125Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
KẾT QUẢ SAU 6 THÁNG TRIỂN KHAI THÍ ĐIỂM
CẤP THUỐC METHADONE NHIỀU NGÀY CHO NGƯỜI BỆNH
ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN TẠI BA TỈNH VIỆT NAM
NĂM 2021
Nguyễn Bích Diệp1*, Đinh Thị Thanh Thúy1, Vũ Minh Anh1, Đào Thị Diệu Thúy1,
Nguyễn Hữu Anh1, Đỗ Hữu Thủy2, Nguyễn Thị Minh Tâm2, Hoàng Đình Cảnh2,
Lê Minh Giang1
1Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu về Lạm dụng chất – HIV, Trường Đại học Y
Hà Nội
2Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế, Hà Nội
TÓM TẮT
Nghiên cứu mô tả kết quả sau 6 tháng triển khai thí điểm chương trình cấp thuốc methadone nhiều ngày
cho người bệnh điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện tại ba tỉnh Lai Châu, Điện Biên Hải Phòng từ tháng
9 đến tháng 12 năm 2021. Thiết kế nghiên cứu hỗn hợp, kết hợp nghiên cứu định lượng (trích lục thông
tin từ 922 bệnh án điều trị methadone) và nghiên cứu định tính (6 thảo luận nhóm với 48 người bệnh) trên
nhóm người bệnh tham gia chương trình cấp thuốc nhiều ngày. Trong số các bệnh nhân tham gia chương
trình cấp thuốc nhiều ngày, tỷ lệ duy trì trong điều trị methadone là 96,7% và duy trì nhận thuốc nhiều ngày
là 88,0% sau 6 tháng. Tỷ lệ không tuân thủ điều trị methadone hàng tháng sau khi được cấp thuốc nhiều
ngày duy trì mức dưới 3%, thấp hơn so với thời gian nhận thuốc hàng ngày (dao động trong khoảng
7 - 10%). Người bệnh đánh giá cao lợi ích chương trình đem lại bao gồm (1) cải thiện tuân thủ điều trị,
(2) hiệu quả về kinh tế và (3) cải thiện sức khỏe và quan hệ gia đình. Chương trình cấp thuốc methadone
nhiều ngày phù hợp với mong đợi của người bệnh và bước đầu cho thấy kết quả điều trị tốt và lợi ích về
kinh tế xã hội cho người bệnh.
Từ khóa: Chất dạng thuốc phiện; methadone; cấp thuốc nhiều ngày; hiệu quả điều trị
Ngày nhận bài: 26/10/2022
Ngày phản biện: 10/11/2022
Ngày đăng bài: 08/12/2022
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương trình điều trị nghiện chất dạng
thuốc phiện bằng thuốc methadone được triển
khai tại Việt Nam từ năm 2008. Tính đến ngày
31/3/2021 cả nước hơn 51.000 người bệnh
đang được điều trị methadone ở 341 cơ sở điều
trị và 232 điểm cấp phát thuốc tại 63 tỉnh/thành
phố [1]. Chương trình điều trị methadone đã
đem lại hiệu quả đáng kể không chỉ cải thiện
sức khỏe của người bệnh bao gồm giảm tỷ lệ
nhiễm HIV các bệnh nhiễm trùng lây qua
đường máu khác, cải thiện tình trạng sức khỏe
thể chất còn khía cạnh hội kinh tế
[2, 3]. Sau hơn 10 năm triển khai, bên cạnh các
kết quả đạt được, chương trình đã bộc lộ một
số hạn chế như tỷ lệ tiếp cận điều trị còn thấp,
tỷ lệ tuân thủ duy trì điều trị xu hướng
giảm dần rất khác nhau giữa các khu vực
[3]. các tỉnh miền núi, tỷ lệ bỏ trị lên đến
50% sau 10 năm điều trị [3]. Yêu cầu bắt buộc
đến phòng khám nhận thuốc methadone hàng
ngày rào cản lớn đối với việc tuân thủ điều
trị cũng như duy trì trong điều trị, đặc biệt trong
bối cảnh người bệnh được khuyến khích điều
trị methadone lâu dài như điều trị các bệnh mạn
tính [4]. Ngoài ra, các nguyên nhân phổ biến
khác bao gồm khó khăn liên quan đến công
*Tác giả: Nguyễn Bích Diệp
Địa chỉ: Trường Đại học Y Hà Nội
Điện thoại: 0983 465 686
Email: nguyenbichdiep@hmu.edu.vn
DOI: https://doi.org/10.51403/0868-2836/2022/893
126 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
việc trong giờ hành chính hoặc thường xuyên
phải đi làm ăn xa, thách thức trong việc đi
lại hàng ngày đến sở do khoảng cách xa,
địa hình khó khăn đặc điểm thời tiết khắc
nghiệt, đặc biệt ở các tỉnh miền núi [3, 5 - 7].
Chính sách cho người bệnh được nhận thuốc
methadone về nhà đã được nhiều quốc gia trên
thế giới áp dụng, được mở rộng đáng kể
trong bối cảnh đáp ứng với đại dịch COVID-19
[8, 9]. Một trong những thách thức của việc
cấp thuốc methadone nhiều ngày (CTNN) cho
người bệnh mang về nhà nguy quá liều,
thể dẫn đến tử vong, nếu lạm dụng thuốc hoặc
sử dụng sai mục đích. Mặc đã báo cáo
một số trường hợp sử dụng methadone được
cấp về nhà sai mục đích, nhiều nghiên cứu trên
thế giới đã cho thấy việc triển khai tương đối an
toàn đặc biệt hiệu quả trong việc tăng duy trì
điều trị methadone [10, 11].
Tại Việt Nam, để ứng phó với các bất cập
của chương trình điều trị methadone, Bộ Y tế
đã quyết định triển khai thí điểm chương trình
CTNN cho người bệnh điều trị nghiện chất
dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone tại
3 tỉnh Lai Châu, Điện Biên Hải Phòng từ
tháng 4 năm 2021 [12]. Người bệnh đang điều
trị methadone tại các cơ sở được chọn thí điểm,
khi đáp ứng các tiêu chí xét chọn của chương
trình như đã đạt liều methadone duy trì, tuân thủ
điều trị và không sử dụng ma túy trong vòng 2
tháng gần đây, sẽ được tư vấn để mời tham gia
CTNN. Người bệnh sẽ bắt đầu từ việc được cấp
1 liều thuốc mang về, sau đó đánh giá định kỳ
hàng tháng thể được tăng dần số liều được
mang về lên tối đa 6 liều nếu tuân thủ tốt. Trong
quá trình được mang thuốc về nhà, người bệnh
thể tự nguyện hoặc bị buộc tạm dừng CTNN
nếu vi phạm các quy định của chương trình
quay trở lại uống thuốc methadone hàng ngày
(đến uống thuốc tại cơ sở điều trị). Nghiên cứu
này được thực hiện nhằm mô tả các kết quả ban
đầu từ phía bệnh nhân sau 6 tháng triển khai
chương trình thí điểm cấp thuốc methadone
nhiều ngày tại 3 tỉnh Điện Biên, Lai Châu
Hải Phòng năm 2021, từ đó cung cấp thông tin
bằng chứng cho các nhà hoạch định chính
sách về sự cần thiết và lợi ích của chương trình.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh tham gia chương trình thí điểm
CTNN trong thời gian từ tháng 4 đến hết tháng
9 năm 2021.
2.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại tất cả (21)
sở điều trị methadone tham gia chương trình thí
điểm CTNN tại 3 tỉnh Lai Châu (7 cơ sở), Điện
Biên (9 sở) Hải Phòng (5 sở) trong
thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2021.
2.3 Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu hỗn hợp, kết hợp nghiên
cứu định lượng và định tính.
2.4 Cỡ mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng: 922 bệnh án điều
trị của người bệnh đã từng tham gia chương
trình CTNN tính đến hết tháng 9/2021 tại 3 tỉnh
thành phố.
Nghiên cứu định tính: Mỗi tỉnh thực hiện 2
cuộc thảo luận nhóm (tổng số 6 cuộc tại 3 tỉnh)
với sự tham gia của 48 người bệnh (8 người/
nhóm). Trong đó, 6 người nhận từ 1 - 2 liều (1
Điện Biên, 2 Lai Châu, 3 Hải Phòng), 17 người
nhận từ 3 - 4 liều (4 Điện Biên, 4 Lai Châu, 9
Hải Phòng), 25 người nhận 5 - 6 liều (11
Điện Biên, 7 Lai Châu, 7 Hải Phòng).
2.5 Phương pháp chọn mẫu
Nghiên cứu định lượng: Chọn tất cả bệnh
án điều trị methadone của người bệnh đã từng
tham gia CTNN trong thời gian từ tháng 4 đến
hết tháng 9 năm 2021 được trích lục đầy đủ
thông tin.
Nghiên cứu định tính: Tại mỗi tỉnh, chọn
chủ đích người bệnh ở một cơ sở điều trị chính
(cấp tỉnh/huyện) một sở cấp phát thuốc
(cấp xã) các sở số lượng người bệnh
tham gia CTNN đông cán bộ sẵn sàng hợp
tác hỗ trợ. Người bệnh được chọn để đảm bảo
tính đa dạng về số liều methadone được cấp
127Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
về nhà ưu tiên chọn nhiều hơn nhóm được
mang nhiều liều thuốc về nhà do thời gian
trải nghiệm lâu hơn trong chương trình.
2.6 Biến số nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng: Các chỉ số chính
bao gồm đặc điểm nhân khẩu học (tuổi, giới,
dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân,
nghề nghiệp), bệnh đồng diễn (HIV, viêm
gan B, C, rối loạn sức khỏe tâm thần), tiền sử
sử dụng chất dạng thuốc phiện (tuổi lần đầu sử
dụng, số năm sử dụng liên tục, đã từng tiêm
chích, tiền sử quá liều), sử dụng chất trong quá
trình điều trị (dương tính với morphine khi xét
nghiệm nước tiểu định kỳ), tuân thủ điều trị
(không bỏ bất kỳ liều thuốc nào trong 1 tháng)
và duy trì điều trị (không bỏ trị).
Nghiên cứu định tính: Các chủ đề thảo luận
nhóm bao gồm: tác động của chương trình
CTNN đối với cuộc sống, công việc, quá trình
tham gia điều trị của người bệnh những
thách thức, khó khăn trong quá trình tham gia
chương trình CTNN.
2.7 Phương pháp thu thập thông tin
Nghiên cứu định lượng: Trích lục bệnh
án điều trị methadone từ thời điểm 12 tháng
trước khi nhận thuốc nhiều ngày đến hết tháng
9/2021. Cán bộ sở điều trị methadone nhập
các thông tin trong bệnh án lên bộ nhập liệu
trực tuyến, dưới sự hướng dẫn hỗ trợ thuật
của nhóm nghiên cứu trường Đại học Y Nội.
Nghiên cứu định tính: Do thời gian triển
khai nghiên cứu trùng với đợt cao điểm của đại
dịch COVID-19, các cuộc thảo luận nhóm được
cán bộ nhóm nghiên cứu thực hiện theo hình
thức trực tuyến tại sở điều trị methadone cấp
huyện/thành phố, nơi đầy đủ trang thiết bị để
thảo luận trực tuyến đường truyền Internet
tương đối ổn định. Cán bộ cơ sở giúp liên hệ và
hẹn lịch người bệnh, hỗ trợ chuẩn bị trang
thiết bị trước khi bắt đầu buổi thảo luận.
2.8 Xử lý và phân tích số liệu
Nghiên cứu định lượng: Số liệu được làm
sạch và phân tích trên phần mềm STATA 14.2/
MP. Các giá trị trung bình/trung vị tỷ lệ
phần trăm được sử dụng để mô tả các đặc điểm
của đối tượng tham gia chương trình CTNN.
Kiểm định t-test (hoặc Mann-Whitney test)
Khi bình phương (hoặc Fisher exact test) được
sử dụng để so sánh các biến phân loại biến
định lượng với độ tin cậy 95%. Phương pháp
Kaplan-Meier được sử dụng để tả việc
duy trì điều trị methadone và chương trình cấp
thuốc nhiều ngày.
Nghiên cứu định tính: Các cuộc thảo luận
nhóm được thực hiện bởi 2 - 3 cán bộ nghiên
cứu (một người điều hành 1 - 2 người ghi
chép chi tiết nội dung thảo luận nhóm) và được
ghi âm trong quá trình thực hiện. Do hạn chế về
kinh phí thời gian phân tích, nhóm nghiên
cứu không thực hiện giải băng ghi âm. Tất cả
tóm tắt chi tiết các buổi thảo luận được nhóm
nghiên cứu đọc đi đọc lại nhiều lần để xác định
các chủ đề nổi bật và sau đó, nghe lại các đoạn
băng ghi âm để tìm các trích dẫn phù hợp.
2.9 Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng
đạo đức trường Đại học Y Nội theo Quyết
định số 531/GCN-HĐĐĐNCYSH-ĐHYHN
ngày 13 tháng 9 năm 2021.
III. KẾT QUẢ
Tính đến thời điểm tháng 9/2021, số người
bệnh tham gia cấp thuốc nhiều ngày tại 3 tỉnh
Lai Châu, Điện Biên Hải Phòng lần lượt
232, 355 và 361. 922 trên tổng số 948 bệnh án
được đưa vào phân tích (26 bệnh án chưa hoàn
thành trích lục).
3.1 Đặc điểm người bệnh tham gia chương
trình cấp thuốc nhiều ngày
3.1.1 Đặc điểm nhân khẩu xã hội
Người bệnh tham gia CTNN trong nghiên
cứu tuổi trung bình 44 tuổi (SD 9,1),
98,4% là nam giới và 68,3% đã kết hôn. Có sự
khác biệt về đặc điểm dân tộc, trình độ học vấn
nghề nghiệp của người bệnh 3 tỉnh. Đối
với Hải Phòng, tất cả người bệnh đều là dân tộc
128 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
Kinh, phần lớn có trình độ học vấn từ trung học
phổ thông trở lên (65,6%) công việc thu
nhập ổn định (40,7%). Tại 2 tỉnh miền núi
Điện Biên Lai Châu, khoảng 50% người
dân tộc thiểu số, đa số (hơn 60%) người bệnh
trình độ học vấn từ trung học trở xuống.
Phần lớn người bệnh Điện Biên (61,3%) công
việc chính là làm nông trong khi ở Lai Châu là
làm tự do, thu nhập không ổn định (66,0%).
3.1.2 Tiền sử sử dụng chất dạng thuốc phiện
bệnh đồng diễn
Tuổi lần đầu sử dụng chất dạng thuốc phiện
(heroin hoặc thuốc phiện) trung bình của người
bệnh 26 tuổi (SD 7,9) với trung bình 9,2
năm (SD 6,6) sử dụng liên tục. 74,2% đã từng
tiêm chích 2,5% đã từng quá liều. Về bệnh
đồng diễn, 18,1% dương tính với HIV, trong
đó 98,2% đang điều trị ARV. Tỷ lệ đồng nhiễm
HBV, HCV rối loạn sức khỏe tâm thần (tự
báo cáo) lần lượt là 10,2%, 46,1% và 0,2%.
3.2 Kết quả điều trị methadone
3.2.1 Sử dụng chất trước sau khi tham gia
cấp thuốc nhiều ngày
Tỷ lệ xét nghiệm nước tiểu định kỳ dương
tính với morphine trước sau khi tham gia
CTNN trong tổng số người bệnh dao động dưới
4% chưa thấy sự khác biệt giữa thời gian
trước và sau khi nhận thuốc nhiều ngày. Người
bệnh ở Lai Châu tỷ lệ xét nghiệm nước tiểu
dương tính cao hơn so với 2 tỉnh còn lại, đặc
biệt trong gia đoạn trước khi triển khai chương
trình CTNN (Hình 1).
3,8% 3,6% 2,6% 3,0% 2,9% 3,3% 2,6% 2,5% 2,3% 2,2%
0,4% 0,2% 0,0%
1,8% 1,5% 2,4%
3,8%
1,1%
0,0
5,0
10,0
15,0
20,0
Hải Phòng Điện Biên Lai Châu Tổng
%
Tháng
Hình 1. Tỷ lệ dương tính với morphine khi xét nghiệm nước tiểu định kỳ trước
và sau khi tham gia chương trình cấp thuốc methadone nhiều ngày tại 3 tỉnh (n = 922)
3.2.2 Tuân thủ điều trị trước sau khi tham
gia cấp thuốc nhiều ngày
Tỷ lệ bỏ ít nhất một liều methadone trong
tháng trong khoảng 12 tháng trước khi tham
gia CTNN đến thời điểm sau tham gia chương
trình 6 tháng được trình bày ở hình 2. Theo đó,
tỷ lệ bỏ liều trước khi nhận thuốc nhiều ngày
(nhận thuốc hàng ngày theo quy trình thường
quy) dao động từ 7 - 10% trong tháng 12 đến
tháng thứ 3 trước khi bắt đầu tham gia CTNN.
Tỷ lệ này giảm mạnh (xuống còn 4 - 1%) trong
3 tháng trước khi tham gia CTNN. Trong giai
đoạn 6 tháng kể từ tham gia chương trình, tỷ lệ
bỏ trị duy trì trong khoảng 2 - 3%.
129Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
7%
8% 7% 8% 9% 9%
10%
9%
10%
8%
4%
2% 1% 2% 3% 3%
2% 2%
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
Hải Phòng Điện Biên Lai Châu Tổng
%
Tháng
Hình 2. Tỷ lệ bỏ ít nhất một liều methadone trong tháng trước và sau khi tham gia chương trình
cấp thuốc methadone nhiều ngày tại 3 tỉnh (n = 922)
Hình 3. Tỷ lệ duy trì trong chương trình cấp thuốc nhiều ngày tại 3 tỉnh qua thời gian (n = 922)
Trong các cuộc thảo luận nhóm, người bệnh
chia sẻ được CTNN giúp cải thiện tuân thủ điều
trị do có gia đình giám sát nhắc nhở việc
uống thuốc tại nhà. Ngoài ra, người bệnh
thể uống vào bất kỳ thời gian nào trong ngày
(không phụ thuộc vào thời gian mở cửa của
phòng khám) mang theo người khi đi làm
hoặc khi có công việc cần đi xa.
“Có mẹ vợ nhắc nhở uống thuốc nhà
nên uống đầy đủ. Trước đây (khi chưa tham
gia chương trình cấp thuốc nhiều ngày) đôi khi
nhỡ liều phải nghỉ uống. Còn hiện tại có thuốc
nhà nên không phải bỏ liều” (BN Lai Châu,
được mang về 2 liều).
3.2.3 Duy trì điều trị methadone chương
trình cấp thuốc nhiều ngày
Tỷ lệ duy trì trong chương trình CTNN nói
chung tại 3 tỉnh sau 6 tháng triển khai 88,0%,
có sự khác biệt giữa 3 tỉnh (Hải Phòng, Điện
Biên Lai Châu lần lượt 93%, 91% 85%)
(Hình 3). Trong số 922 người bệnh tham gia
tính đến hết T9/2021, 65 bệnh nhân dừng tham
gia chương trình CTNN. Trong đó 25 người bị
dừng bắt buộc do xét nghiệm nước tiểu dương
tính với morphine, 13 người tuân thủ không tốt
(không đến nhận thuốc, bỏ liều hoặc uống sai
liều), 15 người muốn xin ra khỏi chương trình
điều trị methadone.
Tỷ lệ duy trì cộng dồn