intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khung pháp luật chung cho nhà đầu tư trong và ngoài nước 1

Chia sẻ: Cong Truc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

122
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khung pháp luật chung cho nhà đầu tư trong và ngoài nước 1

  1. Lời nói đầu Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi m ới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước đ ã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: “Nghiên cứu để tiến tới áp d ụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tạo mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư nước ngoài và đ ầu tư trong nước là một trong những quy luật khách quan của x u thế hội nhập kinh tế quốc tế. Theo lời của Thủ tướng Phan Văn Khải, thì “..Cái chính là mặt bằng pháp luật, mặt bằng cơ chế chính sách”. Nếu không có m ột “hành lang pháp lý” vững chắc, bảo đảm sự bình đ ẳng giữa các nhà đ ầu tư nước ngo ài và đầu tư trong nước trong mọi quá trình của hoạt động đầu tư từ khẩu tìm hiểu đầu tư đến khâu thành lập, triển khai, mở rộng hoặc thu hẹp và chấm dứt dự án đầu tư thì sẽ không theo kịp với tiến trình hội nhập. Có thể nói, sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước hiện nay được coi là một trong những hạn chế ảnh hưởng tới tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong những năm qua, chúng ta có nhiều cố gắng trong việc đưa các quy đ ịnh của pháp luật đầu tư nước ngoài và các quy định về đầu tư trong nước xích lại gần nhau. Một khi còn tồn tại hai hệ thống quy phạm pháp luật riêng điều chỉnh đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, thì không thể có khái niệm “sân chơi” bình đẳng cho hoạt động đầu tư trong nước, bất kể đó là đầu tư nước ngoài hay đầu tư trong nước. Tất nhiên, do hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa đ ủ mạnh, nên nếu phải vào cùng một “sân chơi”, trong cùng một “mặt bằng” với các nhà đầu tư nước ngoài, có tiềm lực kinh tế, giàu kinh nghiệm, có công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại hơn hẳn chúng ta, thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh nổi. Chính vì vậy, trước mắt vẫn cần phải có hành lang 1
  2. pháp lý riêng cho từng loại đối tượng. Nhưng do xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đ ang trở thành vấn đề bức xúc và do yêu cầu của việc hội nhập, các quốc gia đ ang dần xoá bỏ sự khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Việt N am muốn hoà vào xu thế chung đó thì không có cách nào khác là phải từng b ước tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Chúng ta phải tính toán để đưa ra những bước đi thích hợp với trình độ, hoàn cảnh và đặc điểm của Việt Nam. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” hiện nay mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Việt Nam. 2
  3. Chương 1 Một số vấn đề chung về pháp luật đầu tư nước ngoài tại việt nam 1.1. Sự cần thiết phải có pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn là m ột phương tiện quan trọng không thể thay thế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tổ chức, quản lý đời sống xã hội, bảo đảm cho xã hội ổn định, phát triển, phù hợp với những mục đích mà N hà nước và xã hội đặt ra. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X đã ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa x ã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong đó quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của n hân dân, do nhân dân, vì nhân dân"; Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN ". Quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng, là chức năng cơ bản của Nhà nước ta trong điều kiện cụ thể hiện nay. Để thực hiện chức năng này, chúng ta phải nhận thức đúng đắn các quy luật kinh tế – xã hội khách quan, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước và các đ iều kiện quốc tế, xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, sử d ụng đồng bộ và hợp lý các công cụ kế hoạch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế. Trong hệ thống các công cụ và biện pháp quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, được thể hiện ở một số nội dung sau đây: Thứ nhất, để điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước có thể và cần phải sử dụng nhiều công cụ, biện pháp và hình thức khác nhau như chính sách, kế hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài, đòn bẩy kinh tế, pháp luật đầu tư nước ngo ài... Tuy nhiên, trong số các công cụ, biện pháp đó, pháp luật đầu tư 3
  4. nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi lẽ với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô toàn xã hội. Thứ hai, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, luôn luôn gắn liền với N hà nước và chỉ Nhà nước mới sử dụng công cụ này. Nhà nước điều chỉnh mọi q uá trình x ảy ra trong xã hội và hành vi của con người, trong đó có hoạt động đ ầu tư trực tiếp nước ngoài bằng quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước đ ược thực hiện bằng một cơ chế thực thi pháp luật và nhờ có quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị thực hiện ý chí của mình, buộc cả xã hội phải tuân theo và phục tùng bằng cách đề ra pháp luật và thực hiện pháp luật trên thực tế. Nhà nước điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài b ằng pháp luật. Do đó chỉ có điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngo ài bằng pháp luật thì quyền lực nhà nước mới có ý nghĩa và mới đem lại hiệu quả thiết thực. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nên cũng có thể khẳng đ ịnh, pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị. Thứ ba , sự phát sinh, phát triển của pháp luật đầu tư nước ngo ài phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, sau khi pháp luật đầu tư nước ngoài đ ã được ban hành, các cơ quan nhà nước phải triệt để tuân thủ trong q uá trình thực hiện chức năng quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây cũng là m ột trong những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo đ ịnh hướng XHCN, sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu khách quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Đây là điểm khác biệt so với thời kỳ quan liêu, bao cấp, vì ở thời kỳ này, sự tồn tại của pháp luật như một nhu cầu chủ quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của Nhà nước, là một phương tiện trong tay Nhà nước để kìm hãm, xóa bỏ những quan hệ kinh tế nào đó một cách d uy ý chí. 4
  5. Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật đầu tư nước ngoài đ ược hình thành trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, tồn tại như một quan hệ nội tại của sự vận động, phát triển kinh tế đối ngoại. Pháp luật đầu tư nước ngoài là hệ thống các quy phạm, chuẩn mực, mà dựa vào đó các nhà đầu tư nước ngoài tìm được "sân chơi", các nhà quản lý có phương tiện để điều khiển "cuộc chơi". Pháp luật đầu tư nước ngoài là m ực thước để phân định đúng, sai, kiểm nghiệm và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phù hợp với nhu cầu xã hội. Sự điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật phải b ảo đảm cho hoạt động này vận động theo đúng những quy luật khách quan, không thể áp đặt bằng ý chí chủ quan, duy ý chí. Bằng pháp luật, Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý đ ể những nhà đầu tư nước ngo ài có thể tự chủ sản xuất kinh doanh, tự bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời không làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể khác và toàn xã hội. Thứ năm, trong việc điều chỉnh quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật quy định cho các bên tham gia một số quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, đồng thời thiết lập cơ chế đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó đ ược thực hiện. V ì vậy, khi tham gia vào các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài do p háp luật điều chỉnh, các chủ thể phải có hành vi phù hợp với các yêu cầu của p háp luật. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng p háp luật, không chỉ tác động tới các hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ đ ầu tư trực tiếp nước ngoài, mà còn tác động đối với toàn xã hội nói chung. 1.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của Pháp Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài, cần làm rõ khái niệm đầu tư, đ ầu tư nước ngoài, các hình thức, phương thức đầu tư nước ngoài, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước 5
  6. ngoài. 1.2.1.1. Khái niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài, hình thức, phương thức đầu tư nước ngoài  Khái niệm “đầu tư nước ngoài” Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài, trước hết cần làm rõ khái niệm đầu tư. Theo Đại từ điển tiếng Việt, đầu tư là: "Bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh để được hưởng phần lời lãi"1. Dưới góc độ khoa học, đầu tư (investment) là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn. Nó i cách khác, đ ầu tư là việc đưa vốn vào m ột hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vốn đầu tư bao gồm tiền và các tài sản khác như động sản, bất động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô hình… Như vậy, có thể đưa ra khái niệm đầu tư như sau: đầu tư là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền hoặc tài sản khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận. Về khái niệm đầu tư nước ngo ài, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã đưa ra định nghĩa: "đ ầu tư nước ngoài được hiểu là tất cả những loại giá trị vật chất mà nhà đầu tư đưa từ nước ký kết này sang nước ký kết hữu quan theo pháp luật của nước sử dụng đầu tư". ở khái niệm này, đầu tư nước ngoài được hiểu với nghĩa rất hẹp chỉ bao gồm các giá trị vật chất, còn các loại tài sản vô hình thì lại chưa được đề cập đến. Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1996: "Đầu tư thương mại và các thỏa thuận chính sách quốc tế", có đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm đ ầu tư trực tiếp nước ngoài: "là một khoản đầu tư liên quan đến các quan hệ dài hạn và phản ánh một lợi ích lâu dài và sự kiểm soát một thực thể trong một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ) thông qua một doanh nghiệp thuộc về một nền kinh tế khác, nền kinh tế của nước có nhà đầu tư trực tiếp n ước ngoài". . 1 Xem: Nguyễn Như ý (chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, 1998, tr 610.. 6
  7. ở nước ta, ngay từ năm 1977, khái niệm đầu tư nước ngoài đã chính thức đ ược ghi nhận trong Điều lệ Đầu tư của nước ngo ài được ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 (sau đây gọi tắt là Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977): “ Được coi là đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam việc đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn sau đây, nhằm xây dựng những cơ sở mới hoặc đổi mới trang bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có: - Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm cả những thứ dùng cho việc thí nghiệm), phương tiện vận tải, vật tư kỹ thuật… cần thiết cho mục đích nói trên; - Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh, ph ương pháp công nghệ, bí mật kỹ thuật (know - how), nhãn hiệu chế tạo… - Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ, nếu phía Việt Nam thấy cần thiết..” Phân tích khái niệm trên cho thấy, không phải bất cứ sự vận động vốn (tư b ản) nào từ nước ngoài vào Việt Nam đều được coi là đầu tư nước ngoài, mà chỉ những tài sản và vốn được quy định tại Điều 2 Đ iều lệ đầu tư nước ngoài, đ ược đưa vào sử dụng ở Việt Nam m ới được coi là đ ầu tư nước ngo ài. Trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987, khái niệm đầu tư nước ngoài đã được ghi nhận tại khoản 3 Điều 2 như sau: "Đ ầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này". Có thể nói, với quy định mới này, khái niệm đầu tư nước ngo ài đã được m ở rộng hơn so với khái niệm đầu tư nước ngoài trong Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977. Trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm đầu tư được hiểu theo một nghĩa rộng hơn: "là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một Bên do các công dân hoặc công ty của Bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp h ay 7
  8. gián tiếp, bao gồm các hình thức: một công ty hoặc một doanh nghiệp; cổ phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ và các quyền lợi đối với các khoản nợ dưới các hình thức khác trong công ty; các quyền theo hợp đồng như quyền theo các hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng xây dựng hoặc h ợp đồng quản lý, các hợp đồng sản xuất hoặc hợp đồng phân chia doanh thu, tô nhượng hoặc các hợp đồng tương tự khác…”. Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm đầu tư nước ngo ài như sau: đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư của n ước này đưa vốn bằng tiền hoặc tài sản khác vào nước khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Trong khái niệm này, yếu tố nước ngoài được thể hiện bằng hai dấu hiệu đ ặc trưng chính, đó là: có sự tham gia của chủ thể nước ngoài và có sự di chuyển vốn từ nước này sang nước khác. Đầu tư nước ngoài được phân làm hai loại: đầu tư trực tiếp nước ngoài và đ ầu tư gián tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình kinh doanh, trong đó nhà đ ầu tư nước ngoài tự bỏ vốn thiết lập ra cơ sở sản xuất, kinh doanh cho riêng mình, tự đ ứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê người quản lý cơ sở này (đ ầu tư 100% vốn), hoặc hợp tác với một hay nhiều doanh nghiệp của nước sở tại thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, cùng làm chủ sở hữu, cùng quản lý cơ sở sản xuất, kinh doanh này. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư, trong đó nhà đ ầu tư nước ngoài bỏ vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ sở kinh tế, nhưng không tham gia điều hành cơ sở kinh tế đó. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ là một trong bốn nguồn tài chính nước ngoài được đưa vào một quốc gia, đó là: 1) Viện trợ phát triển chính thức (ODA) và phi chính phủ (NGO); 2) Tín dụng thương mại; 3) Tín phiếu, trái p hiếu, cổ phiếu; 4) Vốn đầu tư trực tiếp. Bốn nguồn vốn này có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, 8
  9. nguồn vốn này là tiền đề để thu hút nguồn vốn khác và tạo điều kiện để trả nợ nguồn vốn khác. Nếu một quốc gia đang phát triển không nhận được vốn ODA đ ủ mức cần thiết để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thì khó có thể thu hút được nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác. Nhưng nếu chỉ chú trọng nguồn vốn ODA, mà không tìm cách thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác, thì quốc gia đó sẽ không thể có khả năng để trả nợ vốn ODA.  H ình thức đầu tư Thực tiễn đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới cho thấy, có rất nhiều hình thức đầu tư phong phú như: hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hình thức liên doanh, hình thức công ty cổ phần, công ty quản lý vốn, chi nhánh công ty nước ngoài, hình thức gia công, lắp ráp... ở nước ta, đầu tư trực tiếp nước ngoài được pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành quy định dưới ba hình thức: - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là loại hình đ ầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nước ta và có tư cách pháp nhân của Việt Nam.. - Doanh nghiệp liên doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước cùng góp vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. - H ợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đ ầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngo ài và nhà đ ầu tư trong nước cùng bỏ vốn kinh doanh theo một hợp đồng, mỗi bên giữ tư cách pháp nhân riêng, không thành lập pháp nhân mới.  Phương th ức đầu tư Có thể hiểu phương thức đầu tư là cách tổ chức đưa vốn vào kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài. Pháp luật đầu tư nước ngo ài tại Việt Nam quy định các phương thức sau: - BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) là phương thức, trong đó nhà đ ầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của V iệt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, tự kinh doanh để thu hồi vốn, 9
  10. lợi nhuận trong thời hạn nhất định, sau thời hạn đó chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. - BTO (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh) là phương thức, trong đó nhà đ ầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của V iệt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đ ầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. - BT (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao) là phương thức, trong đó nhà đ ầu tư ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước V iệt Nam. - Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa lý x ác đ ịnh do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập, thực hiện các dịch vụ p hục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, tiến hành hoạt động xuất khẩu, - K hu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ phục vụ sản xuất hàng công nghiệp do Chính phủ thành lập hoặc cho p hép thành lập. 1.2.1.2. Khái niệm đối tượng điều chỉnh, ph ương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài Pháp luật đầu tư nước ngoài nếu được hiểu theo nghĩa rộng gồm ba bộ p hận: Bộ phận thứ nhất: gồm đạo luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng d ẫn trực tiếp thi hành. Bộ phận thứ hai: gồm các chế định có liên quan đến đầu tư nước ngoài đ ược quy định trong các đạo luật khác. Bộ phận thứ ba: gồm các quy phạm pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Pháp luật đầu tư nước ngoài được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm đạo luật Đầu tư nước ngoài và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành trực tiếp. 10
  11.  Về đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật đã chỉ ra rằng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội có liên quan đến đời sống cộng đồng, củng cố địa vị và lợi ích của Nhà nước và công dân trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Chúng có thể thay đổi tùy theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể, phụ thuộc vào ý chí của giai cấp thống trị và các điều kiện chính trị, xã hội khác. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm: - Quan hệ giữa nhà đầu tư nước ngoài với Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt N am mà đại diện là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Q uan hệ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Q uan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đ ầu tư trong nước. - Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế. - Q uan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các tổ chức, cá nhân nước ngoài. - Q uan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư trong nước với người lao động. - Q uan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư trong nước với các cơ quan tài phán trong nước và quốc tế. - Các quan hệ khác. Dấu hiệu đặc trưng có tính chất bắt buộc của các quan hệ x ã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài là yếu tố nước ngo ài. Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của các ngành luật khác như Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Kinh tế... có thể cũng có yếu tố nước ngoài, nhưng không có tính chất bắt buộc như quan hệ đầu tư nước ngo ài. 11
  12.  Về phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài Xét dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, phương pháp đ iều chỉnh của pháp luật được hiểu là tổng hợp những cách thức tác động của p háp luật lên các quan hệ xã hội. Phương pháp điều chỉnh của pháp luật có những đặc điểm: do Nhà nước thông qua và các cơ quan có thẩm quyền đặt ra; được ghi nhận trong quy phạm p háp luật; được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các chế tài mang tính chất cưỡng chế. Pháp luật Đầu tư nước ngoài có ba phương pháp điều chỉnh: phương pháp thỏa thuận (hay còn gọi là phương pháp tự nguyện); phương pháp mệnh lệnh (hay còn gọi là phương pháp bắt buộc); p hương pháp khuyến khích. Ba phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau và được sử dụng trong sự kết hợp với nhau. N ghiên cứu pháp luật đầu tư nước ngoài ho ặc pháp luật khuyến khích đầu tư nước ngoài của một số nước trên thế giới như Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc,... cho thấy, các nước này đều sử dụng cả ba phương pháp đ iều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài, chỉ khác nhau ở cách thức kết hợp b a phương pháp. Như vậy, pháp luật đầu tư nước ngoài có đối tượng và phương pháp điều chỉnh mang tính đặc thù. Sự khác nhau về đối tượng điều chỉnh và phương pháp đ iều chỉnh có thể nói là xuất phát từ chức năng của mỗi ngành luật. Pháp luật đ ầu tư nước ngoài không điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như các ngành luật khác mà nó chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về pháp luật đầu tư nước ngoài như sau: Pháp luật đầu tư nước ngoài là hệ thống những quy phạm p háp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Pháp luật đầu tư nước ngo ài gồm hai phần: Phần chung và Phần riêng. Phần chung của pháp luật đầu tư nước ngoài bao gồm các quy phạm điều 12
  13. chỉnh các quan hệ mang tính chất nguyên tắc, phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngo ài như các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, nguyên tắc bảo đảm quyền sở hữu đói với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngo ài...; các quy phạm định nghĩa về các khái niệm cơ b ản trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như "Bên nước ngoài", "Bên Việt Nam", "Đầu tư nước ngoài", "Xí nghiệp liên doanh"... Phần riêng của pháp luật đầu tư nước ngoài bao gồm các nhóm quy phạm đ iều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài cụ thể, nói cách khác là các quy định về: - Những quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. - Những quy định về hình thức đầu tư, phương thức đầu tư. - Những quy định về đất đai, x ây d ựng, lao động. - Những quy định về thuế, ngân hàng, tài chính, kế toán, thống kê. - Những quy định về chuyển giao công nghệ, sở hữu công nghiệp. - Những quy định về Hải quan, xuất nhập khẩu. - Những quy định về hợp đồng kinh tế, trọng tài, xử lý tranh chấp. 1.2.2. Đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngoài Từ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài đã được trình bày ở trên và qua nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành, có thể rút ra những đặc trưng cơ bản như sau: 1.2.2.1. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật đầu tư nước ngoài có một số quy phạm pháp luật đầu tiên hướng tới nền kinh tế thị trường Điều lệ Đầu tư nước ngo ài năm 1977 ra đời vào năm 1977, chỉ sau hai năm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là thời điểm nhân dân ta m ới bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp đang rất thịnh hành và nền kinh tế về cơ bản chỉ có hai thành phần là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể. Trong bối cảnh đó, Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên trong hệ thống pháp luật của Việt Nam tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Trong Điều lệ này, Nhà nước ta đã khuyến khích, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực 13
  14. của nền kinh tế, trừ những ngành bị cấm. Điều đó thể hiện chủ trương cởi mở, đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư của nước ta. Như vậy, xét dưới góc độ lý luận, có thể khẳng định, công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng chính thức đ ược tính từ năm 1986, nhưng tiền đ ề của nó đã xuất hiện ngay từ năm 1977 trong Đ iều lệ Đầu tư nước ngo ài ở V iệt Nam. Như vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thời kỳ từ năm 1977 đến năm 1986, Điều lệ Đầu tư nước ngo ài năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên hướng tới nền kinh tế thị trường, thể hiện chính sách "mở cửa" của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư nước ngo ài năm 1987 cũng có một số quy đ ịnh "vượt rào" so với Hiến pháp năm 1980 như không quốc hữu hóa, thừa nhận thành phần kinh tế tư bản, tư nhân... 1.2.2.2. Pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời trước khi có quan hệ đầu tư nước ngoài trên thực tế ở Việt Nam Để điều chỉnh các quan hệ xã hội tồn tại, phát triển theo hướng mà Nhà nước mong muốn và có thể phản ánh đúng thực tiễn khách quan, Nhà nước xây d ựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, so sánh với tiến trình của các quan hệ kinh tế, pháp luật thường xuất hiện chậm so với sự biến động và phát triển của các quan hệ kinh tế. Năm 1977, khi các quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam lần đầu tiên được ban hành, thì trên thực tế ở V iệt Nam ho àn toàn chưa có quan hệ đầu tư nước ngo ài. Thời điểm đó, cơ chế q uản lý tập trung, quan liêu, bao cấp đang ngự trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - x ã hội; các khái niệm cơ bản của kinh tế thị trường như tự do thương m ại, tự do cạnh tranh, thị trường vốn ... chưa được chấp nhận chính thức trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta. Đầu tư nước ngoài với tính chất là sự vận động trực tiếp của tư bản nước ngoài vào Việt Nam lúc đó vẫn chưa được tán thành. Chỉ sau khi có chính sách đổi mới tư duy lý luận và tư duy kinh tế của Đ ảng và Nhà nước, thì đạo luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mới có cơ hội ra đ ời, các quan hệ đầu tư nước ngoài mới hình thành và phát triển trên cơ sở p háp lý đó. Vì những lẽ đó mà TS. Hoàng Phước Hiệp cho rằng "hệ thống các 14
  15. quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài được ban hành trước khi có quan hệ đầu tư nước ngoài theo đúng nghĩa của từ đó trên thực tế tại Việt Nam"1. Việc pháp luật đầu tư nước ngoài "vượt trước" hoạt động đầu tư nước ngoài ở V iệt Nam không phải là hiện tượng trái quy luật. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, cơ sở hạ tầng có mối quan hệ biện chứng với kiến trúc thượng tầng và trong một số trường hợp nhất định, pháp luật có thể "vượt trước", thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội. Mặt khác, nếu xem xét nền kinh tế nước ta dưới góc độ là một bộ phận của nền kinh tế khu vực và trên thế giới, thì hoạt động đầu tư nước ngo ài đã tồn tại từ rất lâu ở nhiều nước trên thế giới với các mức độ khác nhau. Như vậy, p háp luật về đầu tư nước ngo ài và hoạt động đ ầu tư nước ngo ài ở Việt Nam là cái có sau so với nhiều nước trên thế giới và đ ương nhiên bị chi phối bởi quá trình quốc tế hóa nền kinh tế của các nước. Đây có thể coi là vấn đề hợp quy luật trong tiến trình hội nhập của nước ta vào đời sống kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. 1.2.2.3. Pháp luật đầu tư nước ngo ài có m ột số chủ thể đặc thù Pháp luật đầu tư nước ngo ài điều chỉnh quan hệ đầu tư nước ngoài, trong đó ít nhất một bên là cá nhân, tổ chức kinh tế hoặc cơ quan nhà nước Việt Nam và bên kia là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tổ chức kinh tế Việt Nam được hiểu là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập, tổ chức và hoạt động theo các quy định của pháp luật Việt Nam; cơ quan nhà nước ở đây là cơ quan được Chính phủ ủy quyền ký kết với các cá nhân, tổ chức nước ngoài thực hiện các hợp đồng BOT, BT, BTO; tổ chức, cá nhân nước ngoài là các tổ chức kinh tế nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chủ thể của quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gồm có: 1) Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. 2) Các nhà đầu tư nước ngoài tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt N am. 1 Xem: TS. Hoàng Phààc Hiàp (1996), C ch i u ch nh pháp lu t trong l nh v c u t tr c ti p 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2