẽ được thay sau mỗi 3
ngày (Hình 1). Lá mầm dùng ở giai đoạn trưởng thành sẽ
được giữ lại để ấp trứng.
Hnh 1. Hộp nuôi bọ trĩ
2.4. Đánh giá hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ trong điều kiện in vitro của LN-X và LN-H
Trong thí nghiệm này, hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ trong điều kiện in vitro được đánh giá ở hai
giai đoạn: ấu trùng và trưởng thành. Cụ thể, 30 con bọ trĩ cùng giai đoạn (ấu trùng hoặc trưởng
thành) được cho vào trong hộp nhựa như đã nêu ở mục 2.3. Sau đó, tiến hành phun 2 ml chế
phẩm đã được pha loãng 150 lần, 250 lần và 400 lần (tương ứng với nồng độ tinh dầu lần lượt là
667 µg/ml, 400 µg/ml và 250 µg/ml) lên bọ trĩ và cho thêm 3 lá mầm vào hộp để làm thức ăn.
Sau 3 ngày, lá mầm sẽ được thay mới. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần (n = 3) cho mỗi nghiệm
thức. Hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ được tính theo công thức (1) và được đánh giá sau 3 ngày, 6 ngày
và 9 ngày sau khi phun:
Hiệu quả tiêu diệt (%)=100−(số lượng bọ trĩ còn sống
tổng số bọ trĩ )×100 (1)
2.5. Khảo sát độc tính đối với cây trồng của LN-X và LN-H
Cây rau xà lách được trồng trong vỉ xốp 9 lỗ ×14 hàng. Mỗi nghiệm thức có 18 cây rau xà
lách được trồng trong 2 hàng và được xử lý bằng 10 ml chế phẩm LN-X hoặc LN-H ở độ pha
loãng 100 lần và 150 lần. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần (n = 3) cho mỗi nghiệm thức. Sự sinh
trưởng của cây sẽ được quan sát, đánh giá và so sánh với nghiệm thức đối chứng dựa trên sự thay
đổi của thân, lá.
2.6. Xử lý số liệu
Số liệu được trình bày ở dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần
(n = 3) cho mỗi nghiệm thức. Phần mềm Microsoft Excel được dùng để xử lý số liệu. Các chữ cái
alphabet khác nhau trong cùng 1 cột và ký tự khác nhau trong cùng 1 hàng chỉ sự khác nhau mức
ý nghĩa thống kê, được phân tích bằng phần mềm SPSS, phương pháp One-way ANOVA, phép
thử Duncan (p < 0,05).
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Điều chế LN-X và LN-H
Hai hệ LN-X và LN-H đã được tổng hợp thành công bằng phương pháp đồng hóa tốc độ cao
kết hợp sóng siêu âm. Kết quả cho thấy 2 hệ nano này đều có kích thước hạt trung bình nhỏ hơn
150 nm. Cụ thể, LN-X có kích thước 146,3 ± 1,92 nm và LN-H có kích thước nhỏ hơn là 83,9 ±
1,72 nm. Sự sai khác về kích thước này là do 2 hệ mang nano có cùng giá trị HLB (Hydrophilic
Lipophilic Balance) vì có chung tỉ lệ chất hoạt động bề mặt tween và lecithin (1:1, w/w), nhưng
có giá trị RHLB (Required Hydrophilic Lipophilic Balance) khác nhau tùy theo từng loại tinh dầu

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 286 - 292
http://jst.tnu.edu.vn 289 Email: jst@tnu.edu.vn
[15]. Bên cạnh đó, như thể hiện ở Hình 2, tinh dầu xạ hương và tinh dầu húng quế ở dạng thô
phân tán rất kém trong nước (Hình 2 a, b), trong khi việc đóng gói chúng vào trong hệ nhũ nano
bản chất lipid lại có độ phân tán rất tốt trong nước (Hình 2 c, d). Các hệ nano này, với kích thước
nhỏ và khả năng phân tán trong nước tốt, sẽ có thể dễ dàng tiếp xúc và đưa tinh dầu đi vào trong
cơ thể Frankliniella spp., từ đó tăng cao hiệu quả sinh học của tinh dầu lên nhiều lần so với tinh
dầu ở dạng thô [14].
Hnh 2. Độ phân tán trong nước của (a) tinh dầu húng quế; (b) tinh dầu xạ hương; (c) LN-H; (d) LN-X
Mặt khác, PDI của 2 hệ nano có giá trị 0,226 ± 0,009 (LN-X) và 0,212 ± 0,007 (LN-H). Điều
này thể hiện sự đồng đều về kích thước giữa các hạt trong dịch phân tán [17]. Bên cạnh đó, LN-X
và LN-H có độ ổn định cao vì cả 2 có giá trị tuyệt đối thế zeta lớn hơn 53 mV. Điều này là do khi
giá trị tuyệt đối thế zeta trên 30 mV thì lực đẩy tĩnh điện giữa các hạt sẽ đủ mạnh để ngăn sự kết
tụ của chúng, từ đó giúp duy trì tính ổn định vật lý của hệ nano [18]. Điều này cũng đã được thể
hiện ở Bảng 1, khi kết quả sau 2 tháng cho thấy, kích thước hạt và thế zeta của cả 2 hệ LN-X và
LN-H đều thay đổi không đáng kể so với ban đầu. Cụ thể, kích thước hạt của LN-X chỉ tăng từ
146,3 ± 1,92 nm lên 153,1 ± 1,62 nm và thế zeta giảm không đáng kể từ -55,7 ± 0,59 mV xuống
còn -53,5 ± 0,40 mV. Trong khi đó, kích thước hạt của LN-H chỉ tăng từ 83,9 ± 1,72 nm lên 88,9 ±
1,24 nm và thế zeta giảm từ -53,2 ± 0,45 mV xuống còn -51,8 ± 0,25 mV.
Bảng 1. Thông số đặc điểm của LN-X và LN-H (n=3)
EO-
LNs
Kích thước hạt
(nm)
PDI
Thế zeta
(mV)
Kích thước
hạt sau 2
tháng (nm)
Thế zeta sau 2
tháng (mV)
LN-X
146,3 ± 1,92
0,226 ± 0,009
-55,7 ± 0,59
153,1 ± 1,62
-53,5 ± 0,40
LN-H
83,9 ± 1,72
0,212 ± 0,007
-53,2 ± 0,45
88,9 ± 1,24
-51,8 ± 0,25
3.2. Khảo sát hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ của LN-X và LN-H
Hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ của LN-X và LN-H được đánh giá ở giai đoạn ấu trùng và giai đoạn
trưởng thành ở các nồng độ pha loãng của LN-X và LN-H là 150, 250 và 400 lần tương ứng với
nồng độ tinh dầu là 667 µg/mL, 400 µg/mL và 250 µg/mL.
Cụ thể, kết quả ở Bảng 2 cho thấy, số lượng ấu trùng ở các nghiệm thức đối chứng không thay
đổi sau 9 ngày. Trong khi đó, số lượng ấu trùng ở các nghiệm thức được xử lý bằng hệ nhũ nano
lipid chứa tinh dầu đều giảm. Cụ thể, ở nồng độ pha loãng 150 lần (tương ứng với nồng độ tinh
dầu là 667 µg/mL), sau 6 ngày, hiệu quả tiêu diệt đạt 100% ở cả 2 hệ nano. Khi tăng nồng độ pha
loãng lên 250 lần (tương ứng với nồng độ tinh dầu là 400 µg/mL), hiệu quả tiêu diệt sau 6 ngày
của LN-X và LN-H giảm lần lượt xuống còn 95,56 ± 1,52% và 80,04 ± 2,03%. Trong khi đó, kết
quả ở ngày thứ 9 sau khi phun không có sự khác biệt mức ý nghĩa thống kê so với kết quả ở ngày
thứ 6 ở cả 2 hệ nano. Ở độ pha loãng 400 lần (tương ứng với giảm nồng độ tinh dầu xuống còn

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 286 - 292
http://jst.tnu.edu.vn 290 Email: jst@tnu.edu.vn
250 µg/mL), hiệu quả tiêu diệt ấu trùng bọ trĩ của LN-X và LN-H giảm đáng kể, lần lượt chỉ còn
71,12 ± 2,24% và 60,02 ± 3,84%. Mặt khác, kết quả ở Bảng 2 cũng cho thấy hiệu quả tiêu diệt ấu
trùng bọ trĩ của LN-X cao hơn LN-H ở tất cả các độ pha loãng; và nồng độ pha loãng nhỏ hơn
250 lần (tương ứng với nồng độ tinh dầu >400 µg/mL) cho hiệu quả tiêu diệt ấu trùng bọ trĩ gần
như tuyệt đối. Điều này là nhờ vào khả năng gây độc cho ấu trùng bọ trĩ của các hoạt chất như
thymol, linalool, carvacrol ở tinh dầu xạ hương, và eugenol, linalool, ethyl chavicol ở húng quế
[12], [19], [20]. Tuy nhiên, sự khác biệt về hiệu quả tiêu diệt ấu trùng là do thành phần và nồng
độ hoạt chất chứa trong mỗi loại tinh dầu là khác nhau.
Bảng 2. Hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ ở giai đoạn ấu trùng trong điều kiện in vitro (n = 3)
Ngày sau phun
Độ pha loãng
Hiệu quả tiêu diệt (%)
Đối chứng
LN-X
LN-H
3
150
0 ± 0,00c*
48,89 ± 2,21a***
40,05 ± 3,84b***
250
0 ± 0,00b*
26,67 ± 2,68a**
31,13 ± 2,69a**
400
0 ± 0,00b*
13,33 ± 3,84a*
11,15 ± 2,24a*
6
150
0 ± 0,00b*
100,00 ± 0,00a***
100,00 ± 0,00a***
250
0 ± 0,00c*
95,56 ± 1,52a**
80,04 ± 2,03b**
400
0 ± 0,00c*
71,12 ± 2,24a*
60,02 ± 3,84b*
9
150
0 ± 0,00b*
100,00 ± 0,00a***
100,00 ± 0,00a***
250
0 ± 0,00c*
97,78 ± 1,04a**
82,24 ± 1,86b**
400
0 ± 0,00c*
75,56 ± 2,21a*
60,06 ± 3,87b*
Ghi chú: Các chữ cái a, b, c chỉ sự khác nhau mức ý nghĩa thống kê trong một hàng; các ký tự *, **, ***
chỉ sự khác khác nhau mức ý nghĩa thống kê trong một cột, qua phép thử Duncan (p < 0,05)
Bảng 3. Hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ ở giai đoạn trưởng thành trong điều kiện in vitro (n = 3)
Ngày sau phun
Độ pha loãng
Hiệu quả tiêu diệt (%)
Đối chứng
LN-X
LN-H
3
150
0 ± 0,00b*
82,16 ± 2,34a***
17,78 ± 3,78b***
250
0 ± 0,00b*
35,58 ± 4,56a**
28,68 ± 2,57a**
400
0 ± 0,00b*
19,67 ± 2,52a*
11,12 ± 3,05ab*
6
150
0 ± 0,00c*
86,42 ± 2,12a***
51,14 ± 2,14b**
250
0 ± 0,00c*
68,84 ± 2,42a**
51,13 ± 4,49b**
400
0 ± 0,00c*
55,45 ± 3,75a*
40,05 ± 3,61b*
9
150
0 ± 0,00c*
100,00 ± 0,00a***
82,16 ± 2,51b***
250
0 ± 0,00c*
77,74 ± 2,14a**
62,27 ± 4,67b**
400
0 ± 0,00c*
64,35 ± 2,23a*
51,12 ± 4,37b*
Ghi chú: Các chữ cái a, b, c chỉ sự khác nhau mức ý nghĩa thống kê trong một hàng; các ký tự *, **, ***
chỉ sự khác khác nhau mức ý nghĩa thống kê trong một cột, qua phép thử Duncan (p < 0,05)
Hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ Frankliniella spp. ở giai đoạn trưởng thành ở điều kiện in vitro được
thể hiện trong Bảng 3. Kết quả cho thấy, hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ của cả 2 hệ LN-X và LN-H đều
tăng dần từ ngày từ 3 đến ngày thứ 9 sau khi phun. Trong đó, ở ngày thứ 3, hiệu quả tiêu diệt bọ
trĩ ở giai đoạn trưởng thành của LN-X ở độ pha loãng 150 lần (tương ứng với nồng độ tinh dầu là
667 µg/mL) đạt 82,16 ± 2,34%, trong khi giá trị này chỉ là 17,78 ± 3,78% khi xử lý bằng LN-H ở
cùng nồng độ. Điều này cho thấy LN-X gây độc tính cấp cho bọ trĩ trưởng thành cao hơn LN-H.
Mặt khác, kết quả cũng cho thấy, sau 9 ngày, số lượng bọ trĩ ở các nghiệm thức được xử lý bằng
hệ nhũ nano lipid chứa tinh dầu đều giảm mạnh, trong khi không có sự suy giảm về số lượng bọ
trĩ ở các các nghiệm thức đối chứng. Ở nồng độ pha loãng 150 lần, hiệu quả tiêu diệt bọ trĩ ở giai
đoạn trưởng thành của LN-X đạt 100% sau 9 ngày, trong khi hiệu quả tiêu diệt của LN-H chỉ là
82,16 ± 2,51%. Khi tăng nồng độ pha loãng lên 250 lần và 400 lần (tương ứng với việc giảm nồng
độ tinh dầu xuống còn 400 µg/mL và 250 µg/mL), hiệu quả tiêu diệt giảm rõ rệt, xuống dưới 80% ở
tất cả các nghiệm thức. Từ các kết quả trên cho thấy rằng, LN-X và LN-H đều có hiệu quả trong
việc tiêu diệt bọ trĩ ở giai đoạn trưởng thành, tuy nhiên LN-X cho hiệu quả tốt hơn so với LN-H. So
với những nghiên cứu trước đây sử dụng phương pháp xông hơi tinh dầu, hai loại tinh dầu xạ