135
GIÁO DC ĐẠI HC VIT NAM VI
CÁCH MNG CÔNG NGH 4.0
PGS.TS Mai Thị Hoàng Minh
Trường Đại học Kinh tế TP. HCM
TS. Vũ Quốc Thông
Trường Đại học Mở TP. HCM
Tóm tắt
Cuộc ch mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang lan tỏa mọi nơi Việt nam
cũng không ngoài tầm ảnh hưởng đó đến với nhiều lĩnh vực trong đó giáo dục Nhận
định về cuộc đổi mới với những thuận lợi mang đến ra sao? Bài viết này sẽ khái lược từ
phần mở đầu để làm sở phân tích tác động của thời đại số a đến nhu cầu nhân lực
và tác động đến giáo dục bậc Đại học. Nhằm so sánh giáo dục Đại học 4.0 với các nước
trong khu vực trên thế giới, tác giả tập trung tìm hiểu những biểu hiện Việt Nam từ
quản đến việc thực hiện tại các sở đào tạo. Từ đó, bài viết đưa ra gợi ý cho
những thay đổi cần thiết cho giáo dục Đại học Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa.
Từ khóa: CMCN 4.0; Giáo dục 4.0; giáo dục Đại học.
Cách mạng công nghệ 4.0 với những thuận lợi
Thế giới đang bắt đầu vào cuộc CMCN 4.0, một cuộc cách mạng sản xuất mới
gắn liền với những đột phá chưa từng về công nghệ, liên quan đến kết nối Internet vạn
vật (IoT), điện toán đám y, in 3D, công nghệ cảm biến, thực tế ảo... (Prisecaru, 2017).
Năm 2013, khái niệm CMCN 4.0 xuất hiện trong một báo cáo của Đức nhằm đề cập đến
chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa sản xuất không cần đến sự tham gia của con
người. Theo ước tính của Rabel cộng sự cho đến năm 2017, CMCN 4.0 đã ợt khỏi
khuôn khổ dự án của nước Đức, lan rộng ra nhiều quốc gia và trở thành xu thế tất yếu của
việc phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục…
Cuộc cách mạng mới y được dự đoán sẽ tác động mạnh đến mọi quốc gia thể
hiện nhiều cấp độ bao gồm các quan chính quyền, doanh nghiệp, các sở đào tạo
và người dân khắp năm châu. ỷ nguyên số hóa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông
tin đang làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, học tập, làm việc và sản xuất. Bản chất
của CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số cùng với việc tích hợp các công nghệ
thông minh nhằm tối ưu hóa quy trình kinh doanh, phương thức sản xuất, mở ra nhiều
phương thức truyền tải tri thức cho nhân loại. nguyên mới của sự đầu tư, nâng cao
năng suất mức sống hội kvọng được gia tăng nhờ vào nền tảng của công nghệ.
Điều này sẽ tác động đáng kể đến các hệ thống chính trị, kinh tế và giáo dục trên toàn thế
giới (Magruk, 2016).
Nếu như trước đây, c nhà y sản xuất được tập trung Trung Quốc, Ấn Đ
hoặc các quốc gia phát triển với nguồn nhân lực giá rẻ và thị trường mua bán trực tiếp dồi
dào. u hướng hiện nay, với sự tham gia của lực lượng người y thông tin được điều
khiển bởi những hệ thống thông tin kết nối, hệ thống chuyên gia htrợ cho việc ra quyết
định cộng thêm với sự lớn mạnh của kênh giao dịch thương mại trực tuyến thì các hoạt
136
động sản xuất, kinh doanh thương mại thể linh động về vị trí vẫn đáp ng được
mục tiêu sản xuất, kinh doanh với chi phí hợp lý. Năm 2016 tại hội nghị Davos Thụy
Sĩ, chủ tịch Diễn đàn inh tế Thế giới (WEF) ông laus Schwab đã dự báo nhiều hạng
mục công việc dành cho lao động truyền thống từ khâu sản xuất, bán hàng khối văn
phòng trong tương lai gần (đến 2025) sẽ phải nhường chỗ cho người y, hệ thống n
hàng thông minh và những hệ thống hỗ trợ tự động hóa cho nghiệp vụ ở văn phòng.
Nếu như cuộc CMCN lần trước CMCN 3.0 bắt đầu những năm 1954 do sự
bùng nổ của việc ứng dụng máy tính tự động hóa máy móc trong sản xuất, thì cuộc
CMCN 4.0 từ năm 2015 bùng phát mạnh mẽ do nhu cầu tìm kiếm phương thức sản xuất
mới hiệu quả, bền vững hơn trước những thách thức như biến đổi khí hậu, già hóa dân số
ngày càng gia tăng. CMCN 4.0 tập trung vào sự phát triển của các hệ thống thông tin liên
kết giữa thế giới thật ảo. Cuộc cách mạng y sẽ mang tới nhiều hội phát triển,
đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức với các nước đang phát triển bao gồm Việt Nam
(Thai News service group, 2017).
Trong ơng lai, sáng tạo công nghệ cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi diệu kỳ từ phía
nguồn cung, với những lợi ích lâu dài về hiệu quả năng suất. Chi phí giao thông vận
tải và thông tin liên lạc sẽ giảm xuống, hoạt động hậu cần với chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ
trở nên hiệu quả hơn, các chi phí thương mại sẽ giảm. Tất cnhững điều đó sẽ giúp
mở rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Người tiêu dùng dường như được hưởng lợi nhiều từ cuộc CMCN này. CMCN 4.0
đã tạo ra các sản phẩm dịch vụ mới với chi phí không đáng kể phục vụ người tiêu
dùng (Szozda, 2017), ví dụ dịch vụ đặt hàng qua mạng, dịch vụ tìm kiếm phương tiện vận
tải, đặt lịch khám bệnh… Chỉ đơn giản với một thiết bị như máy tính bảng, mọi người
thể đọc sách, lướt web, trao đổi kiến thức tiếp cận khối lượng thông tin liên lạc khổng
lồ qua mạng Internet. Theo nhóm nghiên cứu We re Social, trụ sở chính tại nh Quốc
thực hiện khảo sát về sử dụng Internet Đông Nam Á, cho đến tháng 1/2017 Việt Nam
50,05 triệu người dùng Internet, chiếm 53% dân số. Mạng Internet môi trường giúp
khai thác thông tin quảng cáo, mua bán trực tuyến, chia sẻ thông tin giải trí, thực hiện đào
tạo, truyền tải kiến thức…
Những trang bị sở hạ tầng nền tảng được xem hội cho việc đào tạo nguồn
nhân lực tham gia thị trường lao động số tại Việt Nam. thể thấy rằng muốn vận hành
trơn tru mọi hoạt động hội với nhiều ứng dụng, dịch vụ kthuật số thì cần thiết phải
có lực lượng lao động được đào tạo cập nhật giúp tăng cường tính thích nghi khi tham gia
thị trường lao động thời đại số - thời đại của sự kết nối thực ảo thông qua kênh trực
tuyến.
Nhu cầu về nguồn nhân lực
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới thông qua hoàn tất
nhiều hiệp định thương mại quy như CPTPP, liên minh kinh tế Á Âu, FT với
EU... Việc tiếp cận thành tựu cách mạng sản xuất, khoa học kỹ thuật công nghệ sẽ
tạo đà giúp chúng ta tham gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, yêu cầu về đào tạo nguồn nhân
137
lực trong thời đại mới ới áp lực của toàn cầu hóa cũng đặt cho Việt Nam nhiều thách
thức.
Buổi hội thảo “CMCN 4.0 chiến lược tăng trưởng cho doanh nghiệp Việt
Nam” diễn ra vào ngày 16/9/2017 tại TP. HCM, ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng
Viện inh tế Việt Nam đưa ra quan ngại về nguy liệu rằng Việt Nam lỡ chuyến
tàu CMCN 4.0 với một số minh chứng thu thập từ thực tế. Những minh chứng quan
ngại lưu ý rằng Việt Nam một quốc gia vốn trông chờ vào gia công xuất khẩu
tài nguyên thì đến cuộc cách mạng y, với mức tự động hóa gia tăng từ việc áp dụng
công nghệ sẽ khiến số lượng lớn người lao động mất việc. Quan ngại nêu trên về đáp
ứng nhu cầu nhân lực trong thời đại mới phù hợp với nhận định từ Diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF) năm 2016 khi xếp Việt Nam vào nhóm chưa sẵn sàng cho CMCN 4.0. Các
yếu tố về đổi mới sáng tạo công nghệ giáo dục nhằm chuẩn btrước CMCN 4.0 của
Việt Nam đều đang mức thấp. Cụ thể, theo khảo sát trên 100 quốc gia của WEF,
chúng ta chỉ xếp hạng 70/100 về Nguồn lực con người.
Nhu cầu về nguồn nhân lực trong thời đại ứng dụng công nghệ, k thuật cao đã
đặt lại yêu cầu về vấn đề giáo dục tại Việt Nam, đặc biệt giáo dục bậc Đại học, bậc
đào tạo nghề - những nơi được xem là điểm tiếp nối cho đầu ra về nhân lực tham gia lao
động. Chuyên gia kinh tế Trí Thành nhận định để bắt kịp được CMCN 4.0, một
trong hai yếu tố cần thiết hàng đầu bao gồm thứ nhất (1) là thể chế và lãnh đạo, trong đó
vai trò cùng với định hướng chỉ đạo của người đứng đầu rất quan trọng và thứ hai (2)
hệ thống giáo dục, đào tạo nhân lực số. Yếu tố về hệ thống giáo dục và đào tạo nhân lực
đã được ông Thành nhấn mạnh. Theo quan điểm của ông, yếu tố chủ chốt trong cuộc
CMCN 4.0 y dựng chiến lược chuyển đổi số Việt Nam cần nhân lực để triển
khai đột phá cho các lĩnh vực: công nghệ thông tin, du lịch, nông nghiệp, tài chính-ngân
hàng cung ứng hậu cần. Để thể đào tạo nhân lực cho những lĩnh vực nêu trên
nhằm bắt kịp CMCN 4.0, một trong những nhiệm vụ chủ chốt tập trung vào cải cách
giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nhân lực số.
Ứng dụng công nghệ trong kinh doanh một trong những lý do giải thích tại sao
doanh thu của một sngành nghề truyền thống đã chững lại hoặc thậm chí sụt giảm.
Nhìn ra thế giới, đối với phần lớn dân scác nước thu nhập cao, nhu cầu lao động
tay nghề cao đã tăng; trong khi nhu cầu đối với người lao động ít được đào tạo về
ứng dụng công nghệ đã giảm (World Bank, 2016). Theo báo cáo của Ngân hàng thương
mại thế giới (2016), với sự phát triển về năng lực của máy tính kết hợp với khả năng thu
thập dữ liệu nghiệp vụ đầy đủ từ hệ thống thông tin nối mạng, những công việc thể
thiết lập theo thao tác định sẵn như kế toán tính lương, hoạt động ghi sổ vào tài
khoản, điều khiển xe hơi, tàu điện hoặc dây chuyền sản xuất lắp ráp, sắp xếp hàng hóa
vào kho cập nhật giá trị tồn kho từ sản xuất hoàn toàn thể tự động hóa bằng lực
lượng người máy và ứng dụng hệ thống thông tin thông minh.
Trước cuộc CMCN 4.0, những yếu tố các nước như Việt Nam đã đang tự
coi ưu thế như lực lượng lao động thủ công trẻ, dồi dào sẽ không còn thế mạnh.
Trong tương lai, người dân thể gặp nhiều khó khăn tìm kiếm việc làm, bởi những
lĩnh vực thao tác theo từng bước thể định sẵn giờ đây máy móc, phần mềm đều
thể làm thay, thậm chí làm hiệu quả hơn. Điều này đòi hỏi người tham gia lao động cần
138
phải không ngừng trau dồi bản thân, cập nhật công nghệ, phần mềm liên quan đến
chuyên ngành đào tạo nhằm có thể vận hành hệ thống thông tin, thiết bị máy móc thông
minh thì mới tránh được nguy cơ bị thay thế.
Liệu rằng nguồn nhân lực được đào tạo ra từ các trường Đại học Việt Nam
đủ khả năng thích nghi với những việc m đòi hỏi kỹ năng về công nghệ cao? Về
những u ý cho mảng đào tạo, Tiến Nguyễn Ân cho rằng CMCN 4.0 đang đặt ra
thách thức mới đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Đó là thách thức về lao
động chi phí thấp mất dần lợi thế, khoảng cách công nghệ tri thức nới rộng hơn dẫn
đến phân hóa xã hội ssâu sắc... Do đó, chính phủ, các doanh nghiệp, các trung m
nghiên cứu sở giáo dục tại Việt Nam cần phải nhận thức, phối hợp sẵn sàng
cho những thay đổi trong hoạt động đào tạo khi ớc vào thời đại Internet vạn vật
(IoT), thương mại điện tử (E-commnerce), khai thác dữ liệu (data mining) kết nối thông
minh qua hệ thống thông tin tích hợp diện rộng.
CMCN 4.0 được dự đoán sẽ làm thay đổi cách thức chúng ta làm kinh doanh,
quản lý, trao đổi thông tin, vận chuyển, kể cả dịch vụ y tế giáo dục. Tác động của
cuộc cách mạng này lan tỏa đến nhiều lĩnh vực phân thành những phiên bản 4.0 bao
gồm đô thị 4.0, việc làm 4.0, y tế 4.0, giáo dục 4.0
Tác động CMCN 4.0 đến giáo dục Đại học
Nhiều nhà quản doanh nghiệp hiện nay cho rằng sinh viên tốt nghiệp bậc Đại học
không đạt knăng để ứng phó với những thay đổi trong môi trường làm việc khi phải
thao tác trên các ứng dụng công nghệ, kthuật cao (Sabharwal, 2016). Nhân tố công
nghệ, kthuật cao thông qua ứng dụng mạng Internet trên toàn cầu đã tạo nên những tác
động đột phá trong kinh doanh các ngành công nghiệp. Theo khảo sát của Eurostat
(2014), những ứng dụng công nghkỹ thuật số tác động đến kinh doanh mà các sở
giáo dục Đại học cần lưu ý đưa vào chương trình đào tạo gồm ng dụng website cho
thương mại điện tử (E-commerce), quản chuỗi cung ứng (SCM), quản quan hệ
khách hàng (CRM), ng dụng điện toán đám mây (cloud computing), hệ thống hoạch
định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) ng dụng công nghệ quản hàng hóa (RFID).
47% thị trường lao động Hoa m 2010 đang nắm giữ các công việc nguy bị
thay thế bởi quá trình tự động hóa của người máy hệ thống thông tin thông minh
(World Bank, 2016). Nghiên cứu trong môi trường giáo dục Đại học Ấn Độ dưới tác
động của CMCN 4.0, Sabharwal (2016) chỉ ra rằng nền giáo dục 4.0 cần phải có sự chuẩn
bị triển khai hướng đến việc liên kết 3 nội dung: kiến thức / kỹ năng đào tạo
(education), những việc làm thời 4.0 (employment) chỉ số sinh viên ra trường tìm
được việc làm (employability). Thảo luận của Wallner Wagner tại hội nghị giáo dục
4.0 ( cademic Education 4.0) năm 2016 nêu lên một số đặc điểm của nền giáo dục chịu
tác động từ kỹ thuật, công nghệ cao:
- Việc gia tăng tính tương tác, hội nhập của những sinh viên từ nhiều nền văn hóa,
ngôn ngữ khác nhau trên môi trường học tập nối mạng;
- Sự hiện diện rộng khắp của thiết bị di động và khả năng kết nối mạng xã hội;
- Cách thiết kế bài giảng để truyền đạt kiến thức dưới nhiều định dạng hiện đại: học
tập trực tuyến (e-learning), học tập kết hợp trên lớp xem video bài giảng
139
(blended), thảo luận giữa giảng viên nhóm sinh viên thông qua kết nối mạng
hội (e-forum)
- hình thực tập ảo trên máy tính được phỏng theo hoạt động của doanh
nghiệp hoặc phòng thí nghiệm ảo (virtual working, e-laboratories…);
- Tri thức mới được cập nhật liên tục trên e-learning, website lan tỏa nhanh
chóng đến sinh viên thay cho phương thức tập, sách, tài liệu giấy in;
- Nhiều phương pháp đánh giá học tập, lập nhóm để thực hiện đồ án qua mạng và hệ
thống hỗ trợ phân tích quá trình học, đánh giá thành quả học tập từ dữ liệu đào tạo
tập trung (data mining).
Những thống về đặc điểm của ứng dụng kỹ thuật, công nghệ cao biểu hiện
của những phương cách trao đổi kiến thức, đánh giá bậc Đại học nhằm đáp ứng nhu cầu
thay đổi từ công việc bên ngoài dưới tác động của CMCN 4.0.
Ông Heniro, giám đốc của Hiệp hội kế toán quản trị Hoa CM khu vực
Đông Nam Á (2018) cho biết rằng CMCN 4.0 kết hợp với xu hướng toàn cầu hóa đã tạo
nên những thay đổi đáng kể đến những ngành đào tạo chuyên nghiệp bậc Đại học bao
gồm kế toán một ngành nghề được xem cần thiết để hỗ trợ việc quản số liệu
nghiệp vụ trong tổ chức. Lý giải cho điều này, ông Heniro cho biết nghề kế toán tương lai
với ứng dụng hệ thống ERP và công nghệ điện toán đám ythể tích hợp toàn bộ quy
trình kinh doanh liên quan đến nghiệp vụ kế toán, hệ thống thể tự định khoản, ghi
sổ, tính giá xuất/ nhập kho; từ đó kết xuất gửi các báo cáo tài chính báo cáo thuế
quy chuẩn đến hệ thống thông tin của người dùng cũng như liên kết với quan Thuế.
Do đó, nghề kế toán dưới tác động của CMCN 4.0 đòi hỏi giáo dục bậc Đại học phải
trang bị cho sinh viên ngoài kiến thức nền về quy trình kế toán những knăng khác
bao gồm hiểu biết về hình kinh doanh, có ý niệm sử dụng hệ thống ERP để phối hợp
làm việc giữa các phòng ban trên môi trường nối mạng khả ng khai thác dữ liệu
nhằm hỗ trợ cho nhà quản lý ra quyết định. Bên cạnh đó, là những kỹ năng tư vấn về hoạt
động kiểm soát dòng số liệu tài chính trên hệ thống thông tin toàn doanh nghiệp…
Những thách thức về mặt đào tạo trong thời đại mới bậc Đại học không chỉ đơn
thuần sự giới thiệu về những ứng dụng kỹ thuật, công nghệ nhằm thay thế người giảng
viên lên lớp thực hiện truyền tải kiến thức, hướng dẫn knăng trực tiếp. inh nghiệm
trong môi trường giáo dục 4.0 trên thế giới cho thấy vai trò của người giảng viên Đại học
vẫn là trung tâm. Đối với nền giáo dục 4.0, kỹ thuật, công nghệ cao sẽ không thể thay thế
người Thầy phải thừa nhận rằng chính những giảng viên có ứng dụng kthuật, công
nghệ sẽ thay thế nhóm giảng viên không thể sử dụng công nghệ cho hoạt động giảng dạy
(Arias et al., 2014). Nhằm đáp ứng đòi hỏi thực tiễn từ môi trường việc làm 4.0, giảng
viên Đại học cần phải trang bị những ứng dụng kthuật, công nghệ chuyên dùng để đạt
mục tiêu đào tạo nguồn sinh viên ra trường kiến thức knăng chuyên môn phù
hợp, khả năng thích nghi thời đại CMCN 4.0.
Những chuyển biến ở Việt Nam cho giáo dục Đại học
Với những tác động của kỹ thuật, công nghệ đến nhiều lĩnh vực trong hội bao
gồm giáo dục Đại học, Thủ tướng chính phủ Nguyễn uân Phúc (2017) tại hội thảo
“Định hình phát triển nền sản xuất công nghiệp thông minh trong tương lai” cho rằng: