GIỮ CÂN BẰNG NƯỚC

Nước giữ vai trò tối quan trọng đối với cơ thể chỉ sau oxy: trong thể

thao, vai trò giải nhiệt của nước có vị trí đặc biệt quan trọng.

1. Sự tạo nhiệt trong quá trình hoạt động:

Cơ thể con người là một hệ thống ít hiệu quả về phương diện chuyển

hoá năng lượng của thức ăn thành hoạt động cơ học. Chỉ có 20-25% năng

lượng dự trữ của glycogen hoặc chất béo chuyển sang hoạt động của cơ bắp.

Phần còn lại, 70-80% bị mất đi dưới dạng nhiệt. Sự toả nhiệt tại các cơ hoạt

động mạnh gấp 10-20 lần chuyển hoá cơ bản do tăng chuyển hoá. Tốc độ toả

nhiệt đó có thể làm tăng nhiệt độ cơ thể lên 10ºC mỗi 5-8 phút, tức là có thể

tử vong sau 30 phút hoạt động mạnh nếu không có hệ thống điều nhiệt hiệu

quả. Thoát mồ hôi từ bề mặt da là biện pháp toả nhiệt chủ yếu của cơ thể (trừ

điều kiện thời tiết mát, lạnh, có nhiều gió và cường độ vận động thấp).

Một người chạy với tốc độ 16km/giờ, toả nhiệt 1.000KCAL, đòi hỏi

phải bay hơi 1,6 lít mồ hôi để cân bằng nhiệt lượng (1 lít mồ hôi bay hơi từ

da giải toả 600kcal). Mồ hôi chảy từng giọt, hoặc ướt áo quần không có hiệu

quả giải nhiệt. Tuy nhiên việc giải toả nhiệt qua mồ hôi chỉ có hiệu quả nếu

cơ thể không bị khô nước.

2. Hậu quả của việc thiếu nước

Trong điều kiện thời tiết nóng nực, vận động viên có thể mất nước qua

mồ hôi từ 2 - 2,5 lít/giờ. Việc mất điện giải qua mồ hôi ít hơn nhiều so với

mất nước (mồ hôi nhược trương) và chủ yếu là mất NaCl. Hậu quả của việc

thiếu nước tuỳ thuộc vào mức độ thiếu và thường được đánh giá bằng việc

giảm trọng lượng cơ thể. Chỉ thiếu nước 2% trọng lượng cơ thể đã ảnh

hưởng đến hoạt động của hệ tim mạch và sự điều nhiệt. Nhiệt độ tăng thêm

0,4 - 0,5ºC khi mỗi 1% trọng lượng cơ thể giảm đi. Giảm 4% trọng lượng cơ

thể tương ứng với giảm 30% sức co cơ. Trong các cuộc thi kéo dài, sự thiếu

nước làm giảm khả năng vận động.

Cần đặc biệt quan tâm để cung cấp đủ nước cho vận động viên trước

và trong khi thi đấu để phòng mất nước, làm cản trở sự điều nhiệt của cơ

thể.

Nguyên tắc này áp dụng cho cả thời gian tập luyện cũng như khi thi

đấu, vì sự mất nước có thể xảy ra trong một thời gian dài và ngày càng cạn

dần nếu không được bù đắp đầy đủ tương tự như glycogen. Sự mất nước xảy

ra đối với tất cả các loại hoạt động thể thao và tốc độ mất nước tuỳ thuộc

vào cường độ hoạt động, nhiệt độ môi trường, độ ẩm, diện tích bề mặt da,

quần áo mặc... (Brouns, 1991) và cần được tính tới khi bù hoàn lượng nước

phù hợp. Các nước uống có đường và điện giải làm tăng hấp thụ nước, và

đường còn cung cấp nhiên liệu cho hoạt động cơ bắp.

Vận động viên có thể sử dụng các loại nước uống đóng chai sẵn, hoặc

tự pha từ nước trái cây, pha loãng với tỷ lệ 50:50 và cho thêm một nhúm nhỏ

muối, hoặc pha 4-8g glucoza hay glucoza polyme trong 100ml nước với một

nhúm nhỏ muối tùy khẩu vị.

Khi việc bồi hoàn nước là ưu tiên thì dùng nước ít đường. Còn khi

nhu cầu cung cấp năng lượng là quan trọng thì dùng các loại nước có nồng

độ đường cao hơn. Các loại nước uống công nghiệp cho thể thao thường có

nồng độ đường là 5-10% và NaCl là 10-30mm/100-200ml. Việc bổ sung

cacbonat kali là không cần thiết và còn có thể nguy hiểm.

3. Khuyến cáo về bồi hoàn nước

* Trước khi tập hoặc thi đấu: vận động viên cần được bồi hoàn đủ

nước trước khi hoạt động - tập luyện hoặc thi đấu. Không hoạt động thể thao

trong tình trạng cơ thể bị thiếu nước. Các đồ uống chứa cồn (như B1a) cần

tránh từ đêm trước vì tác dụng lợi tiểu gây mất nước. Bất cứ vì lý do gì làm

cơ thể thiếu nước trước đó (do cố ý giảm cân nặng chẳng hạn) cũng cần bù

đủ nước ngay trước trận đấu. Cho vận động viên uống nhiều nước trong các

ngày trước thi đấu (kiểm tra thấy nước tiểu nhạt màu). 10- 30phút trước trận

đấu cần uống 400-600ml nước. Uống sớm hơn thời gian trên có thể gây

buồn tiểu khi bắt đầu thi đấu.

Trong quá trình tập luyện hoặc thi đấu: ngoại trừ các cuộc thi dưới

30 phút, còn lại cần cung cấp nước đều đặn cho vận động viên trước khi có

nhu cầu khát. Uống đều đặn lượng nhỏ nước có tác dụng tốt và dễ được chấp

nhận hơn. Vận động viên nên được khuyến khích uống 100-200ml nước

trong mỗi 15-20 phút. Tuy nhiên số lượng nước thực sự được uống vào phụ

thuộc vào mức độ mất mồ hôi, sự ưa thích đối với loại nước uống và khả

năng chịu đựng của dạ dày (Maughan, 1991). Vận động viên cần được làm

quen với việc bồi hoàn nước trong quá trình tập luyện. Các loại nước mát (6-

12ºC) được cho là có hiệu quả hơn nước ấm do xuống khỏi dạ dày nhanh

hơn và làm giảm nhiệt độ cơ thể tốt hơn. Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây

không chứng minh được điều đó (Maughan,1991). Có lẽ sự ưa thích của vận

động viên là hướng dẫn tốt nhất nếu vận động viên thích loại nước nào thì sẽ

uống với số lượng nhiều hơn. Dội nước lên da làm tăng toả nhiệt qua bay

hơi cũng có tác dụng giải nhiệt tốt.

* Sau vận động: thông thường trong thời gian thi đấu, vận động viên

uống 500-600ml/giờ vẫn còn thiếu hụt so với lượng nước mất, do vậy cần

bồi hoàn nước ngay sau đó đặc biệt nếu có các đợt thi đấu tiếp theo.

Uống nước sôi đơn thuần sau vận động làm giảm Na/huyết tương và

giảm áp suất thẩm thấu, điều đó dẫn tới giảm cảm giác khát và tăng lượng

nước tiểu, do vậy không bồi hoàn được lượng nước mất. Các nước uống có

chứa cacbonat natri (nước khoáng) có hiệu quả tốt hơn. Vận động viên cần

mang nước uống theo mình, đừng để phụ thuộc hoàn toàn vào ban tổ chức.