intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Tâm lý học: Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khỏe tâm thần của học sinh trung học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:235

7
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Tâm lý học "Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khỏe tâm thần của học sinh trung học" trình bày các nội dung chính sau: Tổng quan nghiên cứu về hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khỏe tâm thần của học sinh trung học; Cơ sở lý luận về hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khỏe tâm thần của học sinh trung học phổ thông; Kết quả nghiên cứu hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khỏe tâm thần của học sinh trung học phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Tâm lý học: Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khỏe tâm thần của học sinh trung học

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------------------------------- ​ ​ ​ NGUYỄN LÊ BẢO HOÀNG HÀNH VI TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC​ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2025
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------------------------------- ​ ​ ​ NGUYỄN LÊ BẢO HOÀNG HÀNH VI TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 9310401​ LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC ​ ​​ ​ ​ GVHD1: GS. TS. Huỳnh Văn Sơn ​ ​​ ​ ​ GVHD2: TS. Bùi Hồng Quân THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2025
  3. LỜI CAM ĐOAN Luận án tiến sĩ này là công trình nghiên cứu khoa học của Nghiên cứu sinh, có đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực nghiên cứu, thực hành Tâm lý học, có giá trị trong việc phát triển, gia tăng tri thức khoa học và thực tiễn trong lĩnh vực Tâm lý học. Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu và kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được gửi lời cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận án Nguyễn Lê Bảo Hoàng
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................... 1 2. Mục đích nghiên cứu................................................................................................... 3 3. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................................. 3 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.............................................................................3 5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu...................................................................................... 3 6. Giả thuyết nghiên cứu................................................................................................. 4 7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................. 5 8. Đóng góp mới của luận án...........................................................................................7 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ HÀNH VI TÌM KIẾM​ SỰ TRỢ GIÚP VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC... 8 1.1. Tổng quan các nghiên cứu về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông 8 1.2. Tổng quan các nghiên cứu về hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông..................................................................................20 1.3. Tổng quan nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông...............................................26 1.4. Tổng quan nghiên cứu về các biện pháp cải thiện hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông....................................................30 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1..............................................................................................37 CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP​ VỀ SỨC KHOẺ TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG...38 2.1. Lý luận về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông.......................... 38 2.2. Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông.............................................................................................................................. 51 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2................................................................................................66 CHƯƠNG 3. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................. 67 3.1. Giới thiệu về khách thể và địa bàn nghiên cứu...................................................... 67 3.2. Tổ chức nghiên cứu................................................................................................ 70 3.3. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................ 72 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3..............................................................................................92 CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU HÀNH VI TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG...93 4.1. Thực trạng sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông.......................... 93 4.2. Thực trạng hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông................................................................................................................ 96 4.3. So sánh biểu hiện hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông với các biến nhân khẩu – xã hội................................................. 119 4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của
  5. học sinh trung học phổ thông...................................................................................... 127 4.5. Kết quả các biện pháp tác động giáo dục đến hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông........................................................ 143 TIỂU KẾT CHƯƠNG 4............................................................................................151 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................................152 GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU..................................................... 155 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ........................................................ 157 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................. 158
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT SKTT Sức khỏe tâm thần VTN Vị thành niên TKSTG Tìm kiếm sự trợ giúp THPT Trung học phổ thông ĐTB Điểm trung bình ĐLC Độ lệch chuẩn DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1. Các yếu tố niềm tin sức khỏe của Rosenstock (1950) Bảng 1.2. Các giai đoạn tâm lý xã hội của Erikson (1950) Bảng 1.3. Các giai đoạn phát triển nhận thức của Piaget (1970) Bảng 3.1. Mô tả về khách thể nghiên cứu (N = 708) Bảng 3.2. Độ tin cậy của bảng hỏi đo vấn đề trầm cảm, lo âu và stress Bảng 3.3. Kiểm định thang đo nhận thức các vấn đề sức khoẻ tâm thần của học sinh THPT Bảng 3.4. Mức độ stress, lo âu, trầm cảm quy đổi theo điểm thang đo DASS-21 Bảng 3.5. Ma trận hiển thị mối quan hệ giữa các biện pháp và các khía cạnh của hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần Bảng 4.1. Thực trạng mức độ stress, lo âu, trầm cảm của học sinh trung học (N=708) Bảng 4.2. Thực trạng mức độ stress, lo âu, trầm cảm của học sinh THPT có rối nhiễu (N=422) Bảng 4.3. Thực trạng hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh THPT (N=708) Bảng 4.4. Thực trạng nhận thức về SKTT của học sinh THPT Bảng 4.5. Thực trạng thể hiện nhu cầu TKSTG của học sinh THPT Bảng 4.6. Thực trạng tìm kiếm và đánh giá nguồn lực chính thức của học sinh THPT Bảng 4.7. Thực trạng tìm kiếm và đánh giá nguồn lực không chính thức của học sinh THPT Bảng 4.8. Thực trạng sử dụng nguồn lực chính thức của học sinh THPT Bảng 4.9. Thực trạng sử dụng nguồn lực không chính thức của học sinh THPT Bảng 4.10. Tương quan giữa các khía cạnh nhận thức, thể hiện nhu cầu và đánh giá nguồn lực đến khía cạnh sử dụng nguồn lực
  7. Bảng 4.11. Kết quả hồi quy giữa khía cạnh sử dụng nguồn lực với các khía cạnh khác Bảng 4.12. Kết quả kiểm định tính phù hợp của mô hình hồi quy giữa các khía cạnh với sử dụng nguồn lực Bảng 4.13. Kết quả phân tích phương sai ANOVA giữa các khía cạnh Bảng 4.14. Mối liên hệ giữa hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần với các mức độ stress (N = 708) Bảng 4.15. Mối liên hệ giữa hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần với các mức độ trầm cảm (N = 708) Bảng 4.16. Mối liên hệ giữa hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần với các mức độ lo âu (N = 708) Bảng 4.17. So sánh giá trị trung bình hành vi tìm kiếm sự trợ giúp sức khỏe tâm thần theo nhóm tuổi (N = 708) Bảng 4.18. So sánh giá trị trung bình hành vi tìm kiếm sự trợ giúp sức khỏe tâm thần theo vị trí địa lý (N = 708) Bảng 4.19. So sánh giá trị trung bình hành vi tìm kiếm sự trợ giúp sức khỏe tâm thần theo giới tính của học sinh có các biểu hiện rối loạn sức khoẻ tâm thần (N=708) Bảng 4.20. So sánh giá trị trung bình hành vi tìm kiếm sự trợ giúp sức khỏe tâm thần theo học lực của học sinh có các biểu hiện rối loạn sức khoẻ tâm thần (N=708) Bảng 4.21. So sánh giá trị trung bình hành vi tìm kiếm sự trợ giúp sức khỏe tâm thần theo nhóm dân tộc của học sinh có các biểu hiện rối loạn sức khoẻ tâm thần (N=708) Bảng 4.22. So sánh giá trị trung bình hành vi tìm kiếm sự trợ giúp sức khỏe tâm thần theo điều kiện kinh tế của học sinh có các biểu hiện rối loạn SKTT (N=708) Bảng 4.23. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng tác động đến hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông (N = 708) Bảng 4.24. Tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng và khía cạnh nhận thức về sức khoẻ tâm thần của học sinh THPT (N = 708) Bảng 4.25. Kết quả hồi quy giữa các biến yếu tố ảnh hưởng với khía cạnh nhận thức Bảng 4.26. Kết quả kiểm định tính phù hợp của mô hình hồi quy (khía cạnh nhận thức) Bảng 4.27. Kết quả phân tích phương sai ANOVA (khía cạnh nhận thức) Bảng 4.28. Tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng và khía cạnh thể hiện nhu cầu tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh THPT (N = 708) Bảng 4.29. Kết quả hồi quy giữa các biến yếu tố ảnh hưởng với khía cạnh thể hiện nhu cầu Bảng 4.30. Kết quả kiểm định tính phù hợp của mô hình hồi quy (khía cạnh thể hiện nhu cầu) Bảng 4.31. Kết quả phân tích phương sai ANOVA (khía cạnh thể hiện nhu cầu) Bảng 4.32. Tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng và khía cạnh tìm kiếm và đánh giá nguồn lực của học sinh THPT (N = 708) Bảng 4.33. Kết quả hồi quy giữa các biến yếu tố ảnh hưởng với khía cạnh tìm kiếm và đánh giá nguồn lực
  8. Bảng 4.34. Kết quả kiểm định tính phù hợp của mô hình hồi quy (khía cạnh nhận thức) Bảng 4.35. Kết quả phân tích phương sai ANOVA (khía cạnh tìm kiếm và đánh giá nguồn lực) Bảng 4.36. Tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng và khía cạnh sử dụng nguồn lực của học sinh THPT (N = 708) Bảng 4.37. Kết quả hồi quy giữa các biến yếu tố ảnh hưởng với khía cạnh sử dụng nguồn lực Bảng 4.38. Kết quả kiểm định tính phù hợp của mô hình hồi quy (khía cạnh sử dụng nguồn lực) Bảng 4.39. Kết quả phân tích phương sai ANOVA (khía cạnh sử dụng nguồn lực) DANH MỤC HÌNH ẢNH/ BIỂU ĐỒ Hình 1.1. Mô hình thuyết hành vi hoạch định của Ajzen (1985) Hình 1.2. Mô hình thuyết tự điều chỉnh của Leventhal (1998) Hình 1.3. Vùng phát triển gần nhất theo Vygotsky (1978) Hình 1.4. Lý thuyết học tập xã hội của Albert Bandura (1977) Hình 1.5. Thuyết trường lực của Kurt Lewin (1951) Hình 1.6. Các thành phần của Vốn tâm lý (Luthans và cộng sự, 2007) Hình 1.7. Mô tả trạng thái dòng chảy của một trải nghiệm với thách thức tâm lý (Csikszentmihalyi, 1990) Hình 2.1. Độ phức tạp của khái niệm sức khoẻ tâm thần theo quy mô và thời gian (Manwell và cộng sự, 2015) Hình 2.2 Mô hình hành vi tìm kiếm sự trợ giúp của Rickwood và cộng sự (2005) Hình 2.3. Mô hình hành vi tìm kiếm sự trợ giúp của Cauce và cộng sự (2002) Hình 2.4. Mô hình hành vi tìm kiếm sự trợ giúp của McLaren và cộng sự (2023) Hình 2.5. Mô hình hành vi tìm kiếm sự trợ giúp của Westberg và cộng sự (2020) Hình 4.1. Thực trạng mức độ stress, lo âu, trầm cảm của học sinh THPT (N = 708) Hình 4.2. Biểu đồ thể hiện hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh THPT qua các khía cạnh (N=708)
  9. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Các vấn đề SKTT ở người trưởng thành thường xuất phát từ thời thơ ấu đến thanh thiếu niên (Kessler và cộng sự, 2005; Araya, Montero-Marin, Barroilhet, Fritsch, & Montgomery, 2013; Hailemariam, Tessema, Asefa, Tadesse, & Tenkolu, 2012), trong đó học sinh trung học phổ thông thuộc nhóm tuổi VTN là một trong những nhóm đối tượng có nguy cơ cao về SKTT cần được quan tâm hỗ trợ từ các tiếp cận khác nhau (Weiss, 2012). Báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2022 cho thấy tỷ lệ mắc các rối loạn lo âu và trầm cảm đã tăng 25% trong năm đầu tiên của đại dịch, với thanh thiếu niên là một trong những nhóm bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất (World Health Organization, 2022). Nghiên cứu từ Psychology Today cũng ghi nhận rằng vào năm 2021, khoảng 20% thanh thiếu niên đã trải qua các triệu chứng trầm cảm nghiêm trọng, nhưng chỉ một tỷ lệ nhỏ trong số đó tiếp cận được các dịch vụ hỗ trợ tâm lý phù hợp (Psychology Today, 2021). Các yếu tố như cô lập xã hội, lo sợ nhiễm bệnh, mất mát và khó khăn tài chính đã làm gia tăng sự lo âu và trầm cảm ở thanh thiếu niên. Đặc biệt, học sinh nữ và những người có bệnh lý mãn tính phải đối mặt với nguy cơ cao hơn (WHO, 2022). Sự gián đoạn trong giáo dục và hoạt động xã hội càng làm trầm trọng thêm những thách thức về tâm lý, ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp của họ (Psychology Today, 2021). Tốc độ xã hội hoá, hiện đại hoá nhanh khiến thanh thiếu niên phải đối diện với áp lực từ gia đình và môi trường. Sự thay đổi đó tác động mạnh mẽ tới tâm lý, khiến cho gánh nặng về SKTT trở nên nặng nề hơn và trở thành một trong những nguyên nhân chính gây tử vong (Polanczyk, Salum, Sugaya, Caye & Rohde, 2015; Carvajal-Velez và cộng sự, 2023). Điều này không chỉ mang lại các thách thức về kinh tế và xã hội mà còn đặt ra mối quan tâm về SKTT của VTN khi các em sẽ là trụ cột quốc gia vào thời điểm Việt Nam chuyển sang giai đoạn “dân số già” trong 15 năm tới (UNFPA, 2020). Kết quả nghiên cứu “Sức khỏe tâm thần vị thành niên Việt Nam” do Viện Xã hội học chủ trì thực hiện cho thấy sau Covid, 21,7% số VTN Việt Nam có vấn đề về SKTT, phổ biến nhất là lo lắng (18,6%), tiếp theo là trầm cảm (4,3%). Mặc dù vậy, chỉ có 8,4% VTN có vấn đề về SKTT tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ hoặc tư vấn cho các vấn đề về cảm xúc và hành vi.
  10. 2 Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc cho phát triển bền vững, Việt Nam đã lựa chọn và quốc gia hóa các mục tiêu, tập trung vào việc bảo đảm sức khỏe, nâng cao chất lượng giáo dục. Các Quyết định số 2138/QĐ-BGDĐT, số 1660/QĐ-TTg và số 155/QĐ-TTg từ Thủ tướng Chính phủ, nhằm tăng cường sức khỏe học đường và phòng, chống các bệnh không lây nhiễm cũng như rối loạn SKTT trong giai đoạn 2020-2025 cũng cho thấy việc can thiệp sớm vào chăm sóc các vấn đề SKTT rất quan trọng, khi có thể cải thiện kết quả điều trị và ngăn ngừa việc các vấn đề SKTT trở nặng hơn (Patel, Flísher, Hetrick, & McGorry, 2007). Tìm kiếm sự trợ giúp về các vấn đề sức khoẻ tâm thần trở thành một trong những chủ đề nghiên cứu mang tính giải pháp ngăn ngừa sự phát triển của các rối loạn SKTT (McGorry & Mei, 2018). Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khỏe tâm thần là quá trình mà một cá nhân nhận diện nhu cầu, ra quyết định và tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ khi đối diện với các vấn đề tâm lý hoặc cảm xúc (Scott & Walter, 2010). HVTKSTG có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, từ tìm kiếm lời khuyên từ bạn bè, gia đình đến tiếp cận các dịch vụ chăm sóc chuyên môn (O'Mahony & Hegarty, 2009). Việc nghiên cứu HVTKSTG về SKTT có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự can thiệp sớm và ngăn ngừa sự trầm trọng của các rối loạn tâm thần. Các nghiên cứu cho thấy, tiếp cận hỗ trợ kịp thời có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của triệu chứng lo âu, trầm cảm và nâng cao chất lượng sống của học sinh (Green, Murphy, & Gryboski, 2020). Các vấn đề về SKTT có thể có tác động sâu sắc đến sức khỏe và hoạt động, tuy nhiên người trẻ có vấn đề về SKTT thường trì hoãn hoặc tránh TKSTG chuyên nghiệp (Lawrence và cộng sự, 2015; McGorry & Purcell, 2009; Mission Australia & Black Dog Institute, 2017). Sự kém hiểu biết về các vấn đề SKTT, sự kỳ thị của xã hội, các dịch vụ và nguồn lực hạn chế khiến hầu hết trẻ em tại Việt Nam không nhận được điều trị hoặc hỗ trợ kịp thời (van der Ham và cộng sự, 2021). Mặc dù hành vi TKSTG đã được nghiên cứu và hệ thống hóa qua nhiều công trình quốc tế, các lý thuyết hiện tại chủ yếu tập trung vào việc đánh giá mức độ sẵn sàng sử dụng nguồn lực (Rickwood, 2005; Mclaren và cộng sự, 2020), mà chưa thực sự đi sâu vào việc sử dụng nguồn lực bên ngoài để giải quyết các vấn đề sức khỏe tâm thần. Dù có sự quan tâm ngày càng gia tăng, nghiên cứu về hành vi TKSTG liên quan đến SKTT ở học sinh trung học phổ thông tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân chính là việc áp dụng các mô hình nghiên cứu chưa được điều chỉnh phù hợp với
  11. 3 bối cảnh địa phương - nơi mà nhận thức về SKTT và sự kỳ thị văn hóa đặc trưng của Đông Á có tác động mạnh mẽ đến hành vi TKSTG (Cheung & Snowden, 1990; Leaf và cộng sự, 1986; S. Sue, 1988; Takeuchi và cộng sự, 1993). Để khắc phục những hạn chế này và hiểu rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng cũng như nguồn lực cần thiết nhằm cải thiện hành vi TKSTG về SKTT của học sinh trung học phổ thông một cách hiệu quả, nghiên cứu “Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khỏe tâm thần của học sinh trung học” được thực hiện. 2. Mục đích nghiên cứu Phân tích thực trạng hành vi TKSTG về SKTT của học sinh trung học. Từ đó, xác định các yếu tố ảnh hưởng và đề xuất các biện pháp tác động giáo dục phù hợp để cải thiện hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần cho học sinh trung học. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu ​ - Tổng quan tình hình nghiên cứu, xây dựng khung lý thuyết về hành vi TKSTG về SKTT của học sinh trung học phổ thông; ​ - Phân tích thực trạng hành vi TKSTG về SKTT và đánh giá các yếu tổ ảnh hưởng đến hành vi TKSTG về SKTT của học sinh trung học phổ thông; ​ - Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp cải thiện hành vi TKSTG về SKTT của học sinh trung học phổ thông. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu 708 học sinh THPT độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Các khía cạnh của hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần của học sinh THPT. 5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 5.1. Về nội dung nghiên cứu - Hành vi TKSTG về SKTT được biểu hiện thông qua 4 khía cạnh: từ Nhận diện vấn đề - Thể hiện nhu cầu cần trợ giúp - Tìm kiếm và đánh giá nguồn lực - Sử
  12. 4 dụng nguồn lực bên ngoài để giải quyết vấn đề về SKTT căn cứ trên việc kết hợp khung lý thuyết của Rickwood và cộng sự (2005) có bổ sung điều chỉnh. - Sức khoẻ tâm thần trong phạm vi đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu về stress, trầm cảm và lo âu ở học sinh Trung học Phổ thông thông qua sàng lọc bằng thang đo tự báo cáo DASS-21. - Các biện pháp tác động giáo dục được đề xuất dựa trên mô hình Nhận thức - hành vi. 5.2. Về địa bàn nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn tỉnh, thành phố như Hà Nội (miền Bắc), ĐăkLăk (Tp. Buôn Ma Thuột, miền Trung - Tây Nguyên) TP. Hồ Chí Minh và Đồng Tháp (TP. Sa Đéc, miền Nam). 5.3. Về khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu là học sinh THPT độ tuổi 16 đến 18 đang theo học tại các trường công lập hoặc ngoài công lập tại địa bàn nghiên cứu. 6. Giả thuyết nghiên cứu - Phần lớn học sinh THPT thuộc nhóm khách thể nghiên cứu có hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần có dấu hiệu lo âu, trầm cảm và stress dựa trên kết quả sàng lọc từ DASS-21. - Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tinh thần của học sinh THPT thể hiện mức cao nhất ở khía cạnh nhận thức và thấp nhất ở khía cạnh sử dụng nguồn lực để giải quyết vấn đề SKTT. - Các yếu tố cá nhân; gia đình và xã hội ảnh hưởng mạnh đến hành vi TKSTG về SKTT; các yếu tố liên quan dịch vụ; các yếu tố mang tính hệ thống ảnh hưởng đến hành vi TKSTG về SKTT ở mức trung bình. - Các biện pháp tác động giáo dục (1) Nâng cao nhận thức về sức khoẻ tâm thần bằng viết nhật ký cảm xúc, (2) Hỗ trợ tâm lý học đường theo hình thức nhóm học sinh và (3) Hỗ trợ tâm lý học đường bằng ứng dụng kỹ thuật số được học sinh đánh giá phù hợp và giúp cải thiện hành vi tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần.
  13. 5 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp luận - Tiếp cận hoạt động: Cách tiếp cận này tập trung vào việc phân tích hành vi của học sinh trong các tình huống cụ thể liên quan đến SKTT, bao gồm cách các em nhận thức vấn đề, quyết định TKSTG về SKTT, và sử dụng các nguồn lực sẵn có. Nghiên cứu đã tiến hành quan sát, phỏng vấn và khảo sát học sinh trong môi trường thực tế, từ đó thu thập dữ liệu về các hành vi thực tiễn và các yếu tố ảnh hưởng. Qua việc áp dụng phương pháp tiếp cận hoạt động, luận án đã xác định được những mô hình hành vi cụ thể và đề xuất các chiến lược can thiệp phù hợp nhằm cải thiện hành vi TKSTG về SKTT của học sinh trong bối cảnh giáo dục hiện đại. - Tiếp cận lịch sử - logic: Nghiên cứu đã xem xét các biến đổi về nhận thức và hành vi liên quan đến SKTT qua các giai đoạn lịch sử, bao gồm các yếu tố văn hóa, xã hội và giáo dục, cũng như tác động của đại dịch COVID-19. Sau đó phân tích mối quan hệ nguyên nhân - kết quả giữa các yếu tố này, giúp xác định các quy luật và nguyên nhân cụ thể dẫn đến hành vi TKSTG về SKTT. Qua đó, luận án không chỉ làm sáng tỏ quá trình hình thành hành vi mà còn đưa ra các khuyến nghị cụ thể để xây dựng các biện pháp cải thiện hành vi TKSTG về SKTT phù hợp. - Tiếp cận hệ thống: Bắt đầu bằng việc xây dựng mô hình lý thuyết dựa trên các nghiên cứu trước đó, mô hình này bao gồm các yếu tố như nhận thức về vấn đề SKTT, thể hiện nhu cầu TKSTG về SKTT, và các yếu tố xã hội, cá nhân, được điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh văn hóa của học sinh Việt Nam. Quá trình thu thập và phân tích dữ liệu từ khảo sát, phỏng vấn sâu, và phân tích tài liệu được thực hiện kỹ lưỡng để đảm bảo tính đại diện và đa dạng. Sau đó, mô hình lý thuyết được đánh giá và điều chỉnh dựa trên kết quả thực nghiệm để phản ánh chính xác hành vi thực tế của học sinh. Cuối cùng, kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tiễn để phát triển các biện pháp cụ thể như (1) Nâng cao nhận thức về sức khoẻ tâm thần bằng viết nhật ký cảm xúc; (2) Hỗ trợ tâm lý học đường theo hình thức nhóm học sinh và (3) Hỗ trợ tâm lý học đường bằng ứng dụng kỹ thuật số đảm bảo rằng tất cả các yếu tố cá nhân, xã hội và hệ thống đều được xem xét một cách cụ thể. - Tiếp cận đa ngành (Multidisciplinary approach): Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tận dụng các công nghệ kỹ thuật số và công nghệ thông tin để hiểu rõ hơn về đặc điểm tâm lý và xu hướng TKSTG về SKTT của học sinh THPT
  14. 6 trong bối cảnh hiện nay. Để đảm bảo tính chính xác và khoa học, việc thu thập và phân tích dữ liệu từ các vấn đề SKTT phát sinh trên không gian mạng, cũng như tác động của các yếu tố kỹ thuật số đến SKTT và hành vi TKSTG về SKTT của học sinh, là tiền đề cần thiết. Điều này giúp khám phá sâu hơn về những tác động có ý nghĩa của bối cảnh kỹ thuật số đến tâm lý lứa tuổi hiện nay. Với tình hình ứng dụng nghiên cứu vào chuyển đổi số trong giáo dục hiện đại, nghiên cứu về hành vi TKSTG về SKTT là một điểm nhấn quan trọng. Tiếp cận đa ngành cho phép khai thác các công cụ và phương pháp hiện đại từ nhiều lĩnh vực khác nhau để hướng đến mục tiêu nâng cao hạnh phúc và lối sống lành mạnh, thông qua việc tìm kiếm sự hỗ trợ tâm lý phù hợp và an toàn trên nền tảng số. Tâm lý học xã hội, tâm lý học sức khoẻ, tâm lý học tích cực, tâm lý học đa văn hoá đều đóng vai trò như là các quan điểm tiếp cận quan trọng trong tham vấn và can thiệp sức khoẻ tâm thần, bao gồm cả việc tìm kiếm sự trợ giúp về sức khoẻ tâm thần. Mỗi lĩnh vực cung cấp góc nhìn và công cụ khác nhau để hỗ trợ cá nhân và cải thiện chất lượng cuộc sống. Dưới đây là cách mỗi quan điểm có thể được áp dụng: Tâm lý học xã hội: Quan điểm này nhấn mạnh tác động của môi trường xã hội và các quan hệ xã hội đối với hành vi và tâm trạng cá nhân.Tâm lý học xã hội giúp xác định các yếu tố xã hội như kì thị, áp lực từ bạn bè, hỗ trợ xã hội ảnh hưởng đến quyết định TKSTG và cách thức các cá nhân tương tác với nguồn lực sẵn có. Tâm lý học sức khoẻ: Tập trung vào việc nghien cứu và ứng dụng các nguyên tắc tâm lý để thúc đẩy và duy trì sức khoẻ, phòng ngừa và điều trị bệnh tật cũng như cải hiện hệ thống chăm sóc sức khoẻ. Trong bối cảnh TKSTG về SKTT, tâm lý học sức khoẻ giúp hiểu rõ các rào cản cá nhân và cung cấp chiến lược để thúc đẩy hành vi TKSTG. Tâm lý học tích cực: Quan điểm này tập trung vào việc xây dựng các điểm mạnh, đức tính và khả năng phục hồi của cá nhân thay vì chỉ tập trung vào vấn đề hay rối loạn. Trong tham vấn, tâm lý học tích cực có thể giúp khuyến khích cá nhân nhận ra và tận dụng sức mạnh cá nhân của học để vượt qua thách thức và TKSTG một cách hiệu quả. Mỗi quan điểm tiếp cận mang lại một kích thước riêng biệt và hỗ trợ cho quá trình tham vấn và can thiệp, giúp cá nhân hiểu rõ hơn về bản thân và môi trường xung quanh họ, từ đó tạo điều kiện cho việc TKSTG và nhận sự trợ giúp một cách hiệu quả
  15. 7 hơn. Việc kết hợp linh hoạt các quan điểm này có thể tối ưu hoá sự hỗ trợ cho cá nhân, giúp họ đối mặt và vượt qua các khó khăn về sức khoẻ tâm thần. 7.2. Phương pháp nghiên cứu 7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu văn bản và tài liệu 7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra bảng hỏi; Phương pháp phỏng vấn; Phương pháp tác động giáo dục 7.2.3. Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng thống kê mô tả (điểm trung bình, độ lệch chuẩn, tỉ lệ, thứ hạng) và thống kê suy luận (kiểm định ANOVA, phân tích hồi quy) bằng phần mềm SPSS 22.0. 8. Đóng góp mới của luận án 8.1. Về lý luận Luận án đóng góp một phần trong việc phát triển lý thuyết về hành vi TKSTG về SKTT của học sinh trung học phổ thông tại Việt Nam. Thứ nhất, nghiên cứu tiếp cận hành vi tìm kiếm sự trợ giúp dựa trên các mặt biểu hiện của hành vi, trong đó khía cạnh sử dụng nguồn lực để giải quyết vấn đề sức khoẻ tâm thần được bổ sung so với các mô hình hiện hữu để hình thành một cấu trúc HVTKSTG về SKTT mới. Thứ hai, luận án đã xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi TKSTG về SKTT trong đó nổi bật các nhóm yếu tố ảnh hưởng cá nhân, gia đình, dịch vụ và hệ thống. Cuối cùng, nghiên cứu cung cấp một số biện pháp lý thuyết về việc nâng cao nhận thức và cải thiện hành vi TKSTG về SKTT trong đó có kinh nghiệm sử dụng công nghệ số để hỗ trợ SKTT. 8.2. Về thực tiễn Trước hết, luận án đã cung cấp một bức tranh khái quát về tình trạng SKTT và hành vi TKSTG về SKTT của học sinh, giúp các nhà quản lý giáo dục, giáo viên, và cha mẹ có cái nhìn cụ thể và khoa học để triển khai các biện pháp hỗ trợ phù hợp. Thứ hai, nghiên cứu đã đề xuất các biện pháp can thiệp như viết nhật ký cảm xúc, hỗ trợ tâm lý học đường theo nhóm, và sử dụng ứng dụng kỹ thuật số, nhằm cải thiện hành vi TKSTG về SKTT và nâng cao chất lượng cuộc sống cho học sinh. Cuối cùng, các kết quả nghiên cứu còn mở ra những cơ hội mới cho việc ứng dụng công nghệ số trong hỗ trợ SKTT, phù hợp với xu hướng giáo dục hiện đại và sự phát triển của xã hội Việt Nam trong tương lai.
  16. 8 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ HÀNH VI TÌM KIẾM​ SỰ TRỢ GIÚP VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC 1.1. Tổng quan các nghiên cứu về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông 1.1.1. Một số nghiên cứu về sức khoẻ tâm thần của học sinh trung học phổ thông Trên thế giới, SKTT của thanh thiếu niên trong độ tuổi 16-18 đang là một vấn đề ngày càng được quan tâm sâu sắc. Hiện có khoảng 14% thanh thiếu niên trên toàn cầu đang sống chung với các rối loạn tâm thần, bao gồm lo âu, trầm cảm, và các rối loạn hành vi khác (WHO, 2021). Đặc biệt, rối loạn lo âu và trầm cảm là hai dạng phổ biến nhất, ảnh hưởng đến hàng triệu thanh thiếu niên trên toàn cầu. Báo cáo của WHO năm 2019 cho thấy tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần ở thanh thiếu niên nữ cao hơn nam, đặc biệt là với các rối loạn như trầm cảm và lo âu, trong khi các rối loạn như tăng động giảm chú ý (ADHD) và tự kỷ phổ biến hơn ở nam giới (WHO, 2019). Sự gia tăng tỷ lệ mắc các rối loạn này đã được ghi nhận rõ ràng trong bối cảnh đại dịch COVID-19, với một số ước tính cho thấy mức tăng tương ứng lên đến 26% cho lo âu và 28% cho trầm cảm chỉ trong năm 2020 (WHO, 2021). Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) (2022), bằng phương pháp đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp dữ kiện từ 86 nghiên cứu tại các quốc gia cho biết: đại dịch Covid- 19 đã làm gia tăng các vấn đề về sức khỏe tâm thần trên toàn cầu, bao gồm trầm cảm và lo lắng lan rộng. Điều này hoàn toàn phù hợp với các tiên lượng về những thách thức có liên quan đến khỏe tâm thần hậu Covid- 19 trước đó. Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã có một dự đoán về “cơn sóng tâm bệnh” sau khi đại dịch Covid- 19 kết thúc (Tadon, 2020). Theo kết quả sàng lọc về tác động của đại dịch Covid-19 đối với sức khỏe tâm thần của trẻ em và thanh thiếu niên, bằng phương pháp đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp dữ liệu từ 12 nghiên cứu cho biết tại Trung Quốc, Ý, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ: trẻ em và thanh thiếu niên thường mắc phải lo âu, trầm cảm, các vấn đề về điều chỉnh cảm xúc và hành vi, đau khổ tâm lý (bao gồm cả triệu chứng trầm cảm và lo âu) trong giai đoạn hậu Covid- 19. Các phản ứng lo lắng, căng thẳng, các triệu chứng chuyển dạng cơ thể và rối loạn ám ảnh cưỡng chế cũng được ghi nhận là có sự gia tăng. Sự chồng chéo giữa các giai đoạn khủng hoảng lứa tuổi và yêu cầu thích nghi với đời sống sinh hoạt mới trong bối cảnh xã hội biến đổi vì Covid-19 được ghi nhận
  17. 9 là yếu tố có tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần của trẻ em và vị thành niên. Những yếu tố này được xem là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ mắc các rối loạn sức khỏe tâm thần ở nhóm đối tượng này (Nearchou, F., Flinn, C., Niland, R., Subramaniam, S. S., & Hennessy, E., 2020). Trong một nghiên cứu khác tại Trung Quốc, Zhou và các cộng sự (2020) đã khảo sát trực tuyến đối với 8.079 học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông (12-18 tuổi) thuộc 21 tỉnh và khu tự trị. Kết quả cho thấy tỷ lệ học sinh có triệu chứng trầm cảm, hoặc lo âu, hoặc kết hợp cả hai triệu chứng lần lượt là 43,7%, 37,4% và 31,3%. Học sinh nữ phổ thông trung học có nguy cơ cao hơn học sinh nam, và càng lên lớp trên, tỷ lệ học sinh bị trầm cảm, lo âu càng tăng (Dẫn theo Quan, T. A., Quynh, N. N., & Huyen, N. T. N., 2021). Có thể nhận thấy rằng đại dịch diễn ra khiến các trường học buộc phải đóng cửa đã kéo theo một số hệ lụy đáng lưu ý về sức khỏe tâm thần ở trẻ vị thành niên. Tại Châu Phi, theo một nghiên cứu đoàn hệ của Chimbutane, F. và cộng sự từ tháng 6/2021 – 8/2022 trên các học sinh của 150 trường học và sống tại vùng nông thôn Mozambique cho biết có tỷ lệ phổ biến về tình trạng sức khỏe kém được thể thể hiện qua mức độ lo âu cao ở học sinh trong bối cảnh trường học đóng cửa. Kết quả cho thấy mức độ phơi nhiễm các triệu chứng lo âu và trầm cảm có thể gây ra những hệ quả bất lợi cho sức khỏe tâm thần của trẻ em vị thành niên (lớp 1 – 7) tại khu vực này. Tác động của biến đổi xã hội lên bối cảnh kinh tế và điều kiện sống của trẻ tại gia đình có tác động tiêu cực với cảm nhận hạnh phúc và lo âu ở trẻ. Cụ thể là có 53% trẻ em trải qua nạn đói cùng gia đình, 8% trẻ em có cha mẹ bị mất việc, 10% trẻ có nguy cơ mắc rối loạn lo âu lan tỏa, 31% có mức độ cảm nhận hạnh phúc thấp được dự báo là có nguy cơ cao mắc rối loạn trầm cảm. Hơn nữa, qua phân tích cho thấy nhóm trẻ trải qua biến động tiêu cực về hoàn cảnh gia đình có mức độ lo âu cao hơn trong thời gian trường học đóng cửa. Có tương quan rất mạnh giữa mức độ lo âu và tỷ lệ dự báo trầm cảm (GAD-7 và WHO-5, r= 0.83) ở các học sinh trong giai đoạn hậu đại dịch. Điều này cho thấy trong giai đoạn này mức độ lo âu càng cao thì nguy cơ kéo theo các triệu chứng trầm cảm càng lớn. Các phát hiện cũng chỉ ra rằng cảm nhận hạnh phúc và mức độ tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ xã hội thấp có mối quan hệ tiêu cực với sức khỏe tâm thần của trẻ vị thành niên. Và tương tự với kết quả trên học sinh phổ thông tại Trung Quốc, trong nghiên cứu này thì tỷ lệ lo âu và sức khỏe kém ở học sinh nữ cao hơn học sinh nam, bởi vì trẻ em gái và phụ nữ có xu hướng đặc biệt dễ bị tổn thương hơn trong
  18. 10 đại dịch (Chimbutane, F., Herrera-Almanza, C., Karachiwalla, N., Lauchande, C., & Leight, J., 2023). Theo nghiên cứu sàng lọc bằng phương pháp đánh giá tổng quan tài liệu từ Xiong và cộng sự (2020) cho biết tại Trung Quốc, Tây Ban Nha, Ý, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Nepal, Đan Mạch, Hoa Kỳ có tỷ lệ dân số gặp phải các vấn đề về sức khỏe tâm thần vì đại dịch tương đối cao. Có đến 6,33% - 50,9% dân sốc gặp phải vấn đề về lo âu, 14,6% - 48,3% phải đối mặt với trầm cảm, 7% - 53,8% mắc rối loạn cảm xúc, 34,43% - 38% có cảm giác đau khổ, và 8,1% - 81,9% bị căng thẳng mỗi ngày. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn chỉ ra rằng cả giai đoạn trước và trong khi xảy ra đại dịch, tỷ lệ lo âu, căng thẳng và trầm cảm của phụ nữ đều cao hơn so với nam giới, phụ nữ có con dưới 18 tuổi cho biết các triệu chứng rối loạn sức khỏe tâm thần cao hơn so với nam giới có con cùng hoàn cảnh (49% so với 40%). Điều này cho thấy việc tìm thêm những giải pháp nhằm khắc phục các hậu quả về sức khỏe tâm thần do Covid để lại là một nhiệm vụ vô cùng cấp thiết. Thêm vào đó, các kết quả đánh giá sâu có liên quan đến nhóm chức năng tâm thần kinh lâm sàng (neuropsychological assessment) từ các nghiên cứu bệnh chứng y khoa chỉ ra rằng Covid- 19 cũng đã gây ra những hệ lụy khá nghiêm trọng lên chức năng thần kinh, nhận thức và chức năng tâm lý ở các bệnh nhân trong giai đoạn hậu Covid- 19. Đặc biệt là phụ nữ, trẻ em, trẻ vị thành niên và người cao tuổi. Bằng chứng cho thấy có khoảng 200 triệu người mắc phải Hội chứng hậu Covid- 19 (Post Covid- 19 Syndrome) trên toàn thế giới. Kết quả đánh giá và phân tích tổng hợp dữ liệu từ 41 nghiên cứu của các Quốc gia cho biết tỷ lệ lưu hành trên toàn cầu được ước tính là 43%. Tỷ lệ lưu hành lần lượt tại Châu Á, Châu Âu, Hoa Kỳ lần lượt là 51%, 44%, 31%. Trong đó triệu chứng mệt mỏi được báo cáo là triệu chứng phổ biến nhất với tỷ lệ là 23% và các vấn đề có liên quan đến trí nhớ là 14%. Trên cơ sở đó, nghiên cứu cho biết có một tỷ lệ dân số đáng kế mắc hội chứng hậu Covid. Điều này có nguy cơ gây căng thẳng cho hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn cầu (Chen, C., và cộng sự, 2022). Dựa trên các kết quả nghiên cứu từ năm 2020 đến hết 2023 có thể nhận thấy rằng các vấn đề có liên quan đến sức khỏe tâm thần phổ biến nhất là các triệu chứng căng thẳng, lo âu, trầm cảm. Nhìn chung, hầu như các nghiên cứu đều chỉ ra rằng tình trạng căng thẳng, lo âu và trầm cảm kéo dài là một trong những thành tố của tình trạng đau khổ tâm lý, là nguy cơ dẫn đến rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD) và các
  19. 11 rối loạn sức khỏe tâm thần khác. Bên cạnh đó, khi xét về nhân khẩu học thì hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng tỷ lệ nữ giới gặp phải các vấn đề có liên quan đến sức khỏe tâm thần cao hơn nam. Trẻ em và vị thành niên trong độ tuổi học đường là nhóm đối tượng chịu tác động mạnh mẽ bởi Covid-19 hơn những nhóm dân số khác. Cùng với đó, một yếu tố quan trọng đã được tìm thấy là sự ảnh hưởng của các triệu chứng tâm thần kinh (do sự tác động của hội chứng hậu Covid- 19, hoặc hội chứng Covid- 19 kéo dài) lên các vấn đề về nhận thức (bao gồm: tư duy và trí nhớ), cảm xúc (bao gồm: căng thẳng, trầm cảm, lo âu), tình trạng rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD) và một số rối loạn sức khỏe tâm thần khác gặp phải ở thanh thiếu niên lứa tuổi học đường. Tại Việt Nam, SKTT của thanh thiếu niên từ 16-18 tuổi cũng đang đối diện với nhiều thách thức nghiêm trọng. Theo một nghiên cứu từ Bệnh viện Tâm thần Trung ương, tỷ lệ mắc các rối loạn tâm thần phổ biến trong nhóm tuổi này đang ngày càng tăng cao, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến lo âu, trầm cảm và stress. Theo thống kê năm 2014, tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm trong thanh thiếu niên Việt Nam chiếm khoảng 2,45% dân số, trong khi tỷ lệ tự tử ước tính vào khoảng 5,87 trên 100.000 dân (Bệnh viện Tâm thần Trung ương, 2014). Một khảo sát của Bệnh viện Nhi đồng Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy, từ 8-20% trẻ em và vị thành niên Việt Nam gặp các vấn đề về SKTT, tùy theo từng tỉnh, giới tính và đặc điểm người trả lời (Bệnh viện Nhi đồng TP.HCM, 2019). Đặc biệt, tỷ lệ lo âu và trầm cảm trong nhóm học sinh trung học phổ thông ở các đô thị lớn như Hà Nội và TP.HCM là rất cao, với khoảng 21,13% học sinh gặp phải các vấn đề về lo âu ở mức độ nghiêm trọng, và khoảng 10% bị trầm cảm (Đào Thị Tuyết, 2014). Bên cạnh đó, tự huỷ hoại và tự tử là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở người trẻ tuổi, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tâm lý chưa được hỗ trợ kịp thời (Huỳnh Văn Sơn, 2021). Stress, lo âu và trầm cảm là những biểu hiện suy giảm SKTT rất phổ biến ở vị thành niên trước bối cảnh xã hội hiện nay. Tại Việt Nam, các bằng chứng cho thấy chỉ tính riêng khu vực TP.HCM: lần lượt đã có đến 26.38%, 14.3%, 11.84% học sinh vị thành niên có biểu hiện lo âu, trầm cảm và căng thẳng (Bui, H. Q., Giang, T. V., Pham-Ngoc, T. N., & Vu-Thi, V. D., 2024). Tính đến năm 2023, có đến 21,7% trẻ vị thành niên Việt Nam có vấn đề SKTT (Tran, T. M. D, Bui, T. H. T, 2023). Trong đó, trầm cảm được tìm thấy là nguyên nhân phổ biến dẫn đến hành vi tự sát ở vị thành
  20. 12 niên (Sầm Vĩnh Lộc và cộng sự, 2024). Đồng thời, VTN thuộc độ tuổi từ 15 - 24 có khuynh hướng tự sát cao hơn so với các nhóm tuổi còn lại (Huỳnh và cộng sự, 2023). Theo báo cáo về tác động của COVID-19 lên SKTT của trẻ em và VTN trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2020, với khách thể là 73 trẻ em và VTN đang điều trị SKTT tại tại Viện sức khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai cho biết vấn đề lớn nhất mà trẻ thường gặp phải vì hậu quả của đại dịch mang lại là căng thẳng, xếp thứ hai là trầm cảm, và cuối cùng là lo âu. Bằng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi tự đánh giá, nghiên cứu tiến hành sàng lọc và đánh giá thực trạng SKTT lần lượt dựa trên 2 công cụ chính là DASS-21 và IES-15. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng có tương quan thuận giữa hoạt động sinh hoạt của trẻ với những sang chấn tâm lý trẻ gặp phải. Và có thể dự báo các yếu tố ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19 đến SKTT của trẻ. Cụ thể: giới tính của trẻ có thể dự báo 27,5% mức độ trẻ mắc các vấn đề SKTT; sinh hoạt khó khăn của trẻ có thể dự báo 58,1% mức độ trẻ mắc các vấn đề SKTT; mức độ sang chấn trẻ đã từng trải qua từ đại dịch có thể dự báo 61,7% mức độ ảnh hưởng tới SKTT của trẻ (Trinh, T. H, Nguyen, T. H, 2023). Theo nghiên cứu về SKTT của vị thành niên tại Việt Nam trong thời điểm hậu COVID-19, bằng phương pháp nghiên cứu cắt ngang và bảng hỏi (được xây dựng dựa trên thang đánh giá DASS-21) và kĩ thuật chọn mẫu thuận tiện trên 6575 học sinh thuộc nhóm đối tượng VTN từ 12 đến 16 tuổi ở địa bàn TP.HCM cho thấy có đến 21.13% trẻ có triệu chứng lo âu, 10% trẻ có triệu chứng trầm cảm, 11.7% có triệu chứng căng thẳng ở mức nặng và rất nặng. Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ việc VTN gặp khó khăn trong học tập, hướng nghiệp hay thay đổi tâm sinh lý vào tuổi dậy thì mà chưa được hỗ trợ kịp thời. Từ đó cho thấy sự cần thiết của việc có các giải pháp phù hợp để hỗ trợ và chăm sóc sức khỏe tinh thần cho VTN như cần thành lập Phòng Tư vấn Tâm lý học đường hoặc cần có ứng dụng chuyên dụng cho tư vấn tâm lý học đường. Có thể nhận thấy kết quả nghiên cứu đã góp phần thúc đẩy các ý tưởng xây dựng chương trình phòng ngừa và sàng lọc tại trường học phù hợp với đặc thù của từng trường và nhu cầu cần được hỗ trợ của VTN trong tương lai nhằm hỗ trợ trẻ có thể tái hòa nhập, thích nghi và phục hồi tốt trong bối cảnh hậu COVID-19 (Giang, T. V., và cộng sự, 2023). Nếu các vấn đề SKTT không được hỗ trợ kịp thời, hậu quả có thể trở nên rất nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều khía cạnh trong cuộc sống cá nhân và xã
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
70=>1