1
Lời nói đầu
Tsau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thVI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và nh đạo đã giành được những thắng lợi quan
trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hi của đất
ớc đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quc tế đánh giá cao.
n kiện Đại hội Đảng lần thIX đã nêu : “Nghiên cứu để tiến tới áp
dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp vốn đu tư nước ngoài. To mt bằng pháp lý chung cho cđầu
nước ngoài đầu trong nước là mt trong những quy luật khách quan của
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Theo lời của Thủ tướng Phan Văn Khải, thì
“..Cái chính mặt bằng pháp luật, mặt bằng cơ chế chính sách”. Nếu không có
một “hành lang pháp lý” vng chắc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các nhà đầu
ớc ngoài đầu trong nước trong mọi qtrình của hoạt động đầu từ
khẩu tìm hiểu đầu đến khâu thành lập, triển khai, mở rộng hoặc thu hẹp và
chấm dứt dán đầu thì skhông theo kịp với tiến trình hi nhập. Có thể nói,
sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước
hiện nay được coi là mt trong những hạn chế ảnh hưởng tới tính hấp dẫn, tính
cạnh tranh của i trường đầu tư nước ngoài ti Việt Nam.
Trong nhng năm qua, chúng ta nhiều cố gắng trong việc đưa các quy
định của pháp luật đu nước ngoài các quy định về đầu trong nước xích
lại gần nhau. Một khi còn tồn tại hai hệ thống quy phạm pháp luật riêng điều
chỉnh đầu nước ngoài và đầu trong nước, thì không th khái niệm “sân
chơi” bình đẳng cho hoạt động đầu tư trong nước, bất kể đó là đầu tư nước ngoài
hay đầu trong nước. Tất nhiên, do hin nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa
đủ mạnh, nên nếu phải vào cùng một sân chơi”, trong cùng mt “mặt bằng” với
các nhà đầu nước ngoài, tiềm lực kinh tế, giàu kinh nghiệm, có công nghệ,
máy móc thiết b hiện đại hơn hẳn cng ta, thì các doanh nghiệp Việt Nam
không th cạnh tranh nổi. Chính vì vậy, trưc mắt vẫn cần phải có hành lang
2
pháp riêng cho từng loại đối tượng. Nhưng do xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế
đang trở thành vấn đbức xúc và do u cu của việc hội nhập, c quốc gia
đang dần xoá bsự khác biệt giữa đầu trong nước đầu nước ngoài. Việt
Nam muốn hoà vào xu thế chung đó thì không có ch nào khác phải từng
bước tiến tới mặt bằng pháp chung cho đầu trong ớc đầu nước
ngoài. Chúng ta phải tính toán đđưa ra nhng ớc đi thích hợp với trình độ,
hoàn cảnh đặc điểm của Việt Nam. Vì vậy, việc la chọn đtài Phương
ớng hoàn thiện pháp luật đầu nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp
chung cho đầu trong nước đầu nước ngoài tại Việt Nam hiện nay
mang tính cấp thiết, không những v luận, mà còn đòi hi thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
3
Chương 1
Một số vấn đề chung
về pháp luật đầu tư nước ngoài tại việt nam
1.1. Scần thiết phải có pháp luật đầu tư nước ngoài ti Việt nam
Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn là một pơng tiện quan trọng
không th thay thế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tchức, quản lý đời sống xã
hội, bảo đm cho xã hội ổn định, phát triển, phù hợp với những mục đích mà
Nớc và hội đặt ra. Ti kỳ hp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hi
ch nghĩa Việt Nam khóa X đã ban hành Ngh quyết số 51/2001/QH10 ngày
25/12/2001 vviệc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hi chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong đó quy định: "N nước Cộng hòa
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hi chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, nhân n"; Điều 12 Hiến pháp m 1992 quy định: "Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN
".
Qun kinh tế i chung, quản hoạt động đầu trực tiếp nước ngoài
i riêng, chức năng bản của Nhà ớc ta trong điều kiện cthể hiện nay.
Để thực hiện chức năng này, chúng ta phi nhận thức đúng đắn c quy lut kinh tế
xã hội khách quan, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước và c
điều kiện quốc tế, xây dựng chiến lược thu hút đầu trực tiếp nước ngoài, s
dụng đồng bộ và hợp lý các công cụ kế hoch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế.
Trong hthống các công cụ và bin pp quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài, pháp lut vai trò đặc biệt quan trọng, được thể hiện một số nội dung
sau đây:
Thnhất, để điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước
thvà cần phải sử dụng nhiều công cụ, biện pháp và hình thức khác nhau n
chính sách, kế hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài, đòn bẩy kinh tế, pháp luật đu tư
ớc ngoài... Tuy nhiên, trong s các ng cụ, biện pháp đó, pháp luật đầu tư
4
nước ngoài vai trò đặc biệt quan trọng, bởi lẽ với những đặc điểm riêng của
mình, pháp lut khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà
ớc một cách nhanh nhất, đồng bộ và hiệu quả nhất trên quy mô toàn xã hi.
Thứ hai, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, luôn luôn gắn liền với
Nớc và chNớc mới sử dụng công cụ này. Nhà nước điều chỉnh mọi
qtrình xảy ra trong xã hội và nh vi của con người, trong đó hoạt động
đầu trực tiếp nước ngoài bằng quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được
thc hiện bằng một chế thực thi pháp luật và nh có quyền lực nớc, giai
cấp thống trị thực hiện ý chí của mình, buộc cả xã hi phải tuân theo phục
ng bằng cách đề ra pháp luật và thực hiện pp luật trên thc tế. Nhà nước điều
chỉnh hoạt động đầu trực tiếp nước ngoài bằng pp lut. Do đó chỉ điều
chỉnh hoạt đng đầu trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật thì quyền lực nhà
nước mớiý nghĩa và mới đem lại hiệu quả thiết thực.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân,n cũng có thể khẳng
định, pháp luật đu tư ớc ngoài ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhân dân,
trong đó có lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị.
Thứ ba, sự phát sinh, phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài phụ thuộc
hoàn toàn vào ý chí của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, sau khi pháp luật đầu
ớc ngoài đã được ban nh, các quan nhà nước phải triệt đtuân thủ trong
qtrình thực hiện chức năng quản lý đầu trực tiếp ớc ngoài. Đây cũng là
một trong những nội dung bản của quá trình xây dựng Nớc pháp quyền
XHCN Việt Nam hiện nay.
Th , trong nền kinh tế thị trường, sự quản của Nnước, theo
định hướng XHCN, s tồn tại của pháp luật là mt nhu cầu khách quan bắt
ngun từ những đòi hi của các quan hệ kinh tế. Đây điểm khác biệt so với
thời kỳ quan liêu, bao cấp, vì thời kỳ này, stồn tại của pháp luật như mt nhu
cầu chủ quan bắt nguồn từ những đòi hi của Nhà nước, là một phương tiện
trong tay Nhà nước đkìm m, a b những quan hệ kinh tế nào đó một ch
duy ý chí.
5
Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật đầunước ngoài
được hình thành trên cơ sở những đòi hi khách quan của quan hệ đầu trực
tiếp nước ngoài, tn tại như một quan hệ nội tại của sự vận động, phát triển kinh
tế đối ngoại. Pháp luật đầu ớc ngoài là hthống các quy phạm, chuẩn mực,
mà da vào đó các nđầu nước ngoài tìm được "sân chơi", các nhà quản
phương tiện để điều khiển "cuộc chơi". Pháp luật đầu nước ngoài mực
thước để phân định đúng, sai, kiểm nghiệm điều chỉnh hoạt động đầu trực
tiếp nước ngoài cho phù hợp với nhu cầu xã hội.
Sđiều chỉnh hoạt động đầu trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật phải
bo đảm cho hoạt động này vn động theo đúng những quy luật khách quan,
không tháp đặt bằng ý chí chủ quan, duy ý chí. Bằng pháp luật, Nhà nước tạo
môi trường và nh lang pháp đnhững nhà đầu nước ngoài thtự chủ
sản xuất kinh doanh, tự bo vệ lợi ích của mình, đồng thời không làm tổn hại đến
li ích củac chủ thể khác và toàn xã hội.
Thnăm, trong việc điều chỉnh quan hệ đầu trực tiếp nước ngoài, pháp
luật quy định cho các bên tham gia mt số quyền và nghĩa vpháp lý nhất định,
đồng thời thiết lập chế đảm bảo cho các quyền và nghĩa vpháp đó được
thc hiện. Vì vậy, khi tham gia vào các quan hđầu trực tiếp nước ngoài do
pháp luật điều chỉnh, c chủ thể phải hành vi p hợp với các yêu cầu của
pháp luật. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hoạt động đu tư trực tiếp nước ngoài bng
pháp luật, không chỉ c động tới các hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ
đầu tư trc tiếp nước ngoài, mà còn tác động đối với toàn xã hội nói chung.
1.2. Khái niệm, đặc trưng vai trò ca Pháp Lut Đầu nước ngoài ti
Việt Nam
1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu ớc ngoài
Để làm sáng t khái niệm pháp luật đầu nước ngoài, cần làm khái
niệm đu tư, đầu nước ngoài, các hình thức, pơng thức đầu nước ngoài,
đối tượng điều chỉnh pơng pháp điều chỉnh của pháp luật đầu ớc