HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐOÀN CÔNG MẪN
VÊn ®Ò x©y dùng quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp
víi tr×nh ®é ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt
trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa
ë §µ N½ng hiÖn nay
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2014
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐOÀN CÔNG MẪN
VÊn ®Ò x©y dùng quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp
víi tr×nh ®é ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt
trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa
ë §µ N½ng hiÖn nay
Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử : 62 22 80 05 Mã số
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS NGUYỄN HỒNG SƠN
2. PGS, TS VŨ HỒNG SƠN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đoàn Công Mẫn
MỤC LỤC
1 6
Trang
MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Những công trình nghiên cứu về xây dựng quan hệ sản xuất ở nước ta thời kỳ
6
đổi mới
16
1.2. Những công trình nghiên cứu xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta 1.3. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến xây dựng quan hệ sản xuất trong quá
21
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đà Nẵng thời kỳ đổi mới
27
Chương 2: XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Thực chất của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
27
lượng sản xuất
36
2.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
74
Chương 3: XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Vài nét về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và ảnh hưởng của chúng tới việc
74
xây dựng quan hệ sản xuất ở Đà Nẵng hiện nay
79
106
3.2. Thực trạng xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đà Nẵng hiện nay 3.3. Một số vấn đề đặt ra nhằm xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đà Nẵng hiện nay
115
115
Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY 4.1. Định hướng xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đà Nẵng hiện nay
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đà Nẵng hiện nay
121 151
153 154
KẾT LUẬN CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
FDI : Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
GDP : Tổng sản phẩm nội địa
LLSX : Lực lượng sản xuất
QHSX : Quan hệ sản xuất
TNHH MTV : Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác, quy
luật quan hệ sản xuất (QHSX) phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất (LLSX) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, là cơ sở lý luận, thế giới
quan và phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo xã hội.
Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), việc xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là một trong những vấn đề quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, trước thời kỳ đổi mới, chúng ta đã mắc bệnh chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan khi không tính đến điều kiện của một đất nước với nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển, LLSX còn thấp, nhưng lại chủ trương xây dựng QHSX tiên tiến đi trước nhằm mở đường cho LLSX phát triển, xác lập "kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thống trị" dựa trên chế độ công hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chính sự nhận thức và vận dụng sai lầm đó đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng, năm 1986 chỉ rõ: một trong những nguyên nhân cơ bản của sự khủng hoảng kinh tế - xã hội nói chung, của sự kìm hãm LLSX phát triển nói riêng trong những năm 1976 - 1980 là do trong nhận thức và hành động, "chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất" [20, tr.23].
Trong quá trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH, HĐH) đất nước, đặc biệt là qua 10 năm thực hiện Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã từng bước nhận thức và vận
dụng quy luật này ngày càng rõ và đúng đắn hơn. Đó là chủ trương phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình
thức phân phối, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vì vậy, đã góp
2
phần quan trọng để "đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng…, đạt
bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất" [31, tr.91].
Bên cạnh đạt được những thành tựu to lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, thì việc xây dựng QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta vẫn
còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém nhất định cả về sở hữu, tổ chức quản lý và
phân phối làm cản trở sự phát triển của LLSX, dẫn đến "Kinh tế phát triển
chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm;
chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá xã hội tăng lên" [31, tr.178].
Nguyên nhân của những hạn chế đó, trước hết là có nguyên nhân
khách quan, do quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta vẫn còn mới mẻ, vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm để đổi mới
và phát triển; do tác động của khủng hoảng tài chính và sự suy thoái kinh tế
thế giới. Nhưng, như nhận định của Đảng ta, trực tiếp và quyết định nhất vẫn
là nguyên nhân chủ quan: "Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức
lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất
nước", "Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn
chế, thiếu thống nhất" [31, tr.94] và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu.
Ở Đà Nẵng, sau gần 30 năm xây dựng và phát triển, nhất là trong nhiệm
kỳ Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX (2005 - 2010), Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân thành phố đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu to
lớn về kinh tế - xã hội. Kinh tế phát triển tương đối toàn diện, đạt tốc độ tăng
trưởng khá; hiệu quả và sức cạnh tranh được nâng lên. Cơ cấu thành phần
kinh tế chuyển biến tích cực. Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) địa phương được chú trọng và đang tiếp tục phát triển. Kinh tế
tập thể có bước phát triển trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,
thương mại, vận tải. Khu vực kinh tế dân doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của thành phố.
3
Nguyên nhân đạt được những thành tựu to lớn này có nhiều mặt, trong đó có nguyên nhân quan trọng là Đảng bộ và chính quyền Đà Nẵng đã quán triệt, vận dụng sáng tạo đường lối CNH, HĐH và chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng. Trong xây dựng QHSX, lãnh đạo thành phố đã có chủ trương, chính sách đổi mới quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất và phân phối trong các thành phần kinh tế ngày càng phù hợp hơn với trình độ phát triển của LLSX. Như Đại hội Đảng bộ lần thứ XX đã chỉ ra: Đường lối đổi mới của Đảng; sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương; sự phối hợp, hỗ trợ của các bộ, ban, ngành; cùng với nhiều chủ trương, chính sách mới ban hành đúng hướng, phù hợp với thực tiễn, có tác dụng giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng, lợi thế, thúc đẩy và tạo thuận lợi để thành phố đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội [19, tr.75].
Mặc dù đạt được kết quả to lớn trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên, đến nay quá trình thực hiện CNH, HĐH ở Đà Nẵng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu: kinh tế tăng trưởng khá, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của thành phố, quy mô còn nhỏ, tích lũy còn hạn chế; sức cạnh tranh và hiệu quả trên một số ngành và lĩnh vực kinh tế còn thấp. Các thành phần kinh tế, nhất là khu vực kinh tế dân doanh, kinh tế tập thể vẫn chưa được quan tâm, tạo điều kiện phát triển đúng mức [19, tr.76]. Điều này chứng tỏ, những kết quả đạt được trong việc nhận thức và vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở Đà Nẵng còn có hạn chế nhất định. Trong các thành phần kinh tế, việc đa dạng hoá sở hữu còn chậm, đổi mới tổ chức quản lý còn bất cập, thực hiện phân phối còn hạn chế, thiếu sót. Nhiều vấn đề mới và phức tạp trong nhận thức và vận dụng quy luật này vào thực tiễn hiện nay đang đặt ra bức thiết, như yêu cầu về tính toàn diện và đồng bộ trong xây dựng QHSX, về đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức nhằm phát triển LLSX hiện đại, đồng thời xây dựng QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Xuất phát từ thực tế trên đây, việc phân tích, đánh giá thực trạng nhận thức và vận dụng xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở Đà Nẵng trong thời gian qua để làm căn cứ cho
4
việc đề xuất định hướng và nêu lên một số giải pháp cơ bản vận dụng vấn đề này là có ý nghĩa quan trọng và cần thiết. Hướng đến việc đáp ứng yêu cầu đó, nghiên cứu sinh chọn: "Vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đà Nẵng hiện nay" để làm đề tài luận án. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích thực trạng nhận thức và vận dụng xây dựng
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH,
HĐH ở Đà Nẵng thời kỳ đổi mới, luận án nêu lên định hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở Đà Nẵng hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ Nêu lên thực chất nội dung của quy luật QHSX phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX.
Phân tích, làm rõ những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình
CNH, HĐH ở nước ta thời kỳ đổi mới.
Phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH và nêu lên một số vấn đề đặt
ra từ thực trạng đó ở Đà Nẵng hiện nay.
Đề xuất định hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH ở Đà Nẵng hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu: vấn đề xây dựng QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH.
Phạm vi nghiên cứu: vấn đề xây dựng QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở Đà Nẵng hiện nay.
5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX; tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH.
4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp, so sánh; phương pháp hệ thống cấu trúc, trong đó chủ yếu là sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp.
5. Những đóng góp khoa học của luận án Góp phần làm rõ thêm vấn đề lý luận về đa dạng hoá quan hệ sở hữu, đa dạng hoá quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, yêu cầu kết hợp nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường với nguyên tắc phân phối của CNXH.
Phân tích, đánh giá thực trạng và phát hiện một số vấn đề đặt ra trong xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở Đà Nẵng hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở Đà Nẵng hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án góp phần nâng cao nhận thức lý luận về vấn đề xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH. Thực hiện các định hướng và giải pháp là quá trình nhận thức trong việc vận dụng vấn đề này theo đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH ở Đà Nẵng nhằm phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy LLSX phát triển mạnh mẽ.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ các cơ quan lãnh đạo
đảng và chính quyền ở Đà Nẵng, công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học.
7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 10 tiết.
6
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN
XUẤT Ở NƯỚC TA THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Trong quá trình đổi mới, vấn đề QHSX đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu dưới những góc độ và phạm vi khác nhau. Nếu nghiên cứu dưới
góc độ ba mặt của QHSX, có thể nêu lên một số công trình của các tác giả:
Tác giả Phạm Thị Quý trong cuốn sách "Xây dựng và hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới ở Việt Nam" [75], đã nêu lên nội dung cơ bản về quy
luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX theo quan điểm Mác
- Lênin, khái quát quá trình xây dựng QHSX XHCN ở nước ta thời kỳ 1955
- 1985. Đáng chú ý là tập trung phân tích thực trạng nhận thức và vận dụng
xây dựng và hoàn thiện từng bước QHSX thời kỳ đổi mới: quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối
sản phẩm trong kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Từ thực trạng về hạn chế
trong tác động của các QHSX đến sự phát triển LLSX và kinh tế - xã hội,
đưa ra các định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện QHSX mới trong các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.
Khi bàn về lý luận và thực tiễn xây dựng QHSX gắn với việc giải
quyết vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta trong quá trình đổi mới,
tác giả Lương Xuân Quỳ (Chủ biên) có cuốn sách "Xây dựng quan hệ sản
xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở
Việt Nam" [76]. Công trình đã làm rõ khái niệm QHSX, về tiến bộ và công
bằng xã hội, về mối quan hệ giữa xây dựng QHSX định hướng XHCN với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nêu lên nội dụng của QHSX định
hướng XHCN thể hiện trong quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ
7
phân phối. Các tác giả đã phân tích những biến đổi về quan hệ sở hữu, quan
hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối trong các thành phần kinh
tế, nêu lên những thành tựu và hạn chế trong tác động của QHSX đến sự
biến đổi của LLSX, đến sự phát triển kinh tế - xã hội và đến việc thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội trong quá trình đổi mới ở nước ta. Từ thực trạng,
đề xuất phương hướng cơ bản của việc xây dựng và hoàn thiện QHSX là:
tiếp tục giải quyết đúng đắn quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý sản
xuất và quan hệ phân phối theo định hướng XHCN. Đặc biệt là đưa ra
phương hướng hoàn thiện QHSX trong các thành phần kinh tế gắn với bảo
đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới.
Nghiên cứu của tác giả Lê Xuân Tùng trong cuốn sách về "Quan hệ
sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [93], đã
khái quát quá trình nhận thức lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN của Đảng ta trong các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới. Từ thực trạng của LLSX, tác giả phân tích và chỉ ra tính tất yếu phải
tạo lập sự phù hợp của QHSX đối với trình độ phát triển của LLSX trong
quá trình đổi mới. Khẳng định xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần cũng
có nghĩa là thực hiện đa chủ sở hữu, đa dạng hoá tổ chức quản lý và phân
phối trong nền kinh tế. Trên cơ sở khẳng định việc xây dựng QHSX mới
XHCN có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy LLSX phát triển và là cơ
sở kinh tế để đảm bảo sự thống trị của kiến trúc thượng tầng XHCN trong
chế độ xã hội mới, tác giả làm rõ vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể với tư cách là nền tảng trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta. Qua đó, nêu lên một số chủ trương và giải pháp đổi mới
kinh tế nhà nước như: sáp nhập, hợp nhất, khoán các DNNN; hình thành các
tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước; liên kết, liên doanh giữa kinh tế
nhà nước với các thành phần kinh tế khác và tiếp tục cổ phần hóa DNNN là
những giải pháp quan trọng để kinh tế nhà nước nắm giữ vai trò chủ đạo.
8
Cũng theo hướng nghiên cứu trên đây, còn có một số bài viết của các
tác giả đã được đăng trên các tạp chí khoa học, như:
Tác giả Nguyễn An Ninh có bài "Nhận thức các tầng bản chất của
quan hệ sản xuất ở nước ta thời kỳ đổi mới" [68], đã khái quát sự phát triển
nhận thức của Đảng ta về vấn đề đổi mới các mặt của QHSX: về sự đa dạng
hoá các hình thức sở hữu của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam, về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và hình thành tiêu chí đánh giá
hiệu quả của vấn đề cải tạo và xây dựng QHSX mới. Đồng thời tác giả đã
phân tích làm rõ luận điểm của Đảng ta về xây dựng "quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp" trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Tác giả Trần Thành nghiên cứu về "Quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp ở nước ta hiện nay" [83], đã nhấn mạnh đến vai trò của nhân tố chủ
quan trong việc nhận thức và vận dụng yêu cầu xây dựng QHSX trong phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo hướng tiến bộ phù hợp
mà Đảng ta đã nêu lên trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Phân
tích làm rõ việc xây dựng QHSX tiến bộ phù hợp trong quan hệ sở hữu, tổ
chức quản lý và phân phối trên cơ sở vừa tôn trọng quy luật khách quan vừa
được sự định hướng và dẫn dắt bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH.
Theo tác giả, việc xây dựng QHSX theo hướng tiến bộ phù hợp là có thể
thực hiện được trong tất cả các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.
Việc nghiên cứu QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN không chỉ được các nhà khoa học tiếp cận ở ba mặt trên đây, mà còn
có nhiều tác giả nghiên cứu từng mặt một cách sâu hơn. Nếu nghiên cứu
QHSX dưới góc độ quan hệ sở hữu, có thể nêu những công trình sau:
Luận án tiến sĩ triết học của tác giả Nguyễn Văn Ngọc về "Quan hệ
biện chứng giữa các loại hình sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam hiện nay" [66]. Trên cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của các hình
thức sở hữu và quan hệ biện chứng giữa chúng, tác giả đã khảo sát thực
trạng vận dụng các loại hình quan hệ sở hữu và mối quan hệ biện chứng giữa
9
các hình thức sở hữu, vạch ra tính tất yếu và động lực thúc đẩy LLSX phát
triển của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Qua thực trạng, nêu lên những vấn đề đặt ra: về mâu thuẫn giữa xu hướng
vận động của các hình thức sở hữu, về quan hệ đa dạng hóa các loại hình sở
hữu với việc giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đồng thời đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện có hiệu quả các loại hình sở
hữu trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay.
Luận án tiến sĩ triết học của tác giả Vũ Hồng Sơn về "Xu hướng và
đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam" [78]. Phân tích vấn đề sở hữu, các hình thức sở
hữu và quá trình đa dạng hóa sở hữu trong lịch sử, về quan hệ biện chứng
giữa các hình thức sở hữu với những yếu tố khác trong hình thái kinh tế - xã
hội. Tác giả đã chỉ ra việc đa dạng hóa sở hữu và xu hướng phát triển chung
của sự đa dạng hóa sở hữu của các nước trên thế giới và khẳng định đây
cũng là xu hướng khách quan trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Trên cơ
sở làm rõ những đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
nêu lên các giải pháp nhằm bảo đảm cho việc thực hiện đa dạng hóa sở hữu
trong các thành phần kinh tế theo định hướng XHCN ở Việt Nam. Các giải
pháp cơ bản là: Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường đa dạng hoá sở hữu, tăng cường vai trò quản lý
kinh tế của Nhà nước, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH trong quá
trình đa dạng hoá sở hữu, kết hợp xây dựng đời sống văn minh vật chất và
văn minh tinh thần, kết hợp tối ưu các hình thức sở hữu trong nền kinh tế.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, sở hữu luôn
được coi là vấn đề mấu chốt của Đảng ta, luận án tiến sĩ triết học của Lê Thị
Minh Hà về "Sự biến đổi các quan hệ sở hữu trong nông nghiệp dưới tác
động của lực lượng sản xuất thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam hiện nay" [38]. Có thể khái quát nội dung của công trình này là làm rõ
các loại hình quan hệ sở hữu, các quan hệ sở hữu trong lĩnh vực nông nghiệp
10
và những nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi của quan hệ sở hữu trong
nông nghiệp ở nước ta giai đoạn trước đổi mới và trong quá trình đổi mới.
Qua đó, tác giả nêu lên những phương hướng và giải pháp cơ bản về xây
dựng quan hệ sở hữu trong nông nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan
trước sự phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam.
Khi bàn về vị trí và vai trò của sở hữu nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, tác giả Vũ Văn Phúc có bài "Sở hữu nhà nước và
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa" [72]. Nội dung bài viết đã làm rõ những thuộc tính của sở
hữu nhà nước, về sự cần thiết và có thể giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Tác giả đã nêu lên một số giải
pháp chủ yếu nhằm củng cố, tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh
tế này trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, như tập trung nắm
giữ những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, giải quyết mối quan hệ
giữa quyền sở hữu và sử dụng tư liệu sản xuất, đổi mới, đi đầu về ứng dụng
khoa học - công nghệ, tiếp tục sắp xếp lại và thực hiện cổ phần hoá DNNN,
nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
Tác giả Nguyễn Văn Thức trong cuốn sách "Sở hữu: lý luận và vận
dụng ở Việt Nam" [87], công trình này kết cấu làm ba chương:
Chương 1: Lý luận về sở hữu. Trình bày những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về quan hệ sở hữu; nêu lên những loại hình sở hữu, hình thức sở hữu và mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
Chương 2: Các loại hình sở hữu và vai trò của chúng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tác giả đã phân tích và
khẳng định tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu và
đa dạng hóa sở hữu ở Việt Nam trong quá trình xây dựng CNXH. Nêu lên
và phân tích nhằm làm rõ vị trí, vai trò của các loại hình sở hữu, như sở
hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới.
11
Chương 3: Vấn đề cải tạo và xây dựng các loại hình sở hữu trong quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khẳng
định tính tất yếu của việc cải tạo các hình thức sở hữu, làm rõ cơ chế tác
động của các quan hệ sở hữu tới thị trường, nội dung cải tạo các hình thức
sở hữu, đổi mới chế độ sở hữu và định hướng XHCN. Đáng chú ý là tác giả
nêu lên một số nội dung chủ yếu của việc cải tạo và xây dựng các hình thức
sở hữu trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
đó là cổ phần hóa DNNN, yêu cầu đổi mới vai trò quản lý kinh tế của Nhà
nước và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống DNNN, thành
phần kinh tế tập thể và thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
Cũng theo hướng nghiên cứu này, các tác giả Chu Văn Cấp và Ngô
Đức Trung có bài "Hoàn thiện thể chế về sở hữu, nâng cao hiệu quả hoạt
động của các chủ thể kinh tế nước ta" [3], làm rõ những quan điểm của Đảng
về tính tất yếu hoàn thiện thể chế sở hữu ở nước ta trong quá trình đổi mới.
Qua đó, nêu lên một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện thể chế về sở hữu
đối với các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
như: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế
nhà nước để giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế; đổi mới và phát triển các loại
hình kinh tế tập thể, mà nòng cốt là các hợp tác xã; khuyến khích và phát
triển kinh tế tư nhân: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Một trong những công trình nghiên cứu vấn đề sở hữu có tính hệ
thống về các loại hình QHSX là của tác giả Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên):
"Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam" [91], cuốn sách được kết cấu với 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về sở hữu trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Làm rõ vấn đề lý luận của học
thuyết Mác - Lênin về sở hữu, các chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu
trong nền kinh tế thị trường, về mối quan hệ và vai trò quyết định của quan
hệ sở hữu đối với quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ phân phối và đối với các
12
hình thức tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời phân tích
và khẳng định vai trò quan trọng của Nhà nước trong quan hệ tổ chức quản
lý và quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chương 2: Thực trạng vấn đề sở hữu, các thành phần kinh tế và các
loại hình doanh nghiệp trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Các tác
giả đã khái quát sự phát triển nhận thức, khẳng định nhất quán quan điểm
của Đảng ta về vấn đề đổi mới đa dạng hóa các hình thức sở hữu và các
thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bằng các
số liệu cụ thể, các tác giả đã phân tích, làm rõ những kết quả đạt được, hạn
chế và nêu lên một số vấn đề đặt ra của việc đổi mới quan hệ sở hữu, tổ chức
quản lý sản xuất và phân phối trong các thành phần kinh tế ở nước ta.
Chương 3: Quan điểm, xu hướng và giải pháp đối với vấn đề sở hữu,
các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Khẳng định
sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu là xu hướng chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường. Quy mô sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu có vốn
đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng tăng lên và sự phát triển mạnh mẽ của loại
hình doanh nghiệp hỗn hợp. Hệ thống giải pháp nêu lên là tập trung vào việc
tiếp tục đổi mới vai trò quản lý của Nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật,
cải cách hành chính, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật…
nhằm tạo lập môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi và bình đẳng cho các
hình thức sở hữu, các loại hình tổ chức kinh doanh tiếp tục phát triển.
Đối với vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân, các tác giả Lương Minh Cừ và Vũ Văn Thư có công trình "Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay - một số nhận thức về lý luận và thực tiễn" [7]. Nội dung chủ yếu của công trình này là trình bày nguồn gốc và đặc điểm của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong lịch sử phát triển xã hội và ở nước ta thời kỳ kế hoạch hóa tập trung từ 1954 - 1985. Phân tích làm rõ nhận thức lý luận chung về bản chất, vai trò, vị trí và động lực của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân, chỉ ra tính tất yếu
13
của việc đa dạng hoá sở hữu tư nhân và nêu lên đặc điểm phát triển của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Để tiếp tục phát triển sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH, đồng thời từng bước xã hội hoá sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân theo hướng phát triển các hình thức sở hữu hỗn hợp.
Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Thị Huyền có bài "Vai trò của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay" [45]. Phân tích vai trò của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: góp phần quan trọng vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế, phát triển sản xuất hàng hoá, huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh; góp phần tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đa dạng hoá ngành nghề, nâng cao cả về số lượng và chất lượng hàng hoá, dịch vụ cũng như tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những tiềm năng và hạn chế của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân, nêu lên một số giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò của thành phần kinh tế này ở nước ta hiện nay.
Cũng tác giả Nguyễn Thị Huyền có bài về "Vai trò của sở hữu tập thể và kinh tế tập thể ở Việt Nam hiện nay" [46]. Vai trò đó được thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu, như góp phần thực hiện định hướng XHCN của nền kinh tế, giúp nông dân đạt được những kết quả trong phát triển kinh tế, nhanh chóng hoà nhập với cơ chế thị trường, tập hợp người lao động đoàn kết và gắn bó với lợi ích chung. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu lên một số hạn chế cần phải khắc phục, như quy mô sở hữu còn nhỏ, cơ sở vật chất còn yếu kém, năng lực tổ chức quản lý của đội ngũ cán bộ hợp tác xã chưa đáp ứng yêu cầu, việc áp dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật còn hạn chế.
Tác giả Nguyễn Cúc với "Quan hệ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay" [8], đã phân tích lý luận và thực tiễn
về vai trò của sở hữu; sự biến đổi và quan hệ giữa các hình thức sở hữu, vấn
14
đề định hướng XHCN về xây dựng, hoàn thiện quan hệ sở hữu và các thành
phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khẳng định sở
hữu nhà nước và sở hữu tư nhân là hai bộ phận cơ bản trong cơ cấu sở hữu ở
nước ta. Đặc biệt là khi bàn về vấn đề sở hữu nhà nước, theo tác giả: "Trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước chứ không phải sở hữu
nhà nước hoặc doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo" [8, tr.32].
Ngoài các công trình nghiên cứu theo các hướng trên, còn có một số công trình của các tác giả đã đi sâu nghiên cứu QHSX dưới góc độ quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, như:
Tác giả Nguyễn Công Nghiệp (Chủ biên) trong cuốn sách "Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [65]. Làm rõ lý luận về phân phối và thực hiện quan hệ phân phối nhằm bảo đảm phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nêu lên một số kinh nghiệm phân phối nhằm khuyến khích phát triển kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội ở một số nước. Nổi bật là phân tích làm rõ thực trạng nhận thức và vận dụng thực hiện quan hệ phân phối ở nước ta trước và trong quá trình đổi mới. Qua đó, đề xuất một số quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế nhằm bảo đảm phân phối và thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tác giả Vũ Thanh Sơn với "Tiếp tục hoàn thiện quan hệ phân phối
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng" [79], chỉ ra tính đa dạng của chủ thể phân
phối, khách thể phân phối và phương thức phân phối trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Trên cơ sở phân tích những quan điểm của Đảng
tại Đại hội lần thứ XI về quan hệ phân phối, nêu lên những giải pháp cần
quán triệt trong thực tiễn, như: xây dựng môi trường phân phối phù hợp, tận
dụng những ưu thế cơ chế thị trường - khuyến khích làm giàu hợp pháp,
hoàn thiện cơ chế phi thị trường nhằm bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội,
tạo lập sự bình đẳng về cơ hội cho mỗi cá nhân trong xã hội, nâng cao hiệu
15
lực, hiệu quả của các công cụ, chính sách trong điều tiết quan hệ phân phối
và phân phối lại, xử lý cương quyết các hành vi phân phối bất hợp pháp.
Bài viết của Nguyễn Đức Luận về "Vấn đề phân phối sản phẩm trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay" [53], đã làm rõ
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ phân phối và vai trò
của nó trong sản xuất vật chất, khái quát những quan điểm của Đảng ta về
phân phối trong quá trình đổi mới và nêu lên một số hạn chế trong việc thực
hiện phân phối hiện nay. Qua đó, nêu lên các giải pháp chủ yếu nhằm bảo
đảm thực hiện quan hệ phân phối đối với người lao động, như khắc phục
tính bình quân trong phân phối tiền lương, xử lý nghiêm những doanh
nghiệp vi phạm về tiền công đối với người lao động, bảo đảm tính hợp lý,
hiệu quả của việc thực hiện quan hệ phân phối thông qua hệ thống an sinh xã
hội, theo phúc lợi xã hội và phải kiểm soát được thu nhập của mọi công dân.
Như vậy, vấn đề xây dựng QHSX trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu dưới những góc
độ, phạm vi khác nhau. Về mặt lý luận, đã có rất nhiều nghiên cứu bàn về
khái niệm QHSX, phân tích làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng về đa
dạng hoá quan hệ sở hữu, về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, về quan hệ
phân phối và mối quan hệ giữa chúng trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Về mặt thực tiễn, có những công trình, bài viết khoa học
phân tích thực trạng xây dựng QHSX, nêu lên những kết quả đạt được và
hạn chế của vấn đề này, từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp
nhằm xây dựng QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
thực hiện CNH, HĐH. Bên cạnh đó, đã có một số nghiên cứu tập trung làm
rõ thực trạng nhận thức và vận dụng vấn đề sở hữu, đa dạng hoá sở hữu và
mối quan hệ giữa các loại hình sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần
hiện nay. Tuy nhiên, có thể thấy, các nghiên cứu thực trạng xây dựng
QHSX ở các địa phương thì vẫn chưa được đề cập cụ thể và còn rất ít công
trình. Trong luận án của tác giả đã kế thừa một số nội dung về đổi mới
16
quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất và phân phối trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN của các công trình nghiên cứu trên đây.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA
Vấn đề xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ của luận án, tác giả đề cập đến một số công trình nghiên cứu của các tác giả sau đây:
Luận án phó tiến sĩ khoa học triết học của Trương Hữu Hoàn về "Quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và vấn đề nhận thức, vận dụng quy luật này ở một số nước xã hội chủ nghĩa" [42], đã trình bày có hệ thống về khái niệm LLSX, QHSX và thực chất nội dung của quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX theo quan điểm Mác - xít. Qua việc phân tích thực trạng của sự nhận thức và vận dụng quy luật này trong quá trình xây dựng CNXH ở các nước XHCN và ở Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1995, đã nêu lên những vấn đề đặt ra đối với việc nhận thức và vận dụng quy luật trong thời kỳ đổi mới ở nước ta. Trong đó, đáng chú ý là tác giả phân tích làm rõ vấn đề không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và một số vấn đề định hướng XHCN ở nước ta.
Luận án phó tiến sĩ khoa học triết học của Nguyễn Trọng Tuấn về "Nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp nước ta thời kỳ đổi mới" [90]. Trên cơ sở trình bày quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX, tác giả vận dụng vào nghiên cứu thực trạng nhận thức và vận dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, chỉ ra những biểu hiện đặc thù và nêu lên những yêu cầu khách quan đặt ra trong việc vận dụng quy luật này ở lĩnh vực nông nghiệp nước ta thời kỳ đổi mới. Từ thực trạng hạn chế và một số yêu cầu đặt ra đó, đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục vận dụng có hiệu quả quy luật này trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta thời kỳ đổi mới.
17
Luận án phó tiến sĩ triết học của Bùi Chí Kiên nghiên cứu "Quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất trong phát triển nền kinh tế hàng hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Lâm Đồng" [48], đã khái quát quy luật QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Qua sự vận
dụng quy luật này vào nghiên cứu trong các thành phần kinh tế thời kỳ trước
và sau đổi mới của tỉnh Lâm Đồng, nêu lên những kết quả đạt được về kinh
tế - xã hội, phát hiện ra những mâu thuẫn nảy sinh giữa LLSX và QHSX
trong quá trình CNH, HĐH trên địa bàn. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất hai
giải pháp cơ bản là về bảo đảm sự phù hợp của QHSX với LLSX trong quá
trình CNH, HĐH ở Lâm Đồng và nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan
trong định hướng XHCN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Lâm Đồng.
Luận án tiến sĩ triết học của Nông Thị Mồng về "Xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp vớí sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn" [64].
Nêu lên quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX, những nhân tố cơ bản bảo
đảm xây dựng QHSX theo định hướng XHCN. Phân tích thực trạng nhận thức
và vận dụng xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong
các thành phần kinh tế và các ngành kinh tế ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ CNH,
HĐH cũng như phát hiện những vấn đề đặt ra từ thực trạng ấy. Từ đó, đề xuất
một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng QHSX theo định hướng
XHCN trong thời kỳ CNH, HĐH ở Lạng Sơn. Đáng chú ý là trong giải pháp
đa dạng hoá các hình thức sở hữu phù hợp với trình độ phát triển của LLSX,
làm rõ yêu cầu và mục tiêu về đổi mới kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Cũng theo hướng tiếp cận này, còn có những nghiên cứu khoa học
của các tác giả tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí khoa học, như:
Tác giả Nguyễn Văn Đặng với bài "Nhận thức và giải quyết mối
quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất phù hợp" [32]. Trên cơ sở khái quát sự phát triển
18
nhận thức của Đảng ta về chế độ sở hữu, cơ chế quản lý kinh tế và chế độ
phân phối phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, nêu lên những thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân của sự biến đổi QHSX trong các thành phần
kinh tế theo định hướng XHCN ở nước ta. Để tiếp tục giải quyết mối quan
hệ giữa phát triển LLSX và xây dựng, từng bước hoàn thiện QHSX, phải chú
ý đổi mới cả về nhận thức và chỉ đạo thực hiện xây dựng QHSX phù hợp với
từng lĩnh vực, địa bàn; phát huy vai trò của các loại hình sở hữu, các loại
hình doanh nghiệp và chế độ phân phối phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX. Trong xây dựng và hoàn thiện QHSX, cần phải chú trọng hơn nữa
việc đề ra các giải pháp phát triển DNNN để góp phần phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tác giả Nguyễn Hùng Hậu có bài "Phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ ở
nước ta" [41]. Nội dung chủ yếu của bài viết là làm rõ những quan điểm của
Đảng ta về quan hệ giữa phát triển LLSX hiện đại với xây dựng và hoàn
thiện QHSX trong thời kỳ quá độ. Phân tích thực trạng phát triển của trình
độ LLSX ở nước ta hiện nay: về công cụ lao động, kỹ năng và kinh nghiệm
của người lao động, về khoa học, kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Khẳng
định yêu cầu khách quan của việc xây dựng QHSX phù hợp hiện nay thông
qua phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, nhiều hình thức phân phối. Đồng thời nêu lên những giải pháp cơ bản cần
tiến hành đồng bộ trong việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN nhằm thúc đẩy LLSX phát triển theo hướng hiện đại.
Tác giả Vũ Hồng Sơn với bài "Về lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất mà chúng ta đang xây dựng" [80], đã khái quát quan hệ biện chứng giữa
LLSX và QHSX theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; phân tích, chỉ ra
những đặc trưng cơ bản về phát triển LLSX hiện đại và xây dựng QHSX tiến
bộ phù hợp trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011): về tính toàn diện của quan hệ sản
19
xuất, về tính chất tiến bộ của quan hệ sản xuất XHCN và về phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất XHCN.
Nhằm khái quát sự nhận thức lý luận của Đảng ta về quy luật QHSX
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong Văn kiện Đại hội lần thứ XI,
tác giả Phạm Văn Giang có bài "Xây dựng và từng bước hoàn thiện quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất dưới ánh
sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng" [37]. Bài viết đã luận giải những
quan điểm của Đại hội lần thứ XI về đổi mới quan hệ sở hữu, quan hệ tổ
chức quản lý và quan hệ phân phối phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trên cơ sở những
luận giải đó, có thể thấy tính quy luật của sự đa dạng hoá các loại hình
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở nước ta hiện nay.
Về mối quan hệ giữa LLSX và QHSX, còn có tác giả Đặng Quang
Định với bài "Phát triển lực lượng sản xuất trong mối tương quan với quan
hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay" [34], đã chỉ ra thực trạng của LLSX ở
nước ta hiện nay: trình độ của người lao động, khoa học và công nghệ sản
xuất, kết cấu hạ tầng. Trên cơ sở đó, nêu lên những yêu cầu của việc xây
dựng và từng bước hoàn thiện QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển
của LLSX, như về giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu theo hướng đa dạng
hoá, đổi mới quan hệ phân phối sản phẩm để bảo đảm tạo ra động lực cho
người lao động và đổi mới quan hệ tổ chức quản lý, phân công lao động xã
hội nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển nhanh, mạnh của LLSX.
Khi bàn đến một trong những đặc trưng quan trọng về LLSX và
QHSX của thời kỳ quá độ ở nước ta, tác giả Trần Văn Phòng có bài về
"Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong đặc trưng kinh tế của chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng" [70]. Phân tích quan điểm của
Đảng ta về đặc trưng kinh tế của CNXH với nền kinh tế phát triển cao
dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ phù hợp; chỉ ra những tiêu
chuẩn của LLSX hiện đại cũng như việc xây dựng và từng bước hoàn
20
thiện QHSX theo yêu cầu phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và
tính chất tiến bộ của QHSX xã hội XHCN. Để từng bước phát triển
LLSX hiện đại và xây dựng QHSX tiến bộ phù hợp, nêu lên một số giải
pháp cơ bản, như nâng cao chất lượng đào tạo người lao động, phát triển
khoa học, công nghệ và tạo bước đột phá về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội. Đồng thời với phát triển LLSX, phải gắn liền với việc đa dạng hoá
các hình thức sở hữu, đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước; đa
dạng hoá các hình thức phân phối, đổi mới hệ thống chính sách và cơ
chế quản lý kinh tế ở nước ta.
Có thể thấy, vấn đề xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển
của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta đã được các nhà khoa học
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Có nhiều công trình khoa học làm
rõ khái niệm LLSX, QHSX, quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phân tích những quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta. Một số công trình đã vận dụng
quy luật này vào nghiên cứu ở một số địa phương và ở các ngành kinh tế;
trong đó, đáng chú ý là làm rõ vai trò của nhân tố chủ quan trong việc nhận
thức và vận dụng quy luật, chỉ ra sự biến đổi của các loại hình QHSX từ
thực trạng ấy. Từ đó, các tác giả đã đề xuất phương hướng và nêu lên các
giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng quy luật này trong quá trình CNH, HĐH ở
địa phương và trong các ngành kinh tế. Tuy nhiên, có thể thấy, việc vận
dụng quy luật này vào nghiên cứu thực tế ở các địa phương và ở các ngành
kinh tế thì vẫn còn rất ít công trình. Trong luận án, chúng tôi chủ yếu kế
thừa một số nội dung như: về phát triển LLSX hiện đại và xây dựng, hoàn
thiện từng bước QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặc
biệt là quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta.
21
1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN XÂY
DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở ĐÀ NẴNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Ở Đà Nẵng, qua tìm hiểu của tác giả, đã có một số công trình, bài
viết khoa học có liên quan đến vấn đề này của các nhà nghiên cứu sau:
Tác giả Lê Công Phùng với "Đà Nẵng 5 năm thành phố trực thuộc Trung ương 1997 - 2001" [73], đã đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2001. Đáng chú ý là tác giả đã phân tích môi trường sản xuất kinh doanh, nêu lên tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm GDP của Đà Nẵng từ 1997 - 2001, vai trò của kinh tế nhà nước, cơ cấu GDP giữa các thành phần kinh tế. Đưa ra các chỉ số về thực hiện chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các ngành công nghiệp, ngành nông, lâm, thuỷ sản và ngành dịch vụ: thương mại, du lịch, vận tải, bưu điện, thông tin liên lạc, tài chính, tín dụng, tư vấn, khoa học và công nghệ...
Tác giả Phạm Hảo với công trình "Nâng cao năng lực lãnh đạo phát
triển kinh tế của Đảng bộ Đà Nẵng hiện nay" [40], đã đề cập đến vấn đề
quán triệt, vận dụng, đề ra chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của
Đảng bộ Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2007. Nêu lên thực trạng những thành
tựu đạt được và hạn chế, tồn tại về phát triển kinh tế của Đà Nẵng cũng như
những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo phát triển kinh
tế của Đảng bộ và việc tổ chức quản lý kinh tế của chính quyền các cấp ở
thành phố giai đoạn này. Qua đó, tác giả đề xuất giải pháp về đổi mới và
hoàn thiện chủ trương lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng bộ và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức quản lý kinh tế của chính quyền các cấp
đối với các thành phần kinh tế ở Đà Nẵng từ năm 1998 đến năm 2020.
Khi bàn về môi trường kinh doanh và cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp ở Đà Nẵng, hai tác giả là Võ Thị Thuý Anh và Nguyễn Quốc Khánh có "Báo cáo đánh giá tình hình phát triển kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng" [1], đã đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
22
Đà Nẵng, thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ về lãi suất vay, ưu đãi về thuế của Chính phủ và môi trường kinh doanh ở Đà Nẵng. Những giải pháp mà các tác giả nêu lên là: thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, liên kết kinh doanh, nâng cao khả năng quản lý và tiếp cận công nghệ thông tin, chú trọng đến thị trường trong nước và tìm kiếm thị trường xuất khẩu thay thế… Đồng thời đề xuất với lãnh đạo Đà Nẵng về đổi mới môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp khắc phục những khó khăn và có điều kiện nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh.
Dưới góc độ quản lý vĩ mô, tác giả Trương Minh Dục có bài "Phát
triển kinh tế Đà Nẵng nhìn từ góc độ lãnh đạo, quản lý" [14], nêu lên thực
trạng về vai trò của Đảng bộ Đà Nẵng trong việc đề ra chủ trương phát triển
kinh tế và việc tổ chức quản lý của các cấp chính quyền. Tác giả chỉ ra
những kết quả đạt được của việc đổi mới các thành phần kinh tế, một số hạn
chế và vấn đề đặt ra của nền kinh tế Đà Nẵng. Qua đó, tác giả đề xuất một số
giải pháp phát triển kinh tế, như nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các
cấp ủy đảng, tăng cường hiệu quả quản lý của chính quyền, đẩy mạnh
nghiên cứu lý luận kinh tế thị trường ở Đà Nẵng, coi trọng công tác tư vấn,
phản biện các chính sách kinh tế và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế.
Để tạo điều kiện cho thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
phát triển mạnh mẽ, tác giả Nguyễn Thị Kim Đoan có bài "Quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng - thực
trạng và giải pháp" [35], đã chỉ ra những kết quả đạt được và một số vấn đề
đặt ra trong quản lý nhà nước của chính quyền Đà Nẵng đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đó, tác giả nêu lên các giải
pháp chủ yếu, như nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đẩy mạnh xúc
tiến đầu tư, tăng cường hoạt động giám sát và trợ giúp các doanh nghiệp,
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng,
dịch vụ và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng nhằm tạo thuận lợi cho
thành phần kinh tế này tiếp tục đầu tư thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả.
23
Tác giả Võ Thị Thuý Anh và Đặng Hữu Mẫn với "Báo cáo Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng" [2], đã đánh giá tình hình kinh tế, thực trạng năng lực cạnh tranh về nguồn vốn, trình độ lao động và công nghệ sản xuất, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội của các doanh nghiệp ở Đà Nẵng hiện nay. Trong các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, các tác giả nêu lên việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, xây dựng chính sách huy động vốn; thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư, tăng cường hỗ trợ về nguồn vốn, đào tạo nghề và tuyển dụng lao động, củng cố và đổi mới môi trường kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Bình Đức về "Chất lượng nhân lực trong các khu công nghiệp ở thành phố Đà Nẵng" [36], đã khảo sát chất lượng nhân lực, thực chất là khảo sát trình độ phát triển của LLSX trong các khu công nghiệp thuộc kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng. Trong nhóm giải pháp mà tác giả đã đề xuất, có nêu lên yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng sản xuất kinh doanh, xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách về tiền lương, thu nhập, thực hiện hỗ trợ và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho công nhân lao động trong khu vực kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng hiện nay.
Nhằm tạo điều kiện và nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tác giả Văn Hữu Thiết có bài "Kiến nghị một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh tại thành phố Đà Nẵng" [85]. Bài viết giúp chúng ta hiểu rõ hơn thực trạng về môi trường sản xuất kinh doanh trên địa bàn Đà Nẵng, đặc biệt là những mặt tích cực và hạn chế trong việc thực hiện chính sách của chính quyền, như về tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất, khoa học và công nghệ, hỗ trợ các nguồn vốn… cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đà Nẵng.
Cũng nội dung như trên, còn có tác giả Iwama Shinichi với "Môi
trường đầu tư của thành phố Đà Nẵng từ góc nhìn của doanh nghiệp đang
24
hoạt động tại Đà Nẵng và phương hướng cải thiện" [77], đã nêu lên một số
phương án cải thiện môi trường đầu tư, như chính quyền xây dựng các nhà
xưởng cho thuê các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tư vấn đầu tư, nâng cấp hạ
tầng bến bãi, kho tàng và dịch vụ, xây dựng các khu nhà ở cho thuê để ổn
định lao động. Tăng cường tuyển dụng và nâng cao chất lượng lao động, đảm
bảo mặt bằng sản xuất, điện, nước… cho các cơ sở kinh doanh có hiệu quả.
Tác giả Lê Đức Tráng với "Nghiên cứu ứng dụng một số phương
pháp thống kê đánh giá, phân tích thế và lực thành phố Đà Nẵng năm 2012"
[88]. Nêu lên thực trạng phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng trong
giai đoạn 1997 - 2012, khảo sát, đánh giá sự phát triển của các ngành kinh tế
nông - công nghiệp và dịch vụ, về số lượng và chất lượng của các loại hình
doanh nghiệp trong những năm gần đây. Để tiếp tục phát triển kinh tế Đà
Nẵng đến năm 2020, tác giả đề xuất các giải pháp chủ yếu, như xây dựng cơ
chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, tạo lập môi trường thuận lợi cho các ngành kinh tế chủ lực đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
gắn với trình độ quản lý và đầu tư khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất.
Tác giả Lê Thị Thúc có bài viết "Một số vấn đề về hậu cổ phần hoá
các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phố Đà Nẵng" [87], đánh giá
thực trạng cổ phần hoá DNNN, như về số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá,
giải quyết lao động dôi ra, xử lý nợ tồn đọng, tình hình bàn giao quyền đại
diện chủ sở hữu và những rào cản hậu cổ phần hoá. Tác giả cũng đã nêu lên
một số vấn đề đặt ra hậu cổ phần hoá: quan hệ cổ đông và doanh nghiệp, tổ
chức bộ máy quản lý và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đáng chú ý
là chỉ ra những khó khăn về quản lý nguồn vốn, tài sản của Nhà nước, về
giải quyết lao động và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.v.v.
Các công trình, bài viết của các tác giả trên đây đã giải quyết được
một số vấn đề có liên quan đến luận án, như nêu lên thực trạng của trình độ
LLSX và các giải pháp phát triển LLSX trong các thành phần kinh tế. Phân
25
tích, làm rõ được một số khía cạnh của việc xây dựng QHSX: về quan hệ tổ
chức quản lý và phân phối. Tuy nhiên, trong xây dựng QHSX, các nghiên
cứu mới chủ yếu tiếp cận quan hệ tổ chức quản lý và phân phối dưới góc độ
vĩ mô, chưa khai thác hết những vấn đề mà tác giả nghiên cứu trong luận án,
như quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối
trong từng loại hình QHSX. Đặc biệt là chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu thực trạng xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX trong quá trình CNH, HĐH trên địa bàn Đà Nẵng thời kỳ đổi mới.
Kết luận
Nhìn chung, vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế, về mối quan hệ giữa các chủ thể sở hữu trong các thành phần kinh tế, về quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, về những ràng buộc chính trị - xã hội đối với việc đổi mới quan hệ sở hữu, thậm chí có nhiều ý kiến không thừa nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và cả sự lo ngại chệch hướng XHCN khi phát triển kinh tế tư bản tư nhân… Việc chưa có sự thống nhất những vấn đề này dẫn đến thiếu nhất quán trong việc chỉ đạo giải quyết vấn đề sở hữu khi xây dựng và hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, về phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế… Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu khoa học đều thống nhất về sự đúng đắn của chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN của Đảng ta, về đa dạng hóa quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm, về sự kết hợp giữa các quy luật của thị trường với vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm bảo đảm cho nền kinh tế vận động theo đúng quỹ đạo CNXH.
Các nghiên cứu đã phân tích, làm sáng tỏ nội dung quy luật QHSX
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, những quan điểm của Đảng ta về xây dựng, hoàn thiện QHSX
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vận dụng vào thực tiễn để
26
nghiên cứu ở những phạm vi, lĩnh vực, địa bàn khác nhau của đời sống kinh
tế - xã hội. Với nhiều cách tiếp cận và hướng nghiên cứu khác nhau, các
công trình đã nêu lên nhiều vấn đề mới, rất bổ ích về mặt khoa học. Luận án
của tác giả đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu đó.
Tuy nhiên có thể thấy, việc nghiên cứu, vận dụng trong thực tiễn địa phương
về xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn rất ít công trình.
Từ nghiên cứu thực tế ở Đà Nẵng, tác giả nhận thấy, cho đến nay
chưa có công trình và bài viết khoa học nào nghiên cứu vấn đề này một cách
chuyên biệt, có tính hệ thống và khai thác dưới góc độ triết học. Chính vì
vậy, luận án tiếp tục tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản sau:
(i) Góp phần phân tích, làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong
quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
(ii) Phân tích thực trạng xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở Đà Nẵng hiện nay.
(iii) Nêu lên một số vấn đề đặt ra nhằm xây dựng QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở Đà Nẵng hiện nay.
(iv) Đề xuất định hướng và nêu lên một số giải pháp cơ bản nhằm
bảo đảm xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở Đà Nẵng hiện nay.
27
Chương 2 XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. THỰC CHẤT CỦA QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX được C.Mác
nêu lên trong tác phẩm "Góp phần phê phán khoa học kinh tế - chính trị". Trong
tác phẩm, C.Mác viết: Trong quá trình sản xuất, con người bao giờ cũng gắn
mình trong mối quan hệ "song trùng"; một mặt, con người quan hệ với tự nhiên,
thể hiện năng lực thực tiễn của mình trong chinh phục giới tự nhiên biểu hiện
thành LLSX; mặt khác, "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con
người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ -
tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát
triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ" [56, tr.14-15].
Để có thể tác động và biến đổi được giới tự nhiên, theo C.Mác, trước hết
con người cần phải có những yếu tố tạo nên khả năng lao động thuộc về thể chất
và trí tuệ: "Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích
cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc
về thân thể của họ: tay và chân, đầu và hai bàn tay" [57, tr.266].
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó, thì quá trình sản xuất vật chất vẫn chưa
thể diễn ra được. Bởi vì, ngoài bản thân sự lao động thì những yếu tố của lao
động còn bao hàm đối tượng lao động và tư liệu lao động, đó chính là tư liệu sản
xuất - khí quan mới mà nhờ có trí tuệ, con người đã cải biến, sáng tạo ra bằng
các vật liệu của tự nhiên và sử dụng trong quá trình sản xuất: "một vật do bản
thân thiên nhiên cung cấp đã trở thành một khí quan của sự hoạt động của con
người, khí quan mà con người đem chắp thêm vào những khí quan của cơ thể
mình và do đó mà kéo dài cái tầm thước tự nhiên của cơ thể đó" [57, tr.268].
28
Như vậy, lực lượng sản xuất là kết quả của nghị lực thực tiễn của con
người, là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất vật
chất, thể hiện ở sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, là tất cả
những lực lượng vật chất và những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm của
người lao động được sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội.
LLSX là thể thống nhất biện chứng giữa người lao động và tư liệu sản
xuất; trong đó, con người là nhân tố giữ vai trò quyết định. Con người tham gia
vào quá trình sản xuất với tư cách là chủ thể sử dụng các yếu tố của tư liệu sản
xuất. Chỉ có thể đánh giá vai trò và hiệu quả của tư liệu sản xuất, như thiết bị
máy móc, công nghệ, nguyên - nhiên liệu, vốn, tài nguyên thiên nhiên trong mối
quan hệ với con người. Các yếu tố này là kết quả của con người sáng tạo ra, cải
tiến, đổi mới và phát huy tác dụng khi con người kết hợp chúng lại, sử dụng
trong sản xuất. Do giữ vị trí như vậy, Lênin đã khẳng định: "lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" [50, tr.430].
Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai yếu tố cơ bản là tư liệu lao động
và đối tượng lao động. C.Mác viết: "cả tư liệu lao động lẫn đối tượng lao động
đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất" [57, tr.271]. Tư liệu lao động được chia làm
hai loại là công cụ lao động và những điều kiện vật chất cần thiết của quá trình
sản xuất; trong đó, công cụ lao động là yếu tố cốt lõi, đặc trưng cho một thời đại
sản xuất xã hội, là sự biểu hiện trình độ phát triển của LLSX: "Những thời đại
kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng
sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào" [57, tr.269]. Có thể
khẳng định, trong mọi thời đại, công cụ lao động luôn là yếu tố động nhất của
LLSX, biểu hiện tập trung sự sáng tạo của con người. Sự đổi mới và hoàn thiện
không ngừng công cụ lao động thể hiện thước đo sự phát triển của trình độ
LLSX, giữ vai trò quyết định tiến trình vận động và phát triển của xã hội. Chính
C.Mác đã viết: "Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối
xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp" [54, tr.187].
29
LLSX có sự kế thừa và phát triển trong quá trình sản xuất vật chất của
xã hội, là kết quả hoạt động thực tiễn của quá khứ và được tích lũy từ các thế hệ
sản xuất khác nhau trong lịch sử: "mọi lực lượng sản xuất đều là lực lượng được
tạo ra, đều là sản phẩm của hoạt động trước đó… mỗi thế hệ sau có được những
lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra, và những lực lượng sản xuất ấy là
nguyên liệu cho thế hệ sau ấy để thực hiện một hoạt động sản xuất mới" [59,
tr.657-658]. Vì vậy, con người không được tự do lựa chọn những LLSX cho
riêng mình, mà phải kế thừa những LLSX do các thế hệ trước tạo ra và sử dụng
chúng để phát triển liên tục trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội.
Hiện nay, với cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại
đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt của trình độ LLSX, thâm nhập sâu vào quá
trình sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đúng như dự báo của
C.Mác: Việc biến khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một quy luật
tất yếu khách quan của sự phát triển xã hội, rằng:
Thiên nhiên không chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt,
điện báo, máy sợi con dọc di động v.v. Tất cả những cái đó đều là sản
phẩm lao động của con người, là vật liệu tự nhiên đã được chuyển hoá
thành những cơ quan của ý chí con người chế ngự giới tự nhiên… Tất
cả những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc con người, do bàn tay
con người tạo ra, đều là sức mạnh đã vật hoá của tri thức. Sự phát triển
của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến (Wissen,
knowledge) đã chuyển hoá đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất
trực tiếp [60, tr.372].
Sở dĩ khoa học trở thành LLSX trực tiếp, vì tri thức khoa học thâm nhập
vào tất cả các yếu tố của LLSX, được vật chất hóa thành công cụ sản xuất, như
máy móc, các thiết bị kỹ thuật và công nghệ, là yếu tố cơ bản để người lao động
sử dụng tổ chức quản lý sản xuất có hiệu quả. Những phát minh khoa học hiện
đại là cơ sở ra đời các ngành sản xuất mới, như nguyên liệu mới, vật liệu mới,
năng lượng mới, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ môi
30
trường… Thực tiễn hiện nay cho thấy, chính khoa học và công nghệ trở thành
LLSX trực tiếp đã đưa nhân loại bước vào giai đoạn phát triển kinh tế tri thức.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức đã chuyển nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ, từ phương thức sản xuất chủ yếu là lao động cơ bắp với nguồn tài nguyên thiên nhiên sang chủ yếu là dựa vào tri thức, đã tạo nên sự phát triển cao của trình độ LLSX và con người đóng vai trò là trung tâm của sự phát triển. Con người có được tư cách và vai trò đó là do tri thức của người sản xuất quyết định. Tri thức luôn thúc đẩy sự phát triển của LLSX và nâng cao năng lực sản xuất của con người. So với các yếu tố khác của sản xuất, tri thức khi tham gia vào sản xuất, nó không những bị hao mòn, cạn kiệt, mà còn luôn luôn được nâng cao, tăng lên và được sử dụng có hiệu quả nhất. Năng lực trí tuệ của con người được biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng tạo ra những phương pháp tổ chức quản lý sản xuất, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và làm chủ được những kỹ thuật, công nghệ hiện đại; ở khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động, kỹ năng quản lý, nghiên cứu, sáng tạo qua trình độ tay nghề của con người để tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể hiểu, trình độ của LLSX thể hiện ở trình độ của công cụ lao động, của khoa học, kỹ thuật và công nghệ sản xuất, ở kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức của người lao động, trình độ tổ chức quản lý sản xuất và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ trong quá trình sản xuất.
Để thực hiện được quá trình sản xuất vật chất, theo C.Mác, con người không chỉ quan hệ với giới tự nhiên mà còn phải quan hệ với nhau trong sản xuất, đó chính là QHSX: "Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất" [55, tr.552].
Như vậy, QHSX là mặt xã hội của sản xuất, thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. QHSX được cấu thành từ quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, về tổ chức quản lý sản xuất và về phân phối sản phẩm lao động.
31
Quan hệ sở hữu là nội dung then chốt, quy định bản chất của QHSX, là
cơ sở trong việc chiếm hữu của cải vật chất, vì vậy nó là cơ sở, nguồn gốc của
mọi mối quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào sở hữu tư liệu sản
xuất chủ yếu, sẽ nắm quyền chi phối tổng sản phẩm xã hội và là cơ sở thống trị
về mặt chính trị - xã hội. Theo lý luận của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội,
mỗi chế độ xã hội trong lịch sử được đặc trưng bởi một chế độ sở hữu. Trong
một nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu thì tất yếu có một loại hình đóng vai
trò chi phối, quy định bản chất của chế độ sở hữu. Nếu như chủ nghĩa tư bản dựa
trên nền tảng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì chủ nghĩa cộng sản mà giai
đoạn đầu là CNXH sẽ dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Quan hệ sở hữu phản ánh sự thống nhất giữa hai mặt: quan hệ sở hữu với
tư cách là quan hệ pháp lý và quan hệ sở hữu với tư cách là quan hệ kinh tế hiện
thực. Quan hệ sở hữu phải được thể chế hoá về mặt pháp lý, nó liên quan đến
những vấn đề thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, có tính ổn định tương đối so
với nội dung kinh tế trong hiện thực của nó. Sở hữu phải được pháp luật thừa
nhận và bảo hộ. Nhưng, về nguyên tắc, không phải quan hệ pháp lý về sở hữu
quyết định quan hệ sở hữu trong hiện thực, trái lại, quan hệ sở hữu trong hiện
thực phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đòi hỏi quan hệ pháp lý của sở hữu
phải thay đổi theo cho phù hợp với nó. Sở hữu với tư cách là quan hệ kinh tế thì
luôn vận động, biến đổi, phát triển và thể hiện trong các mối quan hệ giữa các
tập đoàn người trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế về việc chiếm giữ tư liệu
sản xuất, trong quan hệ về tổ chức quản lý và trong quan hệ về phân phối.
Hiện nay, với việc phát triển nền kinh tế thị trường trong điều kiện khoa học và công nghệ trở thành LLSX trực tiếp dẫn đến sự ra đời kinh tế tri thức, thì đối tượng sở hữu mang tính đa dạng, phong phú. Đối tượng sở hữu không chỉ là tư liệu sản xuất như đất đai, tài nguyên, vốn mà còn gồm cả những tài sản vô hình, như sáng chế, bản quyền, thiết kế, thương hiệu…, từ sở hữu hiện vật sang sở hữu giá trị và sở hữu trí tuệ gắn với kinh tế tri thức. Chủ thể sở hữu cũng đa dạng, phong phú gồm nhà nước, tư nhân, hỗn hợp
32
trong và ngoài nước; chính vì vậy, đòi hỏi chủ thể quản lý phải có cơ chế, chính sách sử dụng, điều tiết, quản lý có hiệu quả để tạo động lực phát triển. Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất là mối quan hệ giữa các chủ thể tổ
chức quản lý sản xuất và các đối tượng sản xuất trong quá trình sản xuất, nó quy
định tính hiệu quả của việc sử dụng tư liệu sản xuất và người lao động trong quá
trình sản xuất. Trước đây, khi đề cập đến quan hệ tổ chức quản lý sản xuất,
chúng ta chỉ chú trọng trong khuôn khổ và phạm vi từng doanh nghiệp, từng đơn
vị sản xuất. Đó là quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng
quản lý. Trên thực tế, đó là quá trình đề ra mục tiêu, kế hoạch sản xuất kinh
doanh; ở việc kết hợp sử dụng các yếu tố của LLSX: lao động, vốn, công cụ lao
động, kỹ thuật, công nghệ… trong quá trình tổ chức sản xuất, điều này đúng
nhưng chưa đủ. Hiện nay, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất còn phải được xem
xét trong toàn bộ nền sản xuất xã hội. Đó chính là phương thức tác động của Nhà
nước bằng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách quản lý kinh tế; ở việc hình
thành cơ cấu kinh tế, phân bổ các nguồn lực của xã hội nhằm định hướng và chi
phối hoạt động của các thành phần kinh tế theo những mục đích nhất định.
Quan hệ phân phối là cách thức phân chia kết quả sản xuất giữa các chủ
thể. Về cơ bản, việc phân phối sản phẩm phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất và phân phối theo lao động. Đối với hình thức phân phối theo sở
hữu tư liệu sản xuất, chủ thể nắm quyền sở hữu có quyền quyết định đối tượng,
hình thức và mức độ phân phối kết quả sản xuất; đối với hình thức phân phối
theo lao động, thì người sở hữu sức lao động phụ thuộc vào quyền quản lý và sử
dụng lao động của người chủ sở hữu tư liệu sản xuất; vì vậy trong sản xuất, họ
chỉ được trả công tương ứng với mức đóng góp sức lao động của họ vào kết quả
sản xuất. Đây là các hình thức phân phối trong phạm vi từng đơn vị sản xuất.
Hiện nay, trong điều kiện tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, thì quan hệ phân phối sản phẩm còn phải xem xét theo nghĩa rộng, cả "các
yếu tố đầu vào" và "kết quả đầu ra" trong sản xuất, có liên quan đến việc phân
phối các nguồn lực sản xuất và phân phối lại sản phẩm xã hội, điều này có quan
33
hệ trực tiếp đến vai trò của Nhà nước. Thông qua hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách và các công cụ quản lý kinh tế, Nhà nước thực hiện tổ chức, quản lý,
giám sát và điều tiết các quan hệ phân phối nhằm bảo đảm công bằng và bình
đẳng giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh và giữa các tầng lớp nhân dân.
Các yếu tố của QHSX tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau, trong
đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan
hệ trung tâm và giữ vai trò quyết định đối với quan hệ tổ chức quản lý sản xuất
và quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Trong quá trình sản xuất, chủ thể sở
hữu có quyền sử dụng, định đoạt, tổ chức quản lý sản xuất, phân phối các nguồn
lực và kết quả sản xuất. Khi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có sự thay đổi
căn bản, thì tất yếu quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối cũng
thay đổi theo. Vì vậy, việc giải quyết đúng đắn quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất sẽ có ý nghĩa quan trọng, tác động tích cực đến quan hệ tổ chức quản lý
sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định, nhưng quan hệ
tổ chức quản lý sản xuất có vai trò quan trọng, tác động trở lại quan hệ sở hữu.
Tự quan hệ sở hữu không thể mang lại kết quả cho chủ sở hữu, mà phụ thuộc
vào quan hệ tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất quy định
trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng sản xuất. Trong quan hệ này,
thì chủ thể quản lý sản xuất có vai trò quan trọng; trình độ và năng lực tổ chức
quản lý doanh nghiệp của người quản lý là yếu tố có tính quyết định đến sự phát
triển của doanh nghiệp, được thể hiện ở sự vận dụng các nguyên tắc và cơ chế
quản lý; thể hiện ở năng lực hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh, ở những
kiến thức quản lý, điều hành sản xuất, sự quan sát, phân tích, đánh giá, nắm bắt
cơ hội kinh doanh; ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy, phân công chức
năng, nhiệm vụ của các bộ phận theo hướng gọn, nhẹ, hợp lý và hiệu quả.
Trong QHSX, quan hệ phân phối sản phẩm cũng là nhân tố có ý nghĩa
quan trọng đối với quá trình sản xuất. Mặc dù bị phụ thuộc vào quan hệ sở hữu
và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, tuy nhiên do có khả năng kích thích trực
34
tiếp đến lợi ích của con người, vì vậy quan hệ phân phối là "chất xúc tác" của các
quá trình kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối có tác dụng kích thích hoặc kìm
hãm, thúc đẩy hoặc hạn chế tốc độ, hiệu quả, nhịp điệu của sức sản xuất.
Do quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm lao
động có vai trò quan trọng, vì vậy, trong mọi quá trình sản xuất vật chất, chủ sở
hữu phải quan tâm đến hai loại quan hệ này. Thực tế sản xuất chỉ ra, cùng một
chế độ sở hữu nhưng khi tổ chức quản lý sản xuất tốt và thực hiện phân phối sản
phẩm hợp lý, thì sức sản xuất phát triển, quan hệ sở hữu sẽ được củng cố. Ngược
lại, nếu tổ chức quản lý sản xuất kém hiệu quả và thực hiện quan hệ phân phối
sản phẩm không hợp lý, thì chế độ sở hữu trở nên mất đi ý nghĩa, biến dạng, bị
phá vỡ và tất yếu dẫn đến quá trình sản xuất vật chất bị rối loạn, ngừng trệ.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương thức sản xuất xã
hội là sự thống nhất biện chứng giữa LLSX và QHSX; trong đó LLSX giữ vai
trò quyết định, còn QHSX tác động trở lại LLSX. Sự tác động biện chứng giữa
chúng hợp thành quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, chi
phối xuyên suốt mọi quá trình sản xuất và của sự phát triển lịch sử xã hội.
LLSX quyết định QHSX vì nó là nội dung vật chất của sản xuất, là yếu
tố cách mạng nhất trong phương thức sản xuất, còn QHSX là hình thức xã hội
của quá trình sản xuất. Do đó, theo quy luật khách quan, QHSX phải được hình
thành trên cơ sở phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Sự phù hợp ở đây là
một trạng thái mà trong đó, QHSX là "hình thức phát triển", "tạo địa bàn đầy
đủ", là động lực thúc đẩy lực LLSX phát triển. Đó là quy luật khách quan, như
C.Mác đã viết: "những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất" [56, tr.14].
Sự phát triển của trình độ LLSX quyết định QHSX biến đổi cho phù hợp với nó trong quá trình sản xuất. Do yêu cầu của sức sản xuất - sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất trong sản xuất dẫn đến sự biến đổi và phát triển của LLSX. Trong quá trình sản xuất, con người không ngừng cải tiến, đổi mới và sáng tạo công cụ lao động mới, trình độ của người lao
35
động không ngừng được nâng cao, phân công lao động xã hội ngày càng phát triển. Sự phát triển của trình độ LLSX đến một giai đoạn nhất định, sẽ làm cho QHSX từ chỗ phù hợp, là "hình thức phát triển" của nó trở thành mâu thuẫn, xung đột và kìm hãm sự phát triển của LLSX trong quá trình sản xuất. Yêu cầu khách quan của sự phát triển LLSX tất yếu đòi hỏi phải thay thế QHSX lỗi thời bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX nhằm thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển. Và, khi LLSX xã hội tiếp tục phát triển đến một trình độ nhất định nào đó, QHSX mới này, đến lượt nó, lại không còn phù hợp với các LLSX đang phát triển nữa và biến thành "xiềng xích" của LLSX; mâu thuẫn đó tiếp tục được giải quyết và đưa đến kết quả là QHSX cũ được thay thế bằng một QHSX mới tiến bộ hơn. Những sự biến đổi này chỉ có thể thực hiện được trong phong trào thực tiễn cách mạng, chính C.Mác đã khẳng định:
Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có… trong đó từ trước đến nay, các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội [56, tr.15].
Mặc dù quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc tất yếu, khách quan của QHSX vào trình độ phát triển của LLSX, nhưng không nên "tuyệt đối hoá" quá mức vai trò "độc tôn" của LLSX, mà phải thấy QHSX có vai trò hết sức quan trọng, có tính độc lập tương đối so với LLSX, tác động trở lại LLSX.
Do quy luật này vận động gắn liền với hoạt động của con người và xã hội, vì vậy, khi chủ thể xác lập QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, thì sẽ thúc đẩy LLSX phát triển. Sự phù hợp chính là trạng thái mà cả ba mặt của QHSX thích ứng với trình độ phát triển của LLSX, ở việc tạo ra những phương thức kết hợp đúng đắn và sử dụng hợp lý các yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất trong sản xuất. Biểu hiện sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là việc đẩy mạnh khai thác các nguồn lực phát triển sản xuất, phát huy được tính tích cực, sáng tạo của người lao động; công cụ lao động, khoa học, kỹ
36
thuật và công nghệ được đổi mới, hiện đại hoá và áp dụng trong sản xuất, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất tăng lên. Ngược lại, khi chủ thể nhận thức và vận dụng sai lầm yêu cầu của quy luật do xác lập QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, không đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất giữa quan hệ về sở hữu với quan hệ về tổ chức quản lý và quan hệ về phân phối, thì sẽ kìm hãm, gây khó khăn, cản trở, làm chậm sự phát triển của LLSX. Theo quy luật khách quan, với sự phát triển của trình độ LLSX, thì QHSX lỗi thời sẽ phải được thay thế bằng QHSX mới phù hợp nhằm thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển.
Như vậy, quan hệ giữa LLSX và QHSX là quan hệ biện chứng của sự
phù hợp - không phù hợp - phù hợp, tồn tại đan xen và chuyển hoá lẫn nhau là
lôgíc nội tại, tất yếu, khách quan. Sự vận động và phát triển của quy luật này là
do mâu thuẫn biện chứng khách quan giữa chúng quy định. Luận điểm của
C.Mác về sự xoá bỏ QHSX cũ và xác lập QHSX mới là một quá trình khách
quan, bắt nguồn từ quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Bất kỳ một sự cải biến nào về QHSX cũng là kết quả tất yếu của việc tạo nên
những LLSX mới. Không một QHSX nào mất đi trước khi tất cả những LLSX
mà QHSX đó tạo điều kiện cho phát triển, vẫn chưa phát triển và những QHSX
mới, cao hơn cũng không thể xuất hiện trước khi những LLSX của những
QHSX đó chưa chín mùi trong lòng bản thân phương thức sản xuất cũ. Nói cách
khác, sự biến đổi, phát triển đó của LLSX và QHSX là quá trình lịch sử - tự nhiên.
2.2. CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay - tính tất yếu, nội dung và đặc điểm
Công nghiệp hoá là một quá trình diễn ra rất đa dạng và phức tạp, trên
nhiều bình diện khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Do tính chất đặc thù của
từng quốc gia, dân tộc, cùng với những tác động từ hoàn cảnh quốc tế bên ngoài
37
làm cho quá trình công nghiệp hoá, mặc dù tuy cùng có mục đích giống nhau,
nhưng lộ trình và bước đi của từng quốc gia, dân tộc không giống nhau. Do vậy,
không thể tìm thấy một con đường có tính chất khuôn mẫu chung để áp đặt cho
tất cả các quốc gia, dân tộc thực hiện công nghiệp hoá. Chính vì tính chất đa
dạng và phức tạp đó, tất nhiên, có nhiều quan điểm khác nhau về công nghiệp hoá.
Tuy có nhiều cách quan niệm khác nhau về công nghiệp hoá, nhưng giữa chúng
vẫn có những nét tương đồng trong cách hiểu khái niệm này. Theo nghĩa chung
nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến đổi một nước có nền kinh tế thấp kém, lạc
hậu trở thành một nước công nghiệp hiện đại, có trình độ kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến, tạo ra năng suất lao động cao trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân.
Cũng như khái niệm công nghiệp hoá, khái niệm hiện đại hoá có nhiều
cách hiểu khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, hiện đại hoá là quá trình sử dụng
những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ nhằm đổi mới các lĩnh vực
của đời sống xã hội, làm cho xã hội phát triển nhanh và hiện đại, tiên tiến.
Khi đề cập đến hiện đại hoá xã hội, trước hết phải nói đến quá trình hiện
đại hoá nền kinh tế quốc dân. Hiện đại hoá nền kinh tế là quá trình sử dụng
những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong quá trình tổ
chức quản lý sản xuất, làm cho nền kinh tế phát triển lên trình độ tiên tiến, hiện
đại. Có thể khẳng định, đây chính là đòn bẩy vật chất, làm cơ sở nền tảng cho tất
cả mọi quá trình biến đổi xã hội tiếp theo. Bởi lẽ, không thể có một xã hội được
coi là hiện đại mà cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương thức sản xuất lạc hậu.
Như vậy, CNH, HĐH là quá trình biến đổi xã hội một cách sâu sắc và
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kết cấu hạ tầng kinh tế,
kỹ thuật đến văn hoá, xã hội. Trong đó, nội dung quan trọng nhất là tất cả các
ngành kinh tế từ nông nghiệp, công nghiệp đến dịch vụ và cả cách thức tổ chức
quản lý đều có sự chuyển biến mạnh mẽ do sự tác động của cách mạng khoa
học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình đó sẽ tạo lập một nền kinh tế dựa
trên nền tảng khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, công nghiệp hiện đại, thúc
38
đẩy sản xuất với năng suất, hiệu quả cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại, nhằm đưa nền kinh tế phát triển theo hướng nhanh và bền vững.
Chủ trương công nghiệp hóa được Đại hội Đảng lần thứ III đề ra: Công
nghiệp hoá XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ. Thực hiện công
nghiệp hoá XHCN là nhằm xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH. Điểm
mấu chốt trong công nghiệp hoá XHCN là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng -
nền tảng của kinh tế XHCN. Công nghiệp hoá XHCN gắn liền với cách mạng
QHSX, cách mạng tư tưởng - văn hoá và cách mạng khoa học - kỹ thuật. Tuy
nhiên, trải qua nhiều năm thực hiện, về cơ bản là chưa thành công do chúng ta áp
dụng rập khuôn mô hình công nghiệp hoá của Liên Xô mà không tính đến điều
kiện lịch sử - cụ thể của nước ta; mặt khác, do chúng ta thực hiện công nghiệp
hóa trong điều kiện cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bao cấp; nhận thức và
vận dụng sai lầm quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, xác
lập QHSX XHCN đi trước và mở đường cho LLSX phát triển. Chính sự nhận
thức và vận dụng xây dựng QHSX không phù hợp đó đã kìm hãm sự phát triển
của LLSX. Nền kinh tế của nước ta vẫn là sản xuất nhỏ; công nghiệp được xây
dựng nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong cơ cấu kinh tế; cơ cấu lao động bất hợp
lý, trình độ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu. DNNN giữ vị trí độc tôn trong công
nghiệp và quyết định tiến trình công nghiệp hoá, nhưng hiệu quả hoạt động thấp.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên
bị xuống cấp nhanh chóng, đã đẩy nền kinh tế - xã hội rơi vào khủng hoảng.
Trong quá trình đổi mới đất nước, chúng ta đã thay đổi rất cơ bản từ
nhận thức mục tiêu, nội dung đến phương thức thực hiện CNH, HĐH nền kinh tế
- xã hội nước ta. Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII, Đảng ta nêu lên quan điểm hoàn chỉnh về CNH, HĐH:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
39
tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [22, tr.42].
Nước ta quá độ lên lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ là phổ biến, kinh tế kém phát triển, cơ sở vật chất, kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát triển của LLSX còn thấp, đa dạng, không đồng đều, vì vậy CNH, HĐH nền kinh tế là tất yếu khách quan. Chỉ có thực hiện CNH, HĐH mới có thể phát triển mạnh mẽ LLSX, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. CNH, HĐH là con đường đưa nước ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và thế giới, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng phát triển XHCN.
Tại Đại hội lần thứ VIII, năm 1996, trên cơ sở nhận thức đặc điểm của thời đại, về sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, từ những thành tựu đã đạt được về kinh tế - xã hội trong những năm đổi mới, cùng với sự tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã chỉ rõ, đã đến lúc nước ta có đủ điều kiện để bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và khẳng định:
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [23, tr.80].
Quan điểm của Đảng ta về CNH, HĐH nền kinh tế - xã hội ở nước ta có
nội dung rất rộng và toàn diện, nhưng cơ bản nhất là hai nội dung sau:
Một là, CNH, HĐH là nhằm phát triển mạnh mẽ LLSX, xây dựng nền tảng vật chất, kỹ thuật cho CNXH trên cơ sở áp dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại.
Trong điều kiện phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH, phải đẩy mạnh thực hiện cuộc
40
cách mạng khoa học và công nghệ để tạo lập một hệ thống công nghiệp hiện đại mà trung tâm là công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế nhằm trang bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho tất cả các ngành kinh tế, làm cho các ngành kinh tế từ nông nghiệp, công nghiệp đến dịch vụ đều có sự chuyển biến mạnh mẽ. Nhận thức đúng tầm quan trọng của khoa học và công nghệ, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta chủ trương trong điều kiện của nước ta, "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ" [24, tr.59].
Cách mạng khoa học và công nghệ tác động sâu sắc, mạnh mẽ đối với
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt nó đóng vai trò then chốt,
quyết định sự phát triển của LLSX hiện đại. Do đó, CNH, HĐH ở nước ta gắn
liền một cách tất yếu với cách mạng khoa học và công nghệ là nhằm chuyển từ
lao động thủ công sang lao động sử dụng máy móc, kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến. Đây chính là điều kiện quyết định để phát triển LLSX đạt đến trình độ công
nghệ cao, nhằm tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh tế - xã hội, đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Hai là, CNH, HĐH là quá trình hình thành và chuyển đổi cơ cấu nền
kinh tế quốc dân theo hướng hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững.
Do sự phát triển của trình độ LLSX là nhân tố tác động trực tiếp đến sự
hình thành cơ cấu kinh tế, vì vậy xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có
hiệu quả và bền vững là yêu cầu khách quan của nước ta trong quá trình thực
hiện CNH, HĐH. Sự phát triển của cơ sở vật chất, kỹ thuật trong tiến trình CNH,
HĐH gắn liền một cách hữu cơ với quá trình phát triển phân công lao động xã
hội, với quá trình hình thành và phát triển của các ngành kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên CNXH. Các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế vận động và
phát triển trong tổng thể nền kinh tế. Chúng có mối quan hệ tất yếu khách quan
dưới những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, hình thành nên cơ cấu của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân thống nhất. Mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính chất
khách quan, tuy nhiên, tính chất đó của cơ cấu kinh tế lại chịu sự tác động, chi
41
phối, định hướng của Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước phải có cơ chế, chính
sách khuyến khích các thành phần kinh tế, các ngành, lĩnh vực sản xuất và vùng
kinh tế phát triển đồng bộ, cân đối, hình thành cơ cấu kinh tế có khả năng tái sản
xuất mở rộng và bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững.
Quá trình hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế phải gắn với các giai
đoạn của CNH, HĐH, phản ánh đúng các quy luật của kinh tế và xu hướng vận
động, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ở nước ta, cơ cấu kinh tế hợp lý
khi nó đáp ứng được các yêu cầu: nông nghiệp phải giảm dần tỷ trọng; công
nghiệp và dịch vụ tăng dần tỷ trọng. Hiện nay, Đảng ta xác định cần tập trung
xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, mà bộ xương của nó là "cơ cấu
kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ" gắn với phân công lao động và mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế đó sẽ cho phép chúng ta khai thác được
mọi tiềm năng của đất nước, của các địa phương và của các thành phần kinh tế.
Theo quan điểm của Đảng, CNH, HĐH ở nước ta có những đặc điểm:
Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá nhằm phát triển mạnh mẽ
LLSX: Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chủ trương sự nghiệp công nghiệp hoá
được tiến hành cùng một lúc và gắn liền với hiện đại hoá nhằm đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Công
nghiệp hoá là quá trình thay đổi căn bản và toàn diện cách thức tổ chức, hoạt
động quản lý nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới và áp dụng
công nghệ nhằm tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh và hiệu quả cao của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, do khoa học và công nghệ trở thành LLSX
trực tiếp, vì vậy, công nghiệp hoá phải gắn liền và bao hàm hiện đại hóa - cái
đích của quá trình công nghiệp hóa để phát triển LLSX. Hiện đại hóa là đưa nền
kinh tế của nước ta vận hành theo trình độ của khoa học và công nghệ hiện đại
nhằm đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH gắn liền
với đổi mới và phát triển mạnh mẽ các ngành, lĩnh vực sản xuất có hàm lượng
khoa học và công nghệ cao. Khoa học, kỹ thuật và công nghệ tham gia vào tất cả
các ngành, lĩnh vực sản xuất; vào quá trình tổ chức quản lý sản xuất và phân
42
phối sản phẩm. Quá trình này có vai trò quyết định đến sự phát triển mạnh mẽ
LLSX, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội theo hướng nhanh và bền vững,
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với đẩy mạnh mở rộng quan hệ
đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, kết hợp
phát triển kinh tế với giữ vững quốc phòng - an ninh: Trong quá trình CNH, HĐH,
chúng ta phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ, phát huy
tối đa các nguồn lực từ bên ngoài nhằm phát triển mạnh mẽ LLSX. Chủ trương
của Đảng ta là trên cơ sở xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và
thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng sản phẩm
trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ các nguồn vốn, khoa học và công nghệ,
kinh nghiệm tổ chức quản lý, thị trường quốc tế… để tiến hành CNH, HĐH. Tuy
nhiên, việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa
hợp tác vừa đấu tranh và cạnh tranh lẫn nhau, vừa có nhiều cơ hội vừa nảy sinh
những thách thức khó lường, vì vậy, trong quá trình đó, phải gắn liền với bảo vệ
lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia dân tộc. Với yêu cầu đó, Đại hội lần thứ
IX của Đảng ta đã khẳng định rõ: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường" [25, tr.120].
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo: Đây là đặc
điểm bao trùm và có tính quyết định của CNH, HĐH theo định hướng XHCN.
Đảng và Nhà nước cần có chủ trương, chính sách đúng và phù hợp với thực
tiễn nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên
ngoài, phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc, của mọi thành phần kinh tế về
sức lao động, vốn, khoa học và công nghệ, trí tuệ, kinh nghiệm… để thực hiện
CNH, HĐH. Tuy nhiên, muốn thực hiện CNH, HĐH tiến nhanh, phát triển
đúng định hướng XHCN, phải tăng cường sức mạnh của kinh tế nhà nước, làm
43
cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước được thể hiện ở tiềm lực kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất,
có khả năng hướng dẫn, chi phối nền kinh tế quốc dân, làm chỗ dựa vững chắc
cho việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững: Đảng ta chỉ rõ sự
nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN trên cơ sở phải coi chiến lược phát
triển con người vừa là mục tiêu vừa là động lực quan trọng nhất. Vì vậy, mọi
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước phải
xuất phát và nhằm giải phóng mọi tiềm năng của con người, của nhân dân. Phải
phát huy nguồn nhân lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt
Nam, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức
mới nhất của nhân loại; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH. Cần khẳng định, chính
CNH, HĐH sẽ tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của LLSX hiện đại, đây là nền
tảng vật chất, kỹ thuật nhằm củng cố và hoàn thiện từng bước QHSX XHCN,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân sẽ không ngừng được nâng cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án đầu tư và làm thước đo của sự phát triển: Công nghiệp hoá ở nước ta trước đây được tiến hành theo cơ chế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu, bao cấp, với các chỉ tiêu mang tính pháp lệnh của Nhà nước. Hiện nay, CNH, HĐH gắn liền với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Các kế hoạch của Nhà nước mang tính định hướng, thị trường sẽ là nhân tố quyết định việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển sản xuất và hình thành cơ cấu kinh tế. Muốn khai thác tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển, phải tận dụng tiềm năng, lợi thế từng địa phương, từng vùng để ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm thúc đẩy phân công lao động xã hội, tạo thêm những ngành nghề mới, đáp ứng nhu cầu về việc làm của người lao động. Lựa chọn dự án đầu tư với những quy mô thích
44
hợp với từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương; ưu tiên những dự án quy mô vừa và nhỏ, đòi hỏi ít vốn, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh. Trong việc bố trí các nguồn lực, phải rà soát, điều chỉnh, bổ sung, quy hoạch và có cơ chế, chính sách phù hợp để bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền trong cả nước; phát huy lợi thế của từng vùng, tạo ra sự liên kết kinh tế - xã hội giữa các vùng. Thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các vùng kinh tế đang còn gặp nhiều khó khăn.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường: Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã chủ động đưa ra quan điểm về sự gắn kết giữa CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức:
Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức [25, tr.91].
Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới về chất của LLSX, có khả năng phát triển rút ngắn quá trình CNH, HĐH. Theo tinh thần đó, Đại hội lần thứ X của Đảng xác định đó là một trong những phương hướng cơ bản để thực hiện sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN và chủ trương: Chúng ta cần tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để phát triển rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế - xã hội [29, tr.87-88].
45
Thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức là hai nội dung của một quá trình thống nhất và đồng thời diễn ra. Xuất phát từ trình độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, để có thể phát triển nhanh theo hướng hiện đại, bền vững, chúng ta phải đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN với phương thức phát triển "rút ngắn thời gian, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt" dựa trên kinh tế tri thức nhằm thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng là: chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh: "cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển" [31, tr.71].
2.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
Vấn đề đổi mới QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX được Đảng ta tìm tòi, thể nghiệm và hình thành vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV, năm 1979, Đảng ta đề ra chủ trương giải phóng sức sản xuất, khắc phục những kiếm khuyết trong quản lý kinh tế và cải tạo XHCN, kết hợp hài hoà lợi ích của Nhà nước, tập thể và người lao động, chú ý quan tâm đến lợi ích cá nhân người lao động. Việc đổi mới này đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và cải thiện một bước đời sống của nhân dân, tuy nhiên, do thực hiện trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, vì vậy vẫn còn nhiều hạn chế. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất vẫn giữ vị trí độc tôn trong nền kinh tế, nhưng không đủ khả năng để huy động được các nguồn lực của xã hội để phát triển sản xuất.
Trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ V của Đảng (1981 - 1985), khi khẳng định sự cần thiết tồn tại 5 thành phần kinh tế ở miền Nam là quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư nhân, thì Đảng ta vẫn nhấn mạnh
46
chủ trương đẩy mạnh cải tạo XHCN theo hướng chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân chỉ tồn tại trong những lĩnh vực nhất định và dần dần phải đưa vào các doanh nghiệp công tư hợp doanh. Việc thực hiện chủ trương này vẫn chưa đưa lại kết quả tích cực, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra trầm trọng, đời sống của nhân dân, nhất là nông dân ngày càng gặp muôn vàn khó khăn. Trước tình hình đó, tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá V, năm 1985, Đảng ta đã chủ trương xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện cải cách về giá, lương, tiền, thừa nhận sản xuất hàng hoá và các quy luật của sản xuất hàng hoá là một trong những nội dung phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Chính những quan điểm này là tiền đề quan trọng để Đảng ta tiếp tục xây dựng QHSX trong quá trình đổi mới, thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Tại Đại hội lần thứ VI, năm 1986, Đảng ta đã chỉ ra sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách, sai lầm trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện, trong đó có sai lầm và thiếu sót về nhận thức và chỉ đạo xây dựng vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế. Đại hội chỉ rõ là trong nhận thức và hành động, "chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất" [20, tr.23]. Trên cơ sở đó, Đảng ta chủ trương đổi mới QHSX khi thừa nhận sự tồn tại tất yếu khách quan của các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, các thành phần kinh tế và các hình thức phân phối; chuyển nền kinh tế từ chế độ công hữu sang chế độ đa sở hữu, xác định nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng của cả thời kỳ quá độ lên CNXH, từ cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, từ cơ chế phân phối bình quân sang phân phối theo lao động và tài sản đóng góp của các chủ thể kinh tế.
Do trình độ phát triển của LLSX vẫn còn thấp, đa dạng, không đồng đều giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, thậm chí ngay trong một thành phần kinh tế, vì vậy, nét đặc thù của QHSX trong thời kỳ quá độ lên
47
CNXH ở nước ta là tồn tại nhiều loại hình QHSX khác nhau. Hội nghị Trung ương 6 khoá VI, năm 1989 coi đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH ở nước ta. Thực tiễn xây dựng QHSX hàng chục năm trước đổi mới đã chỉ ra rằng, chúng ta không thể xác lập được ngay từ đầu một "kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thống trị", không thể có ngay một kết cấu hạ tầng thuần khiết dựa trên chế độ công hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mà "Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản", và "Xây dựng chế độ đó là một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao" [25, tr.86]. Do đó, chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, các hình thức tổ chức sản xuất và các hình thức phân phối là tất yếu khách quan, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Như vậy, muốn phát triển sản xuất, chúng ta không chỉ phát triển
LLSX, mà còn phải xây dựng và hoàn thiện từng bước QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX. Đối với nước ta, mối quan hệ giữa phát triển
LLSX với xây dựng và hoàn thiện từng bước QHSX trong phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN được Đảng ta xác định tại Đại hội lần thứ IX:
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối [25, tr.86-87].
Có thể hiểu, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là thời kỳ mà xã hội cũ đã qua, tuy nhiên, xã hội XHCN thực sự vẫn chưa tới, do đó, trong thời kỳ này, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Như vậy, chủ thể giữ vai trò tổ chức, định hướng, quản lý nền kinh tế thị trường định
48
hướng XHCN ở nước ta là Đảng Cộng sản và Nhà nước pháp quyền XHCN. Nền kinh tế đó vừa vận động theo những quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; đồng thời khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được chúng ta khẳng định là nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế được xác định là: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Riêng đối với kinh tế tư bản nhà nước, thì đến Đại hội lần thứ XI, Đảng ta không xác định là một thành phần kinh tế, bởi lẽ ở nước ta hiện nay, trên thực tế không tồn tại kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng công tư hợp doanh như quan niệm trước đây, mà loại hình QHSX này đang có mặt trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và chỉ là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần.
Để tạo ra sự đồng thuận ngày càng cao trong xã hội, tạo động lực mạnh mẽ thu hút mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển và góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, Đảng và Nhà nước ta không chỉ xác định tính pháp lý, vị trí và vai trò của từng loại hình sở hữu, các thành phần kinh tế cụ thể, mà còn khẳng định: "Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu; Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm; một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, khắc phục rủi ro; một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa" [29, tr.84].
49
Đồng thời Quốc hội Ban hành Luật Doanh nghiệp chung, Luật Đầu tư chung nhằm tạo môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng cho các hình thức sở hữu và mọi loại hình tổ chức kinh doanh nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh.
Đến nay, trong việc xây dựng QHSX, mặc dù còn có nhiều ý kiến chưa
thống nhất, đặc biệt là về vấn đề sở hữu, về các thành phần kinh tế, tuy nhiên,
có thể thấy, quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từ Đại hội lần thứ VI đến
Đại hội lần thứ XI là xuất phát từ thực tiễn với những tìm tòi, thể nghiệm ở
nhiều mức độ và phạm vi khác nhau ngày càng phản ánh đúng đắn và rõ ràng
hơn quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Cụ thể là:
Về xác định quan hệ sở hữu, thì từ một nền kinh tế dựa trên nền tảng
chế độ công hữu với hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể, đến nay chúng
ta đã thừa nhận một cơ cấu sở hữu đa dạng, đan xen, hỗn hợp với các hình thức
sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp và sở
hữu của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kết cấu sở hữu này phù hợp với
trình độ phát triển đa dạng của LLSX ở nước ta. Trong các hình thức sở hữu
đó, Đảng ta khẳng định sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo, sở hữu nhà nước
cùng với sở hữu tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân; tuy nhiên, theo chúng tôi, trong cơ cấu các hình thức sở hữu này,
sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân là hai hình thức sở hữu cốt lõi; các hình
thức sở hữu khác xét đến cùng, chỉ là sở hữu phái sinh, bộ phận hoặc là khâu
trung gian của hai hình thức sở hữu trên. Chẳng hạn, sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài là một bộ phận của sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể mà nòng cốt là
hợp tác xã cũng dựa trên sự liên kết, hợp tác của các xã viên và người lao động;
sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các công ty cổ phần là kết quả của sự đan xen,
hợp tác, liên doanh giữa các chủ sở hữu, như nhà nước, tập thể và tư nhân.
Về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, Đảng ta xác định có nhiều hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các
50
hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế
đa dạng ngày càng phát triển. Như vậy, trên cơ sở các hình thức sở hữu, hình
thành nên các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, như DNNN, hợp tác xã,
hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ, kinh tế trang trại, các loại hình doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp hỗn hợp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Do sự đa dạng hóa quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất,
vì vậy, quan hệ phân phối thu nhập tất yếu cũng diễn ra với nhiều hình thức. Để
bảo đảm công bằng, bình đẳng trong phân phối và tạo động lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, chủ trương của Đảng ta là phải thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội, trong việc tiếp cận và sử dụng các cơ hội, điều kiện để phát triển.
Thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế: trong
điều kiện trình độ phát triển của LLSX còn thấp và không đều, do đó, năng
suất lao động xã hội thấp, các chủ thể lao động cần phải hưởng thụ trên cơ sở
theo năng lực đóng góp sức lao động của mình và hiệu quả sản xuất là tất yếu.
Trên cơ sở của sự phân phối công bằng theo kết quả trực tiếp của người lao
động mới khắc phục được sự trì trệ, trông chờ, ỷ lại; đồng thời kích thích,
khuyến khích được tính tích cực, sáng tạo của người lao động trong sản xuất.
Phân phối thông qua mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác, như trí
tuệ, tài sản, tư liệu sản xuất…: do tác động của cơ chế thị trường, việc đóng
góp các nguồn lực của nhiều chủ thể kinh tế vào sản xuất kinh doanh có vai trò
thúc đẩy sức sản xuất, tạo ra của cải cho cá nhân và xã hội. Về cơ bản, là áp
dụng nguyên tắc phân phối theo hình thức sở hữu, đối tượng có vốn, tư liệu sản
xuất được hưởng lãi suất và lợi tức cổ phần, người có trí tuệ và năng lực đóng
góp nhiều trong sản xuất được hưởng thụ tương xứng với thành quả đóng góp
của họ, đối tượng có sức lao động được trả bằng tiền lương và tiền công.
Phân phối thông qua quỹ phúc lợi và an sinh xã hội, ở việc tạo ra các
điều kiện và cơ hội cho các tầng lớp nhân dân tiếp cận các nguồn lực của xã hội
51
nhằm góp phần bảo đảm công bằng: trong nền kinh tế thị trường, các hình thức
phân phối này là sự cần thiết. Nhà nước phải điều tiết quan hệ phân phối, đẩy
mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức xã hội, các thành phần kinh tế tham
gia thực hiện chính sách an sinh xã hội, phát triển mạnh và đa dạng hệ thống
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chính sách trợ giúp dạy nghề, tạo việc
làm; thực hiện các chương trình, dự án giảm nghèo… nhằm bảo đảm mức bình
đẳng có thể cho người nghèo, nhóm người gặp rủi ro và thế yếu trong xã hội.
Để làm rõ hơn nội dung xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, chúng tôi tập
trung nghiên cứu vấn đề xây dựng QHSX trong các loại hình kinh tế.
Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế nhà nước:
Kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở
hữu về nguồn vốn và tư liệu sản xuất, bao gồm toàn bộ tài nguyên, đất đai,
rừng, biển, vùng trời được khai thác, sử dụng vào sản xuất kinh doanh; ngân
hàng nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ của Nhà nước và hệ thống
DNNN (là bộ phận hết sức quan trọng trong kinh tế nhà nước).
Trong cơ cấu các hình thức sở hữu ở nước ta, chúng ta xác định sở hữu
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, sở hữu nhà nước cùng với sở hữu tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Sở hữu nhà nước
cần và có thể giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân vì những lý do:
Nếu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên nền tảng của chế
độ tư hữu, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối toàn bộ
nền kinh tế, thì nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vận động trong điều
kiện đa dạng hoá quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò nền
tảng. Điều này không chỉ sở hữu nhà nước phù hợp với xu hướng xã hội hoá
của LLSX, mà còn quy định tính chất và phương hướng phát triển XHCN.
Sở hữu nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, là "rường cột", "xương sống" của nền kinh tế quốc dân. Cần khẳng định đây là một yêu cầu thực tiễn sống còn, bởi vì sở hữu nhà nước là nhân tố cơ bản thực hiện CNH,
52
HĐH theo định hướng XHCN, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và trực tiếp bảo đảm định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường; góp phần củng cố, giữ vững kiến trúc thượng tầng XHCN và là cơ sở kinh tế của CNXH. Nếu Nhà nước không nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế, thì cạnh tranh tất yếu sẽ phân hóa giàu nghèo và của cải, tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội sẽ tập trung vào một nhóm thiểu số tư hữu. Lúc đó, Nhà nước XHCN không có thực quyền để điều tiết, quản lý và thực thi các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của CNXH, vì vậy, sở hữu nhà nước phải nắm giữ các "huyết mạch" của nền kinh tế và hoạt động có hiệu quả để trở thành lực lượng vật chất bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân, có khả năng can thiệp, chi phối, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ, liên kết và tạo điều kiện cho các hình thức sở hữu khác cùng phát triển theo đúng định hướng XHCN [72, tr.12]. Đối với một nền kinh tế lạc hậu như nước ta, muốn phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, thì điều kiện quan trọng là phải tranh thủ
được các tiền đề của thời đại, đó là những thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến, phương thức tổ chức quản lý sản xuất hiện đại. Hiện nay, trong xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế nhà nước là lực lượng có khả năng đi đầu
trong việc tranh thủ, khai thác, ứng dụng những thành tựu khoa học và công
nghệ, vì vậy nó có điều kiện phát triển nhanh, có khả năng tích tụ vốn để không
ngừng tái sản xuất mở rộng và đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước.
Kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng trong việc hình thành các trung
tâm kinh tế, có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực then chốt, những khu vực
mà đòi hỏi nguồn vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn chậm… và bản thân các
thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có điều kiện đầu tư phát triển.
Vấn đề đổi mới kinh tế nhà nước đã được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm từ Đại hội lần thứ VI, khi xác định nhiệm vụ củng cố thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế tập
thể một cách toàn diện, cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân
phối, làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế
53
quốc dân, thể hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, thu
nhập của người lao động và tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước.
Tuy nhiên, đến Đại hội lần thứ VII, việc đổi mới sở hữu nhà nước mới
được Đảng ta chủ trương cụ thể hơn là thu hẹp về phạm vi sở hữu. Theo đó,
phải tổ chức và sắp xếp lại các DNNN, chỉ giữ những doanh nghiệp nắm vững
những lĩnh vực và ngành nghề then chốt của nền kinh tế, những công trình kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, liên quan đến an ninh - quốc phòng, ở
những lĩnh vực dịch vụ thiết yếu gắn với công tác an sinh xã hội. Riêng đối với
những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và không có hướng phát triển thì có thể
giao, bán, khoán, cho thuê, giải thể hoặc cho phá sản theo luật định.
Quán triệt quan điểm của Đảng và để tạo khuôn khổ pháp lý cho việc
đổi mới sở hữu nhà nước có hiệu quả, năm 1995, Quốc hội đã ban hành Luật
Doanh nghiệp nhà nước, với quy định về việc thành lập mới, tổ chức lại, giải
thể, chuyển đổi sở hữu công ty nhà nước, điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu
nhà nước và người đại diện phần vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp.
Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định tiếp tục đổi mới QHSX trong
kinh tế nhà nước nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Đó
chính là chủ trương đa dạng hoá sở hữu thông qua cổ phần hoá đối với các
doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn; đồng thời thực
hiện giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước
không cần nắm giữ; sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt
động không hiệu quả. Cùng với thời gian này, năm 2003, Nhà nước sửa đổi
và bổ sung Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 với những quy định mới
và cụ thể hơn: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều
lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty
nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Phạm vi điều chỉnh
của Luật mới này là: Quy định việc thành lập mới, tổ chức lại, giải thể,
chuyển đổi sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất và hoạt động kinh doanh của
công ty nhà nước. Điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với người
54
đại diện phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn
bộ vốn điều lệ, doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước.
Như vậy, điểm cần nhấn mạnh về đổi mới sở hữu nhà nước mà Đảng ta quan tâm là đa dạng hoá sở hữu, chuyển đổi hình thức sở hữu đối với kinh tế nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hoá DNNN. Từ Đại hội lần thứ VII, Đảng ta chủ trương từng bước thành lập công ty cổ phần, tuy nhiên, chủ trương cổ phần hoá như một giải pháp tình thế, có mức độ và nhằm mục tiêu: Để thu hút thêm các nguồn vốn, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả, cần thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh; trong đó, sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối. Đặc biệt, qua tổng kết thực tiễn, đến Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định rõ hơn bản chất của cổ phần hoá DNNN, coi đó là trọng tâm trong việc đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của DNNN: Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích. Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty nhà nước. Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham gia cổ phần của Nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư…, trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối [29, tr.85].
Thực chất cổ phần hoá DNNN là chuyển từ sở hữu nhà nước thành sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp để xã hội hoá sản xuất kinh doanh, chính là làm gọn nhẹ, thu hẹp phạm vi, tối ưu hoá kinh tế nhà nước. Đây là giải pháp quan trọng khắc phục tình trạng làm ăn thua lỗ của một bộ phận DNNN, bảo tồn vốn, tài sản của Nhà nước. Việc đổi mới DNNN theo hình thức công ty cổ phần không làm suy giảm hoặc phủ định chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, mà từng bước giúp chúng ta xây dựng các công ty cổ phần hiện đại, các tập đoàn kinh tế lớn theo đúng quy luật khách quan của sự phát triển LLSX hiện nay và giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
55
Có thể khẳng định, quan niệm cứng nhắc về việc các DNNN phải chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu các thành phần kinh tế đã thay đổi. Các DNNN đã và đang được cổ phần hoá đánh dấu việc chấm dứt tình trạng độc tôn của một chủ sở hữu. Kinh tế nhà nước chỉ sở hữu một phần nhất định về vốn và tài sản của doanh nghiệp thay cho việc sở hữu hoàn toàn trước đó. Điều này làm cho quan hệ sở hữu trong các DNNN vận động thực chất hơn, phù hợp với khả năng quản lý của chủ sở hữu. Bên cạnh đó cũng đã xuất hiện hình thức sở hữu mới trong kinh tế nhà nước - sở hữu của các tổng công ty theo hướng tập đoàn kinh doanh, với cơ chế công ty mẹ - công ty con. Đó là việc sử dụng tác động của các hình thức tổ chức kinh doanh mới để tạo nên cấp độ mới của sở hữu nhà nước theo xu hướng vận động chung của nền kinh tế thị trường hiện nay. Như vậy, việc loại bỏ sự độc quyền của sở hữu nhà nước, của các DNNN nhưng vẫn bảo đảm duy trì vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước để nền kinh tế vận động theo định hướng XHCN là một sự chuyển biến tích cực trong nhận thức về sở hữu của Đảng ta. Việc đổi mới đa dạng hoá sở hữu nhà nước là cần thiết, vừa cấp bách, vừa cơ bản, xuất phát từ yêu cầu giải phóng mạnh mẽ LLSX trong quá trình CNH, HĐH và tiếp cận những thành tựu mới nhất của kinh tế tri thức, góp phần xây dựng mô hình mới về CNXH ở nước ta.
Để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, phải hoàn thiện cơ
chế, chính sách nhằm bảo đảm cho các DNNN thực sự hoạt động kinh doanh
trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch và nâng cao hiệu quả. Xoá
bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. DNNN
có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước
pháp luật. Phải đổi mới quan hệ quản lý các DNNN theo hướng gắn bó chặt
chẽ hơn với các nguyên tắc của thị trường; phân biệt quyền của chủ sở hữu và
quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; thực hiện chế độ quản lý công ty
đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn
một chủ sở hữu là Nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà nước; giao cho hội
đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn với quyền
56
tự chủ trong kinh doanh; quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ
quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ
đạo tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN theo hướng:
Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương cơ cấu lại ngành nghề kinh
doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước, tập
trung vào một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Từng
bước xây dựng các doanh nghiệp mang tầm khu vực và toàn cầu.
Xác định đúng đắn, cụ thể hơn quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng
quản trị và giám đốc doanh nghiệp đối với vốn và tài sản nhà nước
tại doanh nghiệp, vừa bảo đảm quyền chủ động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và
tài sản nhà nước [31, tr.208].
Trong quá trình CNH, HĐH, Đảng ta chủ trương kinh tế nhà nước là
lực lượng đi đầu thực hiện quan hệ phân phối chủ yếu qua kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác;
phân phối thông qua hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội. Trong các DNNN,
phải gắn trách nhiệm và lợi ích của người lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp với
kết quả hoạt động kinh doanh. Có chính sách tiền lương, tiền thưởng đủ sức
khuyến khích, kèm theo có chế tài nhằm tạo động lực mạnh đối với cả cán bộ
hội đồng quản trị, cán bộ quản lý kinh doanh và người lao động. Việc đánh giá
vị trí và vai trò của các DNNN không chỉ nhìn vào kết quả hoạt động trực tiếp
về phần trăm đóng góp GDP, nộp ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm…
mà còn phải xem xét việc khắc phục tình trạng phân hoá xã hội trong nền kinh
tế thị trường, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo.v.v.
Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể dựa trên sở hữu tập thể, bao gồm các cơ sở kinh tế do xã
viên và người lao động góp vốn, tư liệu sản xuất cùng sản xuất kinh doanh,
quản lý và phân phối theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi.
57
Điều 208 Bộ luật Dân sự do Quốc hội ban hành năm 2005 đã quy định rõ: Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lý và cùng hưởng lợi.
Trước đổi mới, sở hữu tập thể được xây dựng theo hướng tập thể hoá về tư liệu sản xuất. Tất cả tư liệu sản xuất đều do hợp tác xã nắm giữ, quản lý theo kế hoạch, hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành tập trung, hợp tác xã nắm toàn bộ sản phẩm và phân phối theo kế hoạch; xã viên là người lao động, làm việc theo hình thức "chấm công, hưởng điểm". Việc xác lập quan hệ sở hữu như vậy chủ yếu là nhằm tăng quy mô của hợp tác xã, mà không xuất phát từ yêu cầu sản xuất và lợi ích của xã viên; không phù hợp với trình độ tổ chức sản xuất và quản lý của người lao động; vai trò của họ trong các hợp tác xã bị phai mờ, hoạt động sản xuất trì trệ, năng suất lao động thấp kém, thu nhập và đời sống của người lao động ngày càng giảm và gặp rất nhiều khó khăn.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta chủ trương đổi mới, phát triển kinh tế tập thể phải đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Xác định mục tiêu đổi mới, phát triển sở hữu tập thể là nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của hợp tác xã, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, có tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP của nền kinh tế, để cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế tập thể theo hướng phải nâng cao trình độ tổ chức, quản lý sản xuất và tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật đi đôi với thực hiện quan hệ trao đổi và liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế gia đình, trước hết là về mặt cung ứng vật tư, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Trong nông nghiệp, phải giải quyết đúng đắn quan hệ giữa nhà nước, kinh tế quốc doanh với hợp tác xã, đồng thời cải tiến quản lý trong nội bộ hợp tác xã, hoàn thiện phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động, gắn liền việc xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật với xây dựng nông thôn mới [20, tr.59].
58
Như vậy, để phát triển kinh tế tập thể, Đảng ta đã chủ trương phát triển LLSX gắn liền với đổi mới QHSX, đặc biệt là về quan hệ tổ chức quản lý, tuy nhiên, trên thực tế trong giai đoạn này, do lúng túng về cơ chế vận hành, chậm đổi mới đa dạng hoá các hình thức hợp tác và phương pháp tổ chức quản lý sản xuất, do thiếu quan tâm trong lãnh đạo và chỉ đạo, mặt khác do ảnh hưởng bởi yếu kém và khuyết tật của mô hình tổ chức quản lý cũ, vì vậy, kinh tế tập thể vẫn chưa phát triển, hoạt động kém hiệu quả, các hợp tác xã tan rã đồng loạt.
Để khắc phục những yếu kém đó và phát huy vai trò của hợp tác xã đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH, Đại hội lần thứ VII
của Đảng chủ trương phải tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông
nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân. Tiếp tục đổi mới và
kiện toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, phát
huy và kết hợp sức mạnh của tập thể và xã viên. Phát triển các hình thức hợp
tác đa dạng và mở rộng các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, tiểu,
thủ công nghiệp, mua bán, tín dụng ở những nơi cần thiết và có điều kiện.
Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể theo hướng đa dạng
hoá sở hữu nhằm mở rộng quy mô và phạm vi sở hữu. Kinh tế tập thể phát
triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt.
Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, hợp
tác, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, với
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhất là các DNNN, không
giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Các thành viên của kinh tế tập thể bao
gồm các thể nhân và pháp nhân, cả người nhiều vốn và người ít vốn cùng
với người lao động đều phải cùng nhau góp sức sản xuất kinh doanh trên cơ
sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác xã hình thành, củng cố và nâng cao
hiệu quả sản xuất của kinh tế tập thể, năm 1996, Quốc hội đã ban hành Luật
Hợp tác xã với những vấn đề có liên quan đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động
59
của hợp tác xã, các quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã, các vấn đề liên quan giữa
xã viên với hợp tác xã, tổ chức và quản lý hợp tác xã, tài sản của hợp tác xã;
vấn đề hợp nhất, chia tách và phá sản hợp tác xã. Theo luật này, hợp tác xã là tổ
chức sản xuất kinh doanh tập thể, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về vốn điều lệ, vốn sản xuất kinh doanh, vốn tích luỹ và các nguồn vốn
khác. Hợp tác xã có quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh, quyết định hình
thức, cơ cấu tổ chức sản xuất và quyết định vấn đề phân phối thu nhập.
Với yêu cầu tiếp tục đổi mới QHSX trong kinh tế tập thể, năm 2002,
Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về "Tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể"; đồng thời, đến năm
2003, Luật Hợp tác xã năm 1996 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung với nội
dung chủ yếu là: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia
đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập
ra theo quy định của luật để phát huy sức mạnh tập thể của từng thành viên
tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản
xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Luật này đã mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi
hơn về môi trường sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, các tổ chức, các hội, hiệp hội, các tầng lớp nhân dân…
tham gia và thành lập hợp tác xã; làm rõ hơn việc tổ chức và quản lý hợp tác
xã, tài sản và vốn của hợp tác xã, đặc biệt là xác định rõ tính chất, chức
năng, nhiệm vụ của Liên minh hợp tác xã Việt Nam - tổ chức đại diện, hỗ
trợ của hợp tác xã trong các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Có thể thấy, hệ thống luật pháp về kinh tế tập thể được cụ thể hoá
tương đối đầy đủ và đồng bộ những quan điểm của Đảng ta về phát triển thành
phần kinh tế tập thể. Các luật hợp tác xã, đặc biệt là Luật Hợp tác xã kiểu mới
năm 2003 là cơ sở pháp lý cho sự thay đổi về chất của hợp tác xã, tạo điều kiện
về môi trường kinh tế và pháp lý cho việc sắp xếp, tổ chức lại, chuyển đổi hợp
tác xã kiểu cũ sang hoạt động và phát triển theo mô hình hợp tác xã kiểu mới.
60
Cùng với Luật Hợp tác xã, Chính phủ và các địa phương đã xây dựng
và ban hành các văn bản hướng dẫn nhằm giải quyết những khó khăn của các
hợp tác xã, như giao đất, cho thuê đất, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
cho hợp tác xã, xoá nợ tồn đọng cho các hợp tác xã, hỗ trợ kinh phí cho việc
đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã, hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân
hàng… đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hợp tác xã tăng cường và mở rộng
quy mô sở hữu, nâng cao năng lực tổ chức quản lý và hiệu quả sản xuất.
Trải qua 20 năm đổi mới, thực hiện CNH, HĐH, Đại hội lần thứ X của
Đảng chủ trương tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế tập thể theo hướng:
Tiếp tục đổi mới chính sách để khuyến khích, thúc đẩy phát triển
mạnh các loại hình kinh tế tập thể với những hình thức hợp tác đa
dạng, tự nguyện, đáp ứng nhu cầu của các thành viên, phù hợp với
trình độ phát triển của các ngành, nghề trên địa bàn. Tiếp tục nghiên
cứu xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới trên cơ sở tổng kết các
đơn vị làm tốt để tăng sức hấp dẫn, tạo động lực cho kinh tế tập thể,
nhất là đối với nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Đa dạng hoá
hình thức sở hữu trong kinh tế tập thể (có sở hữu pháp nhân, thể
nhân). Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong hợp tác xã và các
hình thức liên hiệp hợp tác xã. Có cơ chế hợp tác xã phát huy quyền
sử dụng tư liệu sản xuất chung tại cơ sở; tách bạch giữa quyền này
với quyền sở hữu của các xã viên. Khuyến khích huy động cổ phần
và nguồn vốn góp của xã viên để không ngừng tăng thêm vốn đầu tư
phát triển hợp tác xã. Khuyến khích tăng tài sản và quỹ không chia
của hợp tác xã. Giải thể hoặc chuyển các hợp tác xã chỉ còn là hình
thức sang các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy
định của pháp luật [29, tr.235-236].
Như vậy, khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN, thì phát triển kinh tế tập thể là xuất phát từ yêu
61
cầu thực tế sản xuất kinh doanh và đời sống của các tầng lớp nhân dân, của
những người sản xuất nhỏ trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, đặc biệt là trong
nông nghiệp, nông thôn và nông dân, với phần lớn là những người nghèo, thế
yếu trong xã hội. Mặc dù đó là công việc khó khăn, phức tạp, gian khổ nhưng
đây là tất yếu khách quan nhằm đáp ứng các nhu cầu về lợi ích kinh tế, văn
hoá, xã hội của xã viên, của người lao động, đưa hàng triệu người dân có điều
kiện thoát khỏi nghèo đói, có vị thế về kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Từ thực tiễn sản xuất, kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã sẽ
từng bước khẳng định vai trò quan trọng không chỉ đối với sản xuất và đời
sống của hàng triệu người lao động, mà còn là nhân tố không thể thay thế, góp
phần thúc đẩy dân chủ hoá, bảo đảm an sinh xã hội và ổn định chính trị - xã
hội, đặc biệt là ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Với vị trí và vai trò quan
trọng cũng như yêu cầu tất yếu đó, Đại hội lần thứ XI của Đảng ta xác định:
Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt
là hợp tác xã. Tổng kết tình hình phát triển các hợp tác xã và thực hiện Luật
Hợp tác xã. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách hỗ
trợ, tạo điều kiện cho việc ra đời, phát triển các hợp tác xã, các tổ hợp tác kiểu
mới và các mô hình kinh tế tập thể khác theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có
lợi, có chức năng kinh tế và xã hội. Tạo điều kiện phát triển các trang trại ở
nông thôn và hình thành hợp tác xã của các chủ trang trại [31, tr.208-209].
Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế tư nhân:
Kinh tế tư nhân có kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ là loại hình do một chủ tổ chức quản lý sản xuất, trên
cơ sở sở hữu tư nhân có quy mô nhỏ về nguồn vốn và tư liệu sản xuất, lao động
dựa trên bản thân của họ là chủ yếu. Kinh tế tư bản tư nhân là loại hình dựa
trên sở hữu tư nhân về nguồn vốn và tư liệu sản xuất của một hay nhiều chủ, sử
dụng lao động làm thuê, trong đó chủ thể tư bản là chủ doanh nghiệp.
62
Tuy nhiên, theo thống kê chính thức của Nhà nước, các doanh nghiệp ngoài nhà nước được chia làm các loại hình doanh nghiệp, như doanh nghiệp tập thể, doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần có vốn nhà nước và công ty cổ phần không có vốn nhà nước. Riêng các loại công ty này, hiện nay theo quan điểm của Đảng ta thì chưa phải là thành phần kinh tế, mà là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước, tập thể và tư nhân. Và, cũng theo quy định hiện hành của Nhà nước, công ty cổ phần có vốn nhà nước chi phối được xếp vào DNNN và thuộc thành phần kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp tập thể được xếp vào thành phần kinh tế tập thể. Trên cơ sở đó, trong nghiên cứu này, chúng tôi quy ước các loại hình doanh nghiệp còn lại thuộc thành phần kinh tế tư nhân.
Trước khi tiến hành công cuộc đổi mới, với nhận thức cứng nhắc về mô hình kinh tế của CNXH và do nhận thức và vận dụng sai lầm quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, vì vậy chúng ta coi sở hữu tư nhân là đối lập và không thể điều hoà được với sở hữu XHCN, là đối tượng "cải tạo", "xoá bỏ" của CNXH, do đó đã triệt tiêu sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Trong quá trình đổi mới, mục tiêu hàng đầu của quá trình thực hiện CNH, HĐH mà Đảng ta chủ trương là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Để đạt mục tiêu đó, chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đối với kinh tế tư nhân, Đảng ta đã có nhận thức ngày càng đúng đắn về vị trí và vai trò quan trọng của thành phần kinh tế này trong sự phát triển. Tại Hội nghị Trung ương 3 khoá IX, năm 2002, Đảng ta có Nghị quyết riêng đối với kinh tế tư nhân: "Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển kinh tế tư nhân", coi:
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế [26, tr.57-58].
63
Việc đổi mới sở hữu tư nhân phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
trong kinh tế tư nhân được Đảng ta chủ trương phát triển theo hướng xã hội hoá
sở hữu, đa dạng hoá các loại hình kinh doanh, không hạn chế về quy mô, trình
độ và phạm vi hoạt động mà pháp luật không cấm. Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu và lợi ích hợp pháp đối với các chủ thể tư nhân. Hiến pháp năm 1992
khẳng định: Sở hữu tư nhân là một trong các chế độ sở hữu trong cơ cấu kinh tế
đa sở hữu ở Việt Nam gắn với chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Các chủ thể sở hữu tư nhân được quyền chọn lựa hình thức tổ
chức kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp. Nhà nước bảo hộ vốn và tài sản
hợp pháp của sở hữu tư nhân. Sở hữu tư nhân có quyền bình đẳng trước pháp
luật và có quyền liên doanh, liên kết với các cá nhân, các tổ chức kinh tế trong
và ngoài nước, với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ được Đảng ta xác định là có tiềm năng to lớn,
có vị trí quan trọng lâu dài, vì vậy, cần khuyến khích phát triển trong các ngành
nghề, lĩnh vực cả ở nông thôn và thành thị, không bị hạn chế việc mở rộng sản
xuất kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, tham gia các loại hình hợp tác xã, liên
kết với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức để cùng phát triển.
Năm 1998, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về "Đổi mới quản lý nông
nghiệp" đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ gia đình khai thác có hiệu quả
các nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn. Nhiều hộ nông dân có điều kiện
về vốn, tư liệu sản xuất, kinh nghiệm sản xuất đã đầu tư phát triển sản xuất.
Tuy nhiên, do trình độ lao động còn hạn chế, xa lạ với kinh tế thị
trường, vì vậy, Nghị quyết này chưa đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH. Để
tiếp tục phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tại Hội nghị Trung ương 5
khoá VII, Đảng ta chủ trương là ngoài việc mở rộng quyền tự chủ về ruộng đất
trước đó của nông dân, nay còn có thêm các quyền, như quyền thừa kế, thế
chấp, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê và hưởng lợi. Chủ trương này đã
đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo nhân dân, tạo điều kiện cho kinh tế tư
nhân trong nông nghiệp, nông thôn phát triển. Những hộ nông dân tích luỹ
64
được vốn, có lao động và kinh nghiệm sản xuất đã mở rộng quy mô sản xuất,
thay đổi cách thức tổ chức sản xuất để chuyển sang sản xuất hàng hoá cùng với
sự ra đời của kinh tế tiểu chủ, kinh tế trang trại và kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân được Đảng ta khuyến khích phát triển rộng rãi
trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo
môi trường thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển
trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài;
khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao
động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.
Tổng kết thực tiễn 20 năm phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta, tại Đại
hội lần thứ X, lần đầu tiên Đảng ta xác định "kinh tế tư nhân là một trong
những động lực của nền kinh tế". Từ đó, Đại hội chủ trương phát triển mạnh
các hộ sản xuất kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân.
Mọi công dân đều có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với
quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có
quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh
doanh; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của
tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả
các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm [29, tr.86-87].
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thừa nhận sự tồn tại
sở hữu tư nhân và khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân
không hạn chế về quy mô trong các ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không
cấm là phù hợp với điều kiện ở nước ta, bởi vì trình độ phát triển kinh tế ở
nước ta vẫn còn thấp kém, LLSX đa dạng, nhiều trình độ, không đồng đều.
Trong mỗi chặng đường phát triển đó, điều quan trọng là phải nắm vững yêu
cầu của quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX để huy động
sức mạnh của toàn xã hội, phát triển sức sản xuất; kiên quyết ngăn ngừa và
khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí trong việc vận dụng lý luận vào thực tiễn.
65
Mặt khác, kinh tế tư nhân ở nước ta không tồn tại biệt lập, mà phát triển trong
mối quan hệ hợp tác, liên kết, liên doanh với các hình thức sở hữu và các thành
phần kinh tế khác trong điều kiện Đảng Cộng sản lãnh đạo và có sự quản lý,
hướng dẫn của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đây là những nhân tố trực tiếp
chi phối xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân, giữ vai trò quan trọng trong
việc tạo ra động lực to lớn để thành phần kinh tế này khai thác các nguồn lực
vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Đối với kinh tế tư nhân, trong quá trình tổ chức thực hiện các nghị
quyết của Đảng, Nhà nước đã thể chế hoá thành hệ thống luật pháp và chính
sách cụ thể. Năm 1990, Nhà nước ban hành Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp
cho phép tư nhân mở các xí nghiệp lớn. Năm 1994, Nhà nước ban hành Luật
Đầu tư trong nước để thu hút nhiều hơn các nguồn lực của các nhà đầu tư tư
nhân để phát triển sản xuất. Sau Đại hội lần thứ VIII, Nhà nước ban hành Luật
Doanh nghiệp thay cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp năm 1990, đã tạo
ra sức bật mạnh mẽ cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển. Năm
2005, nhằm tạo khung khổ pháp lý bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, Nhà nước đã
ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư chung, thể hiện sự chuyển biến
lớn về nhận thức đối với vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân. Có thể thấy, chúng
ta đã đạt được những tiến bộ trong việc xây dựng hệ thống khung khổ pháp
luật, chính sách về sở hữu tư nhân và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế này. Pháp luật đã thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân đối với các yếu
tố sản xuất, như vốn, sức lao động, khoa học và công nghệ, quyền sử dụng đất
đai…; thừa nhận các quyền, như quyền giao dịch, chuyển giao tài sản, quyền tự
do kinh doanh…; cho phép các nhà đầu tư tư nhân đầu tư vào kết cấu hạ tầng,
một số lĩnh vực dịch vụ công và các ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Vấn đề đẩy mạnh xã hội hoá sở hữu tư nhân, đa dạng hoá các loại hình
tổ chức kinh doanh theo hướng phát triển các hình thức sở hữu hỗn hợp đã
66
được Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục chủ trương: Hoàn thiện cơ chế,
chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động
lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các
ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều
kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập
đoàn kinh tế nhà nước… Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp
với hình thức sở hữu hỗn hợp như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn nhiều thành viên, công ty hợp danh, hợp tác xã cổ phần [31, tr.209-210].
Nền kinh tế thị trường cần phải dựa trên nền tảng sở hữu hỗn hợp của
các chủ thể; trong đó, sở hữu hỗn hợp dựa trên chế độ cổ phần sẽ chiếm ưu thế.
Đó là kết quả xã hội hoá sở hữu và sản xuất kinh doanh ở trình độ cao do yêu
cầu phát triển mạnh mẽ của LLSX, của cách mạng khoa học và công nghệ.
Hình thức sở hữu này ngày càng phát triển và từng bước vượt qua biên giới
quốc gia, gắn liền với sự phát triển của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc
gia như C.Mác chỉ ra, sở hữu cổ phần và công ty cổ phần sẽ trở thành phổ biến,
là "điểm quá độ" tất yếu dẫn tới sự chuyển hoá ngược của tư bản thành sở hữu
của những người sản xuất tách biệt nhau và trở thành sở hữu xã hội trực tiếp.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, về cơ bản
phải dựa trên nền tảng của sở hữu hỗn hợp cổ phần của các chủ thể công,
chủ thể tư. Thực hiện chủ trương này không chỉ giải quyết mâu thuẫn giữa
quyền sở hữu nhà nước về tài sản, vốn với việc thực hiện quyền sử dụng đó
trong thực tế đã xảy ra trong kinh tế nhà nước hiện nay: quyền sử dụng tài
sản và vốn thuộc sở hữu nhà nước không chỉ giao cho các DNNN, mà còn
giao cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác theo nguyên tắc vừa
bảo đảm sử dụng đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, vừa bảo đảm sự quản
lý, kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của trình độ xã hội hoá LLSX và hội
nhập quốc tế.
67
Mặc dù các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất có bản chất và trình độ
phát triển khác nhau, nhưng có liên kết, liên doanh với nhau hình thành nên
nhiều loại hình kinh tế sở hữu hỗn hợp, nhằm tạo ra sức mạnh để sản xuất kinh
doanh có hiệu quả. Sở hữu cổ phần sẽ tạo ra quyền tham gia vạch kế hoạch sản
xuất kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, quyền ứng cử và bầu cử vào hội đồng
quản trị, quyền chuyển nhượng và thừa kế tài sản cổ phần và quyền thu nhập từ
sở hữu. Đáng chú ý là người lao động trong các doanh nghiệp này có thể tham
gia mua cổ phần và trở thành cổ đông của doanh nghiệp, ngoài quyền được lao
động và thu nhập bằng tiền lương, tiền công, họ còn được tham gia tổ chức
quản lý, giám sát và nhận thu nhập từ cổ phần. Có thể khẳng định, sở hữu hỗn
hợp dựa trên chế độ cổ phần là hình thức biểu hiện quan trọng của trình độ xã
hội hoá sản xuất kinh doanh. Chính sự phát triển của hình thức sở hữu này sẽ
tạo nên con đường ngắn và trực tiếp dẫn đến việc giảm dần và thu hẹp sự đa
dạng, không đều, nhiều trình độ của trình độ LLSX ở nước ta hiện nay.
Như vậy, khi thừa nhận phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta là tất yếu khách quan, thì việc phát triển kinh tế tư nhân
trở thành một động lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Những lo ngại
về phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân đã được chúng
ta tháo bỏ từng bước. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân của
Đảng và Nhà nước ta ngày càng cởi mở và thông thoáng hơn, vai trò của nó
được đánh giá ngày càng rõ ràng và đúng đắn hơn. Thành phần kinh tế này
góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, như
phát huy quyền làm chủ về kinh tế của nhân dân, huy động được nhiều
nguồn vốn đầu tư, đất đai, kinh nghiệm sản xuất, nâng cao sức sản xuất của
xã hội, tạo được nhiều việc làm mới, giảm áp lực trong giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động, thực hiện xoá đói, giảm nghèo; thúc đẩy sự ra
đời và phát triển của các loại thị trường, làm cho sản xuất hàng hoá phát
triển, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, tạo nên sự cạnh tranh bình
68
đẳng giữa các thành phần kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta chủ trương
phải kết hợp và sử dụng các hình thức phân phối trên cơ sở nguyên tắc của
kinh tế thị trường gắn với nguyên tắc của CNXH. Đối với kinh tế tư nhân,
do tất cả các mặt trong QHSX như sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất, phân
phối sản phẩm đều gắn với sự quản lý của Nhà nước, vì vậy các doanh
nghiệp tư nhân không thể mang tính chất tư bản chủ nghĩa như trong chủ
nghĩa tư bản, với bản chất bóc lột giá trị thặng dư. Trong quan hệ phân phối,
việc bóc lột hay không còn phụ thuộc vào năng lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước và việc chấp hành pháp luật, chính sách của các chủ thể kinh tế tư
nhân. Nếu các chủ thể tư nhân sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tôn trọng
pháp luật, nộp thuế đầy đủ và trả công lao động hợp lý, làm tốt nghĩa vụ xã
hội và có khả năng tạo ra nhiều giá trị thặng dư, tích luỹ tái sản xuất mở
rộng, thì không thể coi là bóc lột. Trong kinh tế tư nhân, do sự đa dạng hóa
sở hữu và tổ chức quản lý sản xuất, vì vậy, quan hệ phân phối cũng diễn ra
với nhiều hình thức theo các nguyên tắc của thị trường và sự quản lý của
Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, chính sách điều tiết phân
phối, hạn chế tối đa sự chênh lệch về phân phối giá trị mới tạo ra.
Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế ra đời chủ yếu
từ nguồn vốn và tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tư nhân ở ngoài nước. Sở hữu
của nhà đầu tư nước ngoài thuộc hình thức sở hữu tư nhân, là một trong ba hình
thức sở hữu cơ bản ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài là một trong những thành phần kinh tế có vị trí
quan trọng đối với nền kinh tế ở nước ta. Quan điểm của Đảng ta coi thành
phần kinh tế này là một lực lượng có điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện
69
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Mục tiêu phát triển thành phần
kinh tế này là để thúc đẩy mạnh mẽ LLSX trên cơ sở thu hút vốn, công nghệ,
kinh nghiệm, tri thức tổ chức quản lý nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi
thế về tài nguyên, sức lao động, góp phần thực hiện CNH, HĐH đất nước, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm mới cho người lao động,
đẩy nhanh quá trình phân công lao động quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những vấn đề cần quan tâm giải quyết nhằm tạo môi trường kinh
tế và pháp lý để thu hút vốn đầu tư của thành phần kinh tế này, thì vấn đề sở
hữu của nhà đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng, tác động rất lớn đến kết
quả thực hiện chính sách đầu tư, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Việc giải
quyết vấn đề này gắn liền với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, có liên hệ chặt chẽ đến quan hệ sở hữu tư nhân và liên quan đến việc
xây dựng QHSX XHCN mà nền tảng là chế độ sở hữu toàn dân ở nước ta.
Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã đổi mới chính sách đối ngoại, coi đây
là nhiệm vụ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH để phát triển
đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, Đảng ta đã nêu lên những tư tưởng về thu hút
đầu tư nước ngoài và phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều
hình thức, nhất là đối với những ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng
xuất khẩu. Cần có chính sách và biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác sản xuất kinh doanh.
Thể chế hoá quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, cùng với việc ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm
1987, Hiến pháp năm 1992 đã xác định rõ: Nhà nước khuyến khích các tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với
pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp
pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước
ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá. Có thể
70
nói, đây là những cơ sở pháp lý không chỉ tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu
hút các nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển, mà còn là
cơ sở cho việc ra đời thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sau này.
Cùng với việc nhấn mạnh chiến lược công nghiệp hoá hướng mạnh về
xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm trong quan hệ đối
ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế, thì để phát triển mạnh kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, trong quan hệ quản lý và phân phối, chủ trương của Đảng ta là
phải "Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có
hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động trong các xí nghiệp hợp tác, liên doanh" [23, tr.96].
Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ IX, năm 2001, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài được Đảng ta xác định là một thành phần kinh tế độc lập, đồng thời chủ
trương mở rộng các lĩnh vực đầu tư và đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước
ngoài cho phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế; cho phép các nhà đầu
tư nước ngoài cùng tham gia đầu tư vào các dự án có quy mô lớn gắn với việc
mở rộng lĩnh vực và hình thức, phương thức đầu tư. Vốn đầu tư, công nghệ sản
xuất hiện đại, kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của các nhà đầu tư nước
ngoài được coi là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta. Vì vậy, phải: "Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển
thuận lợi, hướng về xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với
thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh
tế và pháp luật để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài" [25, tr.99].
Để thích ứng với yêu cầu hội nhập và mở rộng kinh tế quốc tế, bảo đảm
thật sự bình đẳng trong môi trường đầu tư kinh doanh, xoá bỏ sự khác biệt về
những điều kiện và các ưu đãi giữa các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước,
giữa các thành phần kinh tế, năm 2005, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư
chung. Luật này có quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh,
xác định quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư, khuyến khích và ưu đãi đầu tư
gắn với quản lý nhà nước về đầu tư ở nước ta; quy định các hình thức đầu tư
71
trực tiếp nước ngoài, trong đó thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và
doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là những pháp nhân kinh tế.
Như vậy, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận quan trọng của
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Các nhà đầu tư nước ngoài được đối xử
bình đẳng như các nhà đầu tư trong nước. Các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế này có thể kết hợp đan xen các hình thức sở hữu (tư nhân, tập thể, công
cộng), có quyền chuyển đổi hình thức sở hữu. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh
doanh có thể chuyển thành hình thức liên doanh. Hình thức doanh nghiệp liên
doanh có thể chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và từ
hình thức này có thể chuyển đổi thành doanh nghiệp 100% đầu tư trong nước...
điều này sẽ làm cho quan hệ sở hữu vận động theo đúng bản chất của nó.
Có thể khẳng định, trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên
CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tích luỹ của nước ta còn thấp, mức thu
nhập tính theo đầu người cũng thấp, vì phần lớn thu nhập dùng cho sinh hoạt.
Trong khi đó, chúng ta lại rất cần lượng vốn lớn để phát triển sản xuất, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Trong
điều kiện như vậy, có thể thông qua kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt
với các đối tác là công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia để thực hiện chủ trương
cải tạo, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của các cơ sở sản xuất hiện có;
cải tiến, hiện đại công nghệ truyền thống, xây dựng có trọng điểm một số
ngành, lĩnh vực kinh tế với công nghệ hiện đại, như điện tử, tin học, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ chế biến, các dạng năng lượng
mới, góp phần quan trọng vào thực hiện CNH, HĐH, xây dựng cơ sở vật chất,
kỹ thuật của CNXH. Chính vì vậy, Đại hội lần thứ XI của Đảng ta tiếp tục chủ
trương trong giai đoạn tới phải: "Thu hút mạnh đầu tư trực tiếp của nước ngoài
vào những ngành, lĩnh vực kinh tế phù hợp với quy hoạch và chiến lược phát
triển của đất nước, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao" [31, tr.209].
Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu đối với nước ta trong quá trình CNH,
HĐH. Trong điều kiện mở cửa, hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng và có chiều
72
sâu, nhất là từ khi nước ta gia nhập và trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả của kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ
góp phần quan trọng thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn quá
trình khắc phục tình trạng kém phát triển về kinh tế so với các nước trong khu
vực và trên thế giới, giải quyết nhiều công ăn việc làm mới cho người lao động.
Tiểu kết chương 2
Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX biểu hiện thành quy luật
cơ bản - quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX,
phản ánh sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội nói chung và trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia, dân tộc nói riêng. Tuy nhiên, do
sự tác động của nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội; điều
kiện quốc tế, đường lối chính trị, yếu tố truyền thống và văn hóa… đã tạo
nên những nét đặc thù trong việc nhận thức và vận dụng quy luật này.
Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều
kiện trình độ phát triển của LLSX đa dạng, không đồng đều, vì vậy nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu là thực hiện CNH, HĐH, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực nhằm xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH và không ngừng nâng cao đời sống
của nhân dân. Nhận thức đúng yêu cầu đó, trong quá trình đổi mới, Đảng và
Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp thực hiện CNH, HĐH để
phát triển LLSX, tạo cơ sở củng cố, từng bước hoàn thiện QHSX mới.
Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, chúng ta đã có những bước phát triển nhận thức ngày càng đúng
đắn về quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Đảng ta đã
có nhiều chủ trương đổi mới quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân
phối trong tất cả các thành phần kinh tế và được Nhà nước thể chế hoá thành hệ
73
thống pháp luật, cơ chế, chính sách. Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần
kinh tế được đổi mới căn bản từ sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các
tổ chức kinh tế đa dạng cùng phát triển. Vị trí và vai trò của các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế được xác định rõ: kinh tế nhà nước nắm giữ vai trò
chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Mục đích của việc
xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình
CNH, HĐH là nhằm khai thác các lợi thế, tiềm năng trong và ngoài nước, các
thành phần kinh tế vào phát triển kinh tế - xã hội, ổn định và nâng cao đời sống
của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và
văn minh. Có thể khẳng định, đó là thành tựu nổi bật nhất của sự nhận thức và
vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước trong thời quá độ lên CNXH.
74
Chương 3 XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA CHÚNG TỚI VIỆC XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY
Trong quá trình xây dựng QHSX, chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội ở
Đà Nẵng theo hướng CNH, HĐH, tất yếu cần phải coi trọng các yếu tố về điều
kiện địa lý, dân số và kinh tế - xã hội nhằm khai thác và phát huy được chúng.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng giai đoạn
2006 - 2010 nêu rõ: Khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế so sánh của thành phố
về địa lý, tiềm năng kinh tế biển, lợi thế về giao thông đường bộ, đường thuỷ,
đường sắt, đường hàng không, tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây; tiềm năng
thiên nhiên biển và núi, nhằm tạo nền tảng và cơ sở để phát triển [18, tr.139].
Tính đến năm 2011, diện tích tự nhiên của Đà Nẵng là 1.285,43 km2, với vùng đất liền và vùng quần đảo trên biển Đông, dân số là 951.648 người [11,
tr.9]; phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng
Nam, phía Đông giáp biển Đông. Đà Nẵng nằm ở trung độ của đất nước, trên
trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng
không, là điều kiện rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Trong phạm vi khu vực và quốc tế, Đà Nẵng là cửa ngõ quan trọng của
biển Đông và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các nước thuộc
vùng Đông Bắc Á thông qua hành lang kinh tế Đông - Tây với điểm kết thúc là
Cảng biển Tiên Sa. Trong đó, hành lang Kinh tế Đông - Tây là một trong năm
hành lang kinh tế được ra đời theo sáng kiến của Ngân hàng Phát triển Châu Á ở
khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông. Đây là những điều kiện thuận lợi đem lại cơ
hội cho các quốc gia ở khu vực này thực hiện quá trình liên kết, hợp tác và phân
75
công lao động quốc tế, tham gia đầu tư, đa dạng hóa các hoạt động phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội, du lịch và nâng cao mức sống cho nhân dân; tạo ra khả
năng to lớn cho những doanh nghiệp các nước tiếp cận có hiệu quả vùng nguyên
liệu, thị trường dịch vụ, vốn, khoa học - công nghệ và lao động để phát triển.
Địa hình Đà Nẵng được thiên nhiên ưu đãi, có đồng bằng, có núi, có
sông và có biển. Vùng núi cao và dốc tập trung chủ yếu ở phía Tây và tây Bắc,
với độ cao từ 700 - 1500m, đây là nơi tập trung nhiều rừng đầu nguồn có ý nghĩa
bảo vệ môi trường sinh thái của thành phố. Hệ thống sông ngoài ngắn và dốc, bắt
nguồn từ phía Tây, tây Bắc và tỉnh Quảng Nam. Vùng đồng bằng ven biển thấp,
chịu ảnh hưởng của biển bị nhiễm mặn và là nơi mà thành phố đã xây dựng tập
trung nhiều cơ sở công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp và khu quân sự.
Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình. Mỗi năm
có 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7, mùa mưa kéo dài từ tháng 8
đến tháng 12. Nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng 25,2˚C, cao nhất vào tháng
6, 7, 8, trung bình từ 28 đến 30˚C và thấp nhất vào tháng 11, 12, 1, trung bình từ
18 đến 23˚C. Độ ẩm không khí trung bình là 83,4%, lượng mưa trung bình hằng
năm là 3.647,8mm/năm, với 1.781,6 số giờ nắng bình quân trong năm. Có thể
thấy, điều kiện khí hậu như vậy đã ảnh hưởng không tốt đến phát triển kinh tế -
xã hội và đời sống dân cư. Đặc biệt trong những năm qua, hạn hán và bão lụt
thường xuyên xảy ra, ít nhiều đã gây ra khó khăn cho đời sống của nhân dân và
hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế trên địa bàn.
Đất đai ở Đà Nẵng là nguồn lực quý cho việc phát triển nông nghiệp,
lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và chuyển thành vốn đầu tư. Diện tích đất
nông, lâm nghiệp là 66.092,88 ha, đất phi nông nghiệp là 52.075,99 ha và đất
chưa sử dụng là 1.943,44 ha [11, tr.10]. Đất ở Đà Nẵng bao gồm các loại: đất
cồn cát, đất ven biển, đất mặn, đất phèn, đất phù sa, đất xám bạc màu, đất đen,
đất đỏ vàng, đất mùn đỏ vàng và đất thung lũng; trong đó đặc biệt là đất phù sa
phù hợp với sản xuất nông nghiệp, đất đỏ vàng phù hợp với trồng cây công
nghiệp dài ngày. Trong những năm qua, nguồn thu cho ngân sách từ việc khai
76
thác quỹ đất khá lớn và dùng để đầu tư chỉnh trang đô thị, xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, góp phần quan trọng tạo nền tảng vật chất của thành phố.
Đà Nẵng là địa phương có điều kiện thuận lợi để phát triển nông - lâm -
thuỷ sản, công nghiệp và dịch vụ, du lịch theo hướng hiện đại, cụ thể là:
Về nông nghiệp: Đất nông nghiệp của thành phố chiếm 9,34% diện tích
đất tự nhiên, có thể trồng cây lương thực, trồng hoa, cây thực phẩm, trồng rau
sạch. Ở miền núi thuộc huyện Hoà Vang có thể phát triển ngành chăn nuôi, trồng
cây ăn quả, các loại cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày… là những điều
kiện thuận lợi để khuyến khích hình thức kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát
triển các khu vực nông nghiệp công nghệ cao, tạo ra vành đai thực phẩm cung
cấp cho đô thị và cho các khu công nghiệp, đặc biệt cung cấp nguyên liệu cho
các cơ sở công nghiệp chế biến, tạo thêm việc làm cho người lao động.
Về lâm nghiệp: Với diện tích đất lâm nghiệp khoảng 64.303 ha, chiếm
40,96% diện tích đất tự nhiên là điều kiện thuận lợi để phát triển lâm nghiệp kết
hợp với nông nghiệp, dịch vụ và du lịch. Đất rừng tự nhiên của Đà Nẵng tập
trung chủ yếu ở phía Tây huyện Hòa Vang và một số ít ở quận Liên Chiểu, Sơn
Trà. Đất rừng ở đây phù hợp để xây dựng các mô hình trồng rừng, vườn cây ăn
quả, vườn sinh thái và làng sinh thái. Rừng của thành phố ngoài ý nghĩa kinh tế
còn có ý nghĩa phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường
sinh thái và phát triển du lịch, nhất là khu vực Sơn Trà, Hải Vân và Bà Nà.
Về thuỷ sản: Đà Nẵng có điều kiện phát triển kinh tế biển trở thành
ngành chủ lực. Diện tích có nuôi trồng thuỷ sản là 2.400 ha, bờ biển dài 92km,
có vịnh nước sâu với cửa biển Tiên Sa thuận lợi giao lưu hàng hoá với các nước.
Vùng lãnh hải thềm lục địa có độ sâu 200m, tạo vành đai nước nông rộng lớn;
vùng biển có trữ lượng hải sản lớn với 100.000 tấn, khai thác hằng năm trên
60.000 tấn phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản phục vụ xuất khẩu.
Dân cư ven biển có truyền thống về nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản.
Về công nghiệp: So với các tỉnh miền Trung, Đà Nẵng là địa phương có ngành công nghiệp sớm nhất. Hiện nay, Đà Nẵng là một trung tâm công nghiệp
77
lớn của khu vực miền Trung và Tây Nguyên; có nhiều cơ sở đào tạo công nhân, có môi trường sản xuất công nghiệp tốt, người lao động có kinh nghiệm trong sản xuất công nghiệp. Thành phố cũng có nguồn nguyên liệu từ ngành thuỷ sản để phát triển công nghiệp chế biến. Đặc biệt, thành phố có 6 khu công nghiệp, với tổng diện tích là 1.576 ha, là điều kiện tốt để thu hút đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp công nghệ cao.
Về dịch vụ, du lịch: Do Đà Nẵng có lợi thế về sân bay, cảng biển, hệ thống giao thông đường bộ, hệ thống tài chính, ngân hàng, tín dụng, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, khách sạn, nhà hàng… vì vậy, đã thuận lợi cho thành phố trong hoạt động vận tải, xuất nhập khẩu, du lịch; là nguồn cung ứng lao động và vốn chủ yếu cho các thành phần kinh tế phát triển. Đặc biệt, thành phố có tiềm năng rất lớn về du lịch tự nhiên và nhân văn với nhiều thắng cảnh nổi tiếng như đèo Hải Vân, Nam Ô, Xuân Thiều, bán đảo Sơn Trà, Bà Nà Núi Chúa, Ngũ Hành Sơn, Bảo tàng Điêu khắc Chăm... Bờ biển có nhiều bãi tắm đẹp, như Non Nước, Mỹ Khê, Thanh Khê, Làng Vân... Mặt khác, do nằm ở trung tâm và gắn kết của "con đường di sản thế giới" ở miền Trung: Đà Nẵng - Cố đô Huế (Thừa Thiên - Huế): 100km về phía Bắc, Đà Nẵng - Đô thị cổ Hội An (Quảng Nam): 30km về phía Đông Nam và Đà Nẵng - Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam): 70km về phía Tây Nam, vì vậy, thành phố có điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là ngành kinh tế du lịch.
Nguồn nhân lực ở Đà Nẵng dồi dào và có chất lượng so với các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Tính đến 31/12/2012, tổng số nguồn lao động của thành phố là 696.700 người, chiếm tới 48% tổng số dân của thành phố, trong đó lực lượng lao động là 515.018 người (công nhân kỹ thuật là 36.961, cao đẳng và đại học là 106.681, trung học là 35.126 và lao động khác là 336.250) [13, tr.24]. Đà Nẵng là trung tâm giáo dục - đào tạo lớn ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Hiện nay, có Đại học Đà Nẵng với 4 đại học thành viên; 4 trường đại học dân lập, 13 trường cao đẳng, 7 trường trung cấp nghề, 17 trung tâm dạy nghề và 33 cơ sở khác, là điều kiện để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong quá trình CNH, HĐH.
78
Kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, xã hội của Đà Nẵng khá phát triển, như
năng lượng, bưu chính - viễn thông, bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng - tài chính,
giáo dục - đào tạo, y tế… Đặc biệt, hệ thống giao thông từng bước được hiện đại
với đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không, cảng biển. Hệ thống đường bộ
không ngừng được đầu tư xây dựng và mở rộng, với nhiều công trình lớn trên
địa bàn và được kết nối với các tỉnh thành bên ngoài với đường Quốc lộ 1A,
Quốc lộ 14B, hầm đường bộ Hải Vân... là điều kiện thuận lợi để phát triển công
nghiệp, dịch vụ, du lịch và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh của Đà Nẵng tương đối thuận
lợi. Chính quyền đã và đang triển khai nhiều biện pháp tích cực, linh hoạt, có
tính chất đặc thù của thành phố theo hướng thông thoáng và hấp dẫn, như tập
trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ban hành nhiều cơ chế, chính sách
khuyến khích và ưu đãi đầu tư, triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các thành phần kinh tế đầu tư khai thác
các tiềm năng, phát huy lợi thế của thành phố để phát triển kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở điều kiện cụ thể về tự nhiên, kinh tế - xã hội như vậy, trong
quá trình đổi mới, Đảng bộ thành phố đã chủ trương phát triển Đà Nẵng nhanh
và bền vững theo hướng CNH, HĐH, đồng thời xác định cơ cấu kinh tế của
thành phố là: Công nghiệp - thương mại, du lịch - nông nghiệp. Tuy nhiên, qua
thực tiễn phát triển, đến Đại hội Đảng bộ lần thứ XX, năm 2010, đã chủ trương
chuyển sang cơ cấu kinh tế theo hướng "Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp".
Đặc biệt, trong quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ
vị thế trọng yếu và vai trò chiến lược của Đà Nẵng trong kế hoạch phát triển kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội khu vực miền Trung nói riêng và cả nước nói chung.
Một trong những sự kiện nỗi bật là ngày 19/9/2003, Bộ Chính trị ban hành Nghị
quyết số 33-NQ/TW "Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" với mục tiêu tổng quát: Xây dựng
Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế -
xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du
79
lịch và dịch vụ; là thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung
chuyển vận tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông và tài
chính - ngân hàng; một trong những trung tâm văn hoá - thể thao, giáo dục - đào
tạo và khoa học - công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược
quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước.
3.2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY
3.2.1. Thực trạng xây dựng quan hệ sản xuất trong kinh tế nhà nước
3.2.1.1. Những kết quả đạt được
Trước đổi mới, về cơ bản, việc xây dựng QHSX trong kinh tế quốc
doanh ở Đà Nẵng trên cơ sở cùng với việc tranh thủ sự viện trợ của Trung ương
về tiền vốn, kỹ thuật, cán bộ để đầu tư khôi phục và phát triển kinh tế. Thành
phố đã khởi công xây dựng nhiều cơ sở kinh tế, tổ chức sắp xếp lại và phát triển
các xí nghiệp trọng điểm trong công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nông nghiệp
và các cơ sở chế biến trong ngư nghiệp, tiến hành đăng ký kinh doanh công
thương nghiệp XHCN. Kết quả đó đã tạo nền tảng vật chất quan trọng cho quá
trình đổi mới của thành phố, cải thiện một bước đời sống cho người lao động và
ổn định chính trị - xã hội ở thành phố. Tuy nhiên, kinh tế quốc doanh chưa được
củng cố và phát triển hợp lý. Các doanh nghiệp bao chiếm nhiều tài sản, đất đai,
vật tư, tiền vốn, thiết bị máy móc, lao động, nhưng do tổ chức quản lý sản xuất
thấp kém, thực hiện cơ chế quản lý với nhiều chỉ tiêu mang tính pháp lệnh, chịu
sự giám sát của các cơ quan nhà nước. Việc vận dụng quan hệ hàng hoá, tiền tệ
và kết hợp kế hoạch với thị trường còn hạn chế, năng lực quản lý của đội ngũ
cán bộ bất cập. Quan hệ phân phối theo cơ chế cấp phát xin cho ở đầu vào và
giao nộp ở đầu ra. Thực hiện phân phối chủ yếu mang tính chất cào bằng, bình
quân cho mọi thành viên, vì vậy chưa tạo động lực phát triển sức sản xuất.
Bước vào thời kỳ đổi mới, việc đổi mới sở hữu nhà nước đã được Đảng bộ thành phố quán triệt chủ trương của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
80
thứ VI về "củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa" để nắm giữ vai trò chi phối của nền kinh tế. Đáng chú ý là quán triệt chủ trương của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII về khẩn trương tổ chức, sắp xếp lại kinh tế quốc doanh, tập trung phát triển những cơ sở trọng điểm; cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, việc đổi mới sở hữu nhà nước theo chủ
trương của Đảng vẫn chưa đem lại kết quả tích cực, số lượng doanh nghiệp quốc
doanh không giảm mà còn tăng lên, nhưng hiệu quả kinh tế thấp. Đến năm 1997,
tỷ trọng của kinh tế nhà nước chiếm đến 47,19%, trong đó có 137 DNNN cả
trung ương và địa phương [40, tr.43]. Như đánh giá tại Đại hội Đảng bộ lần thứ
XVII, năm 1997, thì việc sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh được thực
hiện, nhưng kết quả còn rất thấp, chủ trương cổ phần hoá chưa được tiến hành.
Từ hạn chế đó, Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII chủ trương đổi mới sở hữu
nhà nước theo hướng sắp xếp, đổi mới hoạt động các DNNN trên địa bàn. Xử lý
những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài; xúc tiến cổ phần hoá một số
DNNN. Đặc biệt, trên cơ sở chủ trương của Đảng tại Đại hội lần thứ IX về đẩy
mạnh cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với DNNN, Đại hội Đảng bộ lần
thứ XVIII chủ trương: Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đẩy
mạnh sắp xếp, tổ chức lại các DNNN; thực hiện tốt chủ trương giải thể, cho phá
sản, giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài,
không có hướng phát triển, đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN [17, tr.46]. Cùng với
chủ trương của Đảng bộ, năm 2002, chính quyền thành phố đã ban hành và triển
khai "Đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước" nhằm tạo điều kiện hơn cho việc đổi mới sở hữu nhà nước.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, Đảng bộ thành phố chủ
trương phải đổi mới mối quan hệ quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước đối
với DNNN theo hướng tách chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp ra khỏi chức
năng quản lý nhà nước, chuyển chế độ chủ quản hành chính sang chế độ quản lý
của chủ sở hữu. Thực hiện cơ chế giám sát hoạt động kinh doanh của các doanh
81
nghiệp để bảo toàn và phát triển các nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước; giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Như vậy, chủ trương đổi mới sở hữu nhà nước ở Đà Nẵng diễn ra ngày
càng nhanh và mạnh hơn, nhằm tạo ra sự phù hợp với trình độ của LLSX. Sự đổi
mới này không chỉ phản ánh xu hướng đa dạng hoá sở hữu trong nền kinh tế
nhiều thành phần, mà còn diễn ra ngay trong lòng sở hữu nhà nước với tư cách là
một loại hình QHSX. Việc đổi mới sở hữu nhà nước là để thu hẹp phạm vi sở
hữu, những yếu tố không phù hợp với LLSX sẽ bị loại dần, những yếu tố sở hữu
mới phù hợp với LLSX được bổ sung, phát triển nhằm nâng cao năng lực sản
xuất và hiệu quả kinh tế để kinh tế nhà nước vươn lên nắm giữ vai trò chủ đạo.
Thực tiễn nước ta cũng như ở Đà Nẵng chỉ ra, sở hữu nhà nước không có khả
năng nắm hết tổng số LLSX để phát triển, mà phải "nhường" phạm vi và những
đối tượng sở hữu khác cho các hình thức sở hữu ngoài nhà nước phát triển.
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, đối với bộ phận phi doanh nghiệp,
chính quyền thành phố đã đổi mới công tác quản lý, điều hành và sử dụng các
nguồn vốn vay, các quỹ dự trữ, hệ thống tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, tài
nguyên…, đặc biệt là khai thác quỹ đất để tăng ngân sách nhà nước, thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, mà chủ yếu là đầu tư phát triển những
công trình trọng điểm, có liên quan đến an sinh xã hội và an ninh - quốc phòng.
DNNN địa phương được sắp xếp, tổ chức lại, giải thể, cho phá sản, giao,
bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài, không có
hướng phát triển, chỉ giữ lại các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực văn hoá, xã
hội, các dịch vụ thiết yếu gắn với công tác an sinh xã hội như cấp nước, môi
trường đô thị, kinh doanh nhà ở và phát triển hạ tầng. Đặc biệt là đẩy mạnh cổ
phần hoá, chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty TNHH MTV,
tìm hình thức đại diện chủ sở hữu nhà nước thông qua hội đồng quản trị.
DNNN trung ương được rà soát, xác định lại ngành, nghề kinh doanh,
tiến hành thực hiện cổ phần hoá. Đến nay, các DNNN đã nắm giữ những ngành
và lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như điện lực, dịch vụ cảng, hàng không,
82
đường sắt, viễn thông, điện tử, dịch vụ ngân hàng, các loại hình bảo hiểm, kết
cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật quan trọng, liên quan đến an ninh - quốc phòng…
Việc đổi mới, sắp xếp các DNNN địa phương đã thu được kết quả tích cực. Đến năm 2011 đã có 37 doanh nghiệp cổ phần hoá, giao 3 doanh nghiệp cho người lao động, sáp nhập và hợp nhất 17 cơ sở, giải thể 11 cơ sở, phá sản 7 cơ sở, chuyển giao về Trung ương 6 cơ sở, chuyển 7 cơ sở thành Công ty TNHH MTV [103, tr.3]. Nếu tính tổng cộng, thì số lượng doanh nghiệp cả trung ương và địa phương từ 137 cơ sở năm 1997 giảm còn 73 cơ sở năm 2012; trong đó, DNNN trung ương là 56 cơ sở [13, tr.59]. Lực lượng lao động của doanh nghiệp cũng giảm từ 56.528 người năm 1997 còn 36.901 người năm 2011 [13, tr.66].
Các doanh nghiệp cổ phần hoá đã xác lập chủ sở hữu rõ ràng hơn,
chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu trực tiếp của các cổ đông. So với DNNN
100% vốn nhà nước, thì doanh nghiệp cổ phần bước đầu khắc phục được quyền
hạn và trách nhiệm chủ sở hữu nhà nước bị phân tán và thất thoát trong đầu tư
vốn, tài sản nhà nước. Nhà nước rút được một lượng vốn khá lớn ra khỏi DNNN
để đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết, huy động được các nguồn vốn của các chủ
thể khác để phát triển. Mặt khác, chính do sự chuyển biến tích cực của quan hệ
sở hữu đã tác động làm thay đổi quan hệ tổ chức quản lý sản xuất. Công tác điều
hành và quản lý doanh nghiệp gắn với các chủ thể sở hữu, có sự tham gia của
các cổ đông và các nhà đầu tư, vì vậy các kế hoạch sản xuất kinh doanh, huy
động và sử dụng vốn được thực hiện theo nguyên tắc thị trường, hoạt động giám
sát sản xuất được tăng cường, tinh thần và trách nhiệm của người lao động trong
các doanh nghiệp được nâng lên. Việc đổi mới quan hệ tổ chức sản xuất đã thể
hiện sự phù hợp hơn với xu hướng xã hội hoá trình độ phát triển của LLSX, góp
phần làm cho năng lực sản xuất và hiệu quả kinh tế của DNNN được nâng cao.
Trong cơ cấu GDP, tỷ trọng của kinh tế nhà nước ở Đà Nẵng giảm từ
47,19% năm 1997 xuống còn 31,21% năm 2012 [13, tr.40]. Với cơ cấu này, nếu
so với các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, thì kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ
lệ tương đối lớn. Kết quả đáng khích lệ là mặc dù tỷ trọng trong cơ cấu GDP của
83
sở hữu nhà nước, số lượng doanh nghiệp và lực lượng lao động giảm đáng kể,
nhưng quy mô về nguồn vốn và tài sản dài hạn của từng doanh nghiệp đã tăng
lên. Nếu năm 1997, tổng nguồn vốn đầu tư chỉ đạt 423.200 triệu đồng, thì đến
năm 2011 tăng lên 25.669,9 tỷ đồng (DNNN trung ương là 23.490,3 tỷ đồng)
[13, tr.74], tài sản dài hạn của DNNN tăng từ 12.747,7 tỷ đồng năm 2000 lên
15.063 tỷ đồng năm 2011 (DNNN trung ương là 13.644,6 tỷ đồng) [13, tr.82].
Trong các DNNN thuộc trung ương, nhờ có ưu thế và khả năng phát
triển lâu dài đã có sự đầu tư (kể cả đầu tư trực tiếp của Nhà nước và liên doanh,
liên kết đầu tư), đổi mới về công cụ lao động, các trang thiết bị máy móc hiện
đại phục vụ sản xuất đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Đối với các
DNNN địa phương, các cơ quan quản lý kinh tế đã thực hiện các giải pháp hỗ
trợ, như ưu tiên đầu tư bằng cách bổ sung vốn tín dụng với điều kiện vay, trả
thuận lợi; ưu đãi cho các doanh nghiệp vay đầu tư chiều sâu, dành một khoản
tiền để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp, hỗ trợ cán bộ lãnh đạo, quản
lý doanh nghiệp. Mặt khác, bản thân các doanh nghiệp tự chủ động tìm kiếm và
mở rộng thị trường, đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề cho
người lao động… vì vậy, đã huy động có hiệu quả các nguồn lực để mở rộng
quy mô và nâng cao năng lực sản xuất, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và tạo
nguồn thu khá lớn cho ngân sách nhà nước, được thể hiện ở các chỉ số sau:
Mặc dù tỷ trọng trong cơ cấu GDP giảm, nhưng giá trị sản xuất tính theo
giá thực tế của kinh tế nhà nước trong những năm gần đây tăng lên đáng kể:
Đơn vị tính: Triệu đồng
Bảng 3.1: Giá trị sản xuất theo giá thực tế
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
16.241.521 17.106.186 20.273.823
25.700.038
27.285.032
Kinh tế nhà nước
21.529.284
21.319.370
- Trung ương quản lý 13.787.348 14.382.338 17.006.332
2.454.173
2.723.848
3.267.491
4.170.754
5.965.662
- Địa phương quản lý
Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng [11, tr.32] và [13, tr.32].
84
Tổng sản phẩm theo giá thực tế của kinh tế nhà nước; doanh thu, lợi
nhuận và nộp ngân sách nhà nước của DNNN đã tăng lên. Tổng sản phẩm
theo giá thực tế năm 1997 đạt 1.514.590 triệu đồng, đến năm 2012 tăng lên
13.882.671 triệu đồng [13, tr.38]; doanh thu tăng từ 28.199,9 tỷ đồng năm 2007
lên 35.257,3 tỷ đồng năm 2011 [13, tr.90]; lợi nhuận trước thuế tăng từ 154 tỷ
đồng năm 2006 lên 427,5 tỷ đồng năm 2011 [13, tr.98], nộp ngân sách nhà nước
tăng từ 960,37 tỷ đồng năm 2006 lên 1.046,9 tỷ đồng năm 2011 [13, tr.106].
Việc thực hiện quan hệ phân phối trong DNNN đã có chuyển biến tích
cực. Các doanh nghiệp từng bước thực hiện phân phối theo lao động, hiệu quả
kinh tế, vốn góp cổ phần, phúc lợi xã hội. Đến nay, thu nhập bình quân của
người lao động đã tăng lên đáng kể, góp phần nâng cao đời sống cho người
lao động. Theo khảo sát của Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng: nếu năm
2005, thu nhập bình quân của người lao động chỉ đạt 1.789.000 đồng/tháng,
thì đến năm 2012 đã tăng lên 5.053.000 đồng/tháng. Với mức thu nhập như
vậy, nếu so với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác,
thì thu nhập bình quân của người lao động trong các DNNN cao hơn.
Mặc dù CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành
phần kinh tế, tuy nhiên trong điều kiện tiềm lực của các thành phần kinh tế
khác chưa đủ mạnh, thì kinh tế nhà nước ở Đà Nẵng vẫn là lực lượng chủ chốt
trong quá trình chuyển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hiện đại. Như
đánh giá của Đảng bộ thành phố, thì kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng
trong việc thực hiện CNH, HĐH, phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội.
3.2.1.2. Những hạn chế
Quan hệ giữa quyền quản lý nhà nước với quyền sở hữu của Nhà nước
về các nguồn lực và việc sử dụng quyền sở hữu này trong sản xuất kinh doanh
ở các DNNN đến nay vẫn chưa giải quyết hợp lý và triệt để do còn "vướng
mắc về cơ chế, chính sách". Như Báo cáo tại Hội nghị Tổng kết 10 năm (2001
- 2011) về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN ở Đà
Nẵng, thì cơ chế, chính sách về quản lý các doanh nghiệp còn thiếu, chưa
85
đồng bộ (về quản lý sử dụng vốn, tài sản, về quyền của chủ sở hữu, người đại
diện sở hữu), việc tách bạch chức năng quản lý nhà nước, giám sát hiệu quả
hoạt động và chức năng kinh doanh vốn nhà nước chưa rõ ràng [103, tr.4].
Chính hạn chế này làm suy yếu sở hữu nhà nước, năng lực sản xuất chưa cao
và hiệu quả kinh tế còn thấp, chưa tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước.
Trong các DNNN trung ương, quá trình đổi mới, sắp xếp lại, trọng
tâm là đẩy mạnh cổ phần hoá theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước tiến hành còn chậm, thiếu kiên quyết. Đến nay, vẫn còn một số doanh
nghiệp hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần chi
phối. Việc huy động các nhà đầu tư có cổ đông lớn, mang tính chiến lược để
hình thành các doanh nghiệp cổ phần nhằm mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế.
Trong các DNNN địa phương, quá trình thực hiện chuyển đổi hình
thức sở hữu thông qua cổ phần hoá chưa giải quyết triệt để. Đó là việc xác
định tài sản chưa theo đúng các nguyên tắc thị trường và xử lý vấn đề tồn
đọng về tài chính, công nợ còn khó khăn, phức tạp… làm phân tán, thất thoát
tài sản của Nhà nước. Vai trò cổ đông của người lao động còn rất hạn chế, nên
không phát huy quyền làm chủ trong tổ chức quản lý sản xuất. Một số doanh
nghiệp sau khi cổ phần hoá đã nảy sinh hiện tượng tư nhân hoá do các cổ
đông lớn hoặc một nhóm nhỏ có tiềm lực tài chính mạnh lần lượt thâu tóm cổ
phiếu để kiểm soát, sau đó bán các tài sản có khả năng sinh lời cao để thu lợi.
Trình độ tổ chức quản lý sản xuất của đội ngũ lãnh đạo, quản lý doanh
nghiệp còn hạn chế, yếu kém. Một bộ phận cán bộ quản lý không đủ năng lực
quản lý theo cơ chế mới, còn có tâm lý dựa vào nhà nước. Mặt khác, do cơ
chế quản lý kinh tế của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu còn bất cập và vai
trò lãnh đạo phát triển kinh tế của các tổ chức đảng ở các doanh nghiệp còn
yếu, dẫn đến hiện tượng thiếu trách nhiệm, lãng phí, tham nhũng còn diễn ra.
Việc thực hiện quan hệ phân phối trong kinh tế nhà nước, DNNN
chưa thật sự do quy luật của thị trường quyết định, vẫn chưa phản ánh đúng
86
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Trong các DNNN, cơ chế quản lý
tiền lương và thu nhập ngoài lương, tiêu chí trả lương và đánh giá kết quả
lao động đã xuất hiện những bất ổn, diễn ra nhiều hệ quả tiêu cực. Tình
trạng trả lương còn mang tính bình quân, chủ yếu căn cứ vào thời gian lao
động là chưa phản ánh đúng thực chất năng suất lao động và hiệu quả kinh
tế. Trong thực hiện quan hệ phân phối giữa các đối tượng đã có sự bất bình
đẳng, khi tiền lương, thu nhập của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong các doanh nghiệp quá cao so với năng lực, trình độ của họ và hiệu quả
sản xuất của doanh nghiệp mà họ đang quản lý và so với người lao động
đang làm việc trong doanh nghiệp. Mặt khác, việc đổi mới DNNN thông qua
sáp nhập, hợp nhất, giải thể, giao, bán, khoán, cho thuê, cổ phần hoá dẫn tới
một bộ phận người lao động thiếu việc, mất việc làm, thu nhập bị giảm. Một
bộ phận do không có trình độ, tay nghề, sức khoẻ để làm công việc mới,
trong khi cơ chế bảo vệ người lao động chưa thực hiện có hiệu quả. Mặc dù
Đảng bộ đã có chủ trương, chính quyền và bản thân các doanh nghiệp đã có
nhiều giải pháp khắc phục, tuy nhiên, đến nay vẫn chưa giải quyết kịp thời
và triệt để làm lãng phí sức sản xuất, không khai thác hết sức lao động, ảnh
hưởng đến đời sống của người lao động và gây ra tiêu cực về mặt xã hội.
Như vậy, việc xây dựng QHSX trong kinh tế nhà nước vẫn còn bất
cập cả về sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất và phân phối, vì vậy, chưa tạo
động lực thúc đẩy mạnh mẽ LLSX phát triển trong quá trình CNH, HĐH, làm
cho kinh tế nhà nước chưa thật sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
3.2.2. Thực trạng xây dựng quan hệ sản xuất trong kinh tế tập thể
3.2.2.1. Những kết quả đạt được Cũng như cả nước, trước đổi mới, kinh tế tập thể ở Đà Nẵng được coi là
loại hình sản xuất mang tính chất XHCN, được xây dựng trên cơ sở nắm giữ tất
cả tư liệu sản xuất, quản lý bằng kế hoạch, tổ chức sản xuất tiến hành theo hướng
tập trung, thực hiện phân phối theo ngày công lao động, cách thức phân phối
bằng hiện vật. Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định: đến cuối năm 1979
87
đã tiến hành hợp tác hoá 96,8%, đến năm 1985 đã có 538 hợp tác xã và tổ hợp
tác, với 19.878 lao động và cải thiện một bước đời sống cho xã viên và người lao
động [10, tr.25]. Tuy nhiên, việc xây dựng QHSX trong kinh tế tập thể thời kỳ
này còn nhiều hạn chế và bất cập. Phong trào hợp tác xã tiến hành ào ạt, gò ép,
mệnh lệnh, không bảo đảm ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi và dân chủ,
dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, phần lớn các hợp tác xã hoạt động bấp bênh
hoặc tan rã, đời sống của xã viên và người lao động còn gặp nhiều khó khăn.
Trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở
hữu, hình thức tổ chức quản lý và hình thức phân phối, Đảng bộ Đà Nẵng đã
quán triệt quan điểm của Đảng là xác định kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Việc đổi mới sở hữu tập thể đối với kinh tế tập thể ở Đà Nẵng chủ yếu
diễn ra mạnh mẽ khi có Luật Hợp tác xã năm 1996. Trên cơ sở Luật Hợp tác
xã, Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII, năm 1997, chủ trương: "Củng cố và phát
triển kinh tế hợp tác đa dạng trong các ngành và lĩnh vực kinh tế theo tinh
thần của Chỉ thị 68/CT-TW, Luật Hợp tác xã và các nghị định đã được ban
hành. Tiếp tục chuyển đổi mô hình hợp tác xã nông nghiệp" [16, tr.58-59].
Sau khi có Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về "Tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" và Luật Hợp tác xã kiểu mới
năm 2003 ra đời (sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã năm 1996) nhằm hoàn
thiện hơn các điều kiện và môi trường kinh doanh cho hợp tác xã, đã tác động
mạnh mẽ đến việc đổi mới kinh tế tập thể ở Đà Nẵng. Theo đó, Đảng bộ
thành phố chủ trương tiếp tục đa dạng hoá quan hệ sở hữu, củng cố và nâng
cao hiệu quả của kinh tế hợp tác. Đặc biệt, năm 2003, Ủy ban nhân dân thành
phố Đà Nẵng ban hành và triển khai thực hiện "Đề án phát triển kinh tế tập
thể" và "Đề án hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn" đã
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho kinh tế tập thể ở Đà Nẵng tiếp tục phát triển.
Trong quá trình thực hiện chuyển đổi các hợp tác xã kiểu cũ theo quy
định của Luật Hợp tác xã kiểu mới, chính quyền đã hướng dẫn các hợp tác xã
88
xác định lại tài sản, vốn quỹ của mình, giúp triển khai chuyển đổi, đăng ký lại
hợp tác xã, xử lý dứt điểm các hợp tác xã không còn khả năng chuyển đổi mô
hình hoạt động, không còn tồn tại trên danh nghĩa, thành lập thêm nhiều hợp
tác xã mới cho phù hợp với các ngành nghề, lĩnh vực để tiếp tục phát triển.
Các hợp tác xã đã có sự liên kết, hợp tác với kinh tế cá thể, tiểu chủ
trong các ngành nghề nhằm huy động thêm các nguồn vốn cổ phần và các
nguồn lực khác để phát triển sản xuất. Biện pháp này không chỉ góp phần làm
tăng quy mô và phạm vi sở hữu cho các hợp tác xã, mà còn phát huy nguyên
tắc tự nguyện, dân chủ trong hoạt động của hợp tác xã. Các chủ thể tham gia
sở hữu có quyền làm chủ trong tổ chức quản lý sản xuất và phân chia lợi ích.
Các cấp chính quyền cơ sở và Liên minh Hợp tác xã thành phố đã
thực hiện một số chính sách hỗ trợ, như chính sách đào đạo, bồi dưỡng, tập
huấn nguồn nhân lực, chính sách hỗ trợ khoa học và công nghệ, trợ giúp các
nguồn lực về vốn, đất đai, mặt bằng sản xuất, thị trường tiêu thụ, miễn giảm
thuế, cho vay với lãi suất thấp, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ
ở nông thôn, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn…
Việc thực hiện các chính sách và biện pháp trên góp phần quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập thể tháo gỡ khó khăn, mở rộng và làm cho quy mô sở hữu lớn lên, khai thác được nhiều yếu tố LLSX để hợp tác xã và tổ hợp tác có thêm các nguồn lực nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất.
Kinh tế tập thể ở Đà Nẵng được đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động với hình thức phổ biến là: hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã công nghiệp - xây dựng, hợp tác xã thương mại - dịch vụ và các tổ hợp tác. Hình thức và quy mô của các hợp tác xã, tổ hợp tác chủ yếu dựa trên sự liên kết nguồn vốn cổ phần và các phương tiện lao động của cá nhân xã viên, tập thể xã viên và những người lao động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Đến nay đã có 100 hợp tác xã, trong đó có 34 hợp tác xã nông nghiệp, 34 hợp tác xã công nghiệp - xây dựng và 32 hợp tác xã thương mại - dịch vụ; so với năm 2001, số hợp tác xã giảm 9 đơn vị (thành lập mới
89
43 hợp tác xã, giải thể 52 hợp tác xã), số xã viên giảm 9.345 người (23,2%), số lao động giảm 5.636 người (12,76%). Vốn điều lệ của hợp tác xã năm 2012 là 93,21 tỷ đồng, tăng 116,6% so với năm 1997; vốn kinh doanh là 251,2 tỷ đồng (do các hợp tác xã góp vốn đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, thiết bị sản xuất), tăng 4 lần so với năm 1997. Ngoài ra đã có 157 tổ hợp tác với 1.150 thành viên; trong đó, có 5 tổ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, 59 tổ sản xuất nông nghiệp và 93 tổ khai thác hải sản trên biển [104, tr.3].
Các hợp tác xã nông nghiệp đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để nâng cao năng suất và chất lượng sản
phẩm; tổ chức cung ứng nhiều khâu dịch vụ có chất lượng, giá cả phù hợp cho
sản xuất nông nghiệp của hộ xã viên; chú trọng khâu dịch vụ về vốn, kỹ thuật,
lao động, tiêu thụ sản phẩm… cho kinh tế hộ. Nhiều hợp tác xã như Hợp tác
xã Hoà Cường, Hoà Liên, Hòa Châu… đã phát triển nhiều ngành nghề mới
như gia công đan lưới nuôi ngọc trai, đan mây tre, giết mổ gia súc, cơ khí,
trồng hoa, rau, nấm, cây cảnh, quản lý kinh doanh chợ… để khai thác các yếu
tố LLSX mới trong nông nghiệp. Kết quả là, đến năm 2011, tổng doanh thu
của hợp tác xã đạt 20,1 tỷ đồng, tăng 94,8% so với năm 2001 [104, tr.3].
Các hợp tác xã công nghiệp - xây dựng đã mạnh dạn đầu tư mở rộng
sản xuất, đổi mới một số thiết bị công nghệ để nâng cao chất lượng, đa dạng
hóa sản phẩm, tìm thêm thị trường tiêu thụ để duy trì sản xuất, thực hiện
nghĩa vụ nộp ngân sách, nổi bật là các hợp tác xã: Chế biến kinh doanh hàng
xuất khẩu Bảo Trung, Mây tre An Khê, Vật liệu xây dựng Thanh Châu, Giấy
Đồng Tâm, Nhựa Vũ Bình Minh, Cán sắt số 1, Sửa chữa tàu thuyền Cựu
chiến binh Thọ Quang, Sản xuất nước đá Sơn Trà… Năm 2011, tổng doanh
thu của các hợp tác xã đạt 184 tỷ đồng, tăng 30%; nộp ngân sách 6,52 tỷ
đồng, tăng 47,4%; lãi 2,23 tỷ đồng, tăng 20,4% so với năm 2001 [104, tr.4].
Các hợp tác xã thương mại - dịch vụ đã bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ cho cán bộ và đội ngũ nhân viên bán hàng, cải tiến phương thức
phục vụ, tham gia bán các sản phẩm bình ổn giá. Một số hợp tác xã đã đầu tư
90
xây dựng các mô hình kinh doanh mới như: Hợp tác xã Thương mại - dịch vụ
An Hải Đông mở cửa hàng tự chọn với trên 1000 mặt hàng phục vụ dân cư
trên địa bàn, Hợp tác xã Dịch vụ kinh doanh tổng hợp Hòa Cường đầu tư và
đưa chợ Hòa Cường Bắc vào hoạt động với gần 200 hộ kinh doanh. Đây là
các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả, thu hút sự quan tâm của các ngành, các
cấp trong tiến trình xã hội hóa quản lý, kinh doanh. Năm 2011, tổng doanh
thu của các hợp tác xã đạt 180,4 tỷ đồng, tăng 35,7%; lãi 4,4 tỷ đồng, tăng 9
lần; nộp ngân sách 7,2 tỷ đồng, tăng 68% so với năm 2001 [104, tr.5].
Các tổ hợp tác ra đời trên cơ sở tự nguyện, mặc dù quy mô còn nhỏ bé
nhưng đã có sự giúp đỡ nhau sản xuất. Các tổ hợp tác nông nghiệp tổ chức
trồng hoa, rau, nấm, cây cảnh, trồng rừng; nhờ linh hoạt theo mùa vụ nên sản
xuất khá hiệu quả. Các tổ hợp tác khai thác hải sản được hỗ trợ về phương
tiện thông tin liên lạc, bảo hiểm tai nạn cho các tàu đánh cá, đã có sự phối hợp
nhau trong việc đánh bắt, nhờ đó đã duy trì thời gian bám biển, ngư dân đã an
tâm đi biển, đây chính là nhân tố dự nguồn để hình thành các hợp tác xã.
Do kinh tế tập thể được đổi mới theo hướng đa dạng hoá sở hữu và tổ
chức quản lý sản xuất, vì vậy, trong quan hệ phân phối đã có sự đổi mới phù
hợp hơn. Việc thực hiện quan hệ phân phối diễn ra dưới nhiều hình thức, mà
chủ yếu là phân phối theo lao động, vốn cổ phần, theo tài sản đóng góp. Vấn
đề củng cố và phát triển kinh tế hợp tác xã đã góp phần giải quyết một lượng
lớn lao động, cải thiện thu nhập cho các xã viên và người lao động, xóa đói,
giảm nghèo, nhất là đối với những ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất như nông
nghiệp, thuỷ, hải sản, tín dụng nhỏ, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch
vụ; thực hiện dân chủ hóa, góp phần ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở.
3.2.2.2. Những hạn chế
Như Báo cáo Tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX của Ủy ban
nhân dân thành phố Đà Nẵng, thì cơ chế, chính sách đối với kinh tế tập thể
vẫn còn thiếu sót, bất cập, chưa tạo mọi điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã
và các tổ hợp tác phát triển mạnh mẽ. Mặc dù chính quyền đã có nhiều cố
91
gắng trong việc thực hiện chính sách khuyến khích hỗ trợ, ưu đãi để tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc cho các hợp tác xã và tổ hợp tác có điều kiện để phát
triển, tuy nhiên, do việc triển khai thực hiện còn chậm, chưa đáp ứng đầy đủ
và kịp thời của các cơ quan chức năng ở cơ sở. Đặc biệt là chính sách ưu đãi,
hỗ trợ về vốn, khoa học và công nghệ, giao đất sản xuất cho các hợp tác xã
trong diện di dời, giải toả thiếu sự phối hợp từ các cơ quan có trách nhiệm.
Mặt khác, việc tiếp cận các nguồn vốn vay của ngân hàng còn khó
khăn, do lãi suất vay cao, các hợp tác xã không đủ năng lực đáp ứng các yêu
cầu vay vốn, như bảo đảm tài sản thế chấp, xây dựng dự án vay vốn. Trong
khi đó, khả năng tự tích luỹ vốn để tăng nguồn vốn sở hữu, phát triển sản xuất
của các hợp tác xã còn hạn chế, do doanh thu của các hợp tác xã thấp, hoạt
động dịch vụ chủ yếu phục vụ xã viên và hộ kinh tế cá thể, nên mức lãi thu thấp.
Năng lực, trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã còn nhiều hạn chế, dẫn
tới nhiều hợp tác xã lúng túng trong việc xác định mô hình tổ chức quản lý
kinh doanh, hoạt động vi phạm các nguyên tắc của Luật Hợp tác xã kiểu mới.
Đáng chú ý là việc thực hiện đa dạng hoá quan hệ sở hữu, liên kết, hợp tác
trong trong kinh tế tập thể còn yếu do chưa tuân thủ triệt để các nguyên tắc
hợp tác - liên kết và thiếu các hình thức tổ chức liên kết - hợp tác đa dạng
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các chủ thể kinh tế. Trong các hợp tác xã
và tổ hợp tác, quan hệ liên kết, hợp tác giữa xã viên và người lao động chưa
thật sự chặt chẽ. Một bộ phận lớn các hợp tác xã mới chủ yếu liên kết với các
chủ thể sở hữu tư nhân nhỏ thuộc kinh tế cá thể, tiểu chủ, chưa mở rộng quan
hệ với các thành phần kinh tế phát triển hơn để mở rộng quy mô sản xuất.
Cơ sở vật chất của các hợp tác xã còn nghèo nàn. Công cụ lao động,
máy móc và trình độ công nghệ lạc hậu, tay nghề của xã viên và người lao
động còn yếu. Nhà kho, nhà làm việc và nhiều công trình khác có giá trị ít.
Chính những hạn chế này đã chưa tạo động lực to lớn để kinh tế tập
thể phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, quy mô sở hữu của các hợp tác xã còn hạn
92
hẹp, nhỏ bé; thiếu các nguồn lực sản xuất, làm cho năng lực sản xuất và hiệu
quả kinh tế thấp, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất trong điều kiện CNH, HĐH.
Trong thực hiện quan hệ phân phối, do trình độ phát triển của LLSX
còn thấp kém, cách thức tổ chức quản lý còn hạn chế, hiệu quả kinh doanh
chưa cao, vì vậy, thu nhập của người lao động vẫn còn thấp, đời sống của xã
viên và người lao động còn gặp nhiều khó khăn. Theo khảo sát của Cục
Thống kê thành phố Đà Nẵng cho thấy: năm 2005 thu nhập bình quân đạt 675
nghìn đồng/tháng, đến năm 2012 chỉ tăng lên 2.221.000 đồng/tháng. Nếu so
với thu nhập ở các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác,
thì thu nhập của xã viên và người lao động trong các hợp tác xã là thấp nhất.
3.2.3. Thực trạng xây dựng quan hệ sản xuất trong kinh tế tư nhân
3.2.3.1. Những kết quả đạt được
Trước đổi mới, kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng chủ yếu được tổ chức xây
dựng theo hướng quốc hữu hoá các cơ sở kinh tế của tư sản mại bản và tư sản
dân tộc có quy mô lớn và tiếp tục đầu tư các điều kiện vật chất để mở rộng quy
mô nhằm phát triển sản xuất. Kiểm kê, kiểm soát và cải tạo lại kinh tế tư thương,
tiểu thương, tiểu chủ; triệt để xoá bỏ thành phần tư bản trong thương nghiệp.
Đáng chú ý là lãnh đạo Đà Nẵng đã khuyến khích thợ thủ công góp vốn, công
sức xây dựng các cơ sở sản xuất, kinh tế hộ gia đình được mở rộng phát triển
trong công nghiệp, ở một số ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, tập trung khai
thác hải sản xuất khẩu; phát động phong trào nhân dân trồng, bảo vệ, khai thác
và chế biến lâm nghiệp, khuyến khích áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào
sản xuất để tăng nhanh sản phẩm và cải thiện đời sống cho người lao động.
Mặc dù kinh tế tư nhân thời kỳ này đã đạt được những kết quả nhất
định: đến năm 1985 có 3.980 cơ sở và 46.967 lao động (chủ yếu là kinh tế hộ cá
thể) [10, tr.25]; tuy nhiên, cũng như cả nước, trên địa bàn Đà Nẵng, về cơ bản là
xây dựng QHSX trên cơ sở tìm cách thu hẹp sở hữu tư bản tư nhân, vì vậy, phạm
vi và quy mô sở hữu của thành phần kinh tế tư bản tư nhân còn rất nhỏ bé.
93
Đại hội lần thứ VI của Đảng chủ trương đa dạng hoá sở hữu, thừa nhận
sở hữu tư nhân là bộ phận cấu thành của nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo
điều kiện cho lãnh đạo thành phố nhận thức và vận dụng trong việc phát triển
kinh tế tư nhân, góp phần quan trọng vào khai thác các tiềm năng và lợi thế của
thành phố để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công cuộc CNH, HĐH.
Trên cơ sở quán triệt chủ trương phát triển kinh tế tư nhân của Đảng,
Đảng bộ thành phố đã chủ trương: có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện
phát triển lâu dài kinh tế hộ gia đình để tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động và của cải cho xã hội. Kinh tế tư bản tư nhân được bảo hộ quyền
sở hữu tài sản hợp pháp, có quyền đầu tư vốn và tư liệu sản xuất trong các ngành
nghề kinh doanh theo sự hướng dẫn và quản lý của Nhà nước. Điều này đã tạo
điều kiện thuận lợi để các chủ thể tư nhân có quyền lựa chọn các loại hình tổ
chức sản xuất kinh doanh thích ứng với trình độ của LLSX để phát triển.
Đặc biệt, trên cơ sở chủ trương tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng về thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, tạo điều kiện về kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân
yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII đã chủ
trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu, khuyến khích những doanh nghiệp tư
bản tư nhân chuyển thành công ty cổ phần, bán cổ phần cho người lao động,
liên kết, liên doanh với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Thực hiện phát
triển đa dạng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước, bao gồm các hình thức
hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân nhằm
động viên những tiềm năng to lớn về vốn, lao động, tư liệu sản xuất, khả năng
tổ chức quản lý sản xuất của các nhà tư bản; áp dụng nhiều hình thức góp vốn
liên doanh giữa nhà nước với các thành phần kinh tế khác [16, tr.59].
Sau năm 2002, theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX
của Đảng "Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều
kiện để phát triển kinh tế tư nhân", đặc biệt là Luật Doanh nghiệp chung của
Quốc hội ban hành năm 2005, Đảng bộ Đà Nẵng đã chủ trương tiếp tục phát
94
triển kinh tế tư nhân không hạn chế về phạm vi và quy mô trong những ngành
nghề mà pháp luật không cấm. Đối xử bình đẳng và tích cực hỗ trợ, hướng
dẫn các hộ kinh tế cá thể, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần hoạt động
theo đúng Luật Doanh nghiệp và pháp luật của Nhà nước; bảo hộ quyền sở
hữu và lợi ích hợp pháp, khuyến khích khu vực kinh tế này huy động mọi
nguồn lực vào tiến trình phát triển kinh tế của thành phố. Theo đó, chính
quyền Đà Nẵng đã xây dựng và triển khai "Đề án phát triển kinh tế tư nhân"
đã tạo nên động lực mới cho kinh tế tư nhân có thêm điều kiện để phát triển.
Kinh tế tư nhân được phát triển dưới các loại hình tổ chức sản xuất
kinh doanh, như kinh tế cá thể hộ gia đình, kinh tế tiểu chủ, kinh tế trang trại,
doanh nghiệp tư bản tư nhân và các loại hình doanh nghiệp hỗn hợp mà vốn
tư nhân chiếm tỷ lệ chi phối, hoạt động dưới dạng các công ty cổ phần do các
chủ thể kinh tế hợp tác, liên doanh với nhau trong sản xuất kinh doanh.
Như vậy, do LLSX trong kinh tế tư nhân đa dạng, nhiều trình độ ở các
ngành và lĩnh vực sản xuất, vì vậy, chủ trương xây dựng QHSX phải làm từng
bước, từ thấp đến cao, với sự đa dạng về loại hình sản xuất của Đảng bộ thành
phố là phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Các loại hình tổ chức sản
xuất của kinh tế tư nhân không chỉ tồn tại liên kết lẫn nhau mà còn hợp tác, liên
doanh với các hình thức sở hữu khác trên cơ sở đa dạng hoá các nguồn vốn, tư
liệu sản xuất làm cho phạm vi và quy mô sở hữu của kinh tế tư nhân ngày càng
được mở rộng, huy động nhiều nguồn lực của xã hội để phát triển sản xuất.
Đối với kinh tế cá thể trong nông nghiệp, chính quyền đã quán triệt
Nghị quyết của Đảng về thực hiện việc "dồn điền đổi thửa", đẩy mạnh giao
đất, giao rừng gắn với định canh, định cư và chương trình 327 cho người lao
động, giúp đỡ vốn, kỹ thuật sản xuất, cho vay ưu đãi, tìm kiếm thị trường tiêu
thụ… đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ gia đình khai thác có hiệu quả
các nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ trong công nghiệp - xây dựng, dịch vụ, thương
mại đã tổ chức sắp xếp lại sản xuất, phân công lại lao động, đầu tư vốn, tư
95
liệu sản xuất, được chính quyền hướng dẫn và thực hiện một số chính sách hỗ
trợ về vốn, mặt bằng sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng… vì vậy, đã có thêm
điều kiện để mở rộng quy mô sở hữu và thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp tư bản tư nhân và doanh nghiệp hỗn hợp được cơ
quan quản lý nhà nước lập quy hoạch và kế hoạch hướng dẫn tập trung khai
thác ngành công nghiệp chế biến hướng về xuất khẩu, tổ chức lại và nâng cao
hoạt động của các doanh nghiệp thương mại, du lịch, dịch vụ, đặc biệt là dịch
vụ thông tin, vận tải, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn đầu tư… nhằm
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Đặc biệt là chính
quyền đã vận dụng linh hoạt các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
sản xuất kinh doanh của Nhà nước đi đôi với nghiên cứu ban hành một số cơ
chế, chính sách có tính đặc thù của miền Trung, trong đó có Đà Nẵng, như
chính sách về giá thuê đất, về thuế, về cho vay vốn, về hỗ trợ xuất khẩu, kể cả
khuyến khích và hỗ trợ kinh phí đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, về
tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp hỗn hợp.
Chính quyền đã thành lập Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức tọa đàm "Dịch vụ
hỗ trợ doanh nghiệp - thực trạng và giải pháp"; gặp gỡ, đối thoại với doanh
nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, giải quyết kịp thời
các thủ tục pháp lý. Nhờ đó, các khu vực kinh tế này có điều kiện tiếp cận
được các nguồn lực để nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất. Cũng do môi
trường kinh doanh từng bước được cải thiện đã thu hút được các đối tác nước
ngoài, các nhà đầu tư và doanh nghiệp từ thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, từ
các địa phương thuộc khu vực miền Trung và Tây Nguyên đầu tư phát triển.
Điểm nổi bật trong tổ chức quản lý sản xuất của kinh tế tư nhân là tư
liệu sản xuất được xác định rõ ràng, gắn liền với chủ thể sở hữu, vì vậy, tính
tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, có khả
năng tự tích luỹ để tái đầu tư mở rộng sản xuất. Các doanh nghiệp đã chú
trọng đầu tư máy móc, khoa học và công nghệ, nâng cao trình độ của người
lao động, khai thác có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy sản xuất phát triển.
96
Việc đổi mới quan hệ sở hữu và tổ chức quản lý sản xuất trong kinh tế
tư nhân ở Đà Nẵng đạt kết quả tích cực. Nếu lấy hai mốc là năm 1997 và năm
2012, có thể thấy: cơ cấu GDP của thành phần kinh tế tư nhân tăng từ 39,67%
lên 57,62% [13, tr.40]. Vốn kinh doanh tăng từ 9.730,2 tỷ đồng lên 98.160,6 tỷ
đồng [13, tr.74]; tài sản dài hạn tăng từ 3.052,7 tỷ đồng lên 43.985,2 tỷ đồng
[13, tr.82]. Số lượng doanh nghiệp tư bản tư nhân và doanh nghiệp hỗn hợp
tăng từ 4.859 cơ sở lên 7.875 cơ sở (trong 7.875 cơ sở này có 1.114 cơ sở tư
nhân, 2 công ty hợp danh, 1.331 công ty cổ phần không có vốn nhà nước, 5.368
cơ sở thuộc công ty TNHH tư nhân và công ty TNHH có vốn nhà nước <=50%
và 60 công ty cổ phần có vốn nhà nước <=50%). Ngoài ra, hiện nay đã có 26
doanh nghiệp liên doanh với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài [13, tr.59]. Số
lao động của doanh nghiệp tư bản tư nhân và doanh nghiệp hỗn hợp tăng từ
90.340 người lên 154.406 người [13, tr.146]. Riêng đối với kinh tế cá thể, tiểu
chủ, thì đến nay đã có 60.927 cơ sở và với 94.117 lao động [88, tr.43].
Nhờ có sự đổi mới quan hệ tổ chức quản lý sản xuất phù hợp hơn với
quan hệ sở hữu, vì vậy, kết quả sản xuất của kinh tế tư nhân tăng khá nhanh.
Giá trị sản xuất tính theo giá thực tế từ 989.343 triệu đồng năm 1997 tăng lên
24.716.866 triệu đồng năm 2008 và đến năm 2012 đã đạt 62.761.562 triệu
đồng [13, tr.32]. Doanh thu tăng từ 16.813,3 tỷ đồng năm 2006 lên 92.015,5
tỷ đồng năm 2011 [13, tr.90], nộp ngân sách tăng từ 457,68 tỷ đồng năm 2006
lên 1.862,5 tỷ đồng năm 2011 [13, tr.106]. Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất giữa
các loại hình kinh tế tư nhân rất chênh lệch do trình độ phát triển không đều
của LLSX và QHSX. Chẳng hạn, năm 2012, ở ngành công nghiệp, kinh tế cá
thể, tiểu chủ chiếm tới 4.049 cơ sở [13, tr.170], nhưng do LLSX thấp và tổ
chức sản xuất kém, vì vậy, giá trị sản xuất chỉ đạt 1.151.223 triệu đồng [13,
tr.180], trong khi đó, doanh nghiệp tư bản tư nhân và doanh nghiệp hỗn hợp
chỉ với 972 cơ sở [13, tr.170], nhưng do LLSX phát triển, tổ chức quản lý hiệu
quả hơn, vì vậy, giá trị sản xuất đạt tới 15.177.096 triệu đồng [13, tr.180].
97
Số liệu trên cho thấy, việc xây dựng QHSX trong kinh tế tư nhân ở Đà
Nẵng đã từng bước phản ánh sự phù hợp với trình độ phát triển của LLSX,
góp phần quan trọng thúc đẩy LLSX phát triển trong quá trình CNH, HĐH.
Đặc biệt, với sự hình thành và phát triển của các loại hình doanh nghiệp đa sở
hữu đã thể hiện xu hướng phát triển tất yếu khách quan và ngày càng rõ nét
của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Có thể khẳng định, đây là
điều kiện, là tiền đề cho sự phát triển bền vững và có hiệu quả của kinh tế tư
nhân trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở thành phố.
Do dựa trên nhiều loại hình sở hữu và tổ chức quản lý sản xuất đa
dạng, nên việc thực hiện quan hệ phân phối trong các doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng cũng phong phú và phức tạp, ngay cả trong
một đơn vị kinh tế, thậm chí đối với từng cá nhân, tuy nhiên, chủ yếu dựa trên
ba nguyên tắc: phân phối theo tài sản và vốn; theo hiệu quả kinh doanh; theo
giá trị sức lao động và quan hệ cung cầu của thị trường về sức lao động.
Thu nhập bình quân của người lao động đã có nhiều chuyển biến tích
cực. Theo khảo sát các loại hình sản xuất kinh doanh thời điểm 1/3/2005 và
1/3/2012 của Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng, kết quả theo bảng sau:
Đơn vị tính: nghìn đồng/người/tháng
Bảng 3.2: Thu nhập bình quân ở các loại hình sản xuất kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân
TT
Loại hình sản xuất
Năm 2005
Năm 2012
1.112
3.067
1 Doanh nghiệp tư nhân
2
1.308
3.316
Công ty trách nhiệm hữu hạn
3
1.760
4.317
Công ty cổ phần có vốn nhà nước dưới 50%
4
1.330
4.005
Công ty cổ phần không có vốn nhà nước
Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng.
Theo biểu trên cho thấy, vấn đề thực hiện quan hệ phân phối tiền lương và thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân hết sức không đồng đều. Riêng đối với các công ty cổ phần, do sự biến đổi mạnh mẽ của quan
98
hệ sở hữu theo hướng sở hữu hỗn hợp, việc tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh được đổi mới, gắn với trách nhiệm và quyền lợi trực tiếp của các cổ đông, do đó hiệu quả sản xuất được nâng lên, vì vậy, thu nhập của người lao động cao hơn.
Thực tiễn cho thấy, trong quá trình CNH, HĐH, kinh tế tư nhân ở Đà
Nẵng đã có vai trò quan trọng trong việc khai thác tiềm năng, lợi thế của xã
hội để phát triển. Thành phần kinh tế này đã đóng góp ngày càng tăng GDP
và ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động theo hướng hiện đại. So với các thành phần kinh tế khác, thì
thành phần kinh tế tư nhân đã giải quyết được một lực lượng lao động lớn
nhất, góp phần ổn định và nâng cao từng bước đời sống cho người lao động.
3.2.3.2. Những hạn chế
Sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân chủ yếu mới về mặt số
lượng cơ sở sản xuất và lực lượng lao động. Phần lớn các cơ sở sản xuất
kinh doanh có quy mô nhỏ, với nguồn vốn đầu tư và vốn kinh doanh hạn
hẹp. Qua khảo sát trên 7000 cơ sở, nếu căn cứ vào quy mô nguồn vốn thì chỉ
có 81 doanh nghiệp lớn, với số vốn là 200 tỷ đồng; còn 96,55% là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, với quy mô vốn nhỏ bé, dưới 50 tỷ đồng [88, tr.42].
Chính quy mô sở hữu các nguồn vốn, tài chính còn nhỏ bé dẫn đến không
chỉ hạn chế trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, mà còn dẫn tới khả
năng đầu tư trang thiết bị, máy móc, đổi mới công nghệ sản xuất và nâng cao
trình độ tay nghề cho người lao động gặp khó khăn, trở ngại, làm cho LLSX
phát triển chưa mạnh. Năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của các cơ
sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, kể cả các loại hình doanh nghiệp tư nhân vẫn rất
thấp. Đây là một thách thức lớn đối với kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng trong
điều kiện CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Trình độ tổ chức quản lý sản xuất của kinh tế tư nhân còn nhiều hạn chế.
Yêu cầu tất yếu của sự gắn kết giữa kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế
khác theo hướng xã hội hoá sở hữu và sản xuất kinh doanh còn lỏng lẻo, chưa đi
99
vào chiều sâu và chưa đem lại hiệu quả. Đa số các cơ sở sản xuất của kinh tế cá
thể, tiểu chủ và một bộ phận doanh nghiệp tư bản tư nhân, như công ty trách
nhiệm hữu hạn, kể cả công ty cổ phần quy mô nhỏ còn lúng túng trong việc lựa
chọn lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh; hoạt động tự phát, manh mún, tản mạn.
Cơ chế, chính sách đối với kinh tế tư nhân còn bất cập, chưa thật sự tạo
điều kiện thuận lợi về môi trường kinh doanh để cơ sở sản xuất, các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế này phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là các chính sách
khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ các nguồn lực của chính quyền thành phố cho kinh
tế tư nhân chưa kịp thời và đầy đủ, trên thực tế vẫn còn có sự phân biệt về chính
sách thuế, vốn tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công
nghệ, đào tạo nhân lực, hợp tác và tham gia vào các dự án với nước ngoài.
Trong điều kiện công nghiệp hoá, đô thị hoá ở thành phố diễn ra
nhanh chóng và mạnh mẽ, với việc thu hồi đất sản xuất, giải phóng mặt bằng,
di dời, giải tỏa, tái định cư… dẫn đến một bộ phận kinh tế hộ nông dân trong
nông nghiệp và một số lượng lớn kinh tế tiểu chủ thiếu và mất đất sản xuất,
cơ sở sản xuất; thiếu và mất việc làm. Mặc dù Đảng bộ đã có chủ trương khắc
phục và chính quyền có nhiều cố gắng thực hiện các chính sách như: nhà ở,
việc làm, dạy nghề, hỗ trợ, ưu đãi nhiều nguồn lực nhằm ổn định sản xuất kinh
doanh và đời sống, tuy nhiên, đến nay vẫn còn một bộ phận chưa được giải
quyết ổn thoả và đầy đủ, đang gây khó khăn, bức xúc cho các đối tượng này.
Mặt trái của cơ chế thị trường diễn ra trong kinh tế tư nhân vẫn chưa
được khắc phục triệt để. Do còn bất cập trong quản lý nhà nước về kinh tế và
hạn chế về ý thức, năng lực của một bộ phận chủ tư nhân dẫn đến tình trạng làm
hàng giả, trốn thuế, buôn gian, bán lận, hối lộ và mua chuộc cán bộ công chức
nhà nước thoái hoá, biến chất, kể cả đăng ký và thành lập doanh nghiệp nhưng
không tổ chức sản xuất kinh doanh vẫn còn tồn tại. Thực tế này thể hiện sự thiếu
tinh thần trách nhiệm đối với nhà nước và xã hội, dẫn đến việc e ngại của một bộ
phận xã hội về nguy cơ chệch hướng XHCN khi phát triển kinh tế tư nhân.
100
Việc thực hiện quan hệ phân phối còn hạn chế, bất cập ở nhiều cơ sở
kinh tế. Tiền công, tiền lương của người lao động chưa được trả đúng theo
nguyên tắc thị trường, chưa theo đúng hợp đồng, chưa tương xứng với kết quả
lao động đã làm ra, còn hiện tượng chậm trả lương hoặc nợ lương người lao
động, làm thêm giờ quá nhiều trong khi mức phụ cấp chưa thoả đáng. Một bộ
phận doanh nghiệp đã vi phạm những quy định của pháp luật về việc sử dụng lao
động, như không thực hiện đúng và đầy đủ chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, kéo dài thời gian học nghề và thời gian lao động trong ngày, chưa cải thiện
điều kiện, môi trường làm việc. Mặc dù các cơ quan chức năng đã có nhiều cố
gắng kiểm tra, giám sát, thuyết phục, thậm chí xử phạt, tuy nhiên, công tác này
chưa thường xuyên và kịp thời, tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp chưa
phát huy vai trò là người đại diện quyền lợi để bảo vệ lợi ích người lao động.
3.2.4. Thực trạng xây dựng quan hệ sản xuất trong kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài
3.2.4.1. Những kết quả đạt được
Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội ban hành năm 1987 và
chủ trương tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài vào
nước ta đầu tư, hợp tác kinh doanh của Đảng ta tại Đại hội lần thứ VII, năm
1991, Đảng bộ Đà Nẵng đã kêu gọi các dự án và các nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư vốn vào thành phố để phát triển. Đáng chú là từ Đại hội lần thứ VIII năm
1996, khi một bộ phận kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được coi là một bộ phận
của kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta, thì Đà Nẵng là địa phương đi đầu ở khu
vực miền Trung trong việc chủ động xây dựng các khu công nghiệp, khu chế
xuất cũng như các điều kiện thiết yếu khác để phát triển hình thức sở hữu này.
Nhận thức được tiềm năng, lợi thế và điều kiện thuận lợi của thành phố
cũng như nắm bắt được xu thế tất yếu của sự phát triển đa dạng hoá sở hữu trong
việc mở rộng đối ngoại và kinh tế đối ngoại, Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII đã
chủ trương: Làm tốt công tác đối ngoại, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư và
101
thương mại, tăng cường hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức
chính phủ và phi chính phủ. Vận dụng linh hoạt những quy định của Chính phủ,
đề ra chính sách ưu tiên thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào thành
phố, chú trọng động viên các nguồn đầu tư vào các dự án sản xuất hàng xuất
khẩu, chế biến hải sản, đóng tàu, luyện cán thép, khu du lịch đạt tiêu chuẩn quốc
tế [16, tr.55-56]. Phát triển đa dạng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước; trong
đó, chú ý áp dụng nhiều hình thức hợp tác, liên kết, liên doanh giữa kinh tế nhà
nước với tư nhân nước ngoài nhằm huy động tiềm năng to lớn về nguồn vốn,
công nghệ sản xuất, kinh nghiệm tổ chức quản lý của các nhà tư bản [16, tr.59].
Đặc biệt, trên cơ sở xác định kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
thành phần kinh tế độc lập tại Đại hội lần thứ IX của Đảng, Đảng bộ thành
phố đã chủ trương: bên cạnh việc chính quyền bảo hộ quyền sở hữu hợp
pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các cá nhân và các tổ
chức nước ngoài đầu tư sản xuất kinh doanh vào thành phố, phải thực hiện
nhiều hình thức góp vốn liên kết, liên doanh giữa nhà nước với thành phần
kinh tế này để phát triển, đồng thời khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư phát triển du lịch với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của Đà Nẵng.
Khuyến khích phát triển những ngành hàng và sản phẩm sử dụng kỹ thuật và
công nghệ sản xuất hiện đại, có hàm lượng chất xám cao, phát triển công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, phát triển công nghiệp công nghệ cao, công
nghiêp công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế chủ lực của thành phố.
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, chính quyền Đà Nẵng đã đẩy
mạnh chính sách khuyến khích đầu tư thông qua hoạt động xúc tiến đầu tư,
tăng cường hợp tác với các nhà đầu tư ngoài nước, các tổ chức chính phủ và
phi chính phủ nhằm huy động các nguồn vốn FDI, ODA, NGO… Vận dụng
những quy định của Chính phủ, đề ra các chính sách ưu tiên thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Thực chất của việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư
chính là đa dạng hoá các hình thức sở hữu để phát triển thành phần kinh tế
102
này. Mặt khác, chính quyền thành phố thực hiện chính sách hỗ trợ đi đôi với
việc ban hành một số cơ chế chính sách ưu đãi, như thực hiện sử dụng vốn
ngân sách để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ cho các
dự án, các doanh nghiệp; chủ động định giá cho thuê đất, tiền chuyển quyền
sử dụng đất, mở rộng khung ưu đãi về miễn giảm tiền thuê đất và thuế thu
nhập doanh nghiệp, thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư thực thi cơ chế "một
cửa, tại chỗ" và cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa liên thông"
trong việc cấp giấy phép đầu tư và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Hiện nay, các nhà đầu tư ngoài nước đầu tư phát triển kinh doanh ở Đà
Nẵng với ba hình thức là hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy ra đời sau so với các thành phần kinh tế khác, nhưng kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài ở Đà Nẵng đã hoà nhập nhanh chóng với nền kinh tế nhiều
hình thức sở hữu, thể hiện sự phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá và yêu cầu xây
dựng nền kinh tế mở, hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế tri thức. Tốc độ tăng
trưởng khá nhanh và quy mô đầu tư của thành phần kinh tế này ngày càng lớn:
nếu năm 1993, tỷ trọng của thành phần kinh tế này mới chiếm 1,36%, năm 1997
là 5,71%, thì đến năm 2012 đã tăng lên 10,57% [13, tr.40], số lượng doanh
nghiệp tăng từ 18 cơ sở năm 1997 lên 30 cơ sở năm 2004 và đến năm 2011 là
102 cơ sở [13, tr.59], lực lượng lao động năm 1997 là 8.650 người, sau 10 năm,
đến năm 2007 là 23.556 người và đến năm 2011 là 38.429 người [13, tr.66].
Theo số liệu của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, nếu năm 1997, trên địa
bàn thành phố mới chỉ có 43 dự án với tổng vốn đầu tư là 427,4 triệu USD, thì
sau 10 năm, đến 2007 đã tăng lên 121 dự án với tổng vốn đầu tư là 1.742 triệu
USD, trong đó vốn thực hiện là 715,7 triệu USD, chiếm 42% tổng vốn đăng ký
và 62 dự án đã đi vào hoạt động, chiếm 51,2% số dự án được cấp phép và tính
đến hết quý I năm 2013 đã có 246 dự án, với tổng vốn đầu tư trên 3,6 tỷ USD,
trong đó vốn thực hiện là 1,61 tỷ USD và 125 dự án đã hoạt động [105, tr.6].
103
Mặc dù tỷ trọng trong cơ cấu GDP còn nhỏ, nhưng nhờ ưu thế về
nguồn vốn, sử dụng máy móc và công nghệ sản xuất tương đối hiện đại,
nguồn nhân lực có chất lượng, cách thức tổ chức quản lý sản xuất tiên tiến, do
đó, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giữ vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy LLSX phát triển. Các doanh nghiệp đã phát triển khoa học và
công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện chiến lược CNH,
HĐH theo hướng mở rộng thị trường xuất khẩu và quan hệ đối ngoại, góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đến nay, thành phần kinh tế này đã có nhiều dự án đưa vào sản xuất kinh
doanh có hiệu quả trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch và công nghiệp -
xây dựng theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, như Khu du
lịch Furama, Bia Fosters, Coca Cola, Điện tử Việt Hoa, Mabuchi, Siêu thị Metro,
BigC, Vina Capital, Daewon Cantavil… Các doanh nghiệp nước ngoài đã đầu tư
phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, nhất là chế biến
hàng xuất khẩu, tạo ra các sản phẩm như điện tử, hàng dệt may, đồ chơi trẻ em,
thủy hải sản, giỏ lưới, đèn cầy, bia, nước giải khát, thiết bị điện, máy chế biến…
có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. So với các thành phần
kinh tế khác, thì năng lực sản xuất và hiệu quả kinh tế của thành phần kinh tế
này phát triển khá cao, mở rộng nguồn thu cho ngân sách nhà nước khá lớn: giá
trị sản xuất tính theo giá thực tế tăng từ 458.197 triệu đồng năm 1997 lên
13.438.180 triệu đồng năm 2012 [13, tr.32], doanh thu từ 2.258 tỷ đồng năm
2006 tăng lên 11.597,2 tỷ đồng năm 2012 [13, tr.90], nộp ngân sách nhà nước
tăng từ 186,37 tỷ đồng năm 2006 lên 355,1 tỷ đồng năm 2012 [13, tr.106].
Có thể thấy, sự phát triển của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ở Đà Nẵng đã giữ vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình CNH,
HĐH. Thành phần kinh tế này không chỉ khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi
thế về tài nguyên, sức lao động để thúc đẩy LLSX phát triển theo hướng hiện
đại, đẩy nhanh quá trình phân công lao động quốc tế và hội nhập kinh tế quốc
104
tế, góp phần tăng GDP, ngân sách nhà nước, mà còn góp phần giải quyết việc
làm mới và nâng cao đời sống của người lao động. Nếu so với các thành phần
kinh tế khác, thì thu nhập của công nhân lao động đã tăng lên ở mức khá. Theo
điều tra của Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng trong 2 năm 2005 và 2012, kết
quả cho thấy, thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp của thành
phần kinh tế này đã tăng từ 1.009.000 đồng/tháng lên 3.741.000 đồng/tháng.
3.2.4.2. Những hạn chế Ở nước ta nói chung, trên địa bàn Đà Nẵng nói riêng, mức độ đa
dạng hoá các hình thức sở hữu của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài vẫn còn hạn hẹp. Đến nay, Luật Đầu tư nước ngoài mới chỉ cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển với ba hình thức chủ yếu là hợp
tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, các biện pháp khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài cũng
mới chủ yếu áp dụng cho các dự án có quy mô vốn đầu tư và tài sản lớn, trong
khi các dự án có quy mô vừa và nhỏ chưa được chú ý quan tâm, mặc dù việc
khuyến khích nó phát triển là phù hợp với xu hướng đa dạng hoá các loại hình
doanh nghiệp. Mặt khác, chỉ số vốn đầu tư thực hiện các dự án của thành phần
kinh tế này vẫn còn thấp hơn nhiều so với vốn đầu tư đăng ký kinh doanh.
Mặc dù lãnh đạo thành phố đã có nhiều cố gắng trong việc tạo lập môi
trường và điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế này hoạt động, tuy nhiên, đến nay các thủ tục hành chính liên quan đến
cấp giấy phép kinh doanh, giải phóng mặt bằng, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu sót, bất cập, vì vậy, khả năng
"hấp thụ" các nguồn vốn đầu tư phục vụ cho quá trình CNH, HĐH còn ít.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn
vẫn chưa bảo đảm yêu cầu phát triển theo hướng bền vững. Do công tác quản lý
nhà nước còn thiếu chặt chẽ và do tuyệt đối hoá yếu tố lợi nhuận, vì vậy, sản
105
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã làm suy thoái và ô nhiễm môi trường,
gây ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội và đời sống của một bộ phận nhân dân.
Việc thực hiện quan hệ phân phối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài còn có những hạn chế. Tiền công, tiền lương của người lao động
chưa được trả đúng với sức lao động và kết quả lao động của họ, hiện tượng
chậm trả lương, nợ lương công nhân vẫn tồn tại trong các doanh nghiệp. Trong
một số doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định của pháp luật về sử dụng
lao động, về chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… Qua khảo sát thực tế cho
thấy, ở một bộ phận lớn doanh nghiệp, việc xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội
trong và ngoài các khu công nghiệp còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa gắn kết với
các khu đô thị, khu dịch vụ, buộc người lao động phải thuê nhà ở trong khu dân
cư, thiếu chỗ cho con em của họ đến trường cũng như khả năng tiếp cận của họ
đến các dịch vụ xã hội, làm cho công nhân lao động không gắn bó lâu dài với
doanh nghiệp, hoặc là trở về quê tìm việc hoặc là tìm việc mới, dẫn đến nhiều
doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu lao động, làm cản trở sức sản xuất.
Từ thực trạng xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
trong quá trình CNH, HĐH ở Đà Nẵng, có thể khẳng định, việc nhận thức và vận
dụng quy luật này ngày càng rõ và phù hợp hơn, vì vậy, đã thúc đẩy quá trình
CNH, HĐH nền kinh tế. Giai đoạn 1986 - 1990, tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân là 5,35%/năm, tăng lên 10,24%/năm giai đoạn 1990 - 1996 [10, tr.30]; giai
đoạn 2000 - 2005, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 13%/năm. Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm
tương đối tỷ trọng nông nghiệp: giai đoạn 1990 - 1996, công nghiệp chiếm tỷ
trọng 35,2%, giá trị sản xuất tăng 14,52%; dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất với
55,1%, giá trị sản xuất đạt 9,98%; nông nghiệp chiếm tỷ trọng 9,7%, giá trị sản
xuất là 4,87%. Đến năm 2005, tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GDP là: công
nghiệp 48,2%, dịch vụ 46,1%, nông nghiệp 5,7%. Giá trị sản xuất công nghiệp
tăng 20,1%/năm; giá trị dịch vụ tăng 11,4%/năm. Ngành nông nghiệp phát triển
106
theo hướng tăng giá trị sản lượng, giảm tỷ trọng trong cơ cấu GDP, giá trị sản xuất
tăng bình quân 5,9%/năm [18, tr.18-19]. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết 33-
NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX của Đảng bộ Đà
Nẵng giai đoạn 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 11%/năm, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch và hoàn thiện từng bước theo hướng hiện đại: dịch vụ -
công nghiệp - nông nghiệp. Tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP đạt 50,5%; công
nghiệp là 46,5% và nông nghiệp là 3% [19, tr.16]. Đến năm 2012, giá trị sản xuất
dịch vụ tăng 14%, công nghiệp tăng 13,17% và nông nghiệp là 16,63% [13, tr.30].
Bên cạnh đạt được những kết quả to lớn trên đây, thì việc xây dựng
QHSX ở Đà Nẵng vẫn còn có hạn chế, yếu kém và bất cập nhất định cả về quan
hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối, làm cho LLSX
phát triển chưa mạnh mẽ, chưa đáp ứng yêu cầu và mục tiêu của CNH, HĐH.
3.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA NHẰM XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY
Thứ nhất, quy mô sở hữu còn nhỏ bé, chưa thật sự phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX trong các thành phần kinh tế, chưa đáp ứng được yêu cầu
đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển mạnh mẽ LLSX ở Đà Nẵng hiện nay.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển mạnh mẽ LLSX, thực hiện
thành công sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN,
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta chủ trương "cần phải: Phát
triển mạnh các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp"; "trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo" [31, tr.35].
Ở Đà Nẵng hiện nay, việc thực hiện yêu cầu và mục tiêu trên vẫn chưa
đáp ứng trong các thành phần kinh tế. Trong quá trình CNH, HĐH, mặc dù việc
xây dựng QHSX đã có sự phù hợp nhất định với trình độ phát triển của LLSX,
nhất là thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong các loại hình QHSX.
Tuy nhiên, như Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX đã chỉ rõ: việc phát triển
107
đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp còn có những hạn chế
nhất định, chưa phát huy mạnh mẽ lực lượng sản xuất, chưa đáp ứng được yêu
cầu và mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các thành phần kinh tế, nhất
là khu vực kinh tế dân doanh, kinh tế tập thể phát triển chưa mạnh [19, tr.25].
Đối với kinh tế nhà nước, do cơ chế, chính sách quản lý và sử dụng các
nguồn lực trong sản xuất còn thiếu và chưa đồng bộ, dẫn đến tài sản, vốn của
Nhà nước bị thất thoát, lãng phí, làm suy yếu sở hữu nhà nước. Trong các
DNNN trung ương, do việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về đẩy mạnh cổ phần hoá chưa đạt yêu cầu, chưa huy động được các
nguồn lực ở các khu vực kinh tế tư nhân trong và ngoài nước, nhất là các tập
đoàn kinh tế tư nhân, các nhà đầu tư mang tính chiến lược dưới hình thức công
ty cổ phần, vì vậy, sở hữu nhà nước chưa mạnh, chưa mở rộng phạm vi và quy
mô sở hữu nhằm nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong hội nhập kinh
tế quốc tế. Trong các DNNN địa phương, mặc dù công tác sắp xếp, đổi mới,
chuyển đổi hình thức sở hữu các doanh nghiệp về cơ bản đã hoàn thành, tuy
nhiên, quy mô sở hữu các nguồn lực của doanh nghiệp còn nhỏ, nguồn vốn đầu
tư chỉ đạt 2.179,6 tỷ đồng, tài sản hoạt động chỉ đạt 1.418,4 tỷ đồng [13, tr.82].
Trong kinh tế tập thể, mặc dù được đổi mới theo hướng đa dạng hoá sở
hữu, tuy nhiên, đến nay quy mô sở hữu các nguồn lực về vốn, tài chính, tài sản
và các tư liệu sản xuất khác còn nhỏ bé do việc huy động các nguồn lực từ các
chủ thể sở hữu bên ngoài còn hạn chế, khả năng tự tích luỹ vốn để tăng quy mô
sở hữu của hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, trong các hợp tác xã
nông nghiệp và các tổ hợp tác, quy mô sở hữu các nguồn lực còn hạn hẹp, ít có
giá trị, chưa đáp ứng yêu cầu mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất.
Kinh tế tư nhân đã phát triển với tốc độ nhanh nhưng chưa thật sự vững
chắc, mới chỉ phát triển về mặt số lượng cơ sở sản xuất và lực lượng lao động.
Vấn đề thực hiện đa dạng hoá các hình thức góp vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn
vốn nước ngoài, của các nhà đầu tư lớn, có công nghệ cao để liên kết, liên
108
doanh nhằm đẩy mạnh xã hội hoá sở hữu và sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp tư bản tư nhân còn nhiều hạn chế, làm cho quy mô sở hữu còn nhỏ.
Kinh tế tư nhân đã phát triển với tốc độ nhanh nhưng chưa thật sự vững
chắc, mới chỉ phát triển về mặt số lượng cơ sở sản xuất và lực lượng lao động.
Do thực hiện đa dạng hoá các hình thức góp vốn đầu tư, liên kết, liên doanh lẫn
nhau và với các chủ thể kinh tế khác nhằm đẩy mạnh xã hội hoá sở hữu và sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân còn nhiều hạn chế, làm cho quy
mô sở hữu còn nhỏ: hiện nay, có đến 96,55% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy
mô về nguồn vốn của từng cơ sở sản xuất chỉ đạt dưới 50 tỷ đồng [88, tr.42].
Đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, mặc dù chủ trương của lãnh
đạo thành phố là phát triển thành phần kinh tế này nhằm tiếp cận các nguồn vốn,
kỹ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, tuy
nhiên đến nay, việc đa dạng hoá sở hữu trong các ngành và lĩnh vực kinh tế vẫn
còn có mặt hạn hẹp và bất cập. Đáng chú ý là nguồn lực đầu tư phát triển các
ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin vẫn còn ít
và chưa mạnh. Bên cạnh đó, quy mô sở hữu của các nhà đầu tư và các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế này tham gia vào các dự án quy mô vừa và nhỏ
chưa được khuyến khích và tạo điều kiện khai thác, sử dụng có hiệu quả.
Chính những hạn chế chủ yếu trên đã cản trở sự phát triển của LLSX
trong các thành phần kinh tế, làm chậm quá trình CNH, HĐH ở Đà Nẵng. Do
đó, yêu cầu tiếp tục đổi mới các hình thức sở hữu cho phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, phát
triển mạnh mẽ LLSX hiện đại là vấn đề đặt ra trên địa bàn Đà Nẵng hiện nay.
Thứ hai, yêu cầu đổi mới mạnh quan hệ tổ chức quản lý sản xuất nhằm
thúc đẩy LLSX phát triển mạnh mẽ vẫn còn hạn chế, yếu kém và bất cập trong
các thành phần kinh tế ở Đà Nẵng hiện nay.
Ở Đà Nẵng, như đánh giá tại Đại hội lần thứ XX của Đảng bộ là cơ cấu
thành phần kinh tế chuyển biến tích cực. Công tác sắp xếp, đổi mới doanh
109
nghiệp nhà nước địa phương được chú trọng. Kinh tế tập thể đã được tổ chức
phát triển trong các lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại, vận
tải. Khu vực kinh tế dân doanh có bước phát triển, cùng với kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế thành
phố. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc đổi mới quan hệ tổ chức quản lý sản xuất
trong các thành phần kinh tế vẫn tồn tại một số hạn chế, yếu kém và bất cập sau:
Đối với kinh tế nhà nước, mà trọng tâm là các DNNN, mặc dù Đảng và
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, ra nhiều nghị quyết, ban hành nhiều luật về
đổi mới, sắp xếp lại, đẩy mạnh cổ phần hoá, giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong kinh doanh cho doanh nghiệp, tập trung nhiều nguồn lực để phát
triển trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nhằm nâng cao năng
lực sản xuất và hiệu quả kinh tế, tuy nhiên, so với yêu cầu và mục tiêu này, thì
vẫn chưa đáp ứng đầy đủ. Cơ chế, chính sách quản lý đối với các doanh nghiệp
vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ. Quan hệ giữa quyền quản lý nhà nước với
quyền sở hữu của Nhà nước về các nguồn lực, như đất đai, tài sản, vốn, khoa
học - công nghệ, nguồn nhân lực chưa chặt chẽ và việc sử dụng quyền sở hữu
này trong sản xuất kinh doanh vẫn chưa rõ ràng. Việc phân biệt quyền của chủ
sở hữu và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của doanh
nghiệp vẫn chưa giải quyết triệt để trên thực tế. Trong các DNNN trung ương,
yêu cầu "khẩn trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp, cơ cấu lại, đẩy mạnh cổ
phần hoá" theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn chậm trễ.
Trong các DNNN địa phương, việc chuyển đổi hình thức sở hữu gây ra sự thất
thoát, lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước; vấn đề cổ đông của người lao động
còn hạn chế, không bảo đảm cho họ làm chủ trong tổ chức quản lý sản xuất,
thậm chí có hiện tượng tư nhân hoá không đúng với chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Những tồn tại này đã làm cản trở sức sản xuất, gây khó
khăn cho việc sử dụng, khai thác, phát huy mạnh mẽ LLSX, kết quả sản xuất
chưa tương xứng với nguồn lực hiện có và sự ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước.
110
Đối với kinh tế tập thể, mặc dù được đổi mới theo tinh thần của Nghị
quyết Trung ương 5 khoá IX, Luật Hợp tác xã năm 2003, đặc biệt là "Đề án về
tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" của Ủy ban
nhân dân thành phố Đà Nẵng, tuy nhiên, vẫn còn nhiều hợp tác xã và tổ hợp tác
hoạt động không đúng với các nguyên tắc và quy định của Luật Hợp tác xã, còn
lúng túng trong việc xác định mô hình sản xuất kinh doanh cho phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX trong từng loại ngành nghề, lĩnh vực sản xuất. Đáng chú
ý là do chưa tuân thủ triệt để các nguyên tắc hợp tác - liên kết và thiếu các
hình thức tổ chức liên kết - hợp tác đa dạng để đáp ứng nhu cầu đa dạng của
các chủ thể kinh tế cũng như việc triển khai thực hiện chính sách khuyến
khích hỗ trợ, ưu đãi của chính quyền chưa kịp thời, chặt chẽ và đầy đủ, vì vậy,
việc huy động các nguồn lực, nhất là nguồn vốn đầu tư phát triển vẫn còn hạn
chế, chưa đảm bảo mở rộng quy mô sản xuất và đa dạng hoá quan hệ tổ chức
quản lý sản xuất nhằm khai thác tiềm năng và lợi thế để phát triển, nhất là các
hợp tác xã và tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Kinh tế tư nhân mặc dù đã có bước phát triển và đang trở thành một
động lực quan trọng của nền kinh tế thành phố, tuy nhiên, trong quan hệ tổ chức
quản lý sản xuất vẫn còn yếu kém. Việc thực hiện chủ trương khuyến khích kinh
tế tư nhân thực hiện xã hội hóa sở hữu còn chậm, tổ chức quản lý sản xuất kinh
doanh của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là ở các cơ sở kinh tế cá
thể, tiểu chủ còn mang tính tự phát, thiếu sự liên kết, hợp tác trong xã hội hoá
sản xuất kinh doanh. Chính hạn chế trong việc xã hội hoá sở hữu làm cho kinh tế
tư nhân ở Đà Nẵng chưa tổ chức được nhiều doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế
mạnh, làm "xương sống", mũi nhọn nhằm phát triển mạnh mẽ LLSX, tạo nền
tảng trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, hiện nay có thể coi
là mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển mạnh các loại hình tổ chức sản xuất kinh
doanh tư nhân với cơ chế, chính sách còn bất cập và môi trường kinh tế - xã hội
trên địa bàn vẫn chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi để phát triển. Tình trạng
111
phân biệt, đối xử giữa các loại hình sản xuất kinh doanh vẫn còn tồn tại, việc tiếp
cận các nguồn lực của xã hội để phát triển sản xuất đối với kinh tế tư nhân vẫn
chưa đáp ứng kịp thời và đầy đủ, nhất là việc giải quyết tư liệu sản xuất ở các cơ
sở sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ. Hạn
chế và bất cập đó đã làm cản trở và gây khó khăn cho hoạt động của kinh tế tư
nhân, thậm chí tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc giải thể. Năm
2011 có 408 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, 2696 doanh nghiệp chờ giải
thể, 1381 doanh nghiệp chuyển địa điểm và tính trong 6 tháng đầu của năm 2012
đã có 264 doanh nghiệp tư nhân thông báo tạm ngừng hoạt động [105, tr.6].
Đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, việc triển khai các phương
thức đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư dưới hình thức PPP, BOT, BTO, BT… còn
hạn chế, chưa được quan tâm đầy đủ. Các dự án quy mô lớn với số vốn đăng ký
kinh doanh nhiều tỷ USD, nhưng tính khả thi vẫn còn thấp và tiến độ thực hiện
chậm. Các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu đầu
tư vào các ngành, lĩnh vực thu lợi nhuận cao và ít rủi ro, vì vậy, sự tác động đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và lĩnh vực chưa mạnh mẽ, hợp lý. Để
thực hiện định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thì khó có thể dựa vào thành
phần kinh tế này, mà chủ yếu phải dựa vào các doanh nghiệp trong nước. Mặt
khác, việc thu hút, quản lý và sử dụng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
vẫn chưa bảo đảm gắn tăng trưởng kinh tế với yêu cầu phát triển bền vững.
Trên đây là những hạn chế, bất cập đang đặt ra trong quan hệ tổ chức
quản lý sản xuất đối với các thành phần kinh tế ở địa phương hiện nay. Những
tồn tại này đòi hỏi không chỉ bản thân các thành phần kinh tế, mà về phía lãnh
đạo thành phố phải có những chủ trương và biện pháp khắc phục.
Thứ ba, trong việc thực hiện quan hệ phân phối, yêu cầu kết hợp các
hình thức phân phối theo hướng bình đẳng, công bằng nhằm tạo động lực cho sự
phát triển và nâng cao đời sống của người lao động còn hạn chế, thiếu sót, nhất
là trong khu vực kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng hiện nay.
112
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện phân phối là phải kết hợp những
nguyên tắc của kinh tế thị trường với các nguyên tắc của CNXH, bảo đảm
tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước, từng chính sách phát triển nhằm tạo động lực cho sự phát triển kinh tế -
xã hội, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống cho người lao động.
Ở Đà Nẵng, việc thực hiện quan hệ phân phối trong các thành phần kinh
tế đã đạt được những kết quả tích cực, như giải quyết được một lực lượng lao
động to lớn, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xoá đói, giảm nghèo. Tiền lương, tiền công
của các chủ thể kinh tế từng bước được định hướng và thực hiện theo cơ chế thị
trường có sự quản lý và điều tiết của chính quyền, vì vậy, bước đầu đã khắc phục
tính bình quân, cào bằng, ổn định và cải thiện được đời sống của người lao động.
Tuy nhiên, so với yêu cầu và mục tiêu trên thì vẫn chưa đáp ứng đầy đủ.
Trong các thành phần kinh tế, còn có mâu thuẫn trong việc phân chia lợi ích kinh
tế giữa các chủ thể; sự không công bằng trong phân phối giữa các loại hình
doanh nghiệp, giữa các ngành nghề kinh doanh chưa giải quyết có hiệu quả.
Mặc dù kinh tế nhà nước là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,
HĐH theo định hướng XHCN, tuy nhiên, cơ chế quản lý tiền lương, tiêu chí trả
lương và đánh giá kết quả lao động vẫn chưa đúng với các nguyên tắc của thị
trường, chưa gắn chặt tiền lương, tiền công với chất lượng và hiệu quả sản xuất,
yếu tố công bằng và bình đẳng chưa bảo đảm, chưa khuyến khích, thu hút và sử
dụng được đội ngũ công nhân lao động có trình độ cao. Đáng chú ý là một bộ
phận lao động thiếu việc làm, mất việc làm, thu nhập bị giảm do việc sắp xếp,
đổi mới, cổ phần hoá DNNN vẫn chưa được giải quyết triệt để và thoả đáng.
Trong kinh tế tập thể, mặc dù đã có sự kết hợp các hình thức phân phối
do đổi mới quan hệ sở hữu và tổ chức quản lý, nhưng do phương thức sản xuất
còn thấp, dẫn tới kết quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế chưa cao, vì
vậy, thu nhập và đời sống của xã viên và người lao động vẫn chưa bảo đảm.
113
Trong các loại hình QHSX thuộc khu vực kinh tế tư nhân, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tiền công, tiền lương vẫn chưa bảo đảm tái sản
xuất sức lao động, chưa thật sự trở thành đòn bẩy kính thích người lao động làm
việc vớí sự sáng tạo, nhiệt tình. Các chủ sở hữu tư nhân vẫn chưa nhận thức rõ,
thực hiện đầy đủ, thậm chí vi phạm các hình thức phân phối. Nhiều doanh
nghiệp không thực hiện đầy đủ các chính sách đối với người lao động, như chậm
trễ trong việc trả lương cho công nhân, trốn tránh trách nhiệm đóng bảo hiểm xã
hội, tuyển dụng lao động không có hợp đồng lao động, không có thoả ước lao
động tập thể, kéo dài thời gian thử việc, buộc người lao động làm thêm giờ, thêm
việc lại không trả công hợp lý… trong khi đó, việc kiểm tra, giám sát của các cơ
quan chức năng trên địa bàn vẫn chưa kịp thời, chưa có xử lý nghiêm khắc với
các chủ doanh nghiệp vi phạm quan hệ phân phối. Tình trạng này đã tác động
xấu đến các chủ doanh nghiệp, bản thân các loại hình doanh nghiệp, người lao
động, ảnh hưởng đến sự phát triển nhanh và bền vững; làm nảy sinh những mâu
thuẫn giữa bóc lột và bị bóc lột, làm cản trở yếu tố định hướng XHCN trong
phân phối, thậm chí có khuynh hướng phát triển đối lập với xu hướng XHCN.
Những hạn chế, thiếu sót này cần phải tiếp tục tháo gỡ, khắc phục nhằm
tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển sản xuất, góp phần cải thiện và nâng
cao đời sống cũng như phát huy tính tích cực, sáng tạo của người lao động.
Tiểu kết chương 3
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH ở Đà Nẵng thời kỳ đổi mới, có thể khẳng định, việc nhận thức và vận dụng quy luật này ngày càng phù hợp và rõ ràng hơn. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ, chính quyền, các chủ thể kinh tế và nhân dân thành phố đã quán triệt và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo đường lối CNH, HĐH và chủ trương, chính sách xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng và Nhà nước ta.
114
Vấn đề xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở
địa phương đã thể hiện rõ trong việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các
hình thức tổ chức quản lý sản xuất và các hình thức phân phối. Trong các loại
hình QHSX ở Đà Nẵng, thì kinh tế nhà nước đã vươn lên giữ vai trò quan
trọng của nền kinh tế, kinh tế tập thể đã được củng cố và có bước phát triển,
các loại hình QHSX thuộc kinh tế tư nhân đã phát triển và đang vận động theo
hướng trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Kết quả của việc
xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX đó đã tạo động lực
to lớn cho tất cả thành phần kinh tế khai thác được các tiềm năng và lợi thế,
các nguồn lực của xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, từng bước thực
hiện đẩy mạnh CNH, HĐH, cải thiện và nâng cao một bước đời sống cho các
tầng lớp nhân dân của thành phố cũng như góp phần quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Mặc dù đã đạt được những kết quả to lớn trong nhận thức và vận
dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá
trình CNH, HĐH, nhưng thực tế ở Đà Nẵng chỉ ra, việc xây dựng QHSX còn
có những hạn chế, bất cập, những vấn đề đang đặt ra cả về quan hệ sở hữu,
quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối. Đó chính là những yếu tố
chưa phù hợp làm cản trở sự phát triển của LLSX, chưa thúc đẩy mạnh mẽ
CNH, HĐH. Đến nay, sự phát triển kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng, thế mạnh của thành phố: quy mô còn nhỏ bé, tích luỹ còn hạn chế, sức
cạnh tranh và hiệu quả trên một số lĩnh vực còn thấp. Công nghiệp chưa thực
sự trở thành ngành kinh tế chủ lực, du lịch vẫn chưa trở thành lĩnh vực kinh
tế mũi nhọn, kinh tế biển chưa trở thành ngành kinh tế động lực. Để đẩy
mạnh CNH, HĐH, xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX, phải tiếp tục nghiên cứu và vận dụng đúng đắn quy luật này.
115
Chương 4
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY
4.1. ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY
4.1.1. Quán triệt định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đà Nẵng hiện nay
Vấn đề xây dựng QHSX trong phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN được Đảng ta nêu lên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá
độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội lần thứ XI, coi đây là
một trong những định hướng lớn:
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế,
bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh
tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ
chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển [31, tr.73-74].
Như vậy, xây dựng QHSX ở nước ta hiện nay gắn liền với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều
116
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là nền kinh tế tồn tại nhiều loại hình QHSX. Các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và hình thức phân phối vừa vận động theo những quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH thông qua sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các nguồn lực kinh tế để phát triển nhanh và bền vững, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Muốn xây dựng thành công CNXH trong thời kỳ quá độ, một mặt phải coi đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển LLSX hiện đại là nhiệm vụ hàng đầu, điều này vừa xuất phát từ yêu cầu của chính ngay sự phát triển LLSX, vừa là yêu cầu của chế độ chính trị - xã hội XHCN; mặt khác, phải xây dựng và từng bước hoàn thiện QHSX XHCN là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và trực tiếp nhằm bảo đảm định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường, góp phần củng cố, giữ vững kiến trúc thượng tầng XHCN và xây dựng cơ sở kinh tế của CNXH. Vì vậy, việc khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là vấn đề mang tính nguyên tắc ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Thực hiện yêu cầu và mục tiêu này là sự thể hiện tính chất và phương hướng phát triển XHCN, là tính quy định về chất của CNXH và là đặc trưng căn bản phân biệt CNXH với chủ nghĩa tư bản và các chế độ xã hội khác. Sự vận dụng sáng tạo quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX theo hướng tích cực, chủ động xây dựng và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân là một định hướng chính trị có tầm quan trọng trong điều kiện quá độ lên CNXH ở nước ta. Vấn đề này được Đại hội lần thứ XI của Đảng chủ trương là trong suốt quá trình xây dựng CNXH, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ "giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa" [31, tr.73].
117
Xây dựng QHSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta
gắn liền với chủ trương thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển
theo định hướng XHCN. Do trình độ phát triển của LLSX hiện nay là đa
dạng, không đều, vì vậy, chúng ta chỉ bỏ qua sự thống trị của QHSX tư bản
chủ nghĩa, chứ không thể bỏ qua QHSX đó nói chung. Mục đích của vấn đề
xây dựng QHSX chính là sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế nhằm phát triển mạnh mẽ LLSX,
thực hiện thành công sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, từng bước xây dựng
cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội. Để thực hiện mục đích đó, đòi hỏi khi lựa chọn, xác lập các loại hình
QHSX không chỉ bảo đảm phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, mà
còn phải quán triệt định hướng XHCN trong tất cả các thành phần kinh tế.
Trong quan hệ phân phối, thực hiện đa dạng hoá các hình thức phân
phối, trong đó tăng cường hình thức phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế; theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác và theo hệ thống an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả các hình thức phân phối này
là phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, tạo động lực thúc đẩy sản xuất
phát triển, bảo đảm bình đẳng và công bằng xã hội, góp phần nâng cao đời
sống của nhân dân, đó cũng chính là giữ vững tính chất tiến bộ của QHSX mới.
Chủ trương mang tính định hướng lớn của Đảng ta trên đây có tầm
quan trọng chi phối đối với việc xây dựng QHSX trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH ở nước ta nói chung và ở Đà Nẵng nói riêng hiện nay.
4.1.2. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đà Nẵng hiện nay
Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ tới năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vì
118
vậy, đẩy mạnh CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm và có tính quyết định trong
giai đoạn mới. Tuy nhiên, Đảng ta cũng nhận thức rõ tầm quan trọng của việc
xây dựng QHSX thông qua phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Một trong năm quan điểm mà Đảng ta nêu lên trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 là "Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với
trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản
xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [31, tr.30-31].
Phát triển mạnh mẽ LLSX hiện nay cốt lõi là phát triển khoa học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại, đổi mới công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao
động, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua đẩy mạnh CNH,
HĐH. Tuy nhiên, để phát triển kinh tế, không chỉ phát triển mạnh mẽ LLSX
mà còn phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện từng bước QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX đó nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh
tế. Nói cách khác, đẩy mạnh CNH, HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức.
Thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm phát triển LLSX;
đồng thời xây dựng và hoàn thiện QHSX trên địa bàn Đà Nẵng hiện nay có
những lợi thế, nhưng cũng nổi lên một số vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết:
Đà Nẵng là địa bàn có lợi thế về điều kiện tự nhiên, là thành phố trực
thuộc Trung ương, có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế - xã hội và an
ninh - quốc phòng, nằm ở vùng kinh tế trọng điểm của khu vực miền Trung,
có vai trò động lực đối với sự phát triển khu vực miền Trung và Tây
Nguyên. Thành phố là đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển,
đường hàng không của cả nước và quốc tế, là nơi tập trung kết cấu hạ tầng
kinh tế, kỹ thuật, xã hội khá phát triển, có lợi thế để phát triển các ngành
công nghiệp, kinh tế biển và thương mại, dịch vụ, du lịch. Sân bay quốc tế,
cụm cảng biển tổng hợp, các khu công nghiệp, các khu công nghệ cao, cùng
với hệ thống thông tin và hệ thống giáo dục - đào tạo… tương đối hoàn
chỉnh. Cùng với lợi thế này, thì nhân tố chủ quan, mà trước hết là Đảng bộ
và chính quyền thành phố đã có nhiều cố gắng trong nhận thức và vận dụng
119
quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX vào địa phương,
đã quán triệt đường lối CNH, HĐH, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN của Đảng và Nhà nước, ban hành nhiều chủ trương, cơ chế,
chính sách, giải pháp đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn và tổ chức
thực hiện có hiệu quả. Đây là những điều kiện vô cùng quan trọng và thuận
lợi để thành phố tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn nổi lên một số mâu thuẫn bao trùm là: trình
độ phát triển của LLSX vẫn còn thấp, đa dạng và không đều trong các thành
phần kinh tế, giữa các thành phần kinh tế và trong các ngành kinh tế với yêu
cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, vì vậy chưa tạo ra bước nhảy về năng suất lao
động xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá, nhưng quy mô còn nhỏ, tích luỹ còn
hạn chế; sức cạnh tranh và hiệu quả trên một số lĩnh vực còn thấp. Chất
lượng tăng trưởng chưa cao, một số ngành, lĩnh vực phát triển chưa thật bền
vững. Kinh tế nhà nước chưa thật sự nắm giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể
phát triển chưa mạnh, khu vực kinh tế dân doanh phát triển chưa vững chắc.
Ngành du lịch chưa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghiệp
vẫn chưa trở thành ngành kinh tế chủ lực, kinh tế biển chưa được đầu tư,
khai thác hợp lý, chưa trở thành ngành kinh tế động lực. Khoa học và công
nghệ chưa thật sự gắn chặt với sản xuất; tỷ lệ đổi mới, ứng dụng công nghệ
hiện đại vào sản xuất trong các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế còn
thấp. Kết cấu hạ tầng vẫn còn có mặt chưa hoàn thiện, nguồn nhân lực chưa
đáp ứng yêu cầu trong các thành phần kinh tế và thực hiện đẩy mạnh CNH,
HĐH. Việc nhận thức và vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX trong các thành phần kinh tế vẫn còn hạn chế cả về sở hữu,
tổ chức quản lý và phân phối. Chất lượng xây dựng và quản lý thực hiện quy
hoach, kế hoạch phát triển trong một số ngành, lĩnh vực kinh tế còn yếu.
Tất cả những thuận lợi và hạn chế trên đây phải được nhận thức đầy
đủ, sâu sắc trong quá trình vận dụng xây dựng QHSX. Yêu cầu và mục tiêu
của việc đẩy mạnh CNH, HĐH là để phát triển LLSX hiện đại; đồng thời
120
hoàn thiện từng bước QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Đà Nẵng. Để đẩy mạnh CNH, HĐH, phải phát huy được những thế mạnh
các điều kiện vật chất, nhất là trình độ phát triển LLSX và khắc phục những
hạn chế trên đây nhằm tạo nên trình độ của LLSX hiện đại, đồng thời trong
quá trình đó, phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX nhằm thúc đẩy LLSX phát triển mạnh mẽ.
Như vậy, đẩy mạnh CNH, HĐH ở Đà Nẵng được xác định là nhiệm
vụ trung tâm xuyên suốt nhằm tạo nên LLSX hiện đại. Theo quy luật, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của trình độ LLSX, các QHSX tiếp tục được củng
cố và phát triển lên. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các
loại hình QHSX sẽ mở rộng, chuyển hoá từ thấp đến cao trong quá trình xã
hội hoá sản xuất kinh doanh, làm cho CNH, HĐH phát triển nhanh, mạnh, tạo nên LLSX hiện đại và chính LLSX này là điều kiện vật chất cho QHSX
ngày càng xã hội hoá, phát triển cao hơn, theo đúng quy luật khách quan.
Trong quá trình đổi mới QHSX, phạm vi và quy mô của từng loại
hình QHSX, từng hình thức sở hữu không "nhất thành bất biến" mà luôn
luôn vận động, biến đổi và chuyển hoá theo hướng có thể thu hẹp lại, có thể
tăng lên hoặc có thể chuyển hoá lẫn nhau. Nếu sự biến đổi và chuyển hoá đó
diễn ra đúng quy luật, đối tượng sở hữu được các chủ thể sử dụng một cách
có hiệu quả, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thành
phố, thì phải khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi về kinh tế, pháp luật,
cơ chế, chính sách để phát triển. Ngược lại, nếu sự biến đổi và chuyển hoá
đó là không minh bạch, vi phạm quy luật khách quan, không phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX, thì phải kịp thời phát hiện, ngăn cản và xử lý
các chủ thể sở hữu đó theo đúng pháp luật. Chính vì vậy, yêu cầu trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển, đòi hỏi phải không ngừng nhận thức,
phát hiện và tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các mặt của QHSX về các hình
thức sở hữu, các hình thức tổ chức quản lý sản xuất và các hình thức phân
phối cho phù hợp với sự phát triển của trình độ LLSX nhằm tạo nên sự
121
chuyển hoá QHSX từ thấp đến cao, với những hình thức và quy mô mới
thích hợp để thúc đẩy LLSX phát triển, thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH.
Đồng thời, cần phải nhận thức rõ rằng, để nền kinh tế phát triển bảo đảm
định hướng XHCN, trong quá trình xây dựng QHSX, phải làm cho kinh tế
nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc trong nền kinh tế của thành phố.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
TRONG QUÁ TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở ĐÀ
NẴNG HIỆN NAY
4.2.1. Đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất nhằm tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đà Nẵng hiện nay
Mục đích của việc đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình QHSX là nhằm tạo nên sự phù hợp với trình độ phát triển của LLSX để thúc đẩy LLSX phát triển. Muốn đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình QHSX, phải xác định rõ trình độ phát triển của LLSX trong các thành phần kinh tế ở Đà Nẵng hiện nay để làm cơ sở cho việc xây dựng các loại hình QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH ở Đà Nẵng.
Đối với kinh tế nhà nước, trong các DNNN trung ương, do nắm giữ các ngành then chốt, có ưu thế và khả năng phát triển lâu dài, nên đã có sự đầu tư, đổi mới công cụ lao động, các thiết bị máy móc khá hiện đại phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, trong các DNNN địa phương, máy móc, trang thiết bị sản xuất phần lớn là cũ và lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất theo hướng hiện đại hoá.
Trong kinh tế tập thể, một số hợp tác xã đã cơ giới hoá được công cụ lao động, áp dụng được công nghệ sản xuất và chủ yếu tập trung ở một số ngành công nghiệp chế biến và sơ chế sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản. Tuy nhiên, phần lớn các hợp tác xã và tổ hợp tác hoạt động sản xuất trong ngành dịch vụ vận tải, du lịch, nông nghiệp với cơ sở vật chất, tư liệu sản xuất về công cụ lao động, nhà kho, nhà làm việc và các công trình khác cũ kỹ, thô sơ.
122
Trong khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp tư nhân do phần lớn
các cơ sở sản xuất là vừa và nhỏ, lượng vốn ít, vì vậy, khả năng đầu tư mua
sắm máy móc, thiết bị hiện đại còn hạn chế, chủ yếu là tân trang, làm mới các
trang thiết bị để phục vụ sản xuất là chủ yếu. Đặc biệt, kinh tế cá thể, tiểu chủ,
mặc dù chiếm một bộ phận lớn, nhưng công cụ sản xuất còn rất lạc hậu.
Trong ngành công nghiệp, nhìn chung các doanh nghiệp ở Đà Nẵng
vẫn còn sử dụng các máy móc, thiết bị có hàm lượng công nghệ phục vụ sản
xuất tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, chỉ có 10%
thiết bị, máy móc hiện đại, 38% là trung bình, 52% là lạc hậu và rất lạc hậu
[61, tr.15]. Trong các khu công nghiệp có đến 55,6% doanh nghiệp trang bị
máy móc, thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, thậm chí có 1,8% doanh nghiệp trong tổng số
50 doanh nghiệp đã khảo sát không sử dụng máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất
[98, tr.8]. Trong ngành nông nghiệp, bên cạnh ruộng đất bị suy giảm cả về số
lượng và chất lượng, thì đây là khu vực sản xuất với công cụ lao động còn thô
sơ, chủ yếu vẫn là công cụ lao động thủ công, cơ bắp; trình độ cơ giới hoá nông
nghiệp còn thấp, các trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất lạc hậu.
Cơ cấu đội ngũ lao động còn mất cân đối: lao động trong kinh tế nhà
nước và một bộ phận trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
đào tạo và có trình độ chiếm tỷ lệ cao nhất, tập trung chủ yếu trong các doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo, sản xuất và
phân phối điện, ngân hàng, tài chính, tín dụng, bưu chính - viễn thông, công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin… Trong khi đó, một
bộ phận lớn các chủ doanh nghiệp tư nhân và ban quản lý hợp tác xã chưa được
đào tạo bài bản về kiến thức và kỹ năng quản trị kinh doanh, vì vậy, chủ yếu tổ
chức quản lý sản xuất dựa vào kinh nghiệm. Đa số người lao động chưa qua
đào tạo, kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp còn hạn chế, thiếu tinh thần
hợp tác, kinh nghiệm và trình độ lao động theo hướng CNH, HĐH hạn chế.
Khoa học, kỹ thuật và công nghệ sản xuất rất đa dạng, chủ yếu là thấp, chậm phát triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón đầu. Số
123
doanh nghiệp sử dụng công nghệ hiện đại còn ít, chủ yếu ở ngành xi măng, sắt thép, cao su, lắp ráp điện tử, điện lực, viễn thông, ngân hàng… và tập trung chủ yếu ở DNNN trung ương và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, phần lớn các cơ sở sản xuất trong các thành phần kinh tế đang sử dụng công nghệ sản xuất ở mức trung bình. Nhiều cơ sở đang sử dụng đan xen cả công nghệ lạc hậu, trung bình và hiện đại, tốc độ đổi mới công nghệ chậm. Theo đánh giá của Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Đà Nẵng, giá trị hàm lượng công nghệ trong máy móc, thiết bị sản xuất chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu, có đến 35% phải đầu tư nâng cấp, 30 - 40 % cần phải thay thế. Đáng chú ý là trong các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân, chỉ có khoảng 20% có trình độ công nghệ khá, còn đa số là sử dụng công nghệ lạc hậu và trung bình.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật sản xuất mặc dù đã có bước phát triển,
nhưng nhìn chung vẫn có mặt chưa đồng bộ và chưa hiện đại hoá một cách
toàn diện, chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và cho việc khai thác, phát triển
các tiềm năng kinh tế - xã hội của thành phố để phát triển LLSX [19, tr.162].
Như vậy, nhìn chung trình độ của LLSX trong các thành phần kinh tế ở
Đà Nẵng là khá đa dạng, không đồng đều, biến đổi còn chậm, theo tuần tự các
bước của CNH, HĐH là chủ yếu; yếu tố đi tắt, đón đầu chưa phổ biến ở một số
ngành và lĩnh vực cần thiết như chủ trương của Đảng bộ thành phố đề ra.
Để đẩy mạnh CNH, HĐH, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng và nâng cao lợi thế cạnh tranh, bảo đảm phát triển nhanh, hiệu quả,
bền vững và tạo tiền đề xây dựng, hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, phải tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ
thuật, xã hội đồng bộ và hiện đại; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên
cơ sở nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học, kỹ thuật, trình độ hiểu biết
về kinh tế - xã hội, văn hoá, pháp luật… cho các chủ doanh nghiệp, cán bộ
quản lý và người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất của các thành phần
kinh tế. Đồng thời, phát triển khoa học và công nghệ làm động lực đẩy nhanh
quá trình CNH, HĐH và kinh tế tri thức. Phát triển nguồn lực khoa học và công
124
nghệ đảm bảo khả năng tiếp thu, ứng dụng, làm chủ và phát triển công nghệ
hiện đại. Thúc đẩy lộ trình đổi mới công nghệ theo hướng đi thẳng vào công
nghệ hiện đại, tiên tiến; chuyển giao, làm chủ những công nghệ mới, tạo đột
phá trên một số lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực như công nghệ sinh học, công
nghệ thực phẩm, chế biến, công nghệ vật liệu mới và công nghệ môi trường.
Gắn liền với việc phát triển LLSX theo hướng hiện đại, trong xây dựng
QHSX, tiếp tục đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình QHSX phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX. Đại hội lần thứ XX của Đảng bộ Đà Nẵng chủ trương:
Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật. Nâng
cao hiệu quả kinh tế nhà nước; chăm lo phát triển kinh tế tập thể với
nhiều hình thức đa dạng, đồng thời nâng cao nhận thức về vai trò, vị
trí của kinh tế dân doanh, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển
mạnh, trở thành một động lực phát triển kinh tế của thành phố. Hỗ
trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại, hộ sản xuất kinh
doanh, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn [19, tr.101].
Trong việc đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX, phải chú ý tính đồng bộ của QHSX trên cả ba
mặt là sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Sở hữu là vấn đề cốt lõi, nhưng
nếu tổ chức quản lý không phù hợp thì tư liệu sản xuất và sức lao động vẫn
không kết hợp, triển khai có hiệu quả, không phát huy được sức sản xuất. Việc
thực hiện quan hệ phân phối cũng có vai trò quan trọng đối với quan hệ sở hữu
và tổ chức quản lý sản xuất. Thực tế chỉ ra là, khi lợi ích của người lao động,
lợi ích tập thể và lợi ích của xã hội được quan tâm giải quyết tốt thì sẽ là động
lực to lớn góp phần củng cố quan hệ sở hữu, thúc đẩy sức sản xuất phát triển.
Như vậy, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Đà
Nẵng hiện nay gắn liền với việc phát triển mạnh các loại hình QHSX, trong đó
các hình thức sở hữu, các hình thức tổ chức quản lý sản xuất và các hình thức
phân phối tồn tại đan xen nhau, hỗn hợp tác động qua lại lẫn nhau hình thành
125
kết cấu vừa thống nhất vừa mâu thuẫn nhau. Đây là mâu thuẫn biện chứng tạo
nên động lực của sự phát triển, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Mỗi một loại hình QHSX có vị trí,
vai trò khác nhau, nhưng hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau cùng tồn tại, phát triển lâu
dài trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Chúng ta không thể dùng ý chí chủ
quan, mệnh lệnh hành chính để cải tạo, xoá bỏ hay chuyển đổi một loại hình
QHSX nào, đặc biệt là các loại hình QHSX trong khu vực kinh tế tư nhân.
Đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình QHSX trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH hiện nay phải gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để đẩy mạnh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại:
"dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp", phải khuyến khích và tạo mọi điều kiện
cho các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
phát triển và hiện đại hoá các ngành dịch vụ: du lịch, thương mại, tài chính,
ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: viễn
thông, vận tải, cảng biển, y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ…, trong đó phát
triển mạnh ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; ngành công nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế chủ
lực, ngành kinh tế biển trở thành ngành kinh tế động lực. Đồng thời phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn toàn diện theo hướng nông nghiệp công
nghệ cao, hiện đại, bền vững, giá trị gia tăng lớn, đạt yêu cầu về hiệu quả -
chất lượng - sạch, phục vụ đô thị, du lịch, khu công nghiệp và xuất khẩu.
Phương hướng chủ đạo của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là giải phóng
mạnh mẽ sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế -
xã hội, thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH nền kinh tế của Đà Nẵng. Theo đó, quá
trình đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình QHSX phải trên cơ sở phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX trong từng ngành nghề, lĩnh vực kinh tế nhằm làm
cho tư liệu sản xuất và người lao động được sử dụng, kết hợp tốt hơn, bảo đảm
cho LLSX phát triển mạnh, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững.
126
Cần khẳng định, trong điều kiện trình độ của LLSX phát triển không
đều giữa các thành phần kinh tế, giữa các ngành, lĩnh vực, thậm chí ngay trong
từng thành phần kinh tế, thì tất yếu phải đẩy mạnh đa dạng hoá sở hữu, đa dạng
hoá các loại hình tổ chức kinh doanh và các hình thức phân phối. Cần chú ý là:
trong cơ cấu QHSX đa dạng đó, sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo, sở hữu
nhà nước cùng với sở hữu tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế thành phố, nhưng không nên coi những hình thức sở hữu này mới
có tính chất định hướng XHCN, còn các hình thức sở hữu khác là phi XHCN.
Bởi vì, tính chất định hướng XHCN đối với các loại hình QHSX không chỉ
được xác định bởi nhân tố công hữu, mà còn được tạo nên bởi sở hữu tư nhân
và sự kết hợp có hiệu quả giữa các loại hình QHSX của nền kinh tế. Vì vậy,
Đảng bộ và chính quyền thành phố cần có chủ trương, chính sách và các giải
pháp phát triển phù hợp với từng loại hình QHSX, hình thức tổ chức kinh
doanh nhằm thúc đẩy LLSX phát triển, thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH nền
kinh tế. Đại hội Đảng bộ lần thứ XX đã chủ trương: "Thực hiện cơ chế, chính
sách khuyến khích ưu đãi đầu tư và chương trình hỗ trợ doanh nghiệp phải đảm
bảo tính hiệu quả, minh bạch và bình đẳng để các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế hoạt động, phát triển theo cơ chế thị trường" [19, tr.100].
4.2.2. Đổi mới và phát triển thành phần kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Đà Nẵng hiện nay
Thứ nhất, đổi mới và phát triển mạnh kinh tế nhà nước để từng bước
giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế
Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý đối với kinh tế nhà nước, DNNN, bởi quy mô sở hữu kinh tế nhà
nước, DNNN và hiệu quả hoạt động của chúng phụ thuộc vào hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước. Chính vì vậy, giải pháp cơ bản trước hết là hoàn
thiện đồng bộ cơ chế, chính sách và hành lang pháp lý đối với kinh tế nhà
127
nước. Cụ thể là: Hoàn thiện quy định về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN; xác định rõ vai trò chủ sở hữu nhà nước
và thể chế hoá rõ ràng, rành mạch về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân
được ủy quyền thực hiện nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các
DNNN và tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế
và các tổng công ty nhà nước. Hoàn thiện cơ chế sử dụng, phân cấp quản lý
các nguồn vốn, tài sản của Nhà nước, triệt để tách chức năng thực hiện quyền
chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nước, tách bạch rõ việc
thực hiện quyền chủ sở hữu với quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của DNNN cũng như trách nhiệm
của tổ chức và cá nhân về lĩnh vực này để xác lập trật tự, kỷ cương trong hoạt
động kinh tế nhằm bảo đảm và phát triển nguồn vốn, tài sản. Nhà nước kiên
quyết không ưu đãi, hỗ trợ các DNNN dưới dạng bao cấp hoặc bảo hộ.
Trên cơ sở hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, chính quyền Đà Nẵng
phải tính toán, xác định và sử dụng có hiệu quả vốn ngân sách nhà nước và các
nguồn vốn vay ưu đãi từ các bộ, ngành trung ương, các nguồn vốn ODA,
NGO… để tập trung đầu tư vào những ngành, lĩnh vực then chốt, các công
trình trọng điểm, địa bàn quan trọng, như lĩnh vực công ích, kết cấu hạ tầng
kinh tế, kỹ thuật, có liên quan đến an ninh - quốc phòng và an sinh xã hội nhằm
đẩy mạnh CNH, HĐH. Giải pháp này là nhằm thực hiện chủ trương của Đảng
bộ Đà Nẵng: "Ưu tiên bố trí vốn cho đầu tư phát triển các dự án cấp bách, quan
trọng, có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố" [19, tr.97].
Tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động đối với các DNNN
còn lại (100% vốn nhà nước) thuộc thành phố quản lý trong một số lĩnh vực,
như khai thác quỹ đất, tái định cư, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, văn
hoá, xã hội… nhằm không chỉ kinh doanh vì lợi nhuận mà còn thực hiện
nhiệm vụ chính trị - xã hội có ảnh hưởng đến công tác an sinh xã hội, như
Công ty TNHH MTV Khai thác thuỷ lợi Đà Nẵng, Công ty TNHH MTV Xổ
128
số kiến thiết và Dịch vụ in Đà Nẵng, Công ty TNHH MTV Nhà xuất bản
tổng hợp Đà Nẵng, Công ty TNHH MTV Cấp nước Đà Nẵng, Công ty
TNHH MTV Môi trường đô thị Đà Nẵng, Công ty TNHH MTV Xây dựng
và Phát triển hạ tầng Đà Nẵng, Công ty TNHH MTV Vật liệu xây dựng và
Kinh doanh nhà Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, kịp thời hướng dẫn, phổ biến các
cơ chế, chính sách mới liên quan đến công tác quản lý đối với DNNN; cụ thể
hoá các chính sách cho phù hợp với thực tế của Đà Nẵng. Nhất thiết phải có
quy hoạch, kế hoạch đào tạo, đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp theo hướng bảo đảm yêu cầu về năng lực
điều hành, quản lý, về đạo đức, văn hoá và có đủ kỹ năng, trình độ hội nhập
kinh tế quốc tế nhằm trực tiếp tổ chức tốt và có hiệu quả sản xuất kinh doanh
trong các doanh nghiệp. Tăng cường trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý kinh tế được Ủy ban nhân dân thành phố cử làm đại diện quyền
chủ sở hữu; chọn cử những cán bộ đảm bảo điều kiện, tiêu chuẩn để thực
hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý tài chính, tài sản của Nhà nước tại doanh
nghiệp; phát huy quyền dân chủ trong doanh nghiệp, nâng cao vai trò giám
sát của người lao động và kiểm soát viên; phát hiện những điểm bất hợp lý,
vướng mắc, từ đó chủ động sửa đổi và đề xuất các giải pháp mới thay thế.
Tập trung sắp xếp lại và đổi mới mạnh mẽ kinh tế nhà nước trung
ương. Hiện nay, số lượng DNNN trung ương trên địa bàn còn tương đối
nhiều, đối với những doanh nghiệp xét thấy không cần thiết, sản xuất thua lỗ, không còn khả năng vươn lên, phải triệt để thực hiện bán, khoán, cho thuê,
giải thể hoặc chuyển sang hình thức sở hữu khác. Riêng đối với các DNNN
thuộc các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, như Công ty TNHH MTV
Cảng Đà Nẵng, Tổng Công ty cảng Hàng không Miền Trung, Tổng Công ty Điện lực Miền Trung, Tổng Công ty Cổ phần Dệt may Hoà Thọ, Công ty
TNHH MTV Sông Đà… cùng với việc tăng cường tính chủ động, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho các doanh nghiệp, phải phân định rõ những ngành nào
Nhà nước nắm 100% vốn, ngành nào Nhà nước nắm cổ phần chi phối, ngành
129
nào không cần; chuyển đổi sở hữu, tái cơ cấu thông qua cổ phần hoá: "Tập trung nguồn lực những ngành then chốt nhà nước cần nắm giữ chi phối để góp
phần ổn định nền kinh tế, thoái vốn ở những ngành, lĩnh vực nhà nước không
cần nắm giữ cổ phần; kiên quyết chấn chỉnh tình trạng đầu tư dàn trải ngoài
ngành, lĩnh vực kinh doanh chính" [103, tr.6] nhằm khắc phục sự thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả kinh tế.
So với các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, thế mạnh của Đà Nẵng là
kinh tế nhà nước trung ương với nguồn lực lớn về vốn, máy móc, khoa học và
công nghệ khá hiện đại, đội ngũ lao động có chất lượng… vì vậy, các DNNN
có khả năng và điều kiện rất thuận lợi trong việc thực hiện chủ trương đẩy
mạnh CNH, HĐH. Vì lợi ích chung của xã hội và của nền kinh tế, cần có chính
sách đầu tư hỗ trợ đối với những ngành, lĩnh vực then chốt, như điện lực,
đường sắt, các ngân hàng chuyên doanh, công ty bảo hiểm; chú ý các hướng
đột phá chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội: phát triển các ngành dịch vụ,
nhất là dịch vụ du lịch và thương mại, phát triển công nghiệp công nghệ thông
tin, công nghiệp công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại.
Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, kinh tế nhà nước cần tích cực, chủ động
khuyến khích, huy động các thành phần kinh tế khác hợp tác, liên kết, tạo ra
các nguồn lực to lớn để thực hiện chủ trương của Đảng bộ về phát triển mạnh
mẽ kinh tế biển - ngành kinh tế động lực của Đà Nẵng. Mặt khác, chú ý hoàn
thiện kết cấu hạ tầng trên huyện đảo Hoàng Sa để người dân ra định cư, yên
tâm phát triển kinh tế biển và phải gắn liền với bảo vệ an ninh - quốc phòng,
chủ quyền quốc gia theo hướng tăng cường trang bị với mức cần thiết cho các
lực lượng bảo vệ biển, đặc biệt là lực lượng hải quân, cảnh sát biển, biên
phòng… để đủ khả năng kiểm soát và bảo vệ vững chắc vùng biển của tổ quốc.
Trong quá trình đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN trung ương theo chủ
trương của Đảng và Chính phủ, phải thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư ở
khu vực tư nhân trong và ngoài nước, nhất là các tập đoàn kinh tế tư nhân, các
nhà đầu tư chiến lược dưới hình thức công ty cổ phần để tranh thủ về nguồn
130
vốn lớn, khoa học và công nghệ hiện đại, trình độ quản lý sản xuất tiên tiến
nhằm mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả kinh tế và năng lực cạnh tranh trong
hội nhập kinh tế quốc tế. Và, trên cơ sở đó mà Nhà nước thực hiện di chuyển
vốn, tư liệu sản xuất của Nhà nước ở các doanh nghiệp không cần thiết có sự
tham gia hoặc không nhất thiết phải là cổ đông lớn nhất. Tuy nhiên, về mặt sở
hữu thì kinh tế nhà nước vẫn phải giữ vai trò chi phối đối với những ngành,
lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế nhằm bảo đảm quyền thông qua
hay không thông qua các quyết định quan trọng của doanh nghiệp và có điều
kiện hướng dẫn, điều tiết, kiểm soát phát triển theo định hướng XHCN. Cần
chú ý là trong cổ phần hoá, phải hoàn thiện cơ chế, chính sách bán cổ phần ưu
đãi đối với người lao động nhằm tạo ra sự gắn bó lâu dài và phát huy quyền
làm chủ của họ trong các doanh nghiệp. Việc làm này không chỉ góp phần đổi
mới, hoàn thiện quan hệ sở hữu, mà còn khắc phục việc cổ phần hoá "khép
kín", "nội bộ", "lợi ích nhóm" và bảo đảm không chuyển thành tư nhân hoá.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để kinh tế nhà nước thực hiện có
hiệu quả phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, theo vốn góp và
các nguồn lực khác, phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội. Phải hạn chế việc phân phối theo thời gian lao động, khắc phục một bộ
phận cán bộ quản lý doanh nghiệp hưởng thu nhập quá cao trong khi đóng góp
của họ không tương xứng, đồng thời khắc phục những người lao động có tài và
năng lực đang có xu hướng chuyển sang khu vực kinh tế khác. Trong các
doanh nghiệp cổ phần hóa, phải khuyến khích, động viên cán bộ công nhân
viên mua cổ phần để họ phát huy quyền tổ chức quản lý sản xuất và có thêm
động lực sản xuất tốt hơn. Riêng đối với cổ đông là người lao động, cần phổ
biến, hướng dẫn họ hiểu rõ về cách chia cổ tức, quyền lợi của họ được hưởng,
nhằm giảm bớt tình trạng người lao động chuyển nhượng ngầm cổ phiếu, "bán
lúa non", trở lại làm thuê, trái ngược với mục tiêu, chủ trương về thực hiện
quan hệ phân phối của Đảng và Nhà nước. DNNN phải đóng thuế đầy đủ, tham
gia thực hiện tạo việc làm, thực hiện phong trào "Uống nước nhớ nguồn", "Đền
131
ơn đáp nghĩa", hỗ trợ kịp thời những biến cố, rủi ro về thiên tai, bão lụt, những
người bất hạnh trong cuộc sống… nhằm góp phần hạn chế mặt trái của kinh tế
thị trường, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực cho sự phát triển.
Thực hiện tốt các biện pháp trên đây sẽ góp phần quan trọng phát huy
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế của thành phố, tạo điều
kiện hướng dẫn, mở đường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát
triển, thực hiện đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN.
Thứ hai, đổi mới và đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình
thức đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã
Trên cơ sở Luật Hợp tác xã và "Đề án phát triển kinh tế tập thể" của
thành phố, tiếp tục đẩy mạnh phát triển các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về
hình thức sở hữu, tổ chức sản xuất kinh doanh và hình thức phân phối, bao gồm
các hợp tác xã và các tổ hợp tác. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các hợp
tác xã phải trên cơ sở bảo đảm các nguyên tắc, giá trị hợp tác xã và các quy
định của pháp luật. Chủ trương của lãnh đạo và Liên minh Hợp tác xã thành
phố Đà Nẵng là "Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực nhưng
vững chắc; xuất phát từ nhu cầu thực tế của xã viên, tránh duy ý chí, nóng vội,
gò ép; đảm bảo hài hoà lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể" [104, tr.12].
Ở Đà Nẵng hiện nay, do trình độ LLSX của kinh tế tập thể còn thấp
kém và chưa khai thác hết, quy quy mô sở hữu còn nhỏ bé, vì vậy, phải khuyến
khích tăng vốn góp (cổ phần), tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản, tư liệu
sản xuất và quỹ không chia trong các hợp tác xã. Chính những nguồn lực này
sẽ tạo nền tảng vật chất không chỉ làm cho sở hữu tập thể ngày càng lớn mạnh
nhằm mở rộng quy mô sản xuất, thực hiện quyền làm chủ tổ chức quản lý sản
xuất trong các hợp tác xã của xã viên và người lao động, mà còn góp phần giải
quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống cho họ.
Cùng với việc chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về hợp
tác xã cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể ở
các ngành sản xuất, chính quyền các cấp và các cơ quan có chức năng, đặc
132
biệt là Liên minh Hợp tác xã thành phố Đà Nẵng phải thực hiện chính sách
hướng dẫn, khuyến khích, hỗ trợ đầy đủ và kịp thời, tạo điều kiện về đất đai,
mặt bằng sản xuất, vốn, máy móc thiết bị, công nghệ, phương tiện sản xuất để
hợp tác xã tiếp cận các nguồn lực đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh sản xuất.
Đối với các hợp tác xã nông nghiệp, cần tập trung phát triển ở những
ngành nghề, lĩnh vực có lợi thế, gắn với sản xuất hàng hoá, ở một số mô hình
hợp tác xã chuyên ngành, như hợp tác xã rau sạch, hợp tác xã chăn nuôi, hợp
tác xã sản xuất nấm, hoa, cây cảnh… Để nâng cao năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm, phải áp dụng công nghệ sinh học, đầu tư thiết bị chế biến và
bảo quản sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Xây dựng mô hình hợp tác
xã nông nghiệp gắn với thương mại, dịch vụ theo hướng phục vụ các loại hàng
hoá tiêu dùng cho nhu cầu của xã viên và dân cư địa phương, tiêu thụ các sản
phẩm nông nghiệp cho xã viên; tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã nông
nghiệp ở các xã, phường tham gia các dự án góp phần thực hiện chủ trương xây
dựng nông thôn mới: "Hợp tác xã nông nghiệp phải đẩy mạnh sản xuất hàng
hoá, phát triển các dịch vụ, góp phần quan trọng trong chương trình xây dựng
và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn mới" [104, tr.12].
Đối với các hợp tác xã công nghiệp - xây dựng, phải tiếp tục củng cố
trên cơ sở kiện toàn bộ máy, tăng cường công tác tổ chức quản lý, đầu tư đổi
mới công nghệ, thiết bị máy móc nhằm nâng cao năng lực sản xuất, năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm, tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ; quan tâm
đến điều kiện làm việc, đào tạo nâng cao tay nghề, đảm bảo thu nhập và đời
sống cho đội ngũ lao động. Tích cực hỗ trợ các hợp tác xã có quy mô khá trở
thành những đơn vị mạnh, làm hạt nhân cho phong trào phát triển kinh tế tập
thể trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Phát triển các hợp tác xã
tiểu thủ công nghiệp theo mô hình vừa sản xuất tập trung, vừa phân tán nhằm
tận dụng mặt bằng sản xuất tại từng hộ và nguồn nguyên liệu tại địa phương,
giải quyết việc làm cho nhiều lao động, góp phần xoá đói, giảm nghèo ở từng
xã, từng hộ. Vận động thành lập mới các hợp tác xã trong các ngành nghề ở
133
những nơi có thế mạnh về nguồn nhân lực và nguyên liệu tại chỗ; chú ý các
lĩnh vực chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất
khẩu. Chính quyền hướng dẫn, tạo điều kiện cho các hợp tác xã đăng ký nhãn
hiệu hàng hoá, tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, các hội chợ,
triển lãm trong và ngoài thành phố. Mở rộng liên kết, hợp tác giữa hợp tác xã
với các thành phần kinh tế khác để tạo ra những cơ cấu linh hoạt và năng động,
đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế. Các hợp tác xã xây dựng
phải mở rộng liên kết với các đơn vị sản xuất kinh doanh mạnh để nhận thầu thi
công các công trình. Tiếp tục tăng cường thiết bị máy móc, nâng cao năng lực
đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật. Phát triển thêm các dịch vụ tư vấn xây
dựng, như khảo sát thiết kế, giám sát thi công, tư vấn vật tư, công trình…
Phát triển các hợp tác xã thương mại - dịch vụ trên cơ sở nhân rộng
mô hình hợp tác xã quản lý và kinh doanh chợ trên địa bàn quận, huyện; vận
động các hộ kinh doanh ở chợ tham gia xã viên hợp tác xã để khắc phục chợ
cóc, chợ tạm. Hợp tác xã chợ phải làm đầu mối khai thác nguồn hàng để
cung ứng cho các hộ kinh doanh chợ, qua đó tạo nguồn thu cho hợp tác xã,
đảm bảo chất lượng, xuất xứ hàng hoá, tạo quan hệ gắn kết xã viên với hợp
tác xã. Tổ chức có hiệu quả các hình thức liên kết, hợp tác giữa các hợp tác
xã thương mại với các doanh nghiệp để khai thác nguồn hàng. Củng cố, phát
triển thêm dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ của các hợp tác xã vận tải
để đáp ứng nhu cầu khách hàng; các hợp tác xã quy mô nhỏ, ít phương tiện
thì phải hỗ trợ đầu tư mua sắm mới phương tiện và có thể cùng nhau kết hợp
hình thành các hợp tác xã có quy mô lớn, nhiều đầu xe; giải quyết tốt mối
quan hệ lợi ích kinh tế giữa hợp tác xã với xã viên để phát triển. Thường
xuyên bồi dưỡng nâng cao ý thức chấp hành luật pháp, các quy định về an
toàn giao thông, tinh thần thái độ phục vụ cho đội ngũ lái xe và nhân viên
của hợp tác xã. Chú ý phát triển các hợp tác xã ở khu vực nông thôn và miền
núi, tạo điều kiện cho các hợp tác xã phát triển hệ thống cửa hàng, điểm bán
lẻ hàng tiêu dùng, lương thực, thực phẩm an toàn tại các khu dân cư.
134
Đối với các tổ hợp tác, thì tổ chức phát triển ở các lĩnh vực, ngành
nghề phù hợp với khả năng sản xuất của các thành viên; tạo điều kiện cho
cán bộ quản lý các tổ hợp tác tham dự các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ,
năng lực để tổ chức quản lý sản xuất tốt; hướng dẫn các tổ hợp tác đăng ký
hoạt động với chính quyền và liên kết với các hợp tác xã để mở rộng sản
xuất. Phối hợp với các sở ngành và quận, huyện, phường, xã tham mưu đề
xuất chính quyền ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho
các tổ hợp tác về mặt bằng sản xuất, vốn, công nghệ, kỹ thuật, thị trường
tiêu thụ… Các tổ hợp tác kinh doanh có hiệu quả thì phát triển thành các
hợp tác xã, chú ý thành lập mới các tổ hợp tác ở khu vực nông thôn, miền
núi, các khu tái định cư để tập hợp sức mạnh của những người nông dân
yếu thế và giảm thiểu những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
4.2.3. Khuyến khích phát triển mạnh thành phần kinh tế tư nhân
và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đà Nẵng hiện nay
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân
Cùng với việc xoá bỏ triệt để mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở
hữu và thành phần kinh tế, tiếp tục cụ thể hoá một cách phù hợp và đầy đủ hơn
các chính sách, pháp luật như quyền sở hữu, quyền huy động, sử dụng và thừa
kế tài sản, vốn; về quyền tự chủ trong việc lựa chọn mô hình kinh doanh, ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh theo quy định của pháp luật và quy hoạch của thành
phố, được hưởng thụ chính đáng kết quả kinh doanh. Phải quy định rõ ràng
nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể kinh tế này đối với nhà nước và với
người lao động nhằm bảo đảm quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng tư liệu sản xuất để các chủ thể kinh tế tư nhân yên tâm đầu tư phát triển.
Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ hoạt động dưới dạng các hộ kinh doanh
và các trang trại, do LLSX còn thấp, vốn ít, công cụ lao động còn lạc hậu, tổ
chức sản xuất nhỏ, phân tán, mang tính cá nhân là chủ yếu, vì vậy phải tiếp tục
tổ chức sắp xếp lại tư liệu sản xuất trên cơ sở giao đất, giao rừng lâu dài cho
135
nhân dân; hỗ trợ về vốn, kỹ thuật sản xuất, cây trồng và vật nuôi có giá trị kinh
tế cao; giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa quyền sở hữu, đặc biệt về đất
đai của Nhà nước và quyền quản lý, tự chủ sử dụng tư liệu sản xuất của các chủ
thể sản xuất nhằm đảm bảo lợi ích cho người dân. Phải gắn tổ chức gắn sản
xuất với thu hoạch, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, cần hướng dẫn và
tạo điều kiện thuận lợi để các loại hình tổ chức sản xuất này phát triển trong sự
liên kết, hợp tác với các hợp tác xã, tổ hợp tác và các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác phát triển mạnh hơn nhằm sản xuất hàng hoá theo quy
mô lớn, tập trung. Về lâu dài thì các khu vực kinh tế này, nhất là kinh tế trang
trại thông qua sản xuất kinh doanh có hiệu quả sẽ tích tụ, tập trung vốn và
chính quyền phải định hướng, giúp đỡ phát triển theo hình thức hợp tác xã,
công ty cổ phần, kinh tế trang trại tư nhân, doanh nghiệp tư nhân để vừa thúc
đẩy LLSX phát triển, vừa thu hẹp sự không đồng đều, nhiều trình độ của
LLSX, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế của thành phố.
Riêng những hộ kinh tế cá thể, tiểu chủ đang gặp khó khăn do nằm
trong dạng di dời, giải tỏa, tái định cư trong điều kiện bị thu hồi đất sản xuất,
mất cơ sở sản xuất, mất việc làm, thiếu hầu hết các kỹ năng, điều kiện sản xuất,
thì chính quyền các cấp phải sớm ổn định đời sống kinh tế - xã hội, nhanh
chóng hoàn chỉnh về kết cấu hạ tầng các khu tái định cư về hệ thống điện, cấp
thoát nước, chợ, các dịch vụ y tế, giáo dục. Tiếp tục hỗ trợ tư liệu sản xuất, tạo
điều kiện về mặt bằng kinh doanh; giúp đỡ vay vốn theo dạng ưu đãi, phương
tiện làm ăn để ổn định và phát triển sản xuất trong những ngành nghề mới phù
hợp với trình độ, khả năng của họ. Những hộ kinh tế không có đủ khả năng tạo
lập những cơ sở sản xuất kinh doanh, đang thiếu hoặc mất việc làm, phải
chuyển đổi ngành nghề, thì cần chủ động đào tạo nghề cho phù hợp và tạo việc
làm thông qua hội doanh nghiệp, các trung tâm giới thiệu việc làm, các chợ
việc làm để họ có điều kiện vào làm việc trong các ngành nghề phù hợp.
136
Trong lĩnh vực thủy sản, phải hướng dẫn và khuyến khích các chủ tàu,
thuyền và ngư dân cùng liên kết, tham gia tổ hợp tác, lập các mô hình khai thác
thủy sản theo tổ, đội đoàn kết đánh bắt hải sản trên nguyên tắc hợp tác tự
nguyện. Gắn liền với hoạt động này, phải đầu tư nâng cấp và phát triển dịch vụ
hậu cần nghề cá, bao gồm cả cung ứng vật tư, nhiên liệu, hàng tiêu dùng, chế
biến, kho đông lạnh; duy tu, sửa chữa và đầu tư phương tiện khai thác hải sản
và vận chuyển hàng thu mua; thu mua sản phẩm thông qua hệ thống liên
doanh, liên kết. Chính quyền phải chia sẻ thông tin, đảm bảo an ninh trật tự,
cứu hộ cứu nạn nhằm làm cho các chủ thể kinh tế này yên tâm sản xuất.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc khu
vực kinh tế cá thể, tiểu chủ trong tất cả các lĩnh vực, các ngành sản xuất sẽ khai
thác có hiệu quả các nguồn lực, làm cho sản xuất hàng hoá phát triển, thị
trường được mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế được phát huy.
Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển nhanh, mạnh, cả về số
lượng và chất lượng. Hình thành các công ty sản xuất kinh doanh chuyên
môn hoá các lĩnh vực, ngành hàng có lợi thế, có giá trị gia tăng cao. Phát
triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh cung ứng, sản xuất, dịch vụ
cho các khu công nghiệp ở thành phố và trong vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung. Đặc biệt, khuyến khích hình thành những doanh nghiệp, công ty, tập
đoàn tư nhân với quy mô sở hữu các nguồn lực ngày càng mạnh và lớn hơn,
có mặt và mở rộng sản xuất kinh doanh trong các ngành, lĩnh vực có tiềm
năng và lợi thế ở Đà Nẵng, như phát triển công nghiệp công nghệ thông tin,
công nghiệp nặng, ngân hàng, vận tải đường biển, hàng không, du lịch,
thương mại, tài chính, ngân hàng, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, tín dụng quốc tế… nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH nền kinh tế.
Chú ý khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển mạnh loại hình kinh tế
hỗn hợp. Ở Đà Nẵng, mặc dù có nhiều loại hình công ty cổ phần, như công ty
hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có vốn nhà nước, công
ty cổ phần không có vốn nhà nước, công ty cổ phần có vốn nước ngoài, tuy
137
nhiên, tỷ trọng còn nhỏ, số lượng cơ sở, lực lượng lao động và nguồn vốn còn
ít, vì vậy, phải khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư bản tư nhân tiếp tục
đa dạng hoá sở hữu nhằm phát huy lợi thế của nó trong việc huy động các
nguồn lực của các chủ thể để mở rộng phạm vi sản xuất và tăng quy mô sở
hữu, cũng như có điều kiện phát triển rút ngắn trình độ không đều của LLSX
hiện nay. Các doanh nghiệp tư bản tư nhân phải đẩy mạnh đa dạng hoá các
hình thức góp vốn đầu tư, như tổ chức bán cổ phần cho người lao động; liên
kết, liên doanh với các nhà đầu tư trong và ngoài nước để hình thành các doanh
nghiệp hỗn hợp, tập trung hoá sản xuất, trở thành xu thế phát triển tất yếu của
kinh tế tư nhân nhằm đẩy mạnh xã hội hoá sở hữu và sản xuất kinh doanh. Để
liên doanh với các nhà đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài, bản thân các doanh
nghiệp tư bản tư nhân phải có năng lực tài chính, lao động có trình độ, công
nghệ và khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, có trình độ tổ chức quản lý.
Đồng thời chính quyền phải thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực về
vay vốn, khoa học và công nghệ, thông tin thị trường, mặt bằng sản xuất kinh
doanh… để phát triển. Chủ trương của Đảng bộ là tiếp tục triển khai Quyết
định số 08/2012/QĐ-UBND về một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận
các nguồn vốn, ưu tiên các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, sản phẩm có
lợi thế cạnh tranh, có giá trị gia tăng cao, nhằm phát huy vai trò tích cực của
cộng đồng doanh nhân, để doanh nhân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, hội nhập và cạnh tranh kinh tế quốc tế, làm giàu chính đáng [105, tr.22].
Kinh tế tư nhân ở nước ta khác với kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa ở mục tiêu và định hướng phát triển. Kinh tế tư nhân ở
nước ta được phát triển trong điều kiện do chúng ta chủ động tạo ra trên cơ sở
đường lối của Đảng và quản lý của Nhà nước. Thông qua chủ trương lãnh đạo
phát triển kinh tế của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nó đều là các pháp
nhân kinh tế, được hỗ trợ, bảo hộ để sản xuất kinh doanh, hoạt động theo
khuôn khổ của pháp luật và chịu sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước, do đó
138
chúng ta có thể hạn chế được tính tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt tiêu
cực của nó. Mặt khác, hiện nay trong nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần,
thì kinh tế nhà nước không chỉ đang nắm giữ những lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế mà còn thâm nhập, liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp tư nhân để
trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có vốn nhà nước là
điều kiện quan trọng góp phần tác động để kinh tế tư nhân đi lên CNXH.
Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
tham gia đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động. Chủ trương
của Đảng bộ thành phố là phải tập trung "Chú trọng tạo việc làm, nâng cao
chất lượng việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, coi đây là nhiệm vụ
xuyên suốt đối với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn"
[19, tr.109]. Để thực hiện chủ trương này, phải tiếp tục triển khai đề án "có
việc làm cho người trong độ tuổi lao động", lấy ngày 15 tháng 9 hằng năm
làm "Ngày hội tuyển dụng việc làm". Tăng cường hiệu quả hoạt động sàn giao
dịch việc làm, kết nối cung cầu lao động giữa người tìm việc và người sử
dụng lao động. Kết hợp tổ chức các phiên chợ việc làm với tư vấn đào tạo
nghề và vay vốn giải quyết việc làm. Trong các ngành và lĩnh vực sản xuất
kinh doanh then chốt, tạo đòn bẩy của nền kinh tế thành phố, nếu cần thiết,
Đảng bộ và chính quyền cho phép và tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư
nhân tự chủ vay vốn tăng quỹ lương nhằm đảm bảo thu nhập cho người lao
động. Tất nhiên, vay vốn đầu tư nâng quỹ lương phải có mục tiêu phù hợp;
bảo đảm đầu tư phải được kiểm soát chặt chẽ, sản xuất có hiệu quả, thu hồi và
phát triển được vốn, trả được nợ vay và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong các doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp mà vốn tư nhân chiếm tỷ lệ chi
phối, phải khuyến khích phân phối thông qua hình thức sở hữu, mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác, như trí tuệ, tài sản, tư liệu sản xuất… vào kinh
doanh. Do tác động của các quy luật thị trường, sự đóng góp nguồn lực của các
chủ thể vào sản xuất kinh doanh sẽ được nhận những mức thu nhập tương xứng
theo giá trị của thị trường. Đối tượng có vốn được hưởng lãi suất và lợi tức cổ
139
phần; đối tượng có sức lao động được trả bằng tiền lương, tiền công; những
người có trí tuệ, năng lực, kỹ năng lao động cao, đóng góp nhiều cho sự phát
triển của doanh nghiệp sẽ được hưởng thụ tương xứng với thành quả phát triển.
Đây là những tiêu chí quan trọng trong việc thực hiện quan hệ phân phối nhằm
bảo đảm công bằng, bình đẳng và tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển.
Thứ hai, phát triển mạnh mẽ kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Để mở rộng hợp tác kinh tế với thành phần kinh tế này nhằm thu hút
mạnh mẽ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường… phục vụ cho sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH ở Đà Nẵng, điều kiện tiên quyết là phải tiếp tục
hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách bảo hộ chặt chẽ vốn, tài sản và các
khoản lợi ích hợp pháp khác cho các tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở đa dạng hoá và mở rộng huy động các nguồn vốn FDI,
ODA, NGO, với các hình thức đầu tư PPP (BOT, BT, BO, BTO), tiếp tục thực
hiện chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để thành phần kinh tế
này đầu tư trực tiếp vào những ngành, lĩnh vực kinh tế phù hợp với quy hoạch
và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đà Nẵng. Từ nay đến năm 2020,
phải khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các tập đoàn đa quốc gia
đầu tư phát triển trong các ngành kinh tế đột phá, như phát triển dịch vụ du lịch
và thương mại, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, xã hội đồng bộ và
hiện đại, các khu công nghiệp tập trung, nhất là khu công nghiệp công nghệ
cao, khu công nghiệp công nghệ thông tin, có giá trị xuất khẩu lớn, ít ảnh
hưởng môi trường nhằm phát triển mạnh, bền vững và có sức cạnh tranh cao
trong hội nhập quốc tế, góp phần tăng nhanh sản phẩm cao cấp phục vụ cho
xuất khẩu và tiêu dùng, đẩy mạnh thực hiện CNH, HĐH thành phố. Đại hội lần
thứ XX của Đảng bộ thành phố đã chủ trương: "Thường xuyên cải thiện môi
trường đầu tư, tạo lập những điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn
vốn quốc tế; các nhà đầu tư lớn, có công nghệ cao, công nghệ nguồn, nhất là
các tập đoàn đa quốc gia để phát triển mạnh kinh tế đối ngoại" [19, tr.100].
140
Phải đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư trên cơ sở xây dựng có bài bản
và cụ thể chiến lược xúc tiến đầu tư dài hạn 5 năm, 10 năm và kế hoạch ngắn
hạn theo từng ngành nghề và khu vực ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài. Đổi
mới, đa dạng hóa và cải tiến các hình thức vận động xúc tiến đầu tư theo hướng
xây dựng có hiệu quả các mối quan hệ hỗ trợ công tác xúc tiến đầu tư gắn liền
với việc tăng cường sự phối hợp giữa Trung tâm Xúc tiến đầu tư với các sở,
ban, ngành liên quan của thành phố trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu, cung
cấp thông tin, xây dựng các dự án. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Cục Đầu tư nước ngoài và Trung tâm Xúc tiến đầu tư miền
Trung nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của các cơ quan này trong công tác vận động,
xúc tiến đầu tư nước ngoài vào thành phố. Tiếp tục củng cố và tăng cường mối
quan hệ với một số sứ quán và tham tán kinh tế, thương mại Việt Nam ở nước
ngoài và các sứ quán, văn phòng kinh tế và các tổ chức quốc tế tại việt Nam.
Mặt khác, phải tạo mọi điều kiện về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế,
kỹ thuật, như các công trình cảng biển, sân bay, hệ thống đường bộ, đường
sắt; hạ tầng đô thị và các dịch vụ về tín dụng, tài chính, bảo hiểm, thanh
toán, ngoại thương, chứng khoán, nhà ở và các dịch vụ khác. Thực hiện cấp
đất và hỗ trợ giải phóng mặt bằng, nhập khẩu máy móc, công nghệ, tuyển
lao động; nêu rõ những lợi thế và lợi ích của việc đầu tư; giải quyết hợp lý
và có hiệu quả những yêu cầu hợp lý của nhà đầu tư. Chính quyền có thể
xem xét, điều chỉnh giá cả đất đai và các loại dịch vụ, như cước bưu chính -
viễn thông, giá cả dịch vụ cảng, vận chuyển Container, dịch vụ nghỉ ngơi…
Tiếp tục hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng quản lý vốn đầu
tư với cơ chế "một cửa liên thông" nhằm đẩy mạnh thu hút đa dạng các nhà
đầu tư nước ngoài. Việc tạo điều kiện thuận lợi trong tổ chức quản lý phải
đồng bộ ở tất cả các khâu đầu tư và sản xuất kinh doanh, từ việc tìm kiếm
xúc tiến đầu tư đến khâu thủ tục lập hồ sơ, thủ tục thành lập công ty, giấy
phép xây dựng, đấu thầu cũng như triển khai hoạt động của các dự án.
141
Chú ý thực hiện chính sách ưu đãi hấp dẫn nhằm khuyến khích người
Việt Nam ở nước ngoài, nhất là người Đà Nẵng ở các nước về đầu tư kinh
doanh và được hưởng một số quyền lợi như người Việt Nam ở trong nước:
được thuê đất, mua nhà, được học tập, đào tạo, mua bán, chuyển nhượng tài
sản… nhằm góp phần tạo điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình kinh tế này.
Đà Nẵng có thuận lợi về mặt bằng đất đai và thực hiện cơ chế linh hoạt,
vì vậy, đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cần có cơ chế
khuyến khích và hỗ trợ việc xây dựng các khu chung cư, nhà chung cư, nhà ở
bán giá thấp, có thể trả dần, cho thuê giá rẻ đối với người lao động trong các
khu công nghiệp nhằm giải quyết tình trạng thiếu chỗ ở như hiện nay. Chính
quyền và các doanh nghiệp cùng phối hợp thực hiện chính sách hỗ trợ và miễn
giảm viện phí chữa bệnh, học phí cho công nhân lao động có thu nhập thấp và
con em của họ… là những giải pháp cần thiết góp phần nâng cao thu nhập và
từng bước thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện phân phối hiện nay.
4.2.4. Nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong việc xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đà Nẵng hiện nay
Chủ nghĩa Mác - Lênin trong khi chỉ ra sự vận động và phát triển của
xã hội diễn ra theo các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX, thì cũng đồng thời thừa nhận vai trò hết
sức quan trọng của nhân tố chủ quan trong nhận thức và vận dụng các quy luật
khách quan. Một mặt, phải thừa nhận vai trò quyết định của những điều kiện
khách quan đối với nhân tố chủ quan. Nếu không có những điều kiện khách
quan cần thiết, cho phép, thì hoạt động của nhân tố chủ quan cũng không thể
đem lại kết quả trong cải tạo xã hội. Nhưng, mặt khác cũng không thể xem nhẹ
vai trò tích cực, sáng tạo trong hoạt động của nhân tố chủ quan đối với sự phát
triển xã hội. Nhân tố chủ quan thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn có
thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội, làm cho sự phát triển của xã
hội mang hình thức này hay hình thức khác vì những mục tiêu xác định.
142
Nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan thực chất là nâng cao năng lực
nhận thức và vận dụng cái khách quan. Kinh tế thị trường định hướng XHCN
vừa thể hiện những đặc điểm của kinh tế thị trường, vừa thể hiện những đặc
điểm của CNXH. Đó là quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan, giữa mục
tiêu và động lực của sự phát triển. Để nâng cao năng lực xây dựng QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở
Đà Nẵng hiện nay, đòi hỏi nhân tố chủ quan phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng bộ.
Trong xây dựng QHSX, cùng với vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước
pháp quyền XHCN, thì sự lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng là nhân tố bảo
đảm nền kinh tế thị trường vận động theo đúng mục tiêu của CNXH. Dẫu biết
rằng, việc xây dựng QHSX phải do trình độ phát triển của LLSX quyết định,
đó là quy luật phát triển tự nhiên, dù muốn hay không, sớm hay muộn thì quy
luật tự nhiên ấy vẫn tự vạch đường đi cho nó. Tuy nhiên, trong quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH, LLSX phát triển nhanh hay chậm, QHSX phù hợp, tiến bộ
ở mức độ nào, cản trở hay kìm hãm LLSX lại tùy thuộc vào nhân tố chủ quan.
Vì vậy, phải quán triệt phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, vừa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên
cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH.
Đảng bộ Đà Nẵng phải nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo quy luật
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Phải tập trung nghiên cứu và
tổng kết thực tiễn một cách toàn diện, sâu sắc về sự vận động, phát triển của
QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Đà Nẵng. Chủ trương
của Đảng bộ là: chủ trương, chính sách mới phải phát huy được trí tuệ của tập
thể lãnh đạo và cá nhân người phụ trách, phải xuất phát từ thực tiễn, tạo ra sự
nhất trí, đồng thuận cao, có tác dụng giải phóng tiềm năng và sức sản xuất, thể
hiện nguyện vọng chính đáng của đa số các tầng lớp nhân dân [18, tr.84]. Phải
đổi mới tư duy kinh tế, bổ sung và hoàn thiện chủ trương phát triển kinh tế theo
143
định hướng XHCN nhằm phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế và các
tầng lớp nhân dân trong việc khai thác các nguồn lực của xã hội để thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng bộ lần thứ XX đã đề ra.
Nâng cao năng lực lãnh đạo phát triển kinh tế là Đảng bộ không chỉ là
đề ra chủ trương, nghị quyết mà phải gắn liền với việc lãnh đạo tổ chức thực
hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng bộ. Công tác này thông qua các tổ
chức cơ sở đảng trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước và ở các thành phần
kinh tế, các tổ chức sản xuất kinh doanh. Tăng cường sử dụng các tổ chức, cán
bộ nghiên cứu tham mưu cho Đảng trong việc xây dựng, lãnh đạo và kiểm tra
việc thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng bộ. Trên cơ sở
đó, khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước cũng như góp phần hoàn thiện chủ trương phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trên địa bàn Đà Nẵng hiện nay.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các thành phần kinh tế, đặc
biệt là trong các khu vực kinh tế tư nhân. Như đánh giá của Đảng bộ, thì phần
lớn các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa
có tổ chức đảng (99,47%). Công tác phát triển đảng viên trong doanh nghiệp tư
nhân chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức. Công tác kiểm tra, giám sát thực
hiện chưa thường xuyên. Một số cấp ủy chưa thật sự coi trọng công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng [19, tr.79]. Xuất phát từ thực tế đó, chủ trương của Đảng
bộ là tiếp tục quán triệt và thực hiện nhất quán nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Tập trung xây dựng, củng cố, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, phát triển tổ chức
cơ sở đảng trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp cổ phần hoá, doanh
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [19, tr.118]. Các tổ
chức đảng trong các doanh nghiệp phải có kế hoạch, giải pháp sát hợp với tình
hình thực tế, đề ra những nghị quyết, chủ trương thể hiện tính định hướng
chính trị đúng đắn trong phát triển của các thành phần kinh tế, đồng thời nâng
cao năng lực tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Tăng cường công tác kiểm tra,
144
thanh tra, giám sát hoạt động của các thành phần kinh tế nhằm phát huy mặt
tích cực; ngăn chặn, khắc phục những mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường.
Các tổ chức cơ sở đảng phải quán triệt quan điểm định hướng XHCN trong
phát triển kinh tế, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kinh tế, kết hợp
mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Để đảm bảo nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực kinh
tế, Đảng bộ phải có chủ trương và chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước, trong các
thành phần kinh tế, các tổ chức và đơn vị sản xuất kinh doanh. Đó là những cán
bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm bắt đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; có phẩm chất đạo đức trong sáng,
có lối sống lành mạnh, tinh thần trách nhiệm cao; có năng lực lãnh đạo và quản
lý nhà nước về kinh tế, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng. Trong
điều kiện hiện nay, đây là vấn đề vừa cấp bách vừa phải thực hiện liên tục,
thường xuyên nhằm góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu
quả và bảo đảm định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở Đà Nẵng.
Thứ hai, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính
quyền nhằm bảo đảm xây dựng và hoàn thiện QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay.
Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế là phải trên
cơ sở tôn trọng và vận dụng các quy luật của kinh tế thị trường gắn liền với vai
trò quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với điều kiện của Đà Nẵng. Trước
hết, các cấp chính quyền cùng với các ngành chức năng của thành phố phải tiếp
tục quán triệt thực hiện vai trò tổ chức, định hướng, điều hành và quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN theo hướng Nhà nước quản lý nền kinh
tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các lực lượng vật chất.
Nâng cao năng lực điều hành và quản lý của chính quyền về hệ thống
tài chính, huy động tối đa các nguồn thu, chống thất thu và gian lận thương
145
mại; thu đúng, thu đủ, thu kịp thời theo quy định của pháp luật. Chính quyền
phải quản lý có hiệu quả về đầu tư, ưu tiên bố trí vốn cho đầu tư phát triển các
dự án cấp bách, quan trọng, có tác dụng thúc đẩy kinh tế - xã hội. Ngoài việc
ưu tiên bố trí đầu tư cho giáo dục và y tế, thì phải chú ý đầu tư nguồn vốn cho
nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học ứng dụng, xây dựng nguồn nhân lực
chất lượng cao để tạo ra nguồn vốn trí tuệ phát triển kinh tế tri thức. Thực hiện
tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí trong tất cả các khâu từ quy hoạch, lập dự
án và tổ chức thực hiện dự án bảo đảm hiệu quả vốn đầu tư; nhanh chóng khắc
phục tình trạng đầu tư dàn trải và nợ đọng trong xây dựng cơ bản để tăng tiềm
lực kinh tế của Nhà nước và có điều kiện định hướng, điều tiết nền kinh tế.
Chính quyền phải có vai trò trong việc phát triển đa dạng, đồng bộ các
loại thị trường hàng hóa và dịch vụ, như thị trường lao động và việc làm, bất
động sản, dịch vụ thông tin, khoa học và công nghệ, tư vấn, tiếp thị, tài chính,
pháp lý, bảo hiểm, đặc biệt là thị trường về tài nguyên và môi trường và các
loại thị trường khác để có thể hòa nhập với hệ thống thị trường khu vực và thế
giới, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các nhà đầu tư, các thành phần
kinh tế và kích thích LLSX phát triển trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
Chính quyền phải chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, lập
quy hoạch và định hướng hợp lý việc phân bổ phát triển các yếu tố LLSX trên
địa bàn. Nêu rõ những địa bàn, những khu vực, ngành nghề cần được ưu tiên
đầu tư phát triển. Trên cơ sở đó, công bố danh mục các dự án và định hướng
chuyển giao công nghệ, đẩy mạnh xã hội hóa và xây dựng cơ chế khuyến khích
các dự án đầu tư, các thành phần kinh tế và các tầng lớp nhân dân tham gia đầu
tư xây dựng, quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, xã
hội nhằm phục vụ phát triển sản xuất và đời sống của các tầng lớp nhân dân.
Trong điều kiện kinh tế thế giới suy thoái hiện nay, nguồn vốn sản xuất
kinh doanh hạn hẹp, thiên tai bão lụt diễn ra, thì chính quyền phải theo dõi sát
tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế, duy trì tổ
chức gặp gỡ, đối thoại giữa lãnh đạo thành phố với doanh nghiệp, kịp thời nắm
146
bắt và hỗ trợ nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để đẩy mạnh sản xuất.
Tập trung giải quyết tháo gỡ kịp thời và đúng pháp luật những vướng mắc về
tranh chấp đất đai trong nông nghiệp và đất rừng, tài nguyên, về vốn, tài sản, tư
liệu sản xuất… giữa các chủ thể kinh tế; khuyến khích cạnh tranh hợp pháp,
bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.
Đối với kinh tế tư nhân, các cơ quan quản lý nhà nước phải sử dụng có
hiệu quả hệ thống pháp luật, nhất là luật kinh tế và bằng các công cụ kinh tế để
quản lý, điều chỉnh sự phát triển theo hướng khắc phục tính tự phát tư bản chủ
nghĩa và bảo đảm định hướng XHCN. Tăng cường công tác tư tưởng, giáo dục,
thuyết phục, định hướng cho các doanh nghiệp thuộc loại hình kinh tế tư nhân
tuân thủ đầy đủ, đúng đắn các quy định pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Phải chú trọng công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các vi phạm pháp
luật trong các hoạt động kinh tế, như buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, cạnh
tranh không lành mạnh, tham nhũng, các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi
trường đang cản trở đến sức sản xuất và phát triển theo hướng bền vững.
Việc thực hiện chủ trương nhất quán và lâu dài phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần không có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự thống trị của sở hữu
tư nhân dưới bất kỳ hình thức thể chế nào và đó là bản chất của chế độ sở hữu
ở nước ta. Hiện nay, chúng ta chấp nhận bóc lột lao động, chênh lệch trong thu
nhập, nhưng không thể cho phép bất cứ thế lực nào thống trị, nô dịch người lao
động, không thể để sự chênh lệch và phân hoá ấy diễn ra ngày càng nghiêm
trọng. Để hạn chế, thu hẹp những hiện tượng này, chính quyền phải tổ chức
điều tiết phân phối trên cơ sở bố trí đầy đủ và kịp thời nguồn kinh phí để thực
hiện chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo theo mục tiêu đề ra. Đẩy
mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, tăng cường hợp tác với cộng đồng quốc tế tham gia thực
hiện chính sách an sinh xã hội, phong trào "Uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn
đáp nghĩa" nhằm bảo đảm công bằng, bình đẳng phúc lợi xã hội. Chủ trương
của Đảng bộ tại Đại hội lần thứ XX là: Phát triển mạnh và đa dạng hệ thống
147
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, xây dựng hệ thống an sinh xã hội hiệu
quả, đa dạng, ngày càng mở rộng. Thực hiện đồng bộ, toàn diện các chương
trình, dự án giảm nghèo, tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các chính sách trợ
giúp về hạ tầng sản xuất, đất đai, tín dụng, dạy nghề, khuyến nông - lâm - ngư,
tiêu thụ sản phẩm…, xây dựng các đề án, giải pháp, mô hình giảm nghèo phát
triển sản xuất, vươn lên thoát nghèo và giảm nghèo bền vững [19, tr.108-109].
Để nâng cao năng lực quản lý nhà nước về kinh tế, phải tiếp tục đổi
mới bộ máy nhà nước, đặc biệt là nền hành chính nhà nước. Bản thân chính
quyền phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nền hành chính theo hướng gọn nhẹ, có
hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng về thẩm
quyền, trách nhiệm. Chủ trương của Đảng bộ thành phố là phải tiếp tục đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính, kiện toàn các tổ chức chính quyền theo mô
hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đối với các thành phần kinh tế. Hoàn thiện
cơ chế phân cấp để phát huy tính chủ động, sáng tạo giữa các cấp; đổi mới,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh đủ năng lực
đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ. Trong quá trình hoàn thiện các nhiệm vụ này,
phải tiến hành một cách đồng bộ, kiên quyết, thường xuyên; khắc phục tình
trạng thiếu nhất quán, chồng chéo, mâu thuẫn nhằm góp phần tạo cơ sở cho
việc quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trên địa bàn có hiệu quả.
Thứ ba, phát huy vai trò của các tổ chức nghề nghiệp, tổ chức xã hội để
phát triển LLSX và xây dựng QHSX phù hợp nhằm phát triển kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bên cạnh nhà nước
làm những công việc cần thiết, những việc mà thị trường và xã hội không
làm được, thì phải khuyến khích và xã hội hóa hoạt động của các đoàn thể
nhân dân, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, các tổ chức tư vấn cùng tham gia
thực hiện. Thực tế cho thấy, các tổ chức này đang giữ vai trò rất quan trọng,
trực tiếp khai thác và phát huy những khả năng, tiềm năng trong nhân dân,
giúp đỡ các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
148
Cần phải phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức và đoàn thể, như
công đoàn, thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh và các tổ chức xã
hội, như Phòng thương mại và công nghiệp, Hội công thương, Liên minh
hợp tác xã, các hiệp hội doanh nghiệp trong từng ngành nghề, các câu lạc bộ
doanh nghiệp, Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp... Các tổ chức này có vai trò quan
trọng không chỉ trong việc phản ánh những ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của
các doanh nghiệp, đề xuất kiến nghị về cơ chế, chính sách với Đảng bộ và
chính quyền thành phố, mà còn cùng với các doanh nghiệp bàn bạc, giúp đỡ
nhau xử lý các vấn đề có liên quan đến sản xuất kinh doanh, như vấn đề sở
hữu tư liệu sản xuất, những kỹ năng tổ chức quản lý doanh nghiệp, tư vấn,
thị trường, giá cả, tiêu thụ sản phẩm, môi giới, đào tạo nghề; kể cả hỗ trợ
nhau về vốn, vay vốn, sử dụng vốn, chuyển giao công nghệ sản xuất.
Ở Đà Nẵng đã hình thành nhiều tổ chức tư vấn, bao gồm các viện
nghiên cứu, các trường đại học, trung tâm xúc tiến hỗ trợ, những nhà khoa
học, nhà nghiên cứu có kinh nghiệm, những chuyên gia giỏi trong các lĩnh
vực chuyên môn, nhất là tư vấn về thông tin thị trường, về các văn bản pháp
luật có liên quan; tư vấn về quản lý, về đầu tư, về giá cả, về công nghệ; đưa
ra những góp ý bổ ích để giúp đỡ một cách cụ thể, trực tiếp, sát hợp với tình
hình của từng doanh nghiệp, nhất là tư vấn lập kế hoạch sản xuất, dự án kinh
doanh cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động của các tổ chức
này vẫn còn rời rạc và hạn chế. Trong thời gian đến, cần phải nghiên cứu và
tìm những giải pháp thiết thực để thực hiện sự liên kết chặt chẽ hơn nữa giữa
các tổ chức dịch vụ cao cấp này, có cơ chế, chính sách ủng hộ, khuyến khích
và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong việc phát triển các tổ chức này hoạt
động có hiệu quả nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, nâng cao vai trò của quần chúng nhân dân trong phát triển
LLSX và xây dựng, hoàn thiện QHSX ở địa phương hiện nay.
Nhân dân lao động là những người trực tiếp sản xuất, do đó họ là
nhân tố quan trọng của LLSX. Đồng thời nhân dân là người chủ tư liệu sản
149
xuất và tổ chức quản lý sản xuất trong kinh tế hộ gia đình, kinh tế tiểu chủ,
kinh tế trang trại, trong các cơ sở sản xuất tư nhân và tập thể, vì vậy, chính
họ là nhân tố mang QHSX và cũng là nhân tố chủ quan trong việc nhận thức
và vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Đảng bộ và chính quyền là các cơ quan đưa ra các chủ trương, các
mô hình phát triển kinh tế, các cơ chế, chính sách quản lý kinh tế và phân
phối. Quần chúng nhân dân là những người thực hiện các chủ trương, cơ
chế, chính sách đó. Tuy nhiên, việc xây dựng được các mô hình kinh tế, các
loại hình QHSX trong thực tiễn đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào những
người trực tiếp thực hiện, người lao động. Chính trong quá trình thực hiện
các mô hình sản xuất và cơ chế kinh tế đó mà nhân dân là người phát hiện ra
những mặt không phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX và
những điểm không phù hợp trong các chủ trương của Đảng, cơ chế quản lý
của Nhà nước. Đồng thời nhân dân cũng là đầu tiên trực tiếp tìm cách tháo
gỡ, khắc phục những mâu thuẫn, trở ngại, tất nhiên trong phạm vi có khả
năng làm được để đổi mới QHSX về sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất và
phân phối cho phù hợp với LLSX nhằm tiếp tục phát triển sản xuất. Đây
chính là cơ sở thực tiễn để Đảng bộ và chính quyền tổng kết, rút kinh
nghiệm, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện những mô hình kinh tế mới, cơ chế,
chính sách mới làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Trong quá trình phát triển LLSX và xây dựng QHSX, lãnh đạo thành
phố cùng với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần phải quan
tâm đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho nhân dân lao động. Mặt khác,
Đảng bộ và chính quyền tiếp tục hoàn thiện chủ trương, cơ chế, chính sách
phát triển kinh tế để cho người lao động, từng hộ gia đình, các chủ thể sở
hữu, các nhà quản lý sản xuất lựa chọn các loại hình QHSX phù hợp, ngành
và lĩnh vực hoạt động sản xuất có hiệu quả, thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH.
150
Tiểu kết chương 4
Để nhận thức và vận dụng đúng quy luật QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay, đòi hỏi
phải quán triệt đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ trương, chính sách
xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng và Nhà nước ta. Đồng
thời phải nhận thức và vận dụng quy luật này một cách linh hoạt, sáng tạo
cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Thực tiễn xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
trong quá trình CNH, HĐH ở Đà Nẵng vẫn còn có những hạn chế, yếu kém
và bất cập, chưa đáp ứng một cách đầy đủ những yêu cầu và mục tiêu của sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm phát triển mạnh mẽ trình độ của LLSX
và cải thiện, nâng cao đời sống cho nhân dân. Để bảo đảm cho việc xây
dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN trên địa bàn Đà Nẵng hiện nay,
cần tiến hành các định hướng: Thứ nhất, quán triệt định hướng của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Thứ hai, không ngừng đổi mới
và hoàn thiện QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Đồng thời phải thực hiện đồng bộ các giải pháp
cơ bản: Đa dạng hoá các loại hình QHSX nhằm tạo điều kiện cho LLSX
phát triển trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH; đổi mới và phát triển thành
phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trong quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH; khuyến khích phát triển mạnh thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế hỗn hợp trong quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH và nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong việc xây dựng QHSX
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
151
KẾT LUẬN
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX mang tính khách quan, tuy nhiên nó vận động, phát triển thông qua nhận thức và vận dụng của nhân tố chủ quan. Đối với nước ta, mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX trong thời kỳ quá độ lên CNXH đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Việc giải quyết đúng đắn quy luật này là động lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã nghiên cứu, bổ sung và phát triển nhận thức về đường lối CNH, HĐH và xây dựng QHSX phù hợp với trình độ của LLSX trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là thành tựu to lớn và hết sức quan trọng về mặt lý luận. Hiện nay, thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi Đảng ta tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế về sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối cho phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Mục đích của việc xây dựng và từng bước hoàn thiện QHSX là phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các thành phần kinh tế nhằm đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH để phát triển LLSX hiện đại, từng bước xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Có thể coi đây là nét đặc thù của vấn đề xây dựng và hoàn thiện QHSX mà chúng ta đang xây dựng.
Thực tiễn xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH trên địa bàn Đà Nẵng gần 30 năm qua bước đầu đã chứng minh tính đúng đắn của sự nhận thức và vận dụng quy luật này; đã hình thành nên hệ thống QHSX đa dạng, năng động, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khai thác các nguồn lực của xã hội, thúc đẩy LLSX phát triển, thực hiện CNH, HĐH, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Mặc dù việc nhận thức và vận dụng quy luật này ở Đà Nẵng không chỉ quán triệt được chủ trương, chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
152
định hướng XHCN của Đảng và Nhà nước, mà còn thể hiện sự nhận thức và vận dụng linh hoạt, sáng tạo của lãnh đạo thành phố, tuy nhiên đến nay, việc xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trên địa bàn còn có những mặt về quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn chưa phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, do đó chưa giải phóng triệt để sức sản xuất, LLSX phát triển chưa mạnh, sự phát triển nền kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của thành phố, chưa đáp ứng yêu cầu và mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Để tiếp tục thực hiện công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm phát triển mạnh mẽ LLSX hiện đại, đồng thời củng cố và từng bước hoàn thiện QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trên địa bàn Đà Nẵng hiện nay, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố phải tiếp tục quán triệt đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời nghiên cứu, đưa ra được nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của thành phố nhằm bảo đảm cho các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trên địa bàn khai thác và phát huy có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế, các nguồn lực của xã hội để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, thực hiện thành công sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH.
Vấn đề xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN ở nước ta nói chung và ở Đà Nẵng nói riêng là vấn đề lớn, khó khăn và phức tạp trong nhận thức và vận dụng. Từ thực tế nghiên cứu quy luật này trên địa bàn Đà Nẵng, tác giả của luận án đề xuất một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm góp phần bảo đảm nhận thức và vận dụng có hiệu quả việc xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu vấn đề này chỉ là bước đầu, tác giả cũng chỉ tiếp cận được một số khía cạnh, một số mặt của vấn đề, mà chưa có đủ điều kiện đi sâu nhận thức, phân tích, phát hiện và đề cập một cách toàn diện.
153
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Đoàn Công Mẫn (1996), "Một số suy nghĩ về giáo dục tri thức trong xã hội
hiện nay", Sinh hoạt lý luận, 5(17), tr.58-61.
2. Đoàn Công Mẫn (2007), Hội nhập quốc tế - cơ hội và thách thức đối với
sự phát triển của thành phố Đà Nẵng hiện nay, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện Chính trị khu vực III, tr.58-68.
3. Đoàn Công Mẫn (2008), "Vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát
triển lực lượng sản xuất trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Sinh
hoạt lý luận, 2(87), tr.40-43.
4. Đoàn Công Mẫn (2008), "Phép biện chứng lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và sự vận dụng của Đảng ta
trong công cuộc đổi mới", trong sách: Góp phần nghiên cứu chủ nghĩa Mác
và thời đại ngày nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.143-154.
5. Đoàn Công Mẫn (2008), Vấn đề giáo dục ý thức đạo đức xã hội chủ nghĩa
cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước ở Đà Nẵng hiện
nay, Đề tài Khoa học cấp cơ sở (Chủ nhiệm và thực hiện).
6. Đoàn Công Mẫn (2009), "Kết hợp giữa khuyến khích lợi ích vật chất với
giáo dục ý thức đạo đức đối với công nhân lao động ở nước ta hiện nay", Sinh
hoạt lý luận, 3(94), tr.26-29.
7. Đoàn Công Mẫn (2010), "Nhận thức những giá trị đạo đức cách mạng cần phải giáo dục đối với giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay", Sinh hoạt lý
luận, 3(100), tr.29-32.
8. Đoàn Công Mẫn (2011), "Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực
then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại", Sinh hoạt lý luận, 5(108), tr.28-31, 53.
9. Đoàn Công Mẫn (2012), "Nâng cao đạo đức mới đối với giai cấp công nhân
theo tinh thần Đại hội lần thứ XI của Đảng", Sinh hoạt lý luận, 6(115), tr.3-7.
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Thị Thuý Anh, Nguyễn Quốc Khánh (2009), Báo cáo Đánh giá tình hình phát triển kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, Đà Nẵng.
2. Võ Thị Thuý Anh, Đặng Hữu Mẫn (2010), Báo cáo Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, Đà Nẵng.
3. Chu Văn Cấp, Ngô Đức Trung (2008), "Hoàn thiện thể chế về sở hữu, nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế nước ta", Lý luận chính trị, (6), tr.23-27.
4. Phạm Văn Chung (2000), Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa của nó đối với nhận thức lý luận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
5. Trần Văn Chử (2009), "Hoàn thiện chính sách thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nước ta", Sinh hoạt lý luận, 1 (92), tr.61-65.
6. Lương Minh Cừ (1998), "Về các hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Triết học, (3), tr.12-15. 7. Lương Minh Cừ, Vũ Văn Thư (2011), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân
ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Cúc (2012), "Quan hệ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay", Giáo dục lý luận, (188), tr.29-34.
9. Nguyễn Sinh Cúc (2012), "Doanh nghiệp Việt Nam sau 5 năm gia nhập
WTO: Thành tựu và hạn chế", Kinh tế và Quản lý, (1), tr.26-29.
10. Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng (2005), Thành phố Đà Nẵng 30 năm
xây dựng và phát triển (1975 - 2005), Đà Nẵng.
11. Cục Thống kê Đà Nẵng (2011), Niên giám thống kê Đà Nẵng, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
155
12. Tổng cục Thống kế (2012), Niên giám thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội. 13. Cục Thống kê Đà Nẵng (2012), Niên giám thống kê Đà Nẵng, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
14. Trương Minh Dục (2009), "Phát triển kinh tế Đà Nẵng nhìn từ góc độ
lãnh đạo, quản lý", Sinh hoạt lý luận, 1(92), tr.87-93.
15. Lê Văn Dương (2002), "Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn", Triết học, (2), tr.5-9.
16. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
thành phố Đảng bộ thành phố Đà Đẵng lần thứ XVII, Đà Nẵng.
17. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2001), Văn kiện Đại hội lần thứ XVIII
Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
18. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2006), Văn kiện Đại hội lần thứ XIX Đảng
bộ thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
19. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2010), Văn kiện Đại hội lần thứ XX Đảng
bộ thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16/10 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Đặng (2011), "Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp", Kinh tế và Quản lý, (1), tr.8-14. 33. Đặng Quang Định (2009), "Vai trò động lực của lợi ích kinh tế trong sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay", Sinh hoạt lý luận, 4(95), tr.21-25.
34. Đặng Quang Định (2012), "Phát triển lực lượng sản xuất trong mối tương quan với quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay", Sinh hoạt lý luận, 5(114), tr.22-26.
35. Nguyễn Thị Kim Đoan (2009), "Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng - thực trạng và giải pháp", Sinh hoạt lý luận, 4(95), tr.26-30.
36. Nguyễn Bình Đức (2011), Chất lượng nhân lực trong các khu công
nghiệp ở thành phố Đà Nẵng, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.
37. Phạm Văn Giang (2012), "Xây dựng và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng", Sinh hoạt lý luận, (4), tr.5-9.
157
38. Lê Thị Minh Hà (2002), Sự biến đổi các quan hệ sở hữu trong nông nghiệp
dưới tác động của lực lượng sản xuất thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
39. Lương Đình Hải (2005), "Xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân ở nước
ta hiện nay", Triết học, 3(166), tr.5-10.
40. Phạm Hảo (2008), Nâng cao năng lực lãnh đạo phát triển kinh tế của
Đảng bộ Đà Nẵng hiện nay, Đề tài khoa học cấp thành phố, Học
viện Chính trị khu vực III, Đà Nẵng.
41. Nguyễn Hùng Hậu (2011), "Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng,
hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ ở nước
ta", Lý luận chính trị, (7), tr.20-25.
42. Trương Hữu Hoàn (1995), Quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với
lực lượng sản xuất và vấn đề nhận thức, vận dụng quy luật này ở
một số nước xã hội chủ nghĩa, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
43. Vương Đình Huệ (2013), "Tiếp tục đẩy mạnh, phát triển và nâng cao hiệu
quả kinh tế tập thể, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa IX", Tạp chí Cộng sản, (849), tr.22-25.
44. Nguyễn Thị Huyền (2009), "Sự phát triển quan niệm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về các hình thức sở hữu và nền kinh tế nhiều thành
phần", Triết học, 7(218), tr.60-65.
45. Nguyễn Thị Huyền (2011), "Vai trò của sở hữu tư nhân và kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay", Triết học, 7(242), tr.65-70.
46. Nguyễn Thị Huyền (2012), "Vai trò của sở hữu tập thể và kinh tế tập thể
ở Việt Nam hiện nay", Triết học, 7(254), tr.64-70.
47. Hoàng Văn Khải (2012), "Nhà nước với việc định hướng xã hội chủ
nghĩa sự phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay",
Sinh hoạt lý luận, (4), tr.10-14
158
48. Bùi Chí Kiên (1996), Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển nền
kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng,
Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
49. Vi Thái Lang (2001), "Về tác động của quan hệ sở hữu đối với sự phát
triển lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay",
Triết học, 1(119), tr.37-40.
50. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
51. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
52. Nguyễn Ngọc Long (1996), "Nhận thức thực chất con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (8), tr.50-54.
53. Nguyễn Đức Luận (2013), "Vấn đề phân phối trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay", Lý luận chính trị và Truyền thông, (3),
tr.22-27.
54. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 25, phần 1, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
59. C.Mác, Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. C.Mác, Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 46, phần II, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
61. Nguyễn Thuý Mai (2009), "Định hướng phát triển công nghiệp Đà Nẵng
đến năm 2020", Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội thành phố
Đà Nẵng, (7), tr.1-8.
62. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
64. Nông Thị Mồng (2002), Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn, Luận án tiến
sĩ Triết học, Hà Nội.
65. Nguyễn Công Nghiệp (Chủ biên) (2006), "Phân phối trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Nguyễn Văn Ngọc (2000), Quan hệ biện chứng giữa các loại hình sở hữu
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
67. Phan Tiến Ngọc (2012), "Quan điểm "xoá bỏ chế độ tư hữu" của C.Mác
và đổi mới cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Giáo dục lý luận, (188), tr.41-45.
68. Nguyễn An Ninh (2012), "Nhận thức các tầng bản chất của quan hệ sản
xuất ở nước ta thời kỳ đổi mới", Lý luận chính trị, (8), tr.44-48.
69. Trần Văn Phòng (2012), "Những nhân tố tác động tới việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay", Sinh hoạt lý luận, (1), tr.33-37.
70. Trần Văn Phòng (2013), "Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng",
Lý luận chính trị, (9), tr.32-37.
71. Phan Thanh Phố, Nguyễn Thị Thơm (1996), "Những hạn chế của kinh tế
tư nhân ở nước ta hiện nay và giải pháp phát triển", Nghiên cứu lý
luận, (3), tr.55-56.
72. Vũ Văn Phúc (2004), "Sở hữu nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa", Lý luận chính trị, (3), tr.11-13, 19.
73. Lê Công Phùng (2002), Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở, Viện Nghiên cứu
khoa học Thống kê, Tổng cục Thống kê, Đà Nẵng.
160
74. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
75. Phạm Thị Quý (Chủ biên) (2000), Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Lương Xuân Quỳ (Chủ biên) (2002), Xây dựng quan hệ sản xuất định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Iwama Shinichi (2012), "Môi trường đầu tư của thành phố Đà Nẵng từ góc
nhìn của doanh nghiệp đang hoạt động tại Đà Nẵng và phương hướng
cải thiện", Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (34), tr.20-22.
78. Vũ Hồng Sơn (2000), Xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hoá
các sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
79. Vũ Thanh Sơn (2011), "Tiếp tục hoàn thiện quan hệ phân phối trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng", Tạp chí Cộng sản, (825), tr.59-64.
80. Vũ Hồng Sơn (2011), "Về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà
chúng ta đang xây dựng", Lý luận chính trị, (9), tr.26-30.
81. Nguyễn Hồng Sơn (2013), "Kinh nghiệm phát triển kinh tế gắn với đảm
bảo an sinh xã hội ở Việt Nam", Tuyên giáo, (1), tr.65-68.
82. Đường Vinh Sường (2013), "Một số vấn đề lý luận về cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước", Lý luận chính trị, (2), tr.68-73.
83. Trần Thành (2014), "Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp ở nước ta hiện
nay", Lý luận chính trị, (3), tr.20-23.
84. Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Hữu Đạt (Chủ biên) (2004), Một số vấn đề về
sở hữu ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Văn Hữu Thiết (2012), "Kiến nghị một số định hướng và giải pháp nhằm
nâng cao mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh tại thành phố
Đà Nẵng", Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (33), tr.14-17.
161
86. Lê Thị Thúc (2013), "Một số vấn đề về hậu cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phố Đà Nẵng", Phát triển kinh
tế - xã hội Đà Nẵng, (38), tr.2-6.
87. Nguyễn Văn Thức (2004), "Sở hữu: lý luận và vận dụng ở Việt Nam",
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
88. Lê Đức Tráng (2012), Nghiên cứu ứng dụng một số phương pháp thống
kê đánh giá, phân tích thế và lực thành phố Đà Nẵng năm 2012, Đề
tài khoa học cấp cơ sở, Tổng cục Thống kê, Đà Nẵng.
89. Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên) (2011), Về các mối quan hệ lớn cần được
giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Nguyễn Trọng Tuấn (1996), Nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
nông nghiệp nước ta thời kỳ đổi mới, Luận án phó tiến sĩ Triết học,
Hà Nội.
91. Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên) (2010), Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
92. Lê Xuân Tùng (2008), "Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới", Tạp
chí Cộng sản, (16), tr.3-9.
93. Lê Xuân Tùng (2008), Quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Lê Xuân Tùng (2013), "Một số ý kiến về định hướng xã hội chủ
nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam", Tạp chí
Cộng sản, (850), tr.35-40.
95. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2000), Báo cáo quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2001 - 2010,
Đà Nẵng.
162
96. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2006), Quyết định số 63/2006/QĐ-
UBND về việc ban hành Quy định Chính sách hỗ trợ đối với các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố tiếp nhận lao động vào đào
tạo nghề và giải quyết việc làm, Đà Nẵng.
97. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2006), Báo cáo tổng kết 10 năm
xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
98. Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng (2009),
Báo cáo thực trạng đời sống và điều kiện làm việc của công nhân
tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
99. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2010), Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện công tác sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thuộc thành phố quản lý, Đà Nẵng.
100. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2010), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ 2011, Đà Nẵng.
101. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2011), Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2020, Đà Nẵng.
102. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2011), Báo cáo kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2012 thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
103. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2012), Tài liệu Hội nghị tổng kết 10 năm (2001 - 2011) sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Đà Nẵng.
104. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2012), Báo cáo tổng kết Nghị quyết Trung ương năm khoá IX Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Đà Nẵng.
105. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2012), Báo cáo kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2013 thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.