
ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
111
ĐÁNH GIÁ SỰ TƢƠNG THÍCH CỦA SÁCH NEW ROUND-UP 4 VỚI CHUẨN ĐẦU RA
HỌC PHẦN NGỮ PHÁP CƠ BẢN VÀ TRÌNH ĐỘ TIẾNG ANH CỦA SINH VIÊN
Trần Thị Hồng Lê
Trường Đại học Tây Bắc
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Ngày nhận bài: 17/2/2024
Ngày nhận đăng: 20/5/2024
Từ khoá: Ngữ pháp tiếng Anh, đánh
giá và điều chỉnh tài liệu giảng dạy,
chuẩn đầu ra của học phần, trình độ
tiếng Anh và năng lực học tập của
sinh viên.
Bài viết đánh giá mức độ tương thích của cuốn sách ngữ pháp
Round up 4 với chuẩn đầu ra môn học (CLO) của học phần Ngữ
pháp cơ bản và trình độ tiếng Anh của sinh viên năm thứ 2 chuyên
ngành Sư phạm tiếng Anh, trường Đại học Tây Bắc. Dựa trên việc
phân tích về thời lượng của khoá học, chuẩn đầu ra học phần,
trình độ tiếng Anh cũng như khả năng học tập của sinh viên, cuốn
sách được đánh giá là phù hợp để làm sách giáo trình của học
phần Ngữ pháp cơ bản. Tuy nhiên, cần có một số điều chỉnh như
thêm, bớt một số nội dung, sắp xếp lại một số bài học để việc sử
dụng cuốn sách hợp lý và hoàn chỉnh hơn.
1. Đặt vấn đề
Ngữ pháp đã và đang giữ một vai trò quan
trọng trong việc học và tiếp thu ngôn ngữ, bởi
kiến thức tốt về hệ thống ngữ pháp là tiền đề để
thành thạo một ngoại ngữ và là một trong
những phần quan trọng của năng lực giao tiếp.
Nếu không có kiến thức ngữ pháp toàn diện thì
khả năng phát triển ngôn ngữ của người học sẽ
bị hạn chế. Việc học ngữ pháp tiếng Anh và sử
dụng nó một cách chính xác, có hiệu quả cần
rất nhiều thời gian và công sức. Đặc biệt, cần
có một lộ trình hợp lý, khoa học với tài liệu dạy
học phù hợp. Tài liệu dạy học phải tương thích
với các đặc điểm cụ thể của đối tượng người
học, thuận lợi với người dạy và giúp người học
đáp ứng yêu cầu về chuẩn đầu ra của học phần.
Bài báo tập trung phân tích sự phù hợp của
tài liệu giảng dạy New Round up 4 của
Virginia, Evans, Jenny, Dooley (2010), của nhà
xuất bản Pearson Longman với những đặc điểm
cụ thể về thời lượng, chuẩn đầu ra của học
phần, và năng lực học tập của sinh viên. Mặc
dù hiện không phải là giáo trình của học phần,
cuốn sách đang được các giảng viên sử dụng
với mức độ và tần suất cao trong giảng dạy học
phần Ngữ pháp cơ bản (NPCB) dành cho sinh
viên năm thứ 2, chuyên ngành Sư phạm tiếng
Anh (SPTA), trường Đại học Tây Bắc (ĐHTB).
Câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là “Cuốn
sách ngữ pháp New Round up 4 có thể được sử
dụng làm giáo trình chính của học phần Ngữ
pháp tiếng Anh cơ bản trong chương trình đào
tạo ngành Sư phạm tiếng Anh tại ĐHTB
không?” Kết quả của nghiên cứu có thể sử dụng
làm tiền đề cho một số đề xuất, giải pháp thích
hợp đối với việc lựa chọn, điều chỉnh tài liệu
nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy cho học
phần NPCB – một trong những học phần cốt lõi
trong chương trình đào tạo ngành SPTA,
ĐHTB.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Tài liệu dạy – học
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số định
nghĩa về tài liệu dạy–học. Theo Tomlinson [10]
“tài liệu giảng dạy ngôn ngữ là bất cứ thứ gì mà
người học ngôn ngữ có thể sử dụng để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc học ngôn ngữ đích”.
Theo đó, tài liệu dạy học có thể là một quyển
sách giáo khoa, sách giáo trình, một quyển bài
tập, một đĩa cát sét, một đĩa CD-Rom, một đoạn
video, một đoạn văn được viết trên bảng: bất cứ
thứ gì trình bày hoặc thông tin về ngôn ngữ
được học.
Phần lớn các khóa học đều lựa chọn một
giáo trình phù hợp, hoặc là sử dụng nguyên bản
hoặc là có sự lựa chọn nội dung, làm giáo trình
chính bên cạnh các nguồn tài liệu tham khảo.
Sách giáo khoa là nguồn cung cấp ngôn ngữ, là
yếu tố hỗ trợ quá trình học, là nhân tố khuyến
khích và tạo hứng thú học tập và là nguồn tham
khảo, Dudley-Evan & St John [1]. Hutchinson
Trần Thị Hồng Lê (2024) - (36): 111 - 118

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
112
và Torres [7] cho rằng tài liệu dạy – học có một
vai trò rất quan trọng và tích cực trong dạy và
học tiếng Anh bởi chúng cung cấp ngữ liệu đầu
vào cần thiết cho lớp học qua những hoạt động,
những nhiệm vụ và những phần giải thích.
Mặc dù có sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ sự
phát triển của các công nghệ mới, sách giáo
khoa/giáo trình vẫn đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong việc giảng dạy ngôn ngữ, cung
cấp một nguồn thông tin hữu ích cho cả người
dạy và người học. Tuy nhiên việc lựa chọn và
sử dụng một giáo trình sẵn có phù hợp với mục
tiêu của chương trình đào tạo, mục tiêu của
khóa học và phù hợp với đối tượng người học
không phải là điều dễ dàng. Điều này đòi hỏi
các nhà giáo dục, các giáo viên phải thường
xuyên xem xét, đánh giá mức độ phù hợp của
giáo trình, tài liệu dạy – học được lựa chọn với
những tiêu chí định sẵn của khóa học cũng như
với trình độ của người học.
2.1.2. Đánh giá tài liệu dạy-học
Theo Lynch [8], đánh giá là một nỗ lực có hệ
thống nhằm thu thập thông tin để thực hiện điều
chỉnh hoặc đưa ra những quyết định liên quan.
Đánh giá là vấn đề xem xét độ phù hợp của một
cái gì đó với một mục đích cụ thể. Đối với
những yêu cầu nhất định và trong số nguồn tài
liệu sẵn có, cái nào có khả năng phù hợp nhất.
Đánh giá, do đó, gắn với những lợi ích thực tế.
Không có cái hoàn toàn tốt hoặc không tốt, chỉ
có mức độ phù hợp của nó đối với một mục
đích cụ thể. Với Tomlinson [10] đánh giá tài
liệu là sự thẩm định giá trị của tài liệu. Cụ thể
hơn đó là quá trình đánh giá một cách hệ thống
tài liệu dạy–học so với mục tiêu của chính tài
liệu đó và mục tiêu của người học sử dụng
chúng.
Việc đánh giá tài liệu dạy–học có vai trò hết
sức quan trọng, giúp người dạy và người học
đạt được những mục tiêu đã đề ra. Theo Ellis
[2], đánh giá tài liệu sẽ cung cấp cho giáo viên
thông tin cần thiết để đưa ra quyết định có nên
sử dụng lại tài liệu đó hay không, hoạt động
nào hữu ích và hoặc động nào không hữu ích và
làm thế nào để điều chỉnh tài liệu và làm cho
chúng hiệu quả hơn. Nói một cách khác, thông
qua việc đánh giá, chúng ta có thể kiểm chứng
tài liệu dạy – học đang được sử dụng có phù
hợp với người học cũng như môi trường dạy
học của mình hay không.
Trong nghiên cứu này, tài liệu giảng dạy
được xem xét, đánh giá là cuốn Round to
Grammar 4. Mặc dù cuốn sách hiện không phải
là giáo trình của học phần NPCB dành cho sinh
viên ngành SPTA năm thứ 2, ĐHTB; tuy nhiên
trong quá trình giảng dạy học phần, các giảng
viên đã tham khảo, sử dụng nhiều nội dung
trong cuốn sách và nhận định sách có sự tương
thích với thời lượng môn học và đối tượng
người học tại đây.
2.1.3. Mô hình và tiêu chí đánh giá tài liệu
dạy – học
Grant [3] đề xuất một quá trình đánh giá tài
liệu 3 giai đoạn là đánh giá ban đầu (initial
evaluation), đánh giá chi tiết (detailed
evaluation) và đánh giá trong sử dụng (in-used
evaluation). Đánh giá ban đầu được thực hiện
bởi việc chủ yếu nhìn vào hình thức của cuốn
sách mà không đi sâu vào chi tiết. Đánh giá chi
tiết được thực hiện để xem liệu tài liệu đó có
phù hợp với sinh viên, giáo viên, và chương
trình không. Đánh giá trong sử dụng có thể
được thực hiện để đánh giá lại một tài liệu dạy
học cụ thể nào đó một cách liên tục. Với mục
đích này, Grant gợi ý có thể đánh giá tính hiệu
quả của tài liệu qua những câu hỏi, qua quan sát
lớp học và sự trao đổi thường xuyên giữa các giáo
viên để thảo luận về những điểm mạnh và hạn
chế của tài liệu.
Hutchinson [6] đề xuất một mô hình đánh
giá tài liệu mà ở đó ông xem việc đánh giá tài
liệu như một quá trình liên kết sự phù hợp của
tài liệu với một mục đích cụ thể được đặt ra
theo những nhu cầu đã được nhận diện. Quá
trình này được thực hiện với 4 giai đoạn:
- Xác định tiêu chí đánh giá.
- Phân tích bản chất và những nguyên tắc
của tình huống dạy học cụ thể.
- Phân tích bản chất và những nguyên tắc
của những tài liệu sẵn có và kiểm chứng sự
phân tích trong lớp học.
- So sánh những điều tìm thấy từ hai phân
tích trên.
Điểm chung của các tác giả về vấn đề đánh
giá tài liệu nằm ở quan điểm cần có đánh giá
tổng thể và đánh giá chi tiết, cần có đánh giá

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
113
trước, trong và sau khi sử dụng tài liệu. Tuy
nhiên mỗi nhà nghiên cứu lại có cách tiếp cận và
đưa ra những mô hình khác nhau trong đánh giá
tài liệu.
Về tiêu chí đánh giá, có nhiều tiêu chí khác
nhau để đánh giá tài liệu. McGrath [5] đã tổng
hợp một danh sách các tiêu chí đánh giá khi lựa
chọn tài liệu cho phù hợp với từng bối cảnh
khác nhau, gồm:
- Mức độ mà cuốn sách có thể thúc đẩy
học sinh.
- Mức độ cuốn sách phù hợp với trình độ và
lứa tuổi học sinh.
- Các tài liệu bổ trợ đi kèm với cuốn sách.
- Mức độ đáp ứng yêu cầu chương trình đào
tạo của sách giáo khoa.
- Mức độ phù hợp giữa số lượng tài liệu
được cung cấp và số tiết dạy được giao cho
môn học.
- Chất lượng của sách hướng dẫn giáo viên.
- Lượng thông tin văn hóa mà cuốn sách
cung cấp.
- Tốc độ của cuốn sách, tốc độ tiến triển của
cuốn sách.
- Việc bài trí của cuốn sách.
- Giá cả.
- Quốc tịch của tác giả của cuốn sách.
Nghiên cứu này áp dụng mô hình đánh giá
của McGrath trong việc xác định các tiêu chí
đánh giá gồm: mức độ phù hợp của tài liệu giảng
dạy Round to Grammar 4 với thời lượng của
môn học, với chuẩn đầu ra của học phần NPCB
dành cho sinh viên năm thứ 2 ngành SPTA,
ĐHTB và sự tương thích của tài liệu với năng
lực, trình độ tiếng Anh của người học.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với 03 giảng
viên đã và đang dạy học phần NPCB và 39 sinh
viên năm thứ 2, lớp K63A ĐHSP tiếng Anh
trường ĐHTB trong đó có 6 nam và 23 nữ, có
02 em học theo diện cử tuyển, 04 em học lại từ
khoá trước. Các phương pháp nghiên cứu sau
đã được thực hiện trước, trong và sau khi kết
thúc việc giảng dạy học phần:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Được sử
dụng để tìm hiểu những thông tin liên quan,
làm cơ sở xây dựng phần cơ sở lý luận của
nghiên cứu. Bên cạnh đó, phương pháp này
cũng được sử dụng để phân tích chuẩn đầu ra
của học phần, phân tích tài liệu giảng dạy dựa
trên các tiêu chí được lựa chọn đánh giá.
Phương pháp điều tra viết: Phiếu điều tra
được sử dụng nhằm tìm hiểu về sơ bộ về năng
lực học tập và trình độ của sinh viên. Phiếu
gồm 10 câu hỏi, trong đó 3 câu đầu tìm hiểu hỏi
về thời gian học tập tiếng Anh của sinh viên, sự
tự tin, và tự đánh giá vốn kiến thức ngữ pháp
tiếng Anh của sinh viên ở từng nội dung như:
các thành phần trong câu, từ loại, thì của động
từ, tính từ và trạng từ, các tiểu từ, các loại câu,
.... 7 câu hỏi sau nhằm thu thập thông tin về
đánh giá của sinh viên với tài liệu New Round
up 4 trên các khía cạnh: số lượng của các bài
tập, nhiệm vụ cho nhu cầu học trên lớp và tự
học; sự đa dạng của các bài tập, nhiệm vụ; sự
thú vị cũng như sự hiệu quả của tài liệu với việc
học tập của sinh viên. Thời gian khảo sát sinh
viên diễn ra trong tháng 12/2023, sau khi sinh
viên K63 vừa trải qua kỳ học môn NPCB.
Phương pháp thống kê số liệu: Được sử
dụng trong việc tổng hợp kết quả bài khảo sát
tiếng Anh đầu vào dành cho sinh viên K63
được thực hiện ở đầu khoá học. Kết quả các bài
kiểm tra trong quá trình học NPCB cũng được
thống kê nhằm có thông tin chính xác hơn về
năng lực, kiến thức ngữ pháp tiếng Anh của
sinh viên.
Phương pháp phỏng vấn: Được sử dụng để
trao đổi với giảng viên đã và đang trực tiếp
giảng dạy học phần NPCB cho một số nhóm
lớp khác cùng K63. Do giảng viên đã dạy học
phần này trong một số năm, việc thực hiện
phỏng vấn diễn ra trước học kỳ, các câu hỏi
liên quan đến lý do, tần suất, mức độ, nội dung
của sách mà thầy cô đã sử dụng trong quá trình
giảng dạy học phần NPCB cũng như những lưu
ý, đề xuất của thầy cô khi sử dụng cuốn sách
trong giảng dạy. Một số câu hỏi về cách thức
học tập môn học, những mong muốn điều chỉnh
nếu cuốn sách được sử dụng làm sách giáo trình
cũng được đặt ra cho một số sinh viên sau khi
kết thúc học kỳ.
2.3. Kết quả và thảo luận
2.3.1. Thời lượng và Chuẩn đầu ra học phần
Ngữ Cơ bản

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
114
Theo Chương trình đào tạo ngành SPTA
được ban hành năm 2022 của trường ĐHTB,
học phần NPCB là học phần thuộc nhóm cơ sở
ngành, giúp sinh viên xây dựng nền tảng và
củng cố kiến thức ngữ pháp tiếng Anh. Học
phần có 4 tín chỉ, được giảng dạy trong thời
gian 15 - 16 tuần. Thực tế, mỗi tuần sinh viên
được học 2 buổi, mỗi buổi 2 tiết học trên lớp.
Bên cạnh đó, với mỗi tín chỉ, sinh viên được
yêu cầu dành số giờ tự học gấp đôi số giờ trên
lớp; như vậy số giờ tự học của sinh viên cho
học phần này là 120 giờ.
Chuẩn đầu ra (CĐR) của học phần, theo
Jenkins và Unwin [4] là sự khẳng định những
điều kỳ vọng, mong muốn một người tốt nghiệp
có khả năng làm được nhờ hoàn thành một khóa
đào tạo. CĐR của học phần phải đảm bảo các
yêu cầu: song hành với CĐR của chương trình
đào tạo và tuyên bố được liên hệ trực tiếp đến
nội dung học phần; được xác định bởi các động
từ chỉ hành động của thang nhận thức để miêu tả
kiến thức, kỹ năng, và giá trị mà sịnh viên sẽ đạt
được với các cấp độ khác nhau; mô tả những gì
mà người dạy mong muốn sinh viên học được từ
học phần của mình; sử dụng động từ xác định
các hành động cụ thể, quan sát được; có tính
thực tế và có thể đạt được.
Theo Chương trình đào tạo ngành SPTA
năm 2022 của trường ĐHTB được ban hành,
chuẩn đầu ra của học phần NPCB gồm: (1) Mô
tả và giải thích được các hiện tượng ngữ pháp
như: các thì của động từ, sự hoà hợp giữa chủ
ngữ và động từ, các dạng động từ, các hình
thức so sánh…..(2) Vận dụng được các quy tắc
ngữ pháp tiếng Anh, nói và viết được các câu
đúng ngữ pháp, sửa được lỗi sai. (3) Phân tích
được cấu trúc của cụm từ, cấu trúc câu, cấu trúc
bài khoá theo quan điểm ngữ, nghĩa. (4) Phát
triển được kỹ năng giao tiếp của bản thân để
hướng đến sự chính xác, sự hoàn hảo. Vận
dụng được những cấu trúc ngữ pháp tiếng Anh
để giải quyết các dạng bài tập có liên quan cũng
như áp dụng trong đàm thoại và viết.
Có thể thấy, CĐR của học phần NPCB đã
đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản như: gắn
kết với CĐR của Chương trình đào tạo; sử dụng
các động từ có tính có cấp độ; thể hiện được
mong muốn đạt được của người dạy với người
học thông qua môn học.
2.3.2. Trình độ tiếng Anh và năng lực học
tập của sinh viên
Kết quả thu thập được từ phiếu điều tra và
phỏng vấn cho thấy một số đặc điểm về trình
độ của sinh viên chuyên ngành SPTA, năm thứ
2: nhiều em là người dân tộc thiểu số, đa phần
đến từ những vùng nông thôn hoặc các tỉnh
miền núi khu vực Tây Bắc - những nơi chưa có
điều kiện học tiếng Anh tốt, như Điện Biên,
Sơn La, Lai Châu và một số ít đến từ các vùng
nông thôn tỉnh Ninh Bình, Bắc Giang. Có 17/39
(43,6%) sinh viên được học tiếng Anh từ 7 năm
trở lên, trong khi số sinh viên học tiếng Anh từ
3 – 7 năm, chiếm hơn một nửa (56,7%). Mặc
dù nhiều em có thời gian học tiếng Anh tương
đối lâu, nhưng không có sinh viên nào cảm thấy
rất tự tin với kiến thức ngữ pháp tiếng Anh của
mình, trong khi một số ít sinh viên (15,4%) cho
biết là các em khá tự tin và lượng sinh viên
không tự tin chiếm đa số 84,6%.
Bảng 1. Sinh viên tự đánh giá kiến thức ngữ pháp tiếng Anh
TT
Nội dung
Mức độ và tỉ lệ
1
Sự tự tin với kiến thức ngữ pháp tiếng Anh
Rất tự tin
Khá tự tin
Không tự tin
0%
15,4%
84,6%
2
Kiến thức ngữ pháp tiếng Anh
Tốt
Khá tốt
Bình
thường
Không
tốt
2.1
Đặc điểm từ loại/ thành phần cơ bản trong câu:
danh từ, động từ, tính từ, trạng từ
0%
7,7%
10,3%
82%
2.2
Mạo từ và lượng từ
0%
0%
15,4%
84,6%
2.3
Các thì cơ bản trong tiếng Anh
0%
7,7%
10,3%
82%
Động từ khuyết thiếu
0%
10,3%
12,8%
76,9%
Dạng động từ
0%
10,3%
7,7%
82%

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
115
2.4
Trật từ tính từ và trạng từ
0%
5,1%
7,7%
87,2%
Các dạng so sánh của tính từ và trạng từ
0%
12,8%
10,3%
76,9%
2.5
Các loại mệnh đề, và các loại từ nối
0%
0%
12,8%
87,2%
2.6
Các loại câu: câu hỏi đuôi, câu bị động, câu điều
kiện – điều ước, câu trực tiếp – gián tiếp
0%
5,1%
7,7%
87,2%
Qua kết quả phiếu điều tra, khi đánh giá về
kiến thức ngữ pháp tiếng Anh của mình, không
có sinh viên nào tự nhận ở mức tốt, đa số nhận
định ở mức không tốt và một số ít ở mức bình
thường. Nhiều sinh viên (82%) tự thấy còn mơ
hồ về việc xác định các thành phần trong câu.
Các em không nắm rõ đặc điểm nhận dạng của
các từ loại danh từ, tính từ, động từ hay trạng
từ. Do đó, khi làm các bài tập liên quan các em
gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định các
yếu tố cấu thành của câu; khi vận dụng để đặt
câu trong lời nói và viết, các em chỉ tập trung
vào việc dịch các từ tiếng Việt sang tiếng Anh
mà không chú ý đến cấu trúc câu hay đặc điểm
từ loại của từ để sử dụng chính xác. Vì vậy, các
em thường xuyên đặt những câu sai cả về cấu
trúc, ngữ nghĩa. Một số lượng tương tự sinh
viên cho thấy còn chưa chắc chắn về các thì cơ
bản của động từ, các dạng của động từ, cách sử
dụng tính từ và trạng từ, các loại mệnh đề hay
các loại câu. Đa số sinh viên tự đánh giá kiến
thức ngữ pháp với các mục được nêu ở mức
bình thường, trong đó có 30 - 36 em tự nhận ở
mức không tốt, và chỉ có 3 đến 5 sinh viên tự
đánh giá ở mức khá tốt.
Trình độ tiếng Anh của các em không đồng
đều và tương đối thấp so với yêu cầu về mặt
bằng tiếng Anh của sinh viên ngành tiếng Anh.
Theo kết quả khảo sát tiếng Anh đầu vào được
thực hiện với 97 sinh viên Đại học SPTA K63
vào đầu khoá học, chỉ có 5 sinh viên (5,2%) đạt
trình độ B1, 13 sinh viên (13,4%) đạt trình độ
A2, còn lại là ở mức A1 và thậm chí có 25 sinh
viên (25,8%) ở trình độ dưới A1. Qua các bài
tập ngữ pháp liên quan và các bài kiểm tra
trước mỗi hiện tượng ngữ pháp về thì của động
từ, dạng động từ, cách sử dụng tính từ và trạng
từ, chỉ có khoảng từ 6– 8 bài (15,4% – 20,5%)
đạt 8 – 8,6/ 10 điểm; trong khi phần lớn các em
chỉ đạt từ 4 – 7/10 điểm. Thậm chí với một bài
kiểm tra về thì quá khứ của động từ bất quy tắc
được giáo viên yêu cầu chuẩn bị từ tuần trước
khi kiểm tra thì số lượng sinh viên đạt điểm 9
trở lên cũng chỉ chiểm 23,1%, còn lại là điểm 6
– 7, đáng chú ý có 7 em (18%) chỉ được 3-
4,5/10 điểm.
Về cách thức học tập môn Ngữ pháp cơ bản,
các sinh viên được hỏi cho biết các em chủ yếu
làm các bài tập trong sách giáo trình được
giảng viên giao về nhà. Nhiều em không chủ
động với việc tự học, tự nâng cao kiến thức
Ngữ pháp, chưa dành thời lượng đáng kể cho
môn học. Các em chủ yếu dành 1 – 2 tiếng để
làm bài tập được giao trước các buổi học,
không luyện tập thường xuyên. Chỉ có 7 sinh
viên (17,9%) có sự chủ động nhất định trong
việc tìm tòi, mở rộng kiến thức qua các nguồn
tài liệu online khi chưa hiểu rõ một nội dung
ngữ pháp cụ thể.
Như vậy, những sinh viên này có năng lực
học tập bộ môn ở mức độ trung bình, một số
em khá chậm; nhiều sinh viên có kiến thức nền
về ngôn ngữ Anh chưa được tốt, có nhiều em
hổng những kiến thức cơ bản về ngữ pháp tiếng
Anh; mặt bằng kiến thức của sinh viên rất
chênh lệch. Mặc dù nhiều sinh viên đã tự biết
tạo cơ hội để học tập từ nhiều nguồn tài liệu
khác nhau, nhưng phần lớn các em khá thụ
động và lệ thuộc nhiều vào sự giao nhiệm vụ
của giảng viên. Đối với tài liệu học tập, các
sinh viên chủ yếu học từ các nguồn tài liệu
được cung cấp.
2.3.3. Đánh giá sự phù hợp của sách New
Round up 4
a) Sự tương thích với thời lượng của môn
học
Sách Round-up 4 là tài liệu chuyên sâu về
ngữ pháp tiếng Anh thực hành. Đây là cuốn tài
liệu thứ 4 nằm trong bộ 6 tập của tài liệu ngữ
pháp New Round up. Sách được chia làm 18
bài học, trong đó bài 1 và 2 tập trung vào các
thì cơ bản trong tiếng Anh gồm hiện tại đơn,
hiện tại tiếp diễn, quá khứ đơn và hiện tại hoàn
thành. Các thì tương lai đơn, tương lai gần,
tương lai tiếp diễn, tương lai hoàn thành tiếp
diến, quá khứ tiếp diễn, quá khứ hoàn thành,
quá khứ hoàn thành tiếp diễn được trình bày lần
lượt ở các bài 4, 5, 6, 8. Xen kẽ giữa những bài