Đọc hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà
I. Tìm hiểu chung
1. Tiểu dẫn
- Người lái đò sông Đà áng văn được in trong tập Sông Đà (1960) của
Nguyễn Tuân. Sông Đà gồm 15 bài tuỳ bút một bài thơ phác thảo. Đây kết quả
của chuyến đi gian khổ mà hào hứng của Nguyễn Tuân tới miền Tây Bắc xa xôi, thoả
mãn cái thú m đến miền đất lạ,m ra chất vàng mười trong m hồn người lao động,
trên miền sông, núi hùng vĩ và thơ mộng.
- Nhà văn ngược dòng lịch sử dựng lại những tấm gương anh hùng của chiến
cách mạng nhà Sơn La, những cán bộ hoạt động hồi Tây Bắc bị giặc chiếm,
những đoàn dân công và bộ đội trong chiến dịch Điện Biên.
- Tác giả trở lại hiện tại m đến lớp người đi mở đường kiến thiết Tây Bắc,
những gia đình lên Điện Biên lập nghiệp. Những cán bộ địa chất đi tìm mỏ quặng,
những chiến biên phòng bảo vệ miền biên giới Tây Bắc. Những người lái đò dũng
cảm tài ba trên thác nước sông Đà, những người công nhân m nghiệp không tiếc
mồ hôi, công sức từng ngày, từng tháng xây dựng miền Tây Bắc Tổ quốc.
Tập tuỳ bút Sông Đà còn thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn
Tuân: tài hoa và uyên bác. Người lái đò sông Đà một trong những áng văn tiêu biểu
nhất trong tập Sông Đà.
2. Văn bản
Đại ý
Đoạn trích miêu tả sông Đà vừa dằn dữ, vừa thơ mộng con người Tây Bắc
vừa cần cù dũng cảm, vừa khéo léo tài hoa.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Bài ca về dòng sông thơ mộng, trữ tình
- Nguyễn Tuân bắt mạch cảm xúc của mình tmột câu thơ trữ tình của Vla-đi-
xláp Brô-ni-ép-xki nhà thơ cách mạng Ba Lan (1897 - 1962): Đẹp vậy thay, tiếng hát
trên dòng sông” câu thơ chữ Hán của Nguyễn Quang Bích “Chúng thuỷ... bắc lưu”
(Mọi dòng sông... hướng Bắc).
Từ cảm hứng này, tác giả giới thiệu tài nguyên phong phú của Tây Bắc và nhấn
mạnh: tài nguyên quí nhất của vùng này là con người. Con người bản địa và con người
lên xây dựng Tây Bắc.
Tác giả đãkhắc hoạ được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh động hấp dẫn vmột
vùng rừng núi hùng vĩ, hiểm trở và rất thơ mộng. Những núi xa, núi gần, những thung
lũng vàng lúa chín và bao thứ hương đua sắc. Tập trung miêu tả là con sông Đà.
Trở lại cảm xúc ban đầu, Nguyễn Tuân đưa ta trên một con thuyền lướt trên
mặt sông lòng tự cất lên tiếng hát. Từ đây sông Đà như một “nhân vật” mặt
suốt từ đầu đến cuối thiên tuỳ bút.
+ Về phương diện địa lí, sông Đà dài gần 900km, “lượn rồng rắn” qua vùng
rừng núi bao la, có độ dốc lớn.vậy, lưu tốc của sông Đà lớn hơn nhiều những dòng
sông khác. Tuy nhiên Nguyễn Tuân chỉ cung cấp một phần tri thức ấy, chủ yếu
Nguyễn Tuân viết về sông Đà với khía cạnh văn hoá thẩm mĩ, bày tỏ cảm xúc của
mình.
+ Sông Đà như một sinh thể tính. Tác giả nhận xét “Con sông Đà hung
bạo trữ tình”. Từ thác bờ về xuôi sông Đà hiền hoà, nước chảy êm đềm, dịu
dàng như biết bao dòng sông khác. Đây là cái nhìn không chỉ quan sát bình thường mà
đầy khám phá, sáng tạo nghệ thuật: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đổt hương xuân”. Câu văn vừa có đường nét,
hình khối và màu sắc, vừa có sự so sánh và cảm nhận lại như hát lên trong giọng điệu.
Ban đầu giọng điệu ấy âm vực cao, chậm lại, kéo dài ra, lan toả trong không gian
đến bất tận.
Người ta cảm giác từ trên thượng nguồn, sông Đà chảy ngoằn ngèo, dích
dắc giữa điệp trùng núi đá và rừng cây đại ngàn nhưng càng về xuôi, sông Đà càng êm
ả thẳng dòng.
- Tác giả miêu tả màu sắc của sông Đà biến đổi theo từng mùa: “Mùa xuân
nước sông Đà màu ngọc bích”, tác giả nhấn mạnh: “chứ không xanh như màu cánh
hến” tức màu xanh đục của sông m, sông (cả ba con sông này đều chảy qua
miền rừng núi Tây Bắc Bắc Bộ). Sự so sánh về màu sắc m cho dòng sông vẻ đẹp
riêng (Ngọc bích: vừa trong lại vừa có sự phản chiếu óng ánh). “Mùa thu nước sông
Đà lừ đừ chín đỏ”, tác giả lại so sánh: “Lừ lừ chín đỏ như da người bần đi vì say rượu
bữa”. Dòng sông vẻ đẹp riêng của mỗi mùa. Cái hay của nhà văn Nguyễn Tuân
không chỉ vốn văn hoá, vốn từ vựng phong phú, trí tưởng tượng bay bổng còn
cảm xúc, thái độ: “chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà đen như thực dân Pháp
đã đè ngửa con sông ta ra đmực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi c
thế mà phết vào bản đồ lai chữ”. Nhà văn đã đứng trên lập trường dân tộc để hạ những
dòng này. Những dòng, những ch thấm sâu tình đất nước. Ta mới hiểu vì sao
Nguyễn Tuân chỉ học hết bậc thành trung rồi bị đuổi, chỉ tham gia vào việc phản
đối giáo viên người Pháp nói xấu Việt Nam.
- Đó là các đoạn văn
+ “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”
+ “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như ở đời Lí, ... cổ tích tuổi xưa”.
Ta tưởng như được chứng kiến cảnh yên tĩnh của sông Đà. Cách so sánh của
Nguyễn Tuân “một bờ tiểu sử”, một nỗi niềm cổ tích” sức khêu gợi sâu xa, khắc
hoạ vẻ đẹp hoang sơ, con sông chảy qua tháng năm lịch sử mang dấu ấn văn hoá, ngàn
xưa của cha ông. Văn Nguyễn Tuân cổ kính, đĩnh đạc, trong nghiêm hiện đại
thế.
+ Có những liên tưởng giàu chất thơ: “Đàn dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông
bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”.
Cảnh thiên nhiên thật sống động.
+ Nguyễn Tuân đưa người đọc về với những huyền thoại qua câu ca dao. Cũng
không ai nghĩ rằng đó con sông của câu đồng dao Sơn Tinh, Thuỷ Tinh: Núi cao
sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen” và câu thơ của Lí Bạch: “Yên
hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Nhìn ngắm sông Đà, suy nghĩ về sông Đà bằng nhiều thời gian không gian
khác nhau. Thiên nhiên sông Đà đã ùa vào lòng nhà văn để tâm hồn cẩt cánh thành lời
rất đỗi trữ tình.
2. Sông Đà, con sông Tây Bắc dằn dữ, hung bạo
- Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà dằn dữ, hung bạo ở mấy chi tiết sau:
+ Thác nước
+ Đá dựng đứng thành
+ Sự hợp tác của gió, của sóng và của đá
+ Những hút nước
- Cảnh 2 bờ sông “Đá hai bên bờ sông dựng thẳng đứng như xây vách thành”.
Cả ngày mặt sông không ánh nắng, “Ở đây nời ta chỉ nhìn thấy mặt trời lúc đúng
ngọ”. Cách miêu tả này tạo được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ
cao hun hút. Chưa hết “Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”.