ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐÀM MINH TOẢN

PH¸P LUËT VÒ §ÇU T¦ TRùC TIÕP RA N¦íC NGOµI Vµ THùC TIÔN THùC HIÖN CñA C¸C DOANH NGHIÖP Cã NGUåN VèN NHµ N¦íC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐÀM MINH TOẢN

PH¸P LUËT VÒ §ÇU T¦ TRùC TIÕP RA N¦íC NGOµI Vµ THùC TIÔN THùC HIÖN CñA C¸C DOANH NGHIÖP Cã NGUåN VèN NHµ N¦íC

Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN TIẾN VINH

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ

công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm

bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các

môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định

của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi

có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đàm Minh Toản

i

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, bên cạnh

sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng

dẫn của thầy cô trong tổ bộ môn, các phòng ban của Khoa Luật, gia đình, bạn bè,

đồng nghiệp.

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến

PGS.TS. Nguyễn Tiến Vinh đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo và tạo mọi điều

kiện cho tôi trong toàn bộ quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn của mình.

Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Chủ nhiệm Khoa Luật

cùng toàn thể quý thầy cô, cán bộ phòng Đào tạo, Bộ môn Luật Kinh doanh đã tạo

mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện luận văn.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã

luôn bên cạnh, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu luận văn thạc

sĩ của mình.

Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận

văn đã cho tôi những góp ý quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.

Tác giả

Đàm Minh Toản

ii

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ

RA NƯỚC NGOÀI .............................................................................................6

1.1. Tổng quan về đầu tư ra nước ngoài ................................................................6

1.1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư ra nước ngoài ....................................................6

1.1.2. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .............................................................................7

1.1.3. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài .........................................................................9

1.2. Tổng quan pháp luật về đầu tư ra nước ngoài........................................... 10

1.2.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư ra nước ngoài ................................................. 10

1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN ................................................. 12

1.2.3. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTRNN........................................ 12

1.3. Quản lý Nhà nước về đầu tư .......................................................................... 17

1.3.1. Quản lý, giám sát đầu tư .................................................................................... 21

1.3.2. Theo dõi và báo cáo hoạt động đầu tư ............................................................. 22

1.4. Quy định đầu tư ra nước ngoài đối với các doanh nghiệp có sử

dụng nguồn vốn Nhà nước.............................................................................. 23

1.4.1. Sử dụng vốn, tài sản của Doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước để

đầu tư ra nước ngoài........................................................................................... 23

1.4.2. Trách nhiệm của Người được giao quản lý vốn ............................................. 24

1.4.3. Các quy định riêng làm hạn chế đầu tư ra nước ngoài của Doanh

nghiệp có sử dụng vốn Nhà nước ..................................................................... 26

1.5. Quá trình hình thành khung pháp lý về đầu tư ra nước ngoài .............. 27

1.5.1. Giai đoạn từ 1999 đến năm ban hành Luật đầu tư 2005................................ 27

1.5.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015 ............................................................. 28

1.5.3. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay ........................................................................ 29

iii

1.5.4. Các thỏa thuận đầu tư quốc tế và khu vực có tác động tới ĐTRNN ............ 30

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................................ 32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI

VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CÓ NGUỒN

VỐN NHÀ NƯỚC................................................................................................................................ 33

2.1. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam ...... 33

2.1.1. Tình hình đầu tư.................................................................................................. 33

2.1.2. Phân nhóm đầu tư ............................................................................................... 33

2.1.3. Kết quả đầu tư ra nước ngoài đã đạt được ....................................................... 35

2.1.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong ĐTRNN ................................ 37

2.2. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có nguồn

vốn Nhà nước..................................................................................................... 40

2.2.1. Phân nhóm đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có sử dụng

nguồn vốn Nhà nước .......................................................................................... 40

2.2.2. Các lĩnh vực được đầu tư quy mô lớn .............................................................. 41

2.3. Chủ thể tham gia đầu tư ra nước ngoài ...................................................... 46

2.3.1. Quyền của Nhà đầu tư........................................................................................ 46

2.3.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài ........................................................... 48

2.4. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài ........................................................................ 49

2.4.1. Thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài ............................ 50

2.4.2. Cấp và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài. ........................... 51

2.4.3. Chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài để triển khai đầu tư ................................ 54

2.4.4. Chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài ..................................................................... 55

2.4.5. Chuyển lợi nhuận về nước ................................................................................. 59

2.4.6. Sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài ...................................................... 59

2.4.7. Chấm dứt hoạt động đầu tư tại nước ngoài. .................................................... 60

2.5. Các thỏa thuận đầu tư quốc tế và khu vực có tác động tới ĐTRNN .......... 61

2.6. Những quy định pháp luật bổ sung đối với doanh nghiệp có sử

dụng nguồn vốn Nhà nước khi đầu tư ra nước ngoài .............................. 63

2.6.1. Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài ............................ 63

2.6.2. Các cam kết, đánh giá hiệu quả khi thực hiện đầu tư .................................... 64

iv

2.6.3. Kiểm soát và báo cáo giám sát .......................................................................... 64

2.7. Thực thi pháp luật về đầu tư ra nước ngoài ............................................... 65

2.7.1. Quá trình xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư...................................................... 65

2.7.2. Việc xin phép chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài ............................................ 66

2.7.3. Đầu tư ra nước ngoài bằng tài sản có sử dụng Nguồn vốn Nhà nước ......... 68

2.7.4. Chứng minh hiệu quả và tính tự chịu trách nhiệm của Nhà đầu tư .............. 69

2.7.5. Tính phù hợp của thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài............... 71

2.7.6. Quản lý và giám sát nguồn vốn đầu tư ............................................................ 74

2.7.7. Trách nhiệm của Người được giao quản lý nguồn vốn của Doanh

nghiệp có vốn Nhà nước .................................................................................... 75

2.7.8. Vai trò của chính sách trong việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư

thực hiện đầu tư ra nước ngoài ......................................................................... 77

2.7.9. Chuyển lợi nhuận về nước, báo cáo đ ầu tư của nhà đầu tư........................... 78

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 82

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ

HOÀN THIỆN VỀ PHÁP LUẬT VÀ QUẢN LÝ ĐẦU TƯ RA

NƯỚC NGOÀI .................................................................................................. 83

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về ĐTRNN ........................................... 83

3.1.1. Chủ trương về phát triển đầu tư ra nước ngoài ............................................... 83

3.1.2. Chính sách hoạt động ĐTRNN ......................................................................... 83

3.1.3. Hiệu quả của Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước đầu tư ............... 84

3.1.4. Chế tài đối với nhà đầu tư vi phạm .................................................................. 85

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ĐTRNN................ 86

3.2.1. Kiến nghị về thủ tục xin cấp phép ĐTRNN .................................................... 86

3.2.2. Kiến nghị về công tác hỗ trợ Nhà đầu tư ĐTRNN ......................................... 86

3.2.3. Kiến nghị về hướng xử lý vấn đề chưa được quy định cụ thể ...................... 90

3.2.4. Kiến nghị về việc chuyển tiền ra nước ngoài .................................................. 90

3.2.5. Kiến nghị giải quyết các trường hợp vi phạm, tranh chấp phát sinh ........... 91

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 93

KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 95

PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 97

v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ KH-Đ Bộ Kế hoạch và Đầu tư

DNNN Doanh nghiệp Nhà Nước

DNTN Doanh nghiệp tư nhân

ĐTRNN Đầu tư ra nước ngoài

ĐTTTRNN Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

GCN Giấy chứng nhận

KHĐT Kế hoạch đầu tư

NĐ-CP Nghị định- Chính Phủ

QĐ-BKH Quyết định- Bộ kế hoạch

TT-NHNN Thông tư- Ngân hàng Nhà Nước

vi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để mang ngoại tệ về nước

còn với tỷ lệ còn thấp, mặc dù chính sách đầu tư ra nước ngoài đã có từ rất sớm,

nhưng có thể do khó khăn về nguồn vốn, nhân sự, rào cản về tư duy … mà các

doanh nghiệp Việt Nam không dám đầu tư ra nước ngoài và nếu có thì chỉ đầu tư

nhỏ lẻ, tự phát và đầu tư tại các nước láng giềng. Quy mô đầu tư của các doanh

nghiệp Việt Nam còn nhỏ. Một số dự án đầu tư ra nước ngoài quy mô lớn thì phần

lớn là các dự án sử dụng vốn của nhà nước do các tập đoàn, công ty nhà nước làm

chủ đầu tư. Hiệu quả vốn đầu tư chưa cao, kết quả kinh doanh của các dự án Đầu tư

ra nước ngoài (ĐTRNN) còn thấp. Bên cạnh hoạt động ĐTRNN nhằm mục tiêu

kinh doanh, tạo thêm nguồn ngoại tệ cũng như các nguồn lực khác để phát triển đất

nước, hiện có xu hướng đầu tư mang tính mua sắm tài sản cố định. ĐTRNN được

thực hiện tốt Việt Nam sẽ giành quyền chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế.

Hoạt động này chính là việc chuyển các nguồn lực có lợi thế so sánh trong nước ra

bên ngoài để tạo thế cạnh tranh, nâng cao năng lực sản xuất; tìm nguồn tài nguyên

thay thế; hạn chế ô nhiễm môi trường trong nước; mở rộng thị trường tiêu thụ; thúc

đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế phân bổ nguồn lực trong không gian rộng lớn hơn;

tăng cường động lực để phát triển kinh tế bền vững nhằm thu lợi ích cao nhất cho

đất nước. Đầu tư ra nước ngoài có nhiều hình thức, nhưng được pháp luật tóm lược

chung thành đầu tư ra nước ngoài có trực tiếp tham gia quản lý của nhà đầu tư và

đầu tư ra nước ngoài không tham gia quản lý. (Điều 52 Luật đầu tư năm 2014).

Do vậy, việc nghiên cứu xây dựng “Đề tài: Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài và thực tiễn thực hiện của các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà

nước” trong thời gian tới để có giải pháp thức đẩy phát triển là phù hợp với tính

chất công việc của cá nhân học viên đang làm và mong muốn góp phần bổ sung

hoàn thiện hơn về quy định đầu tư ra nước ngoài, thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, có

giải pháp và hướng để huy động vốn, thông qua đó hoàn thiện công tác quản lý hoạt

động đầu tư ra nước ngoài hơn nữa.

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, vấn đề đầu tư ra nước ngoài và

thực tiễn hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước

đã có nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu ở những khía cạnh và góc độ khác nhau.

Sau đây là một số công trình, bài viết cơ bản có liên quan đến vấn đề đầu tư ra nước

ngoài sau đây:

- Nguyễn Khắc Định, Hoàn thiện pháp luật về ĐTTTNN trong xu hướng nhất

thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội 2003.

- PGS.TS Đinh Trọng Thịnh (Chủ biên), Thúc đẩy Doanh nghiệp Việt Nam

ĐTTTRNN, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội 2006.

- Nguyễn Thị Ngọc Mai, Nguyễn Thị Kim Anh, Nguyễn Cẩm Nhung,

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam: nhân tố tác động và hàm ý chính

sách, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội 2018

- Nguyễn Hải Đăng, Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế, Đại học

Quốc gia Hà Nội 2012.

Các tác giả của các công trình nghiên cứu, bài luận văn đều đề cập về

ĐTRNN trên khía cạnh khái quát, thủ tục đầu tư, tổng hợp về vai trò của ĐTRNN,

điều kiện ĐTRNN, Các doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN, điều kiện ĐTRNN, chính

sách của Nhà nước, thách thức và những khó khăn trong quá trình đầu tư của các

nhà đầu tư Việt Nam, sự chưa đồng bộ và hoàn thiện về chính sách pháp luật và đưa

ra các giải pháp mang tầm vĩ mô, quản lý đối với chính sách của Chính phủ và cả

chính từ phía Nhà đầu tư để thúc đẩy ĐTRNN.

Luận văn thạc sĩ với để tài “Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và

thực tiễn thực hiện của các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước” làm rõ những

vấn đề liên quan đến điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN và thực tiễn trong quá trình

áp dụng, đặc biệt là đối với các Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước để

đầu tư. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về ĐTRNN, đồng thời nghiên cứu các

2

vấn đề phát sinh trong thực tiễn hoạt động từ hoạt động khảo sát, xin cấp phép,

chuyển tiền, triển khai đầu tư, từ đó đưa ra các kiến nghị để góp phần hoàn thiện

hơn nữa pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm khuyến khích và tạo điều

kiện thuận lợi để nhà đầu tư Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là thành

phần kinh tế ngoài nhà nước mở rộng thị trường đầu tư, kinh doanh, khai thác tiềm

năng, thế mạnh ở bên ngoài; Có khung pháp lý rõ ràng, có định hướng để các nhà

đầu tư có sử dụng phần vốn Nhà nước khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài tự tin đầu

tư, tự tin đi ra nước ngoài kinh mang ngoại tệ về nước, tạo công ăn việc làm cho

người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; tiếp cận công nghệ hiện đại,

nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế -

xã hội đất nước.

3. Mục đích nghiên cứu đề tài

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của ĐTRNN

và thực trạng ĐTRNN của các Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước, luận

văn đưa ra các đề xuất, những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả đầu tư, cải cách

thủ tục đầu tư để không làm mất cơ hội của nhà đầu tư, cách quản lý hiệu quả, tư

vấn cho nhà đầu tư trước khi thực hiện ĐTRNN và có giải pháp hỗ trợ các nhà đầu

tư khi gặp khó khăn.

4. Nhiệm vụ của đề tài

- Phân tích những vấn đề lý luận về ĐTRNN

- Phân tích thực trạng pháp luật về ĐTRNN đang áp dụng đối với các nhà

đầu tư, những vướng mắc thực tế trong quá trình thực hiện.

- Đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về ĐTRNN để tạo

điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đặc biệt là

các nhà đầu tư là Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước.

5. Đối tượng và phạm vi nghi ên cứu

Đối tượng nghiên cứu: “Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và thực

tiễn thực hiện của các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước”;

3

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn phân tích thực trạng về ĐTTTRNN của các

nhà đầu tư là doanh nghiệp Việt Nam có sử dụng nguồn vốn Nhà nước giai đoạn từ

2005 – 2018, từ đó đưa ra các kiến nghị đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, tạo

điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Việt Nam thực hiện ĐTRNN.

6. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài

Việc nghiên cứu và trình bày của luận văn dựa trên cơ sở nguyên tắc bảo

đảm quyền lợi, khuyến khích hoạt động ĐTRNN của các nhà đầu tư, trong đó xác

định hiệu quả đầu tư của các nhà đầu tư là Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà

nước, các quy định pháp luật về ĐTRNN. Trong quá trình nghiên cứu, học viên có

tham khảo một số công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố, có nội

dung liên quan tới vấn đề mà luận văn đề cập.

- Phương pháp nghiên cứu

Để tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp và diễn dịch có so

sánh nhàm đạt tới mục đích đề tài đã đề ra.

7. Đóng góp mới của đề tài

- Luận văn phân tích những vấn đề lý luận về ĐTRNN;

- Phân tích thực trạng ĐTRNN của các nhà đầu tư là Doanh nghiệp có sử

dụng nguồn vốn Nhà nước trên cơ sở phân tích nghiên cứu các quy định về ĐTRNN

qua các thời kỳ của Việt Nam, đồng thời nghiên cứu các vấn đề phát sinh trong thực

tiễn hoạt động từ hoạt động khảo sát, xin cấp phép, chuyển tiền, triển khai đầu tư để

đề xuất giải pháp điều chỉnh.

- Đề tài được lựa chọn mang tính mới cao, vì hiện tại các quy định về đầu tư

ra nước ngoài còn chưa hoàn thiện, các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài còn ít,

các thủ tục, vướng mắc của doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài ở thực tế còn nhiều

nhưng các cơ quan quản lý cũng còn lúng túng trong việc hỗ trợ giải quyết.

- Những đóng góp của đề tài về mặt khoa học cũng như thực tiễn: Góp phần

hoàn thiện hơn về các quy định về đầu tư ra nước ngoài; Về việc quản lý dòng tiền đầu

tư ra, lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài; Đề xuất việc khuyến khích đầu tư ra

nước ngoài cần gắn liền với các hành động cụ thể, các giải pháp rõ ràng để các doanh

4

nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài; Hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài

định hướng đầu tư; Thực tiễn phát sinh các vướng mắc trong công tác quản lý, trong

thủ tục đầu tư, trong quản lý dự án hay quản lý nguồn vốn… tại nước ngoài.

8. Giới hạn của đề tài

Với chủ đề: “Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và thực tiễn thực

hiện của các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước”, phạm vi của Đề tài chủ yếu

tập trung nghiên cứu pháp luật đầu tư ra nước ngoài và thực trạng đầu tư ra nước

ngoài thời gian từ năm 2005 – 2018 của các Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài của

các Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước (vì theo thống kê thì các doanh

nghiệp này đang đầu tư ra nước ngoài ở quy mô lớn nhất), thực tế các vướng mắc

trong quá trình đầu tư và đề xuất giải pháp hợp lý nhằm góp phần thúc đẩy đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam có hiệu quả, đóng góp một phần vào việc

quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là đầu tư ra nước

ngoài có sử dụng vốn đầu tư của nhà nước trong thời gian tới

Đề tài này giới hạn ở hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được quy định

tại các điểm a, b, c, đ khoản 1 Điều 52 Luật Đầu tư 2014; Nghị định 83/2015/NĐ-

CP ngày 25/9/2015 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài, Nghị định

83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015 Quy định về đầu tư ra nước ngoài.

Không nghiên cứu về hình thức đầu tư gián tiếp ra nước ngoài thông qua đầu tư

mua cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường nước ngoài, được quy định tại điểm d khoản 1

Điều 52 Luật Đầu tư 2014 và Nghị định số 135/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 quy

định đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.

9. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn bao gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật đầu tư ra nước ngoài.

Chương 2. Thực trạng pháp luật về đầu tư ra nước ngoài và thực tiễn áp dụng

với các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước.

Chương 3. Một số đề xuất giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện về pháp luật

và quản lý đầu tư ra nước ngoài.

5

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI

1.1. Tổng quan về đầu tư ra nước ngoài

1.1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư ra nước ngoài

Những năm 90, Nhà đầu tư Việt Nam chưa dám nghĩ, dám làm, chưa dám

đầu tư ra nước ngoài để mang ngoại tệ về nước, mặc dù chính sách đầu tư ra nước

ngoài đã có từ rất sớm, nhưng có thể do khó khăn về nguồn vốn, nhân sự, rào cản về

tư duy. Nhưng đến đầu những năm 2000 các nhà đầu tư trong nước đã thực hiện

nhiều hoạt động ĐTRNN, ban đầu là các nước gần, sau đó đã sang các nước tại

châu Phi, châu Mĩ, châu Âu …. Vai trò của ĐTRNN ngày càng quan trọng. Khái

niệm về đầu tư và đầu tư ra nước ngoài được quy định như sau:

Luật đầu tư năm 2005 định nghĩa:

Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô

hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định

của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan (Điều 3

khoản 1).

Luật đầu tư 2014 định nghĩa:

Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt

động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp

vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình

thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư” (Điều 3 khoản 1).

Về bản chất đầu tư hay đầu tư kinh doanh là việc bỏ vốn để tiến hành các

hoạt động kinh doanh nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định lớn hơn

nguồn vốn đã bỏ ra. Những kết quả thu về đó có thể là tài sản tài chính (vốn bằng

tiền), tài sản vật chất (nhà máy, hạ tầng, các của cải vật chất khác, …), kết quả này

có thể làm tăng thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư, đồng thời làm tăng thêm của cải vật

chất cho xã hội [1, tr.12-13].

Với luật đầu tư năm 2005, thời kỳ đầu hoàn thiện khung pháp lý về ĐTRNN

6

đã định nghĩa và xác định đầu tư theo hình thức góp vốn và tính chất quản lý của nhà

đầu tư đối với vốn đầu tư, theo đó đã chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia

quản lý hoạt động đầu tư (Điều 3 khoản 2 Luật đầu tư 2005). ĐTTT là nhà đầu tư

trực tiếp tham gia quản lý hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh

doanh, nhà đầu tư cần phải có nghề trong lĩnh vực mình đầu tư. Trong hoạt động

đầu tư không tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư với vốn

đầu tư [1, tr.18].

Đến năm 2015, khi hoạt động ĐTRNN đã thực hiện được hơn 15 năm, Luật

đầu tư 2015 chỉ đưa ra một định nghĩa chung là Đầu tư kinh doanh, không phân biệt

đầu tư trực tiếp và gián tiếp nữa, tương tự thì hoạt động Đầu tư ra nước ngoài cũng

được ghi nhận chung là “Hoạt động đầu tư ra nước ngoài” mà không phân biệt đầu

tư trực tiếp hay gián tiếp ra nước ngoài, nhưng các nội dung quy định tại Chương V

Luật đầu tư 2014 thì ghi nhận Hoạt động đầu tư ra nước ngoài chính là hoạt động

trực tiếp ra nước ngoài khi điều 52 khoản 1 điểm d ghi nhận hoạt động “Mua, bán

chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng

khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài” sẽ được Chính phủ quy

định chi tiết hình thức đầu tư này [14, tr.17-18].

Khái niệm Đầu tư ra nước ngoài được giải thích cụ thể tại Nghị định

83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 quy định về đầu tư ra nước ngoài (Nghị định 83/2015):

Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán

mua một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu

để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng

thời trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó (Điều 3 khoản 1 Nghị

định 83/2015).

1.1.2. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán mua

một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu để thực hiện

7

hoạt động đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng thời trực tiếp tham gia

quản lý hoạt động đầu tư đó.

Về thực chất ĐTTTRNN là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư quốc tế để

xây dựng hoạt mua một cổ phần, thậm chí toàn bộ cơ sở kinh doanh ở nước ngoài

để làm chủ sở hữu toàn bộ hay một phần cơ sở đó. Trực tiếp quản lý điều hành hoặc

tham gia quản lý điều hành hoạt động đối với đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chịu

trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quản sản xuất kinh doanh của cơ sở đó.

Đầu tư ra nước ngoài có các đặc điểm sau:

- Chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định,

tùy theo luật đầu tư nước ngoài của nước tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

quy định, quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn gắn liền với chủ đầu tư.

- Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn của mỗi bên. Với

doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì chủ đầu tư toàn quyền quản lý doanh nghiệp.

- Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh

doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.

- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được thực hiện thông qua việc thành lập

doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt động

hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.

- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà

còn gắn với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý,

tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía tiếp nhận đầu tư. Vốn đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình

thức vốn pháp định mà nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai

và mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư trích từ lợi nhuận thu được trong quá trình

hoạt động của doanh nghiệp.

- Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tạo ra một nguồn vốn dài hạn cho nước

chủ nhà và ít chịu sự chi phối của chính phủ cũng như các quan hệ chính trị giữa

chủ đầu tư với chính phủ nước tiếp nhận đầu tư.

Trên thực tế, đầu tư ra nước ngoài được thực hiện dưới rất nhiều dạng, một số

8

dạng cơ bản, phổ biến ở nước ta bao gồm: (i). Hợp đồng hợp tác kinh doanh; (ii).

Doanh nghiệp liên doanh; Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài; (iii). Các hình

thức đầu tư thông qua Hợp đồng như Hợp hợp đồng BOT, BTP, BT [14, tr.23-25].

1.1.3. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài

Năm 2009, sau 10 năm đầu tư ra nước ngoài kể từ khi có cơ chế mang tính

pháp lý đầu tiên cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài, mặc dù trước đó đã có nhiều

doanh nghiệp thực hiện đầu tư ra và có hiệu quả. Nhưng đến hiện nay, hoạt động

đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam còn mang tính tự phát của doanh nghiệp, phát

triển chưa tương xứng với tiềm năng: Số lượng và quy mô các dự án còn nhỏ so với

các nước có điều kiện tương tự; nhiều doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài gặp nhiều

khó khăn mà không có sự hỗ trợ từ các cấp có thẩm quyền. Ngoài nguyên nhân nội

tại của nhà đầu tư thì nguyên nhân quan trọng nhất tác động toàn diện đến chiến

lược, thể chế chính sách, thủ tục hành chính đối với các hoạt động đầu tư ra nước

ngoài, đó là các cấp quản lý nhà nước có thẩm quyền, xã hội chưa coi trọng vai trò

của đầu tư ra nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế đất nước trong điều kiện trong

nước còn thiếu nguồn lực tài chính, phải tăng cường kêu gọi vốn FDI để tham gia

xây dựng đất nước. Việc kêu gọi đầu tư vào đang gặp nhiều khó khăn, trong khi

việc đầu tư ra nước ngoài lại mang ngoại tệ từ trong nước ra nước ngoài. Chính điều

đó đã làm giảm lợi thế trong việc đàm phán song phương khi ký hiệp định khuyến

khích và bảo hộ đầu tư. Thường chúng ta sẽ chỉ ký và đàm phán tốt được với các

nước không có đầu tư vào Việt Nam, còn các nước chúng ta không đầu tư, chỉ có họ

đầu tư đến chúng ta sẽ bỏ qua mất lợi thế đàm phán [14, tr.25]

Qua nghiên cứu các tài liệu và tình hình thực tế có thể thấy việc nhận định về

vai trò của hoạt động ĐTRNN như trên là chưa thỏa đáng, khiến cho việc hoàn thiện

cơ chế chính sách cho loại hình đầu tư này diễn ra chậm. Nhiều nước trên thế giới, kể

cả các nước đang phát triển vẫn khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài vì vai

trò tích cực đối với nước xuất khẩu vốn và nhà đầu tư ở nước ngoài, cụ thể như:

(i). Đối với quốc gia: Giúp củng cố vai trò chính trị và vị thế kinh tế của VN

trong khu vực và trên thế giới. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài luôn đi kèm với hoạt

động kinh tế đối ngoại của Việt Nam; Khi thanh công hoạt động đầu tư nước ngoài

9

góp phàn tác động ngược lại nền kinh tế trong nước theo hướng thúc đẩy công cuộc

cải tổ nền kinh tế, cải cách về thể chế chính sách, về thuế, thủ tục hành chính, hệ

thống thông tin đối ngoại, chính sách điều hành vĩ mô. Góp phần tạo ra đội ngũ

thương nhân năng động, có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, góp phần làm tăng

năng lực quốc gia. góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của VN theo

hướng ổn định và có hiệu quả hơn vì chính cơ sở sản xuất và dịch vụ ở nước ngoài

là điểm đến của hàng hóa, thiết bị, bí quyết công nghệ (y khoa, chế biến thực

phẩm…), nhân công của Việt Nam [14, tr.27]

(ii). Đối với Doanh nghiệp:

Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường thế

giới, tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt hơn, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Giúp

các công ty phát triển vốn vô hình của mình: thương hiệu, công nghệ, bí quyết công

nghệ; Giúp doanh nghiệp có điều kiện phân tán rủi ro kinh doanh, điều này có ý nghĩa

đặc biệt quan trọng trong thế giới đầy biến động về kinh tế – chính trị như hiện nay.

Tóm lại, hoạt động ĐTRNN thể hiện mối quan hệ hữu cơ ”Ích nước, lợi cho

nhà đầu tư”, cho nên cần có những giải pháp mang tính chủ động làm cho hoạt động

này phát triển có hiệu quả, và làm giảm tác động hạn chế như sau của hoạt động đầu

tư ra nước ngoài:

Tại văn bản hướng dẫn về đầu tư ra nước ngoài ghi nhận:

Nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức kinh tế tại Việt Nam đầu

tư ra nước ngoài đối với những lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động; phát

huy có hiệu quả các ngành, nghề truyền thống của Việt Nam; mở rộng thị

trường, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư; tăng khả

năng xuất khẩu, thu ngoại tệ (Điều 75 khoản 1 Nghị định 78/2006).

Tuy nhiên thực tế thực hiện vẫn còn rất nhiều vấn đề cần bàn tới để tạo hành

lang và điều kiện cho đầu tư ra nước ngoài [14, tr.30-31]

1.2. Tổng quan pháp luật về đầu tư ra nước ngoài

1.2.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư ra nước ngoài

Như đã phân tích ở phần tổng quan về đầu tư ra nước ngoài có thể thấy đầu

tư ra nước ngoài với dự án đầu tư thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh vực, chủ đầu tư

10

thuộc nhiều thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn

Nhà nước... ở mỗi góc độ, hoặc mục đích đầu tư khác nhau sẽ có những cách hiểu

khác nhau và pháp luật về đầu tư ra nước ngoài và pháp luật về đầu tư ra nước ngoài

là một góc độ nghiên cứu, tiếp cận pháp lý với nội dung liên quan đến các quy định

pháp luật về đầu tư ra nước ngoài.

Hiểu theo nghĩa rộng: “Pháp luật đầu tư ra nước ngoài là tổng hợp các quy

phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau điều chỉnh các quan hệ xã hội

phát sinh trong quá trình các nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài”.

Theo cách định nghĩa trên, ĐTRNN được điều chỉnh bởi nhiều quan hệ pháp

luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm: Luật đầu tư 2014, Luật doanh nghiệp

năm 2014, Luật quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại

doanh nghiệp 2014 cùng các văn bản hướng dẫn kèm theo. Các quy định về

ĐTRNN trong các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên phần nào phù hợp với các

cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký.

Hiểu theo nghĩa hẹp: “Pháp luật đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư

chuyển vốn; hoặc thanh toán mua một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc

xác lập quyền sở hữu để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt

Nam; đồng thời trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó”.

Theo cách hiểu trên thì pháp luật về ĐTRNN sẽ điều chỉnh hoạt động

ĐTRNN của các nhà đầu tư có đăng ký đầu tư, điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan

quản lý nhà nước với doanh nghiệp, là công cụ để nhà nước thực hiện quyền quản

lý trong nền kinh tế.

Cụ thể pháp luật về ĐTRNN quy định về chủ thể đầu tư, hình thức đầu tư, nguồn

vốn đầu tư, chế độ báo cáo, chuyển lợi nhuận về nước, điều chỉnh, chấm dứt dự án.

Dù hiểu theo cách nào thì những khái niệm trên đều mang tính tương đối và

định ra giới hạn của việc tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá pháp luật về ĐTRNN

trong tổng thể pháp luật nói chung. Tuy vậy hai cách hiểu này đã giúp cho việc xây

dựng luận cứ khoa học và giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả thực thi pháp

luật ĐTRNN tại Việt Nam.

11

1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN

ĐTRNN chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Mỗi một

văn bản pháp luật khác nhau lại có những nguyên tắc điều chỉnh khác nhau. Do vậy,

nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN cũng sẽ thay đổi theo sự điều chỉnh của

từng nguyên tắc pháp luật trong từng lĩnh vực riêng. Đây chính là điểm khác biệt

của hoạt động ĐTRNN so với các hoạt động đầu tư thông thường khác.

Trong mỗi một lĩnh vực pháp luật như doanh nghiệp, đầu tư … đều chứa

đựng một phần những quy định về đầu tư. Khi những quy định riêng, những lĩnh

vực riêng giao thoa với nhau tạo nên không gian chung sẽ hình thành những chuyên

tắc chung điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN. Trong sự hiểu biết và nghiên cứu, luận

văn chỉ ra những nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN như sau:

- Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài

nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch

vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và bổ sung

nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước (Điều 51 khoản 1 Luật đầu tư 2014).

- Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải tuân thủ quy định

của Luật đầu tư, quy định khác của pháp luật có liên quan, pháp luật của quốc gia,

vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là thành viên; tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước

ngoài (Điều 51 khoản 2 Luật đầu tư 2014).

- Nhà nước Việt Nam không cấp phép ĐTRNN đối với những dự án gây

phương hại đến bí mật, an ninh quốc gia, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần phong

mỹ tục của Việt Nam.

1.2.3. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTRNN

1.2.3.1. Nội dung quy định pháp luật chung

Để điều chỉnh được các quan hệ phát sinh trong hoạt động ĐTRNN, pháp

luật về ĐTRNN phải được cụ thể hóa bởi hệ thống pháp luật như sau:

Một là, Luật Đầu tư 2014 với những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động

ĐTRNN. Luật đầu tư 2014 là căn cứ chung trong việc thực hiện ĐTRNN. Mặc dù là

12

quy định chung, nhưng khá đầy đủ về quy định đầu tư, quản lý đầu tư, thủ tục đầu

tư, là cơ sở để các nhà đầu tư thực hiện hoạt động ĐTRNN.

Hai là, các quy định hiện hành nằm rải rác trong Luật Doanh nghiệp, Luật

quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp và các Nghị định

hướng dẫn thi hành. Các văn bản pháp luật này quy định về ĐTRNN bao gồm thẩm

quyền phê duyệt, lập dự án, góp vốn, loại hình vốn góp, mua cổ phần, thành lập

công ty triển khai dự án. Luật Doanh nghiệp và Luật quản lý và sử dụng vốn nhà

nước đầu tư tại các doanh nghiệp đã tạo khung pháp lý cũng như ghi nhận các

quyền của chủ thể tham gia ĐTRNN.

Ba là, Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của

Pháp lệnh ngoại hối năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật kèm theo điều

chỉnh chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong đó có hoạt động giao dịch

chuyển vốn giữa người cư trú với người không cư trú trong các hoạt động đầu tư

trực tiếp, vay nợ nước ngoái, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài.

1.2.3.1. Nội dung pháp luật về ĐTRNN

Theo phân tích trên, hoạt động ĐTRNN chịu sự điều chỉnh của nhiều văn

bản pháp luật ở các ngành khác nhau như doanh nghiệp, đầu tư, quản lý ngoại hối.

Bên cạnh đó, ĐTRNN là lĩnh vực đặc thù nên nó cũng cần tuân thủ những quy định

liên quan đến hoạt động xin cấp phép, lĩnh vực khuyến khích, hạn chế đầu tư, đảm

bảo nguồn vốn. Để biết được pháp luật điều chỉnh như thế nào đối với ĐTRNN, cần

phân tích các mục được pháp luật quản lý như sau

Về góc độ Nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài

Nhà đầu tư chịu trách nhiệm góp vốn và huy động các nguồn vốn để thực

hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Việc vay vốn bằng ngoại tệ, chuyển vốn đầu tư

bằng ngoại tệ phải tuân thủ điều kiện và thủ tục theo quy định của pháp luật về ngân

hàng, về các tổ chức tín dụng, về quản lý ngoại hối. (Điều 53 Luật đầu tư 2014).

Từng nhà đầu tư Việt Nam giải trình về nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài cần

phải giải trình về nguồn vốn và phương thức sử dụng nguồn vốn của mình, trong đó

Vốn chủ sở hữu là bao nhiêu, sử dụng vốn vay là bao nhiều, trong đó đối với nguồn

13

vốn vay thì vay tổ chức tín dụng trong và ngoài nước như thế nào, giá trị bao nhiêu,

thời hạn, lãi suất như thế nào [1, tr.40].

Đối với dự án sử dụng vốn nhà nước để đầu tư ra nước ngoài, cần phải nêu

sự phù hợp với quy định về quản lý và sử dụng vốn nhà nước để đầu tư tại nước

ngoài. Sự phù hợp này là đánh giá hồ sơ nội bộ của dự án, theo đó cấp có thẩm

quyền được giao quản lý vốn nhà nước sẽ xin phép và phê duyệt đầu tư. Các nhà

đầu tư là doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn nhà nước (không phải là vốn của nhà

nước đầu tư ra nước ngoài) sẽ không phải đánh giá trực tiếp về nội dung này, tuy

nhiên khi có nguồn vốn Nhà nước, có cơ quan quản lý, giám sát nguồn vốn đó thì

khi xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài, Bộ KHĐT đã gửi một bộ hồ sơ

xin cấp phép để xin ý kiến lại Bộ chủ quản nhà đầu tư về đề nghị đầu tư ra nước

ngoài của doanh nghiệp đó, theo đó Nhà đầu tư cũng sẽ vẫn phải giải trình, làm rõ

hồ sơ đối với cơ quan chủ quản đó về tính hợp lệ của nguồn vốn.

Nhà đầu tư dù có sử dụng nguồn vốn từ nhà nước hay không đều phải cam

kết về tính hợp pháp của nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài và cam kết tự chịu trách

nhiệm về hiệu quả của dự án đầu tư.

Khi đề nghị xin thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư phải tự

cam kết thu xếp ngoại tệ để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài, trong đó

nêu rõ khoản ngoại tệ đang đó trên tài khoản ngân hàng và có văn bản của tổ chức

tín dụng xác nhận số dư tài khoản ngoại tệ của nhà đầu tư. Mặc dù việc nhà đầu tư

chủ động về nguồn vốn, nhưng đối với nguồn ngoại tệ vẫn cần một sự cam kết tự

thu xếp của nhà đầu tư. Nhưng khi đã cam kết tự thực hiện, tại sao vẫn cần sự xác

nhận của Ngân hàng, có thể đây là một điều kiện để tránh hiểu nhầm khi cấp phép

cho dự án thì trách nhiệm đối với ngoại tệ không thuộc về Ngân hàng Nhà nước,

đồng thời cũng cần chứng minh dự án có đủ điều kiện để triển khai thay vì cấp

phép xong sẽ khó thực hiện và vốn là một yếu tố quan trọng nhất để triển khai dự

án đầu tư, đặc biệt là dự án đầu tư ra nước ngoài, luôn cần nguồn ngoại tệ để

chuyển ra nước ngoài [1, tr.45].

14

Về nguyên tắc thực hiện hoạt động ĐTRNN

Theo pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư được ĐTRNN trong tất cả các lĩnh vực,

ngành nghề của nền kinh tế quốc dân và khuyến khích đầu tư đầu tư cụ thể như sau:

- Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước

ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu

hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực

quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước (Điều 51 khoản

1 Luật đầu tư 2014).

- Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải tuân thủ quy định

của Luật đầu tư, quy định khác của pháp luật có liên quan, pháp luật của quốc gia,

vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là thành viên; tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước

ngoài (Điều 51 khoản 2 Luật đầu tư 2014).

- Nhà nước Việt Nam không cấp phép ĐTRNN đối với những dự án gây

phương hại đến bí mật, an ninh quốc gia, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần phong

mỹ tục của Việt Nam.

Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam là nước đông dân, nguồn lao động rất dồi

dào. Nhà nước cần phải có chính sách để sử dụng nguồn lao động đó. Nếu không có

đủ việc làm thì không những rất lãng phí sức lao động mà sẽ xuất hiện nhiều tệ nạn

xã hội, càng ngày càng gia tăng. Do đó, lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động cần phải

được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi bằng các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ để các

doanh nghiệp đưa nhiều lao động ra nước ngoài.

Ngoài ra, ở Việt Nam hiện nay còn có rất nhiều làng nghề truyền thống như:

gốm sứ Bát Tràng, lụa Hà Đông, khảm trai, mỹ nghệ… cũng là một trong những thế

mạnh cần được mở rộng, hướng ra thị trường thế giới nhằm cải thiện đời sống người

nông dân, thay đổi cơ chế sản xuất nhỏ lẻ tạo nên cơ chế sản xuất chuyên nghiệp hơn,

rộng lớn hơn, lợi nhuận nhiều hơn, phù hợp với xu thế vận động toàn cầu.

Không những vậy, pháp luật khuyến khích ĐTRNN đối với lĩnh vực khai thác

nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư, đây là hướng đi đúng đắn mà tất cả các

15

quốc gia phát triển trên thế giới không có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào sử

dụng khi tiến hành ĐTRNN. Nhật Bản là một nước có 67% là đồi núi, với rất nhiều

núi lửa, không được ưu đãi về nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng nên kinh tế rất

phát triển vì chủ yếu xuất phát từ số lượng đầu tư ra nước ngoài nhiều [14, tr.47]

Không chỉ vậy, những lĩnh vực đầu tư làm tăng khả năng xuất khẩu, thu

ngoại tệ cũng được nhà nước Việt Nam khuyến khích. Bởi vì hoạt động ĐTRNN

của các nhà đầu tư không chỉ thu lại nhiều lợi nhuận cho đất nước mà còn là đòn

bẩy đẩy mạnh các hoạt động kinh tế quan trọng khác phát triển.

Bên cạnh lĩnh vực khuyến khích đầu tư, nhà nước còn quy định những lĩnh

vực cấm cấp phép đầu tư nhằm đảm bảo bí mật an ninh quốc phòng, lịch sử, văn

hoá, thuần phong mỹ tục của Việt Nam bởi suy cho cùng tất cả các hoạt động của

nhà nước đều nhằm mục đích cuối cùng là xây dựng đất nước Việt Nam ổn định,

hoà bình và phát triển. Vì vậy, phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và đảm bảo

an ninh quốc phòng, ổn định chính trị đất nước. Không thể vì lợi ích kinh tế trước

mắt mà Chính phủ xem nhẹ lợi ích lâu dài, bảo vệ tổ quốc và lịch sử, văn hoá, thuần

phong mỹ tục của quốc gia mình.

Với những quy định trên thì Nghị định 22/1999/NĐ-CP đã đảm bảo việc đầu

tư có quy hoạch, đem lại lợi ích cho nhà đầu tư và cho xã hội. Tuy nhiên điểm hạn

chế dễ nhận thấy sau khi đi vào thực hiện là các quy định này chỉ mới dừng lại ở

tính chất là các quy định khung. Cho đến Nghị định 83/2015/NĐ-CP cũng không hề

có các quy định cụ thể về danh mục các lĩnh vực được khuyến khích, hạn chế, cấm

ĐTRNN [14, tr.50-51].

Điều kiện đầu tư ra nước ngoài:

Để được đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư trực tiếp, Luật đầu tư

năm 2014 quy định, nhà đầu tư phải có các điều kiện bao gồm:

- Có dự án đầu tư ra nước ngoài;

- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam;

- Được cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

16

Khi đáp ứng được các điều kiện, Bộ KHĐT sẽ xem xét và lấy ý kiến các cơ

quan Bộ, Ngang bộ về hồ sơ đề nghị cấp phép đối với tùy từng dự án để quyết định

cấp phép hoặc tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ hoặc Quốc hội xem xét quyết

định chủ trương đầu tư sau đó cấp phép cho nhà đầu tư. Khi được cấp Giấy chứng

nhận đầu tư ra nước ngoài, Nhà đầu tư mới đủ điều kiện đăng ký chuyển tiền ra

nước ngoài thông qua tài khoản Ngoại tệ đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước nơi có

trụ sở để chuyển tiền và thực hiện đầu tư [14, tr.55]

1.3. Quản lý Nhà nước về đầu tư

Cấp phép cho các dự án đầu tư và mang tiền, tài sản trị giá bằng tiền để đầu

tư ra nước ngoài để tìm kiếm nguồn lợi nhuận, mang lợi nhuận, công nghệ, ngoại tệ

về Việt Nam, tạo công việc cho lao động trong nước là trách nhiệm của các cơ quan

Nhà nước. Tuy nhiên việc quản lý hoạt động đầu tư là rất cần thiết.

Trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Điều 28 Nghị định 83/2015).

Trong thời gian tới, hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam sẽ càng

mạnh mẽ hơn, do vậy vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp là rất

quan trọng, cùng với đó là khung pháp lý và thể chế hoàn thiện hơn nhằm khơi

thông dòng chảy vốn ra nước ngoài. Như vậy, Nhà nước cần rà soát lại những cơ

chế, chính sách chưa phù hợp và còn gây khó khăn cho doanh nghiệp khi đầu tư ra

nước ngoài, đồng thời tăng cường cơ chế cung cấp thông tin và xúc tiến đầu tư. Các

cơ chế chính sách thúc đẩy ĐTRNN cần được kết hợp hữu hiệu với các chính sách

phát triển doanh nghiệp, cải cách doanh nghiệp Nhà nước (nhất là cơ chế quản lý tài

chính các tập đoàn, tổng công ty), cải cách môi trường kinh doanh và phát triển công

nghệ của đất nước. Vấn đề cốt lõi là tạo cơ chế, chính sách nâng cao sức cạnh tranh

của các doanh nghiệp và tăng khả năng tích tụ vốn. Để đạt được điều này, Nhà nước

cần tạo ra một môi trường kinh doanh - đầu tư bình đẳng, thân thiện [1, tr.57-58].

Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Điều 29 Nghị định 83/2015)

Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan khác có liên

quan trong việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm

quyền ban hành các quy định của pháp luật, các cơ chế, chính sách về tín dụng,

17

quản lý ngoại hối, kiểm soát các hành vi rửa tiền liên quan đến hoạt động đầu

tư ra nước ngoài.

Tham gia ý kiến về các vấn đề liên quan đến nguồn vốn và quản lý ngoại hối

của các dự án đầu tư khi có yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ hoặc đề nghị của Bộ

Kế hoạch và Đầu tư, kiểm tra thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với hoạt động

chuyển ngoại tệ từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài về Việt Nam liên quan

đến các dự án đầu tư ra nước ngoài [1, tr.65]

Giám sát các ngân hàng thương mại trong việc cho nhà đầu tư vay để thực

hiện các hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo quy định pháp luật về quản lý ngoại hối.

Trách nhiệm của Bộ Tài chính (Điều 30 Nghị định 83/2015).

Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành liên quan trong

việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành

các quy định của pháp luật, các cơ chế, chính sách về tài chính liên quan đến hoạt

động đầu tư ra nước ngoài.

Tham gia ý kiến về các vấn đề thuộc lĩnh vực tài chính, thuế, hải quan, đầu

tư có sử dụng vốn nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài khi có

yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ hoặc đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong

thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị có ý kiến đối với các dự án

đầu tư thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ.

Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao (Điều 31 Nghị định 83/2015)

Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan

trong việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban

hành các quy định của pháp luật, các cơ chế hỗ trợ của cơ quan đại diện Việt Nam ở

nước ngoài và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư Việt Nam tại quốc gia,

vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư.

Chỉ đạo cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài theo dõi và hỗ trợ hoạt

động đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam tại quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư;

hỗ trợ Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xác minh thông tin liên quan đến hoạt

động đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam trên địa bàn quản lý khi có yêu cầu.

18

Thực hiện chế độ báo cáo về tình hình hỗ trợ của cơ quan đại diện Việt Nam

ở nước ngoài đối với hoạt động đầu tư của Việt Nam tại quốc gia, vùng lãnh thổ

tiếp nhận đầu tư theo quy định tại Khoản 2 Điều 72 của Luật Đầu tư gửi Bộ Kế

hoạch và Đầu tư bằng văn bản và thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư

nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.

Trách nhiệm của Bộ Công Thương (Điều 32 Nghị định 83/2015)

Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan

trong việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban

hành các quy định của pháp luật, các cơ chế, chính sách về thương mại, công nghiệp

và năng lượng liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với hoạt động thương mại,

công nghiệp và năng lượng liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Điều 33 Nghị

định 83/2015)

Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan

trong việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban

hành các quy định của pháp luật, các cơ chế, chính sách về nông nghiệp, lâm

nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản liên quan đến hoạt động đầu tư

ra nước ngoài.

Kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với hoạt động nông

nghiệp, lâm nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản liên quan đến hoạt

động đầu tư ra nước ngoài.

Trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Điều 34 Nghị định

83/2015)

Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan

trong việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban

hành các quy định, của pháp luật, các cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng lao

động Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

19

Kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với việc đưa lao động Việt

Nam ra nước ngoài làm việc tại các dự án đầu tư ở nước ngoài.

Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (Điều

35 Nghị định 83/2015)

Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xây dựng các quy định của

pháp luật, chính sách, quy hoạch liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Tham gia ý kiến về các vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được phân

công liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài khi có yêu cầu của Thủ tướng

Chính phủ hoặc đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ

ngày nhận được văn bản đề nghị có ý kiến đối với các dự án đầu tư thuộc diện cần

có quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ.

Kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với các vấn đề thuộc lĩnh

vực quản lý nhà nước được phân công liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Quản lý và giám sát việc sử dụng nguồn vốn nhà nước để đầu tư ra nước

ngoài đối với các doanh nghiệp nhà nước, phần vốn nhà nước đầu tư tại doanh

nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý hoặc do mình làm đại diện chủ sở hữu.

Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

(Điều 36 Nghị định 83/2015)

Theo dõi và quản lý các nhà đầu tư đặt trụ sở hoặc cư trú trên địa bàn có hoạt

động đầu tư ra nước ngoài theo quy định của pháp luật doanh nghiệp và pháp luật

liên quan.

Tham gia ý kiến về các nội dung thuộc thẩm quyền quản lý liên quan đến dự

án đầu tư của các nhà đầu tư có trụ sở chính đặt tại địa bàn khi có yêu cầu của Thủ

tướng Chính phủ hoặc đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong thời hạn 15 ngày

kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị có ý kiến đối với các dự án đầu tư thuộc diện

cần có quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ.

Phối hợp với các Bộ, ngành hướng dẫn các quy định của pháp luật về đầu tư

ra nước ngoài; kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư ra nước ngoài; giải quyết những

vướng mắc trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư ra nước ngoài.

20

Quản lý và giám sát việc sử dụng nguồn vốn nhà nước để đầu tư ra nước

ngoài đối với các doanh nghiệp nhà nước, phần vốn Nhà nước đầu tư tại doanh

nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý hoặc do mình làm đại diện chủ sở hữu.

Trách nhiệm của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (Điều 37 Nghị

định 83/2015)

1. Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm làm đầu mối

phối hợp với các cơ quan của Việt Nam ở nước ngoài theo dõi và hỗ trợ các nhà

đầu tư trong việc chấp hành các quy định pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ

tiếp nhận đầu tư.

2. Thực hiện chế độ báo cáo về tình hình hỗ trợ của cơ quan đại diện Việt

Nam ở nước ngoài đối với hoạt động đầu tư của Việt Nam tại địa bàn mình quản lý

theo quy định tại Khoản 2 Điều 72 của Luật Đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư

bằng văn bản và thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài vào

Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.

- Mặc dù có quy định như trên, nhưng một số cơ quan đại diện ngoại giao ở

nước ngoài cho biết các đơn vị này không có kinh phí và cơ chế tài chính hỗ trợ

hoạt động ĐTRNN (bao gồm cả hoạt động thẩm tra, xác minh thông tin). Nên việc

quy định trách nhiệm của cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài là có, nhưng

việc thực hiện rất khó khăn, chưa kể những nước có hoạt động đầu tư nhỏ, rải rác.

1.3.1. Quản lý, giám sát đầu tư

Quản lý, giám sát dự án ĐTRNN sử dụng vốn nhà nước, theo quy định về

quản lý sử dụng vốn, trách nhiệm thuộc về các cơ quan đại diện chủ sở hữu tại các

doanh nghiệp. Các cơ quan liên quan chịu trách nhiệm quản lý theo chức năng,

nhiệm vụ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý việc tuân thủ và chấp hành các quy định

pháp luật về ĐTRNN thuộc phạm vi quản lý của BKHĐT [1, tr.68].

Ngày 26 tháng 11 năm 2014 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư 2014, Luật

quản lý sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp giúp tăng cường phân rõ hơn vai

trò, trách nhiệm quản lý vốn Nhà nước đầu tư trong các dự án ĐTRNN.

Thực hiện Luật Đầu tư 2014 với các quy định chặt chẽ hơn trong vấn đề sử

21

dụng vốn nhà nước để đầu tư ra nước ngoài, số lượng các dự án đầu tư ra nước

ngoài có sử dụng vốn nhà nước đã giảm đáng kể từ năm 2015 đến nay. Vốn chuyển

ra nước ngoài cũng giảm mạnh từ chiếm khoảng 80% xuống còn khoảng 40-45%

tổng vốn chuyển ra nước ngoài.

Hiện nay, các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có sử dụng nguồn vốn Nhà

nước đã giảm, nhưng các doanh nghiệp đã xin cấp phép và đang thực hiện hoạt

động còn rất nhiều, việc quản lý như thế nào cho phù hợp cũng đang gây nhiều khó

khăn cho cơ quan Nhà nước nước, do: Khi đầu tư ra nước ngoài các doanh nghiệp

tại nước ngoài hoạt động theo luật pháp nước tiếp nhận đầu tư, đó là các doanh

nghiệp tại nước ngoài, ngoài nhà đầu tư Việt Nam, còn có các nhà đầu tư khác. Các

doanh nghiệp đó đầu tư theo hình thức nào, có theo dự án đã trình hay không, việc

báo cáo và giám sát rất khó, phụ thuộc vào báo cáo của Nhà đầu tư. Việc các cơ

quan xác định quản lý đến mức nào đang gây khó khăn, chỉ quản lý hiệu quả vốn

đầu tư hay sẽ quản lý về tổng thể dự án. Cái muốn thì không làm được, cái thực

hiện được cũng có nhiều lo lắng chưa dám làm [14, tr.69]

- Ngoài ra, các Bộ, ngành khi xây dựng, ban hành/trình các cấp có thẩm

quyền ban hành các văn bản pháp luật khác có những nội dung liên quan đến

ĐTRNN cũng đã lồng ghép một số nội dung quy định có liên quan đến ĐTRNN. Ví

dụ các quy định pháp luật do Bộ Tài chính xây dựng có lồng ghép quy định về

ĐTRNN: Luật số 69/2014/QH13 về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản

xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp có điều khoản quy định về ĐTRNN của doanh

nghiệp; Nghị định số 87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 về giám sát đầu tư vốn nhà

nước, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh

nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước có mục về giám sát vốn của

doanh nghiệp ĐTRNN; Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 hướng dẫn

kê khai thuế thu nhập doanh nghiệp đối với cả trường hợp doanh nghiệp có dự án

đầu tư ở nước ngoài [14, tr.70].

1.3.2. Theo dõi và báo cáo hoạt động đầu tư

Bên cạnh việc triển khai, thực hiện các công tác, nhiệm vụ cụ thể được giao

liên quan đến quản lý nhà nước về ĐTRNN, các cơ quan quản lý nhà nước về

22

ĐTRNN còn có nhiệm vụ thực hiện các chế độ báo cáo định kỳ về tình hình

ĐTRNN. Theo quy định tại Điều 72 Luật Đầu tư 2014, các bộ, cơ quan ngang bộ và

ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm định kỳ 06 tháng và hàng năm báo cáo tình

hình quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTRNN gửi BKHĐT tổng hợp; BKHĐT

định kỳ 06 tháng, hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình ĐTRNN và

tình hình thực hiện chế độ báo cáo của các cơ quan khác [14, tr.76]

Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng đã có nhiều báo cáo lên lãnh đạo Chính phủ các

cấp/Quốc hội về tình hình ĐTRNN của Việt Nam nói chung, VD: các báo cáo tình

hình hoạt động đầu tư sang các địa bàn nhất định phục vụ các hội nghị cấp quốc gia,

các đoàn công tác của lãnh đạo các cấp, báo cáo Ủy ban kinh tế quốc hội, báo cáo

tình hình ĐTRNN đi kèm các chương trình tổng kết 5 năm Đề án thúc đẩy đầu tư ra

nước ngoài, trình chiến lược đầu tư sang Lào và Campuchia, rà soát, đánh giá đầu tư

sang Lào & Campuchia...

Theo như thông tin cổng quốc gia đầu tư, hiện tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã

xây dựng, vận hành và hoàn thiện Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài

và đầu tư ra nước ngoài nhằm kết nối thông tin giữa nhà đầu tư và các cơ quan quản

lý nhà nước, theo thông tin từ Bộ KHĐT tiến tới cổng thông tin sẽ kết nối giữa các

cơ quan quản lý nhà nước với nhau để phối hợp trong công tác theo dõi, giám sát

bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà

nước và nhà đầu tư [14, tr.77].

1.4. Quy định đầu tư ra nước ngoài đối với các doanh nghiệp có sử dụng

nguồn vốn Nhà nước

1.4.1. Sử dụng vốn, tài sản của Doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước để

đầu tư ra nước ngoài

Theo quy định tại Điều 3 khoản 8, 9 Luật số 69/2014 về quản lý, sử dụng

vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại Doanh nghiệp, thì vốn Nhà nước

tại doanh nghiệp có:

Vốn nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn

tiếp nhận có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại

doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp; vốn tín dụng do Chính phủ bảo

23

lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu

tư tại doanh nghiệp.

Vốn của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ bao gồm vốn

chủ sở hữu của doanh nghiệp và vốn do doanh nghiệp huy động.

Đối với một số công ty, mặc dù không trực tiếp sử dụng vốn nhà nước từ các

nguồn nêu trên, nhưng trong doanh nghiệp lại có Nguồn vốn từ Nhà nước, đó là

Doanh nghiệp Nhà nước góp vốn vào các công ty cổ phần, công ty Trách nhiệm

Hữu hạn 2 thành viên trở lên và Doanh nghiệp sử dụng vốn Nhà nước đó cử Người

đại diện vốn của mình tại Doanh nghiệp đầu tư để quản lý nguồn vốn đó.

Khi có dự án đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp sử dụng vốn Nhà nước

cần chứng minh được: Nguồn vốn đầu tư có tỷ lệ nguồn vốn từ Nhà nước là bao

nhiêu và phải chứng minh được sự chấp thuận của Người đại điện hoặc cơ quan có

thẩm quyền đối với nguồn vốn đó để thực hiện đầu tư [14, tr.78].

1.4.2. Trách nhiệm của Người được giao quản lý vốn

Đối với những vấn đề của doanh nghiệp thường liên quan đến các vấn đề

quản lý và giám sát bao gồm:

- Tuân thủ theo quy định của pháp luật, Điều lệ của Doanh nghiệp đã cử

Người Đại diện; các quy định của doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ được

giao, các quyền, trách nhiệm của mình.

- Khi được ủy quyền thực hiện một số hoặc toàn bộ quyền của cổ đông hoặc

thành viên góp vốn tại Doanh nghiệp thì Người Đại diện phải sử dụng các quyền đó

một cách cẩn trọng theo đúng chỉ đạo, chiến lược và định hướng của doanh nghiệp

trong từng thời kỳ; giám sát, bảo toàn, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng liên

quan đến phần vốn góp của Doanh nghiệp.

- Thực hiện quyền của cổ đông/thành viên góp vốn, thành viên quản lý điều

hành tại Doanh nghiệp theo đúng các quy định của công ty để định hướng phát triển

và sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp theo chiến lược và định hướng.

- Theo dõi, giám sát tình hình hoạt động, kết quả sản xuất kinh doanh, tài

chính của Doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và Điều lệ doanh nghiệp đó;

24

báo cáo kịp thời, đề xuất những giải pháp đối về tình hình Doanh nghiệp hoạt động

thua lỗ; không đảm bảo khả năng thanh toán; đầu tư không đúng mục tiêu chiến

lược, quy hoạch, kế hoạch; không hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ do của Doanh

nghiệp cử làm Người đại diện vốn.

- Người Đại diện ở Công ty con, Doanh nghiệp có vốn góp chi phối có trách

nhiệm hướng Doanh nghiệp đó đi đúng mục tiêu, định hướng; sử dụng quyền chi

phối hoặc phủ quyết để quyết định các định hướng, chủ trương của công ty theo

đúng mục tiêu. Khi phát hiện Doanh nghiệp đi chệch mục tiêu, định hướng thì phải

báo cáo kịp thời và đề xuất giải pháp khắc phục. Sau khi được phê duyệt giải pháp

khắc phục, Người Đại diện cần tổ chức thực hiện ngay để nhanh chóng hướng

doanh nghiệp đi đúng mục tiêu, định hướng đã xác định.

- Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của

Doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những yếu kém, sai phạm trong quản lý, điều hành

sản xuất kinh doanh tại Doanh nghiệp và kiến nghị các giải pháp khắc phục kịp

thời. Trong trường hợp cần thiết, Người Đại diện kiến nghị thực hiện các biện pháp

xử lý khẩn cấp như: triệu tập Đại hội đồng cổ đông để giải quyết các vấn đề.

- Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo định kỳ quý và hàng năm, báo cáo đột

xuất và báo cáo khác theo quy định của Doanh nghiệp cử Người đại diện.

- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và Doanh nghiệp cử Người đại diện về

các nhiệm vụ được giao. Trường hợp thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật, trách

nhiệm của Người đại diện vốn, lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn gây thiệt hại đến kinh

tế, gây mất vốn, tài sản thì sẽ bị xử lý kỷ luật, chịu trách nhiệm bồi thường, hoàn trả

theo quy định của pháp luật.

- Người Đại diện phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Doanh nghiệp

cử mình là Người đại diện.

- Khi có thông báo chia lợi nhuận, cổ tức Người Đại diện yêu cầu doanh

nghiệp được cử làm Người Đại diện chuyển phần lợi nhuận, cổ tức được chia

hoặc thu hồi vốn đầu tư về; giám sát việc thu hồi vốn đầu tư, thu lợi nhuận, cổ

tức được chia.

25

Những quy định nêu trên, Người Đại diện Vốn thường phải xin ý kiến về

Doanh nghiệp cử Người đại diện trước khi tham gia ý kiến, biểu quyết, quyết định

tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông [14, tr.79-80].

1.4.3. Các quy định riêng làm hạn chế đầu tư ra nước ngoài của Doanh

nghiệp có sử dụng vốn Nhà nước

Việc đầu tư ra nước ngoài là việc mang ngoại tệ ra nước ngoài để đầu tư,

điều đó sẽ làm giảm nguồn ngoại tệ của Việt Nam. Nhằm tránh việc hiểu lầm của

các doanh nghiệp khi xin dự án đầu tư ra nước ngoài là chấp thuận cấp phép dự án

là việc chấp thuận cho mua ngoại tệ để thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Thông tư số

03/2018 ngày 17 tháng 10 năm 2018 Hướng dẫn và ban hành mẫu văn bản thực

hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài (Thông tư 03/2018) đã có quy định trong Hồ sơ

xin cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài bản cam kết nhà đầu tư tự thu xếp

ngoại tệ để thực hiện đầu tư. Việc này cũng phần nào hạn chế Nhà đầu tư thực hiện

đầu tư ra nước ngoài trong khi ngoại tệ được quản lý mua bán, nhất là đối với các

Nhà đầu tư có sử dụng nguồn vốn nhà nước, việc phê duyệt, xin ý kiến cần qua

nhiều bước, nhiều khâu kiểm duyệt.

Việc sử dụng vốn có nguồn gốc từ nhà nước để đầu tư ra nước ngoài, ngoài

việc thực hiện kinh doanh thu ngoại tệ thông thường, đôi khi dự án còn chứa đựng

cả mục tiêu quản lý vĩ mô trong đó, như đầu tư sang các nước lãng giềng như Lào,

Campuchia, Myanmar phần nào góp phần bảo vệ an ninh biên giới từ xa, nên việc

thẩm tra các dự án đó cũng cần cần trọng, lâu hơn các dự án thông thường. Điều này

xuất phát từ một số dự án kinh doanh đầu tư nhưng hiệu quả mang lại chưa cao.

Nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, cũng giống như Nhà đầu tư nước

ngoài đầu tư vào nước ta, các nước tiếp nhận đầu tư cũng cẩn trọng với các doanh

nghiệp có nguồn vốn Nhà nước đầu tư vào, việc ảnh hưởng đến nguồn vốn của nhà

nước đầu tư vào, nếu có bất kỳ vấn đề nào, việc sử dụng các biện pháp ngoại giao sẽ

được sử dụng, nên đôi khi hoạt động hợp tác của doanh nghiệp lại có phần ảnh

hưởng tới nhà nước tiếp nhận đầu tư.

26

1.5. Quá trình hình thành khung pháp lý về đầu tư ra nước ngoài

1.5.1. Giai đoạn từ 1999 đến năm ban hành Luật đầu tư 2005

Hoạt động ĐTRNN của Việt Nam bắt đầu từ những năm 90, một số doanh

nghiệp tư nhân của một số địa phương tại vùng biên giới với một số nước bạn (Lào,

Campuchia) đã thực hiện dự án đầu tư tại nước bạn theo thoả thuận hợp tác song

phương giữa chính quyền hai nước.

Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 quy định ĐTRNN của doanh

nghiệp Việt Nam hướng dẫn và quản lý hoạt động ĐTRNN. Mặc dù hành lang

pháp lý cho ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam mới được ban hành đầu năm

1999, thế nhưng trước thời điểm này một số doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành

hoạt động ĐTRNN.

Để triển khai Nghị định 22/1999/NĐ-CP, các Bộ, ngành liên quan đã ban

hành các văn bản hướng dẫn cụ thể hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh

nghiệp Việt Nam. ĐTRNN đã tạo ra một khung pháp lý cần thiết cho hoạt động đầu

tư của các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời tạo môi trường ổn định, thông thoáng

nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.

Bên cạnh đó, Các Bộ trực thuộc Chính phủ cũng đưa các văn bản pháp lý về

một số ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp ĐTRNN như Thông tư số

97/2002/TT-BTC của bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với

doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN.

Riêng đối với lĩnh vực dầu khí, theo Quyết định số 116/2001/QĐ-TTg ngày

02/8/2001 của Thủ tướng chính phủ về một số ưu đãi, khuyến khích đầu tư ra nước

ngoài trong lĩnh vực hoạt động dầu khí. Chính phủ áp dụng một số ưu đãi, khuyến

khích đối với hình thức đầu tư 100% vốn hoặc góp vốn theo tỷ lệ tham gia trong

lĩnh vực hoạt động dầu khí bao gồm: tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ và khai thác

dầu khí; kể cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt động dầu khí và khi xác

định số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tại Việt Nam đối với các dự án dầu khí

ĐTRNN, doanh nghiệp được trừ số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp ở nước

ngoài hoặc đã được nước tiếp nhận đầu tư trả thay (có chứng từ hợp lệ).

27

Các văn bản này đã tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời nó cũng khơi thông một

dòng chảy mới về vốn đầu tư. Song, do được ban hành ngay sau cuộc khủng hoảng

tài chính khu vực trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang

giảm sút, pháp luật về ĐTRNN nhìn chung mang tính thận trọng, tính kiểm soát hơn

là tính khuyến khích các doanh nghiệp ĐTRNN.

Trong giai đoạn này, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc chuyển

vốn ra nước ngoài để thực hiện đầu tư cũng như việc chuyển lợi nhuận về nước. Đối

với những doanh nghiệp muốn đầu tư ra nước ngoài nhưng hạn chế về nguồn vốn thì

lại chưa có một cơ chế nào quy định về việc cho vay ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài.

Khung pháp luật của Việt Nam trong giai đoạn này mới bước đầu tạo ra một

khung pháp lý bao quát được những vấn đề xung quanh hoạt động ĐTRNN, và

trong giai đoạn mà số lượng các dự án ĐTRNN còn ít, quy mô chưa lớn. Tuy nhiên,

trước xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, từ năm 2001, Đại hội Đảng IX đã xác

định chủ trương “Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam

ĐTRNN”. Theo đó Nhà nước có trách nhiệm trong việc “tạo ra khuôn khổ pháp lý

nhằm khuyến khích hoạt động ĐTRNN để phát huy lợi thế so sánh của đất nước”.

Tuy nhiên trong quá trình này các văn bản bộc lộ nhiều hạn chế, gây khó khăn cho

các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện ĐTRNN, và cũng gây khó khăn cho các

cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý các vấn đề về đầu tư [15, tr.20-25].

1.5.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015

Trước những khó khăn của các doanh nghiệp đang gặp phải cũng như công

tác quản lý của nhà nước không được đảm bảo. Năm 2005 Luật đầu tư được Quốc

hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/07/2005, thay thế Luật Đầu tư nước ngoài

tại Việt Nam. Luật Đầu tư đã dành một chương quy định về hoạt động đầu tư ra

nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Đến năm 2006, nhằm kế thừa và phát

huy có chọn lọc những mặt tích cực và khắc phục hạn chế của hệ thống luật hiện

hành về ĐTRNN và nâng cao quyền tự chủ, tự do kinh doanh của doanh nghiệp,

Nghị định 78/2006/NĐ-CP quy định về ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam được

28

Chính phủ ban hành ngày 09/8/2006 (thay thế Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày

14/4/1999) với mục tiêu chính là:

- Phù hợp với thực tiễn hoạt động và yêu cầu của hoạt động ĐTRNN; cho

phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động ĐTRNN

bình đẳng như các doanh nghiệp Việt Nam.

- Quy định rõ ràng, cụ thể và minh bạch hơn các vấn đề liên quan đến thủ tục

đầu tư theo hướng giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước và tăng quyền chủ động

cho doanh nghiệp;

- Tăng cường hiệu quả của quản lý nhà nước và xác định rõ trách nhiệm của các

cơ quan nhà nước trong việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ĐTRNN.

Nghị định 78/2006/NĐ-CP với tinh thần chung là quy định các nhà đầu tư và

doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp đầu tư nước

ngoài, đều có quyền ĐTRNN, có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh

doanh, được lựa chọn hay thay đổi hình thức tổ chức quản lý nội bộ, hình thức đầu

tư thích ứng với yêu cầu kinh doanh và được pháp luật Việt Nam bảo hộ; giảm thiểu

các quy định mang tính "xin - cho" hoặc "phê duyệt" bất hợp lý, trái với nguyên tắc

tự do kinh doanh, gây phiền hà cho hoạt động đầu tư, nhưng có tính đến lộ trình

cam kết trong các thoả thuận song phương và đa phương trong hội nhập kinh tế

quốc tế, nhất là các nguyên tắc đối xử quốc gia và tối huệ quốc [12, tr.10-15].

1.5.3. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay

Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo quy

định tại Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định số 78/2006/NĐ-CP, với việc ban hành,

sửa đổi bổ sung một số văn bản đã tạo ra khung pháp luật thông thoáng hơn, từng

bước một chú trọng sát với thực tế, mở rộng hành lang pháp lý hơn và tạo điều kiện

cho các doanh nghiệp Việt Nam vững bước vươn ra thị trường khu vực và thế giới,

hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam có những bước tiến đáng kể, thủ tục

đầu tư cụ thể và minh bạch hơn, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước và tăng

quyền chủ động cho doanh nghiệp.

Nhằm kế thừa và phát huy những mặt tích cực và khắc phục hạn chế của hệ

29

thống luật hiện hành về ĐTRNN, Chính phủ ban hành Nghị định số 83/2015/NĐ-

CP ngày 25/9/2015 quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, theo đó chú trọng

vào việc quản lý, giám sát hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp và

nâng cao quyền tự chủ, tự do kinh doanh của doanh nghiệp, tiến tới xóa bỏ việc cấp

Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài [15, tr.18-20]

1.5.4. Các thỏa thuận đầu tư quốc tế và khu vực có tác động tới ĐTRNN

Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước ĐTRNN và thu hút FDI, trên trường

quốc tế, Chính phủ Việt Nam cũng đã tham gia vào Hiệp định khung về Khu vực

đầu tư ASEAN (AIA).

Việt Nam cũng đã tích cực ký kết các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu

tư với các nước trên thế giới. Kể từ khi bắt đầu triển khai ký kết (1990), đến nay,

Việt Nam đã ký kết 67 Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư với các quốc gia

và vùng lãnh thổ (Phụ lục số 1).

Trong quá trình mở cửa nền kinh tế, và hội nhập sâu và rộng hơn vào nền

kinh tế, tính đến ngày 10/8/2016, Việt Nam đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần

và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thu nhập với 75 nước/vùng lãnh thổ trên thế

giới (Phụ lục số 2).

Mục đích ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần nhằm loại bỏ việc

đánh thuế trùng bằng cách: (a) miễn, giảm số thuế phải nộp tại Việt Nam cho các

đối tượng cư trú của nước ký kết hiệp định; hoặc (b) khấu trừ số thuế mà đối tượng

cư trú Việt Nam đã nộp tại nước ký kết hiệp định vào số thuế phải nộp tại Việt

Nam. Ngoài ra, Hiệp định còn tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hợp tác và hỗ trợ lẫn

nhau giữa cơ quan thuế Việt Nam với cơ quan thuế các nước/vùng lãnh thổ trong

công tác quản lý thuế quốc tế nhằm ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại

thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản.

Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với

luật thuế trong nước. Trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó Việt Nam

có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó hoặc thu thuế với một mức thuế

suất nhất định nhưng pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam chưa có quy định thu

30

thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thuế suất thấp hơn thì áp dụng

theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam, nghĩa là không thu thuế

hoặc thu thuế với mức thuế suất thấp hơn.

Tuy nhiên có một số nước, Việt Nam có đầu tư sang ở mức lớn, nhưng hiện

cả hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần

vẫn chưa ký kết được, các Bộ cũng chưa có khuyến nghị, tư vấn đối với các doanh

nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài, vào một nước Việt Nam chưa ký hiệp định, để

trước khi đầu tư phía Việt Nam có lợi thế về đàm phán để ký kết các Hiệp định, mà

sau đó khi nhận thấy có doanh nghiệp của Việt Nam đầu tư vào quốc gia đó, mới

mời các nước đã có doanh nghiệp đầu tư thực hiện đàm phán ký hiệp định, lúc đó

phía bạn không còn nhiều thiện ý để ký kết nữa, ví dụ như nước Cộng hòa Thống

nhất Tanzania, Cộng hòa Cameroun … nhiều lần đàm phán, thống nhất nhưng chưa

ký kết được.

Trở thành thành viên chính thức viên của WTO, Việt Nam được mở cửa thị

trường xuất khẩu và đầu tư vào các thành viên khác. Việc thực hiện các cam kết tạo

ra nhiều cơ hội to lớn và nâng cao địa vị pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam

đầu tư ra nước ngoài.

Việt Nam đã tham gia đàm phán, ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự

do (FTA) với EU, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á-Âu và nhất là Hiệp định Đối tác

xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đang mở ra cơ hội rất lớn cho doanh nghiệp Việt

mở rộng thị trường ở nước ngoài [15, tr.30-32].

31

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Mặc dù đã hơn 10 năm có quy định về ĐTRNN, các dự án đầu tư ngày càng

nhiều, nhưng các nhà đầu tư của Việt Nam vẫn đầu tư ở các nước láng giềng, quy

mô đầu tư nhỏ, nếu quy mô lớn thường là các doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn

nhà nước, ngoài mục đích đầu tư kinh doanh mang lại lợi nhuận còn có cả các mục

đích khác như an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, những nội dung điều chỉnh của

pháp luật trong hoạt động ĐTRNN vẫn còn chưa hoàn thiện, vẫn chưa tháo gỡ

được cho các nhà đầu tư khi ĐTRNN, chưa hỗ trợ và song hành cùng nhà đầu tư,

trách nhiệm đầu tư là thuộc về doanh nghiệp, nhưng về tổng thể khi mang ngoại tệ

ra nước ngoài, trách nhiệm bảo toàn phát triển nguồn ngoại tệ đó là rất cần thiết,

nhưng chúng ta mới kiểm soát được khâu cấp phép mà chưa kiểm soát được hoạt

động đầu tư.

Các hoạt động đầu tư của Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn nhà nước

thực sự có hiệu quả, nhưng chưa cao vì được vận hành qua nhiều lớp, chưa phù

hợp với tính năng động của thị trường ngày một nhanh, quy định về ĐTRNN cải

thiện thông thoáng về chính sách, khuyến khích đầu tư, nhưng để triển khai và

thực thi còn chưa rõ ràng, cần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan chuyên

môn, cơ quan quản lý nguồn vốn nhà nước, hỗ trợ các nhà đầu tư không sử dụng

nguồn vốn Nhà nước thì ĐTRNN của nước ta mới phát triển và thu ngoại tệ về

nước trong thời gian tới.

32

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI VÀ

THỰC TIỄN ÁP DỤNG VỚI CÁC DOANH NGHIỆP

CÓ NGUỒN VỐN NHÀ NƯỚC

2.1. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam

2.1.1. Tình hình đầu tư

Tính đến hết năm 2018, Việt Nam có lũy kế 1.469 dự án đầu tư ra nước

ngoài đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài (GCNĐK

ĐTRNN) và với tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài là 22,1 tỷ USD. Trong đó,

có 1.172 GCNĐK ĐTRNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký ĐTRNN là 20,2 tỷ

USD. Trong đó, riêng giai đoạn 2009-2017 có 895 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng

ký đạt 17,4 tỷ USD, chiếm 69,9% số dự án đầu tư và 81,3% tổng số vốn đăng ký

đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam, vì đây là giai đoạn chính sách đầu tư được mở

rộng, thủ tục đầu tư đơn giản hơn với sự ra đời của Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày

09/8/2006 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015 Quy định về

đầu tư ra nước ngoài; Luật đầu tư năm 2015 [12, tr.33-34]

2.1.2. Phân nhóm đầu tư

2.1.2.1. Theo địa bàn đầu tư

ĐTRNN của Việt Nam xuất hiện ở 72 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập trung

nhiều nhất tại Lào (4,89 tỷ USD, 201 dự án còn hiệu lực), tiếp đó là Nga (2,83 tỷ

USD, 15 dự án còn hiệu lực), Campuchia (2,73 tỷ USD, 173 dự án còn hiệu lực).

Tiếp theo là các thị trường Venezuela (1,82 tỷ USD), Myanmar (1,32 tỷ USD),

Algeria (1,26 tỷ USD), Peru (1,24 tỷ USD) (xem phụ lục 1).

2.1.2.2. Theo lĩnh vực đầu tư

Hoạt động ĐTRNN của Việt Nam trải rộng trên rất nhiều ngành nghề, lĩnh

vực. Xét theo quy mô vốn, ĐTRNN tập trung chủ yếu vào khai khoáng (7,97 tỷ

USD), nông nghiệp (3,1 tỷ USD), thông tin và truyền thông (2,6 tỷ USD), điện năng

(1,48 tỷ USD), công nghiệp sản xuất (1 tỷ USD), nghệ thuật vui chơi giải trí (1 tỷ

USD) (xem phụ lục 2).

33

2.1.2.3. Theo năm đầu tư

Kể từ khi xuất hiện từ năm 1989 đến nay, hoạt động ĐTRNN của Việt Nam

có thể chia thành 04 giai đoạn chính (xem phụ lục 3):

- 1989-1999 (21 dự án; vốn đăng ký 9,2 triệu USD): Giai đoạn này chủ yếu

là các công ty có vốn nhà nước thành lập liên doanh với đối tác nước ngoài, quy mô

vốn nhỏ, số lượng hoạt động ĐTRNN ít.

- 1999-2005 (132 dự án, 559,6 triệu USD): Nghị định 22/1999/NĐ-CP ra

đời năm 1999 là nghị định đầu tiên quy định về ĐTRNN. Từ đây, hoạt động

ĐTRNN bắt đầu thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia hơn.

- 2006-2014 (792 dự án, 18,98 tỷ USD): Kể từ năm 2005 ra đời Luật Đầu tư

2005 và Nghị định 78/2006/NĐ-CP hướng dẫn về ĐTRNN, ĐTRNN tăng mạnh về

mặt số lượng hoạt động đầu tư cũng như số vốn đăng ký. Nguyên nhân tăng mạnh

hoạt động ĐTRNN gồm: xu hướng hội nhập quốc tế, sự phổ cập rộng rãi quy định

pháp luật về ĐTRNN, sự lớn mạnh nhất định của doanh nghiệp trong nước. Ngoài

ra, giai đoạn này nhiều doanh nghiệp nhà nước thực hiện ĐTRNN theo Quyết định

236 về khuyến khích ĐTRNN của Thủ tướng Chính phủ. Các dự án ĐTRNN của

Doanh nghiệp Nhà nước thường ở trong các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn (thăm dò khai

thác dầu khí, khai khoáng, trồng cây công nghiệp, viễn thông, thủy điện…) dẫn đến

sự gia tăng mạnh vốn đăng ký ĐTRNN trong giai đoạn này.

- 2015 đến nay (hết 2018) (544 dự án, 2,5 tỷ USD): Trong giai đoạn này,

Luật Đầu tư 2015 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP ra đời thay thế các quy định cũ về

ĐTRNN. Về cơ bản cách thức quản lý ĐTRNN không thay đổi nhưng chuyển từ

nguyên tắc thẩm tra cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN sang nguyên tắc ghi nhận cấp

Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài (GCNĐK ĐTRNN), đơn giản hóa

thủ tục hành chính cấp GCNĐK ĐTRNN. Ở giai đoạn này số lượng hoạt động đầu

tư tăng gấp 1,5 lần trung bình năm của giai đoạn trước nhưng vốn đăng ký đã giảm

mạnh. Nguyên nhân: số lượng hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp nhà nước/có

vốn nhà nước trong các lĩnh vực có quy mô vốn lớn giảm. Tuy nhiên, số lượng hoạt

động đầu tư vẫn ổn định và tăng nhẹ (do sự tham gia ngày càng nhiều của doanh

34

nghiệp phi nhà nước và của các cá nhân) cho thấy xu hướng ĐTRNN vẫn là xu

hướng tất yếu cùng với sự phát triển và tính chất mở cửa của nền kinh tế.

- Riêng trong 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký

đầu tư ra nước ngoài cho 155 dự án đầu tư sang 39 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng

vốn đăng ký ĐTRNN là 421,5 triệu đô la Mỹ (tăng 19% số dự án và 57% vốn đăng ký

so với năm 2017); cấp điều chỉnh GCNĐK ĐTRNN để thay đổi vốn cho 35 dự án với

tổng số vốn điều chỉnh tăng thêm 56 triệu đô la Mỹ. Tính tổng số vốn cấp mới và tăng

thêm trong năm 2018 là 477,6 triệu đô la Mỹ (tăng 36% so với năm 2017).

2.1.2.4. Theo quy mô vốn đầu tư

Xét theo quy mô vốn, hoạt động ĐTRNN tập trung vào: Hoạt động tài chính

(105,7 triệu USD), thương mại (82,9 triệu USD), công nghiệp sản xuất chế biến

(80,4 triệu USD), nông nghiệp (52,3 triệu USD) (xem Phụ lục 4).

2.1.3. Kết quả đầu tư ra nước ngoài đã đạt được

Theo báo cáo của các nhà đầu tư, tổng vốn chuyển ra nước ngoài trong năm

2018 để thực hiện các hoạt động đầu tư là 515,2 triệu đô la Mỹ, (nếu so sánh năm

2017, năm 2018 tăng khoảng 44%).

Tổng vốn đã chuyển ra nước ngoài lũy kế hết 2018 của các hoạt động

ĐTRNN đạt 8,1 tỷ USD. Vốn đã chuyển ra nước ngoài lớn nhất là lĩnh vực khai

khoáng (3,17 tỷ USD), tiếp theo là các lĩnh vực thông tin truyền thông (1,35 tỷ

USD), nông nghiệp (1,3 tỷ USD), sản xuất điện (668 triệu USD), ngân hàng – tài

chính (565 triệu USD), kinh doanh bất động sản (379 triệu USD), hoạt động chuyên

môn, khoa học công nghệ (196 triệu USD), sản xuất công nghiệp (178 triệu USD),

thương mại (140 triệu USD), vận tải (116 triệu USD), dịch vụ lưu trú ăn uống (42

triệu USD), dịch vụ xây dựng (4 triệu USD), các hoạt động khác (1,5 triệu USD).

Với hoạt động đầu tư ra nước ngoài và số vốn đã chuyển ra, kết quả đạt được

đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài là:

- Hoạt động ĐTRNN của Việt Nam dù mới phát triển rõ nét hơn 10 năm (kể

từ năm 2006) nhưng đến nay đã thu được những kết quả nhất định, đem lại lợi ích

cho bản thân doanh nghiệp cũng như đóng góp một phần cho nền kinh tế trong

35

nước. Đối với nền kinh tế: nhiều dự án ĐTRNN đã đi vào triển khai hoạt động có

doanh thu, lợi nhuận chuyển về nước, thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước,

điều này góp phần tăng thu ngoại tệ và tăng thu ngân sách cho nhà nước. Cụ thể,

theo số liệu báo cáo của nhà đầu tư, lợi nhuận và tiền chuyển về nước lũy kế hết

2018 là 1,23 tỷ USD. Con số vốn chuyển ra nước ngoài và lợi nhuận thu được của

các dự án ĐTRNN có thể sẽ lớn hơn trên thực tế vì có nhiều nhà đầu tư chưa thực

hiện báo cáo.

- Về mặt đóng góp cho ngân sách nhà nước, mặc dù nhiều quốc gia có

xuất hiện hoạt động đầu tư của Việt Nam đã ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai

lần với Việt Nam nên nhà đầu tư không phải nộp thuế hoặc nộp ít thuế cho nhà

nước Việt Nam đối với phần lợi nhuận chuyển về, nhưng theo báo cáo năm 2018

của các nhà đầu tư, số tiền thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước lũy kế đến

hết 2018 đạt 39 triệu USD.

- Hoạt động ĐTRNN cũng gắn với nhiệm vụ chính trị, hỗ trợ công tác an

ninh, quốc phòng như các dự án thăm dò dầu khí tại Campuchia, dự án bô xít tại

Mondulkiri, Campuchia, dự án Hãng hàng không Angkor Air; một số dự án đầu

tư xây dựng phát triển cụm làng bản tại Lào của các doanh nghiệp thuộc khối

quốc phòng…

- Hoạt động ĐTRNN cũng tạo ra một khối lượng việc làm nhất định tại

nước ngoài cho lao động Việt Nam, đặc biệt là các dự án trồng cây công nghiệp,

dịch vụ xây dựng, thủy điện, khai khoáng, viễn thông. Theo báo cáo năm 2018,

tổng số lao động Việt Nam đưa ra nước ngoài là 8.574 người. Lao động Việt Nam

đưa ra nước ngoài trong các ngành, lĩnh vực khác chủ yếu là quản lý, kỹ thuật.

Mặc dù lượng lao động Việt Nam đưa ra nước ngoài chưa đáng kể nhưng số liệu

này thể hiện rằng, hoạt động ĐTRNN có thể phần nào giúp giải quyết vấn đề lao

động trong nước. Ngoài ra, số lao động ra làm việc ở nước ngoài này có thể được

hưởng chế độ tốt hơn trong nước, thu nhập cao hơn, đồng thời có cơ hội học hỏi

và nâng cao tay nghề, chuyên môn, trình độ, tích lũy kinh nghiệm làm việc trong

môi trường nước ngoài.

36

- Hoạt động ĐTRNN đã và đang giúp cho Việt Nam mở rộng và đa dạng hóa

thị trường tiêu thụ sản phẩm tại nước ngoài và tránh những hàng rào bảo hộ thương

mại của nước nhận đầu tư và các nước thứ ba. Một trong những lợi ích cơ bản và

lớn nhất của ĐTRNN nói chung chính là mở rộng thị trường sản phẩm, dịch vụ

trong nước ra nước ngoài. Đối với ĐTRNN của Việt Nam, lĩnh vực thương mại

xuất nhập khẩu có số lượng dự án lớn nhất (327 dự án còn hiệu lực, chiếm gần 30%

tổng số dự án đăng ký ĐTRNN lũy kế đến hết 2018). Nhiều doanh nghiệp Việt Nam

đã thực hiện hoạt động xuất khẩu thường xuyên muốn tiến tới thành lập công ty tại

thị trường nhập khẩu sản phẩm của mình để trực tiếp phân phối, bán và tiếp thị sản

phẩm của mình tại thị trường nước ngoài thay vì qua trung gian để giảm giá bán,

tăng tính cạnh tranh của sản phẩm hoặc để tiếp cận số lượng khách hàng lớn hơn

Có thể thấy hoạt động ĐTRNN bước đầu giúp doanh nghiệp Việt Nam phát

triển năng lực quản lý, tích lũy kinh nghiệm kinh doanh trong môi trường quốc tế,

tăng tính cạnh tranh và khả năng hội nhập.

2.1.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong ĐTRNN

2.1.4.1. Tồn tại, hạn chế nói chung

Bên cạnh những dự án ĐTRNN đã đi vào hoạt động, thành công, có doanh

thu, lợi nhuận, cũng có một số dự án ĐTRNN không triển khai được được ngay từ

đầu hoặc gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai khiến đầu tư kinh doanh

không hiệu quả, phải tạm dừng, giãn tiến độ hoặc đóng cửa, giải thể. Tính đến hết

2018 có 1.469 dự án được cấp GCNĐK ĐTRNN, trong số đó, có 298 GCNĐK

ĐTRNN đã chấm dứt hiệu lực vì 02 lý do: (i) Hết thời hạn quy định trên GCNĐK

ĐTRNN mà nhà đầu tư không làm thủ tục gia hạn (do nhà đầu tư cũng đã chấm dứt

thực hiện dự án) và (ii) nhà đầu tư chủ động đề nghị chấm dứt hiệu lực GCNĐK

ĐTRNN do chấm dứt thực hiện đầu tư ở nước ngoài.

Hiệu quả đầu tư của hoạt động ĐTRNN nói chung ở thời điểm hiện tại chưa

cao. Bên cạnh việc một số dự án ĐTRNN không hiệu quả, thua lỗ, phải chấm dứt,

một số dự án có doanh thu tốt cũng chưa có lợi nhuận lũy kế do mới bắt đầu kinh

doanh hoặc chịu ảnh hưởng của biến động tỉ giá. Nhiều dự án có quá trình chuẩn bị

37

đầu tư, xây dựng cơ bản kéo dài, chưa bước vào giai đoạn vận hành, khai thác, sản

xuất, kinh doanh nên ở giai đoạn hiện tại chưa

2.1.4.2. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế

Nguyên nhân chủ quan

Năng lực quản trị của doanh nghiệp ĐTRNN còn yếu, chưa tìm hiểu kỹ thị

trường, lường hết các khó khăn vướng mắc có thể gặp phải và chưa có biện pháp

quản trị rủi ro hiệu quả. Một số báo cáo của các nhà đầu tư phản ánh dự án của

mình hoạt động kém hiệu quả, cần tái cơ cấu để hoạt động lại

Nhiều công ty cũng phản ánh vấn đề khó khăn trong bất đồng ngôn ngữ, do

đó không tìm hiểu được hết các quy định của pháp luật.

Nhiều doanh nghiệp thay đổi cơ cấu đầu tư trong nước nên cũng tạm dừng

các dự án đầu tư tại nước ngoài.

Xảy ra những vấn đề tranh chấp, rắc rối trong nội bộ nhà đầu tư Việt Nam

hoặc giữa các nhà đầu tư Việt Nam.

Nhiều dự án gặp khó khăn về vốn, không thu xếp được và huy động được đủ

vốn đầu tư. Đây là một nguyên nhân tương đối phổ biến do hoạt động ĐTRNN sử

dụng đồng tiền đầu tư là ngoại tệ, biến động tỉ giá có thể khiến nhà đầu tư gặp khó

khăn về huy động vốn. Đồng thời, một số dự án đầu tư kéo dài, dưới các biến động

của môi trường đầu tư cũng sẽ thay đổi quy mô vốn đầu tư, khiến nhà đầu tư gặp

khó khăn trong việc thu xếp vốn.

Nguyên nhân khách quan

ĐTRNN đang ở giai đoạn đầu, nhiều dự án trong giai đoạn lỗ kế hoạch, chưa

có lợi nhuận, nhiều dự án đang trong giai đoạn triển khai đầu tư, chưa kinh doanh.

Nhiều dự án đầu tư sau khi kết thúc giai đoạn tìm kiếm, thăm dò, nghiên cứu

thị trường thì nhận thấy không khả thi để tiếp tục đầu tư kinh doanh vì cơ hội đầu tư

đã trôi qua, tình hình thị trường không thuận lợi.

Nhiều dự án gặp khó khăn trong quá trình triển khai vì các vấn đề thuộc về

môi trường đầu tư: yếu kém của môi trường đầu tư nước ngoài, sự chậm trễ của

chính quyền nước tiếp nhận đầu tư trong việc giải quyết các thủ tục hành chính về

giấy phép, đất đai, pháp lý...

38

Nhiều thị trường có sự cạnh tranh quyết liệt khiến doanh nghiệp Việt Nam

gặp nhiều khó khăn. Ngay ở hai thị trường truyền thống và có nhiều điều kiện thuận

lợi để đầu tư là Lào và Campuchia, Việt Nam là một trong các nhà đầu tư nước

ngoài lớn nhưng hiện tại cũng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các nước khác như Thái

Lan và đặc biệt là Trung Quốc.

Một số dự án phản ánh đối tác gặp khó khăn nên không triển khai được dự án.

Rất nhiều dự án không lường trước được các thủ tục pháp lý tại nước

ngoài kéo dài khiến dự án chậm tiến độ, hoặc không tìm được địa điểm phù hợp

để kinh doanh.

Pháp luật về ĐTRNN còn những điểm vướng/không rõ ràng/chưa hướng dẫn

trong khi nhu cầu thực tế của nhà đầu tư phát sinh (VD: chuyển vốn ra nước ngoài

trước khi được cấp GCNĐK ĐTRNN, đối với các dự án tìm kiếm thăm dò dầu khí:

vướng trong việc chuyển tiền ra nước ngoài để thực hiện công tác kết thúc dự án

(hoàn trả hiện trạng môi trường...), đặc biệt đối với các dự án dầu khí còn rất nhiều

vướng mắc, nhất là trong hướng quản lý đối với các dự án đầu tư bộc lộ tính kém

hiệu quả, thua lỗ. Một số doanh nghiệp phản ánh gặp khó khăn trong việc chuyển

tiền ra nước ngoài vì vướng thủ tục chuyển tiền, cần có giấy chứng nhận đầu tư ra

nước ngoài mới có thể chuyển tiền, trong khi phía nước ngoài cần một thời hạn nhất

định (thường ngắn hơn thời gian xin cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài).

Một số dự án cao su và thủy điện phản ánh khó khăn vướng mắc trong áp dụng

chính sách về tiền lương, bảo hiểm, chế độ cho người lao động Việt Nam ra nước

ngoài trong các dự án ĐTRNN.

Môi trường đầu tư không thuận lợi, một trong các rủi ro lớn là rủi ro về mặt

tỉ giá, khiến dự án có doanh thu tốt nhưng vẫn lỗ.

Một số dự án phản ảnh không mua được ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài

thực hiện dự án. Một số dự án triển khai kinh doanh tốt, nhưng không mua được đô

la để chuyển về Việt Nam, hoặc việc mất giá của đồng nội tệ, nên công ty kinh

doanh tốt, nhưng khi quy đổi ra đồng đô la thì lại trở thành lỗ.

39

2.2. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có nguồn

vốn Nhà nước

Tính đến hết tháng 02 năm 2018, các doanh nghiệp có nguồn vốn nhà nước

đầu tư ra nước ngoài là 187 dự án với tổng vốn đầu tư cấp mới là 11,26 tỷ đô la Mỹ,

điều chỉnh tăng vốn 60 dự án với tổng số vốn tăng thêm là 3,9 tỷ đô la Mỹ. Tính

chung cả cấp mới và tăng thêm là 15,22 tỷ đô la Mỹ. Hiện có 6 Tập đoàn, Tổng

công ty có vốn đăng ký đầu tư trên 1 tỷ đô la Mỹ, gồm Tập đoàn dầu khí Việt Nam,

Tập đoàn Cao su, Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội, Tổng công ty

Sông Đà, Tập đoàn Hoàng Anh - Gia Lai và Công ty cổ phần Golf Long Thành.

2.2.1. Phân nhóm đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có sử dụng

nguồn vốn Nhà nước

2.2.1.1. Phân theo ngành đầu tư

Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn nhà nước tập trung chủ

yếu vào các ngành: khai khoáng với 52 dự án, vốn đầu tư 9,16 tỷ USD, chiếm

60,20% tổng vốn đầu tư (tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, tìm kiếm thăm dò

và khai thác khoáng sản); thông tin truyền thông với 28 dự án, số vốn 2,70 tỷ USD,

chiếm 17,77%; nông lâm nghiệp với 40 dự án, số vốn 1,32 tỷ USD, chiếm 8,69%

tổng vốn đầu tư; sản xuất và phân phối điện, khí đốt với 5 dự án, số vốn 1,18 tỷ

USD, chiếm 7,81% tổng vốn đầu tư; tài chính ngân hàng, bảo hiểm với 15 dự án, số

vốn 583 triệu USD, chiếm 3,83%; tiếp đến là lĩnh vực vận tải kho bãi, công nghiệp

chế biến chế tạo.

2.2.1.2. Phân theo địa bàn đầu tư

Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn nhà nước tập trung vào

các nước Lào đứng thứ nhất với 61 dự án với vốn đầu tư 2,42 tỷ USD chiếm 16%

tổng vốn đầu tư; Liên bang Nga đứng thứ 2 với 6 dự án với số vốn đầu tư 2,28 tỷ

USD chiếm 15% tổng vốn đầu tư, Venezuela đứng thứ 3 với 01 dự án với số vốn

1,82 tỷ USD chiếm 12% tổng vốn đầu tư, Campuchia đứng thứ 4 với 42 dự án với

vốn đầu tư là 1,53 tỷ USD, chiếm 10,1% về tổng vốn đầu tư; Peru đứng thứ 5 với

05 dự án với số vốn 1,33 tỷ USD chiếm 8,8% tổng vốn đầu tư… (phụ lục 2).

40

2.2.1.3. Phân theo năm

Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn nhà nước tập trung

chủ yếu vào các năm 2013, 2010, 2008, 2011, 2014, trong đó năm 2013 có 8 dự

án cấp mới và 11 dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn đầu tư là 3,47 tỷ USD

chiếm 24,1% tổng vốn đầu tư; năm 2010 đứng thứ 2 với 23 dự án cấp mới và 3

dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn đầu tư là 2,6 tỷ USD chiếm 18,1% tổng vốn

đầu tư; năm 2008 đứng thứ 3 với 36 dự án cấp mới, 01 dự án điều chỉnh tăng

vốn với vốn đầu tư là 2,16 tỷ USD chiếm 15,1% tổng vốn đầu tư; năm 2011

đứng thứ 4 với 14 dự án cấp mới và 10 dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn cấp

mới và tăng thêm là 1,91 tỷ USD chiếm 13,3% tổng vốn đầu tư; năm 2014

đứng thứ 5 với 16 dự án cấp mới và 09 dự án tăng vốn với vốn cấp mới và tăng

thêm là 1,53 tỷ USD chiếm 10,6% tổng vốn đầu tư.

Như vậy, tình hình đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn nhà nước

tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực khai khoáng, thông tin truyền thông và tập trung vào

các địa bàn như Lào, Liên bang Nga, Venezuela, Campuchia, Peru (các địa bàn truyền

thống và các địa bàn có nhiều dầu khí). Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp có vốn

nhà nước chủ yếu tập trung vào các năm 2008, 2010, 2011, 2013, 2014.

Trong những 02 năm gần đây, đầu tư của các doanh nghiệp có vốn nhà nước

có xu hướng giảm rất mạnh (năm 2015 chỉ còn 12 dự án cấp mới và 22 dự án điều

chỉnh với tổng số vốn đăng ký là 280 triệu USD chiếm 2% tổng vốn đăng ký, năm

2016 có 06 dự án cấp mới và 09 dự án điều chỉnh với tổng số vốn đăng ký là -616,1

triệu USD chiếm -4,3% tổng vốn đăng ký). Như vậy, việc giảm vốn của doanh

nghiệp có vốn đầu tư ra nước ngoài phản ánh rất rõ định hướng đầu tư ra nước

ngoài của Việt Nam hiện nay, đó là trong khi nguồn lực nhà nước còn hạn chế thì

việc đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp tư nhân ngày càng được đẩy mạnh

và cũng phù hợp với chủ trương của Chính phủ là thúc đẩy khối doanh nghiệp tư

nhân phát triển.

2.2.2. Các lĩnh vực được đầu tư quy mô lớn

Đầu tư ra nước ngoài đối với một số lĩnh vực, cần quy mô đầu tư lớn, các

doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có nguồn vốn từ Nhà nước có thể là đầu tư

41

độc lập hoặc cùng các nhà đầu tư khác để thực hiện đầu tư, các lĩnh vực đó bao

gồm, hoạt động khai thác, thăm dò dầu khí; lĩnh vực viễn thông; lĩnh vực khai

thác khoáng sản; lĩnh vực cao su; lĩnh vực tài chính ngân hàng; lĩnh vực thủy

điện, cụ thể như sau:

Hoạt động ĐTRNN trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí:

Tính đến nay đã có 31 dự án ra nước ngoài trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò,

khai thác dầu khí, trong đó: hiện còn 13 dự án đang hoạt động, 18 dự án đã và đang

làm thủ tục kết thúc hoạt động (đã kết thúc 10 dự án, đang làm thủ tục kết thúc dự

án 8 dự án), trong đó:

- Tổng mức đầu tư ra nước ngoài theo Giấy chứng nhận đầu tư khoảng 8,029

tỷ USD, trong đó vốn đăng ký của 13 dự án đang hoạt động là 7,161 tỷ USD.

- Tổng chi phí đã thực hiện đến hết 30/6/2017: 4,850 tỷ USD, bằng 60,40%

so với tổng mức đầu tư.

- Tổng vốn đã chuyển ra nước ngoài đến hết 30/6/2017: 3,356 tỷ USD, bằng

41,79% tổng mức đầu tư ra nước ngoài theo Giấy chứng nhận đầu tư; bằng 69,19%

tổng chi phí thực hiện dự án.

Đánh giá kết quả đầu tư ra nước ngoài của các Doanh nghiệp trong lĩnh vực

dầu khí

Đến nay lĩnh vực dầu khí đã thực hiện 31 dự án đầu tư ở nước ngoài với tổng

vốn đầu tư đăng ký là 8,0 tỷ USD, trong đó có 13 dự án đang triển khai và 18 dự án

đã và đang làm thủ tục kết thúc do không phát hiện dầu khí.

Theo báo cáo của doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực dầu khí, tính đến

nay, tổng chi phí thực hiện dự án đến nay đạt khoảng 4,5 tỷ USD, trong đó vốn

chuyển ra nước ngoài bằng tiền mặt đạt gần 3,2 tỷ USD. Kết quả thu được với

tổng trữ lượng dầu quy đổi phát hiện khoảng 158 triệu tấn. Sản lượng khai thác

đến cuối năm 2016 đạt khoảng 9,25 triệu tấn, số tiền đã chuyển về nước đến nay

đạt 941,1 triệu USD.

Các dự án dầu khí hiện nay đang gặp khó khăn do giá dầu xuống thấp, một

số dự án phải tạm dừng khai thác để tránh lỗ. Hiện nay Tập đoàn Dầu khí đẩy mạnh

42

tái cơ cấu các hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm giảm thiểu rủi ro từ việc giá dầu

trên thị trường thế giới xuống thấp và kéo dài từ năm 2014 đến nay.

Theo báo cáo của doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực dầu khí, tổng số tiền đã

chuyển về nước đến hết tháng 30/6/2017: 1,1539 tỷ USD, bằng 34,38% tổng vốn

chuyển ra nước ngoài. Số tiền chuyển về nước gồm tiền thu hồi Hợp đồng nhận nợ

và lãi được chia.

Tuy nhiên một số dự án xác định sẽ khó có khả năng thu hồi do có rủi ro về

chính trị, hoặc chuyển nhượng không thành, tổng số tiền đã đầu tư không thu hồi

được là 1.458,7 triệu USD.

Đối với các dự án đã và đang làm thủ tục kết thúc: Số tiền đầu tư không thể thu

hồi là 654,81 triệu USD, trong đó số tiền 326,63 triệu USD đã được phân bổ chi phí.

Như vậy có thể thấy rằng, hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực này chưa cao, số

tiền chuyển về nước có tỷ lệ bằng 1/3 số tiền chuyển ra nước ngoài, khả năng thu

hồi các khoản đã chuyển là khó.

Hoạt động ĐTRNN trong lĩnh vực cao su của Doanh nghiệp Cao su Việt

Nam thực hiện đầu tư ra nước ngoài

Hiện tại Doanh nghiệp Cao su Việt Nam đầu tư 23 dự án trồng cao su tại Lào

và Campuchia với tổng diện tích đăng ký là 139.450 ha, trong đó tại Campuchia là

114.816 ha và Lào là 24.634 ha. Tính đến cuối năm 2017, Doanh nghiệp Cao su

Việt Nam đã trồng được khoảng 120 nghìn ha cao su với vốn đầu tư thực hiện

khoảng 16.000 tỷ đồng, diện tích cao su đưa vào khai thác khoảng 13.000 ha. Tại

Campuchia. Đã đầu tư hoàn chỉnh 02 nhà máy chế biến mủ cao su tại đây với tổng

công suất là 8.000 tấn/năm. Tại Lào, Doanh nghiệp Cao su Việt Nam đã đầu tư 01

nhà máy chế biến mủ cao su với công suất chế biến 13.000 tấn/năm và đã đưa vào

chế biến từ năm 2013 (xem phụ lục). …Tổng vốn đã chuyển ra nước ngoài lũy kế

đến hết 2017 là 702,4 triệu đô la Mỹ, tổng số lao động đưa ra nước ngoài l à 1793,

lợi nhuận đã chuyển về nước lũy kế hết 2017 là 481.322 đô la Mỹ, lợi nhuận giữ lại

tái đầu tư là 282.000 đô la Mỹ.

Các dự án cao su tại Lào và Campuchia triển khai tốt, nhiều dự án đã đi vào

khai thác.

43

Hoạt động ĐTRNN của lĩnh vực thủy điện:

Theo thống kê, đến hết năm 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đã cấp

Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài cho 4 dự án thủy điện có vốn nhà nước, với

tổng công suất đạt 1.145 MW, tổng vốn đầu tư khoảng 2 tỷ USD, vốn đăng ký đầu

tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam là 1,04 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng

725 triệu USD. Trong đó có 03 dự án tại Lào, với tổng công suất đạt 745 MW, tổng

vốn đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam là 1,03 tỷ USD.

Dự án thuỷ điện Xekaman 3 đã điện từ tháng 6/2013, sản xuất được 2,18 tỉ

kWh, doanh thu 103,96 triệu USD, tuy nhiên đến nay đang phải dừng hoạt động do

sự cố kỹ thuật. Dự án Xekaman 1 đã hoạt động từ tháng 8/2016. Đến nay đã sản

xuất 1,5 tỷ kWh, doanh thu đạt được 83,13 triệu USD. Cả 2 dự án đều bán 100%

sản lượng điện về Việt Nam. Các dự án khác đang trong giai đoạn thực hiện.

Hoạt động ĐTRNN của lĩnh vực viễn thông

Hiện nay đầu tư ra nước ngoài của Doanh nghiệp viễn thông có 2 Tập đoàn

là: (i). Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (trực tiếp đầu tư và đầu tư

thông qua Tổng Công ty CP Đầu tư Quốc tế Viettel). (ii). Tập đoàn Bưu chính viễn

thông Việt Nam

Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông quân đội (“Tập đoàn Viettel”) hiện có

13 dự án ĐTRNN đang triển khai tại nước ngoài trong lĩnh vực thông tin và truyền

thông. Trong đó, Tập đoàn Viettel trực tiếp tham gia 04 dự án thực hiện các dịch vụ

viễn thông tại Peru, Pháp, Hoa Kỳ và Nga. Tổng Công ty cổ phần đầu tư quốc tế

Viettel thực hiện 9 dự án tại Campuchia, Lào, Mozambique, Đông Timor,

Cameroon, Burundi, Tanzania, Haiti và Myanmar. Tổng vốn đăng ký phía Việt

Nam đạt 2,56 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt khoảng 1,18 tỷ USD.

Lợi nhuận và vốn đầu tư đã chuyển về nước lũy kế đến hết năm 2018 là

442,4 triệu USD, trong đó hai dự án tại Campuchia và Lào mang lợi hiệu quả cao

với lợi nhuận và vốn chuyển về nước lần lượt là 217,75 triệu USD và 136,78 triệu

USD. Các dự án viễn thông của Tập đoàn Viettel tại các nước Châu Phi cũng đã đi

vào hoạt động một số dự án đã có doanh thu lợi nhuận về nước, tuy nhiên có một số

dự án gặp phải vấn đề khó khăn do tỷ giá ngoại tệ biến động tại các thị trường này.

44

Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT): có 04 dự án ĐTRNN đã

được cấp GCNĐK ĐTRNN trong các lĩnh vực dịch vụ viễn thông (không có dự án

kinh doanh mạng). Tổng vốn đăng ký ĐTRNN là 13,12 triệu USD, trong đó có dự

án đầu tư tại Myanmar có tổng vốn 10 triệu USD, mới cấp GCNĐK ĐTRNN năm

2016, đang trong giai đoạn triển khai ban đầu. Vốn đã chuyển ra nước ngoài lũy kế

hết 2017 là 2,89 triệu USD, lợi nhuận về nước lũy kế hết 2017 là 865.550 USD

(xem phụ lục). Các dự án đầu tư hoạt động bình thường.

Hoạt động ĐTRNN ra nước ngoài trong lĩnh vực khoáng sản

Lĩnh vực Than và khoáng sản, hiện có 5 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu

lực với tổng vốn đầu tư là 33,85 triệu USD, trong đó vốn đã chuyển ra nước ngoài

là 14,4 triệu USD. Các dự án tập trung tại Lào với 2 dự án là dự án khảo sát thăm dò

mỏ sắt Phu Nhuon, dự án khảo sát thăm dò khoáng sản muối; tại Campuchia với 3

dự án là dự án khảo sát, thăm dò khoáng sản Bauxit, dự án thăm dò khoáng sản

Crom và Antimon, dự án khảo sát thăm dò khoáng sản sắt.

Các Dự án đầu tư tại Lào và Campuchia chủ yếu nằm ở giai đoạn khảo sát,

thăm dò, lập báo cáo khả thi; Mặt khác, các Dự án thăm dò khoáng sản tại Lào và

Campuchia đều nằm ở khu vực không thuận lợi về điều kiện giao thông, cơ sở hạ

tầng và các tiện ích khác tại các khu vực mỏ rất thấp. Qua rà soát, đánh giá và phân

loại 05 Dự án hiện đang thực hiện đầu tư tại Lào và Campuchia nêu trên đều thuộc

loại: “Những Dự án đang khó khăn, vướng mắc, không khả thi hoặc không có khả

năng thực hiện”. Hiện doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực này đang cơ cấu lại các

dự án theo hướng chuyển nhượng các dự án và thu hồi vốn.

Tập đoàn Hóa chất Việt Nam tại tỉnh Khăm Muộn (Lào) với tổng vốn đầu tư

của dự án là 522,5 triệu USD. Tháng 9/2015, Vinachem đã tiến hành khởi công xây

dựng nhà máy chế biến muối mỏ kali tại Lào. Tổng chi phí đã thực hiện là 210 triệu

USD. Do hiện tại Vinachem không có đủ vốn để đầu tư và do giá kali trên thị

trường giảm sâu, dự án không còn hiệu quả. Bộ Công Thương đã báo cáo Lãnh đạo

Chính phủ và Bộ Chính trị. Mới đây, Bộ Chính trị đã đồng ý dừng dự án, tìm kiếm

đối tác để chuyển nhượng, thu hồi vốn đầu tư.

45

02 dự án trong lĩnh vực khai khoáng của Tổng công ty hợp tác kinh tế của

Bộ Quốc phòng hiện đang triển khai hoạt động tốt, có hiệu quả. Vốn đã chuyển ra

nước ngoài của nhà đầu tư là 2,47 triệu USD, lợi nhuận đã mang về Việt Nam là

3,91 triệu USD.

Hoạt động ĐTRNN ra nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

Lĩnh vực này có sự tham gia của nhiều ngân hàng TMCP có vốn nhà nước như

BIDV, Vietcombank, Agribank, MB, Vietinbank. Tổng số dự án đầu tư trong lĩnh

vực này là 9 dự án với vốn đầu tư ra nước ngoài của các dự án này là 397 triệu USD,

vốn đã chuyển ra nước ngoài là 276,5 triệu USD. Lợi nhuận chuyển về nước lũy kế

hết 2017 là 28,7 triệu USD (chưa kể phần tăng vốn từ lợi nhuận giữ lại tái đầu tư).

Hiện tất cả các dự án đã đi vào hoạt động, có doanh thu, lợi nhuận và có

đóng góp quan trọng trong việc cung cấp tín dụng cho hầu hết các dự án đầu tư của

Việt Nam tại Lào, Campuchia, Myanmar; đồng thời còn tham gia vào quá trình điều

tiết lĩnh vực tài chính, ngân hàng tại các thị trường này. Các dự án ngân hàng này

sau thời gian ghi lỗ năm đầu hoặc đến năm thứ hai thì liên tục báo lãi, điều này cho

thấy hiệu quả đầu tư là rất tốt.

2.3. Chủ thể tham gia đầu tư ra nước ngoài

Nghị định 83/NĐ-CP quy định chủ thể đầu tư ra nước ngoài là các nhà đầu

tư bao gồm:

- Tổ chức kinh tế thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;

- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập và hoạt động theo quy định tại

Luật Hợp tác xã;

- Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng;

- Hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật, cá nhân mang quốc tịch Việt Nam;

- Các tổ chức khác thực hiện đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật

Việt Nam.

2.3.1. Quyền của Nhà đầu tư

Pháp luật về ĐTRNN quy định những quyền lợi mà bất cứ Nhà đầu tư nào

46

khi tham gia quan hệ pháp luật này đều được hưởng. Bên cạnh đó, pháp luật cũng

đặt ra nghĩa vụ ràng buộc trách nhiệm của nhà đầu tư đối với nhà nước khi tiến hành

ĐTRNN. Để được hưởng quyền lợi thì trước tiên đòi hỏi nhà đầu tư phải chấp hành

và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Thực tiễn cho thấy, thái độ của nhà nước

đối với hoạt động này càng thông thoáng thì các quy định về quyền của nhà đầu tư

càng được mở rộng.

- Nhà đầu tư có quyền tiếp cận và khai thác thị trường thế giới, mở rộng hoạt

động sản xuất - kinh doanh, tìm kiếm các nguồn cung cấp, thúc đẩy xuất khẩu, tiếp

thu công nghệ tiên tiến, nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa

và cạnh tranh quốc tế quyết liệt. Đó là xu hướng chung của tất cả các quốc gia trên

toàn thế giới, đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển trong việc

phát huy những lợi thế của mình.

- Luật đầu tư ra đời cùng hàng loạt chính sách ghi nhận quyền của các nhà

đầu tư ra nước ngoài đã khuyến khích các nhà đầu tư trong nước không ngừng mở

rộng kinh doanh ra thế giới. Sự tạo điều kiện của chính phủ Việt Nam đã tạo thuận

lợi cho các dòng vốn từ các nhà đầu tư trong nước ra nước ngoài, tăng cơ hội tìm

kiếm cơ hội đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Luật đầu tư năm 2014 ghi nhận quyền và trách nhiệm của nhà đầu tư trong

Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài khi cấp cho Nhà đầu tư. Cụ thể như sau:

- Nhà đầu tư được toàn quyền chủ động lập dự án đầu tư để thực hiện mục tiêu

của mình, quyết định việc đầu tư ra nước ngoài để nhằm mục đích thu lợi nhuận;

- Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài, được quyền

chuyển tiền ra nước ngoài theo quy định tại Giấy chứng nhận ĐTRNN;

Để được cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN, nhà đầu tư cần chứng minh được dự

án của mình khả thi khi thực hiện, mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư và mang lợi

nhuận từ nước ngoài về Việt Nam. Mặc dù có sự giám sát, thẩm tra của các cơ quan

Nhà nước, chủ trì là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhưng Nhà đầu tư có toàn quyền quyết

định trong việc xây dựng dự án và đề xuất xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước

ngoài. Sau khi được cấp phép Nhà đầu tư được toàn quyền chủ động thực hiện triển

khai dự án đã đề xuất.

47

Với quy định đảm bảo tuân thủ các quy định về đầu tư ra nước ngoài, các nhà

đầu tư Việt Nam đã được nhà nước ghi nhận, bảo hộ quyền ĐTRNN để tìm kiếm lợi

nhuận, mở rộng kinh doanh, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới.

2.3.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài

Song song với việc được ghi nhận quyền thì các nhà đầu tư Việt Nam cũng

được quy định nghĩa vụ khi đầu tư ra nước ngoài tại Luật đầu tư 2014 cũng đã

không ghi cụ thể nghĩa vụ vào một điều riêng, mà trách nhiệm và nghĩa vụ của Nhà

đầu tư là tuân thù pháp luật về đầu tư. Các nghĩa vụ đó cũng được ghi nhận trong

Giấy chứng nhận ĐTRNN và được tổng hợp và thống kê như sau:

- Tuân thủ cac quy định của Luật Đầu tư số 67/2014/QH13, Nghị định số

83/2015/NĐ-CP và các quy định khác của pháp luật Việt Nam trong phạm vi có liên

quan đến việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả

hoạt động đầu tư ở nước ngoài.

- Tuân thủ pháp luật quốc tế, tuân thủ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư

khi tiến hành đầu tư.

- Thực hiện chuyển lợi nhuận về nước theo quy định tại Điều 65 Luật Đầu tư

và chuyển về nước toàn bộ các khoản thu còn lại từ việc thanh lý dự án đầu tư ở

nước ngoài theo quy định tại Nghị định số 83/2015/NĐ-CP;

- Thực hiện chế độ báo cáo bằng văn bản và thông qua Hệ thống thông tin

quốc gia về đầu tư nước ngoài theo quy định tại Điều 72 của Luật Đầu tư và quy

định tại Nghị định số 83/2015/NĐ-CP.

- Thực hiện đăng ký cấp tài khoản truy cập Hệ thống thông tin quốc gia về

đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài để thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo quy

định tại Điều 18 Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015 của

Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài.

- Thực hiện thủ tục chấm dứt dự án đầu tư ra nước ngoài theo Điều 62 Luật

Đầu tư và Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ

quy định về đầu tư ra nước ngoài.

Nghĩa vụ tuân thủ quy định của nước tiếp nhận đầu tư vì sang nước khác đầu

48

tư, Nhà đầu tư không chỉ mang danh nghĩa của mình mà còn là đại diện cho quốc

gia Việt Nam. Khi nhà đầu tư kinh doanh có uy tín, hiệu quả, nghiêm chỉnh chấp

hành pháp luật sẽ được nước chủ nhà dành nhiều ưu đãi, và sẽ đem lại lợi thế cho

các nhà đầu tư sau. Nếu ngược lại, Nhà đầu tư sẽ gây ấn tượng xấu không chỉ về

chính mình mà còn ảnh hưởng đến uy tín của con người, quốc gia Việt Nam. Theo

tham khảo, khi đầu tư vào các nước như Haiti, Mozambique, Cameroun, Peru,

Burundi, Tanzania… thì người dân nơi đây không biết Việt Nam nằm ở đâu trên

bản đồ thế giới. Chính vì vậy, khi Doanh nghiệp đầu tư là mang hình ảnh, ấn tượng

về con người, dân tộc Việt Nam vào đất nước đó. Pháp luật quy định nghĩa vụ của

các Nhà đầu tư ra nước ngoài là cần thiết.

Ngoài nghĩa vụ trên, Nhà đầu tư còn có nghĩa vụ chuyển lợi nhuận về nước,

thực hiện báo cáo về tình hình đầu tư, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với cơ

quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, quyền lợi luôn đi đôi với nghĩa vụ của các

nhà đầu tư khi đầu tư ra nước ngoài. Đó cũng là cách thức để nhà nước dễ dàng

quản lý hoạt động của các doanh nghiệp. Các nhà đầu tư cần nghiêm chỉnh thực

hiện quy định này. Vì rằng việc giám sát, kiểm tra các hoạt động đầu tư tại nước

ngoài là rất khó khăn khi pháp nhân triển khai dự án hoạt động theo pháp luật nước

tiếp nhận đầu tư và ngoài ra còn có các nhà đầu tư khác nữa, nên việc báo cáo đầu

đủ theo định kỳ một cách chính xác trung thực là nghĩa vụ của Nhà đầu tư khi thực

hiện đầu tư ra nước ngoài.

2.4. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài

Để thực hiện đầu tư ra nước ngoài, Nhà đầu tư cần xin cấp Giấy chứng nhận

đầu tư ra nước ngoài để thực hiện chuyển tiền và thực hiện đầu tư. Luật Đầu tư

2014 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP ra đời đã đơn giản hoá, phù hợp với thực tiễn

hoạt động ĐTRNN của các Nhà đầu tư Việt Nam hiện nay, mở rộng hơn loại hình

ĐTRNN và giảm thiểu các thủ tục hành chính, khắc phục được tính rườm rà và

phức tạp can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại

các quy định cũ.

Quy định về hồ sơ dự án đầu tư, Nghị định 83/2015/NĐ-CP không còn yêu

49

cầu về văn bản chấp thuận đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu

tư cấp, hợp đồng, bản thoả thuận với bên nước ngoài về dự án đầu tư và báo cáo

tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một năm gần nhất. Đây cũng được coi là

một bước tiến nhằm tháo dỡ rào cản mà pháp luật đã từng đặt ra đối với hoạt động

ĐTRNN trước đây. Về nguồn vốn, Nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về nguồn vốn,

chỉ cần cam kết tự thu xếp ngoại tệ và tự thu xếp về nguồn vốn, cơ quan thẩm tra

không đánh giá và thẩm tra về nguồn vốn của Nhà đầu tư. Điều đó cho thấy Nhà

nước đã nhìn hoạt động ĐTRNN một cách cởi mở. Đồng thời đã tạo cơ hội cho các

doanh nghiệp có thể chủ động và độc lập chịu trách nhiệm đối với quyết định và

hành vi của mình, không trực tiếp can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh trong

nội bộ của các nhà đầu tư về thủ tục.

2.4.1. Thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài

Điều 54 Luật đầu tư 2014 quy định về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu

tư ra nước ngoài, theo đó:

Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với các dự án đầu

tư sau đây:

- Dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 20.000 tỷ đồng trở lên;

- Dự án yêu cầu áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội

quyết định.

Trừ các trường hợp cần Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư nêu trên, Thủ

tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với các dự án đầu

tư sau đây:

- Dự án thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát

thanh, truyền hình, viễn thông có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 400 tỷ đồng trở lên;

- Dự án đầu tư không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này có

vốn đầu tư ra nước ngoài từ 800 tỷ đồng trở lên.

Sau khi được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương

đầu tư cho các dự án như trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành các thủ tục cấp

Giấy chứng nhận đầu tư.

50

Đối với các dự án không thuộc diện có quyết định chủ trương đầu tư của

Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ, thì Bộ KHĐT là cơ quan cấp phép, trong

trường hợp dự án có vốn đăng ký chuyển ra nước ngoài bằng ngoại tệ tương đương

20 tỷ đồng trở lên thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến bằng văn bản của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định tại Khoản 3 Điều 58 của Luật Đầu tư (Điều

15 khoản 4 Nghị định 83/2015).

Từ các văn bản trên, Pháp luật đã có những quy định rất cụ thể về việc phân

định thẩm quyền chấp thuận đối với các dự án đầu tư, phân cấp rõ thẩm quyền và

thủ tục xin chấp thuận chủ trương đầu tư.

Mặc dù đã có rất nhiều quy định khuyến khích hoạt động ĐTRNN, đơn giản

hóa về thủ tục, tuy nhiên, các Nhà đầu tư vẫn kêu ca phàn nàn bất cập về pháp luật

quy định thời gian cấp phép ĐTRNN vẫn còn quá lâu, nhiều thủ tục giả trình, nhiều

cấp phê duyệt, điều này thể hiện rằng chính sách chưa thống nhất. Nếu khuyến

khích ĐTRNN, nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm thì cần xem xét đơn giản tối đa thủ

tục, tập trung vào quản lý giám sát thay vì thẩm tra chặt chẽ cấp phép, sau đó hoạt

động hay không, không quản lý được.

Ngoài ra trong quá trình đầu tư Nhà đầu tư phát sinh nhiều vấn đề chưa được

quy định ví dụ như việc Nhà đầu tư cho công ty ở nước ngoài vay vốn để hoạt động

đầu tư nhằm thu hồi vốn nhanh hơn là góp vào vốn Điều lệ, nhưng khi xin điều

chỉnh giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài thì Bộ KHĐT từ chối do việc quản lý

ngoại hối thuộc về Ngân hàng Nhà nước, nhưng Ngân hàng Nhà nước thì lại không

tiếp nhận do việc điều chỉnh giấy phép là Bộ KĐT là đơn vị được phân công làm

đầu mối. Điều đó làm mất rất nhiều thời gian của Nhà đầu tư để có thể thực hiện

được việc chuyển tiền cho vay ra nước ngoài.

2.4.2. Cấp và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.

Tính đến hết 2018, Việt Nam có lũy kế 1.469 dự án đầu tư ra nước ngoài đã

được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài (GCNĐK ĐTRNN) và với

tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài là 22,1 tỷ USD. Trong đó, có 1.172 GCNĐK

ĐTRNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký ĐTRNN là 20,2 tỷ USD.

51

- 2015 đến nay (hết 2018) (544 dự án, 2,5 tỷ USD): Trong giai đoạn này,

Luật Đầu tư 2015 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP ra đời thay thế các quy định cũ về

ĐTRNN. Về cơ bản cách thức quản lý ĐTRNN không thay đổi nhưng chuyển từ

nguyên tắc thẩm tra cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN sang nguyên tắc ghi nhận cấp

GCNĐK ĐTRNN, đơn giản hơn về thủ tục cấp GCNĐK ĐTRNN. Ở giai đoạn này

số lượng hoạt động đầu tư tăng gấp rưỡi trung bình năm của giai đoạn trước nhưng

vốn đăng ký đã giảm mạnh. Nguyên nhân: số lượng hoạt động ĐTRNN của doanh

nghiệp nhà nước/có vốn nhà nước trong các lĩnh vực có quy mô vốn lớn giảm. Các

doanh nghiệp phi nhà nước và của các cá nhân tham gia đầu tư, điều đó cho thấy xu

hướng ĐTRNN vẫn là xu hướng tất yếu cùng với sự phát triển và tính chất mở cửa

của nền kinh tế.

* Riêng năm 2018

Trong 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư

ra nước ngoài cho 155 dự án đầu tư sang 39 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn

đăng ký ĐTRNN là 421,5 triệu đô la Mỹ (tăng 19% số dự án và 57% vốn đăng ký

so với năm 2017); cấp điều chỉnh GCNĐK ĐTRNN để thay đổi vốn cho 35 dự án

với tổng số vốn điều chỉnh tăng thêm 56 triệu đô la Mỹ. Tính tổng số vốn cấp mới

và tăng thêm trong năm 2018 là 477,6 triệu đô la Mỹ (tăng 36% so với năm 2017).

52

Về địa bàn đầu tư: Xét theo quy mô vốn, hoạt động ĐTRNN tập trung vào

các địa bàn: Lào (106,9 triệu USD), Úc (56,33 triệu USD), Mỹ (52,9 triệu USD),

Campuchia (36,7 triệu USD) và Slovakia (35,9 triệu USD) (xem Phụ lục 3).

Về lĩnh vực đầu tư: Xét theo quy mô vốn, hoạt động ĐTRNN tập trung vào:

Hoạt động tài chính (105,7 triệu USD), thương mại (82,9 triệu USD), công nghiệp

sản xuất chế biến (80,4 triệu USD), nông nghiệp (52,3 triệu USD) (xem Phụ lục 4).

Một số hoạt động ĐTRNN mới trong năm 2018 có vốn đăng ký lớn trên 10

triệu USD:

- Dự án ngân hàng con tại Lào của Vietcombank, 80 triệu đô la Mỹ;

- Dự án trang trại chăn nuôi bò sữa, trồng nho, khu nghỉ dưỡng và khu căn hộ

cao cấp tại Slovakia của CTCP Sữa Đà Lạt tại Slovakia, 35,9 triệu đô la Mỹ;

- Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến tại Lào của Vinamilk, 25,4 triệu đô la Mỹ;

- Dự án sản xuất vali tại Myanmar của CTCP Đầu tư Thái Bình, 20 triệu đô la Mỹ;

- Dự án sản xuất sứ trắng và vật liệu tại Cuba của Viglacera, 19,9 triệu đô la Mỹ;

- Dự án dịch vụ quản lý khách sạn tại Hồng Kông của Công ty TNHH BB

Hospitality, 15 triệu đô la Mỹ;

- Dự án điều hành câu lạc bộ bóng đá tại Bosnia và Herzegovina của Công ty

TNHH Địa ốc Long Cường, 14 triệu đô la Mỹ;

- Dự án kinh doanh cho thuê mặt bằng tại Úc của Công ty TNHH Xây dựng

– Kinh doanh nhà Gia Hòa, 12 triệu đô la Mỹ;

- Dự án kinh doanh thương mại (phụ tùng ô tô) tại Đức của CTCP Tập đoàn

Thành Công, 11,53 triệu đô la Mỹ;

- Dự án nghiên cứu công nghệ tại Hàn Quốc của CTCP Phát triển Công nghệ

Vintech, 11 triệu đô la Mỹ;

- Dự án tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến vàng và các khoáng sản đi

kèm tại Lào của các cá nhân Ông Phạm Ngọc Khanh; Ông Phạm Văn Khánh; Ông

Phạm Ngọc Khang; Ông Trần Đại Duyện; Bà Lê Thị Hằng Nga; Ông Trần Văn

Thọ, 10,79 đô la Mỹ.

- Dự án tư vấn, kinh doanh vật liệu xây dựng ở Mỹ của Công ty TNHH

Thương mại Vision, 10 triệu đô la Mỹ.1. [4].

53

2.4.3. Chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài để triển khai đầu tư

- Hoạt động ĐTRNN của Việt Nam dù mới phát triển rõ nét hơn 10 năm (kể

từ năm 2006) nhưng đến nay đã thu được những kết quả nhất định, đem lại lợi ích

cho bản thân doanh nghiệp cũng như đóng góp một phần cho nền kinh tế trong

nước. Đối với nền kinh tế: nhiều dự án ĐTRNN đã đi vào triển khai hoạt động có

doanh thu, lợi nhuận chuyển về nước, thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước,

điều này góp phần tăng thu ngoại tệ và tăng thu ngân sách cho nhà nước. Cụ thể,

theo số liệu báo cáo của nhà đầu tư, lợi nhuận và tiền chuyển về nước lũy kế hết

2018 là 1,23 tỷ USD. Con số vốn chuyển ra nước ngoài và lợi nhuận thu được của

các dự án ĐTRNN có thể sẽ lớn hơn trên thực tế vì nhiều nhà đầu tư chưa thực

hiện báo cáo.

- Về mặt đóng góp cho ngân sách nhà nước, mặc dù nhiều quốc gia có xuất

hiện hoạt động đầu tư của Việt Nam đã ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần

với Việt Nam nên nhà đầu tư không phải nộp thuế hoặc nộp ít thuế cho nhà nước

Việt Nam đối với phần lợi nhuận chuyển về, nhưng theo báo cáo năm 2018 của

các nhà đầu tư, số tiền thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước lũy kế đến hết

2018 đạt 39 triệu USD.

- Hoạt động ĐTRNN cũng gắn với nhiệm vụ chính trị, hỗ trợ công tác an

ninh, quốc phòng như các dự án thăm dò dầu khí lô XV tại Campuchia của

PVN/PVEP, dự án bô xít tại Mondulkiri, Campuchia của TKV, dự án Hãng hàng

không Angkor Air của TCT Hàng không Việt Nam; một số dự án đầu tư xây dựng

phát triển cụm làng bản tại Lào của các doanh nghiệp thuộc khối quốc phòng…

- Hoạt động ĐTRNN cũng tạo ra một khối lượng việc làm nhất định tại nước

ngoài cho lao động Việt Nam, đặc biệt là các dự án trồng cây công nghiệp, dịch vụ

xây dựng, thủy điện, khai khoáng. Theo báo cáo năm 2018, tổng số lao động Việt

Nam đưa ra nước ngoài là 8.574 người. Lao động Việt Nam đưa ra nước ngoài

trong các ngành, lĩnh vực khác chủ yếu là quản lý, kỹ thuật. Mặc dù lượng lao động

Việt Nam đưa ra nước ngoài chưa đáng kể nhưng số liệu này thể hiện rằng, hoạt

động ĐTRNN có thể phần nào giúp giải quyết vấn đề lao động trong nước. Ngoài

54

ra, số lao động ra làm việc ở nước ngoài này có thể được hưởng chế độ tốt hơn

trong nước, thu nhập cao hơn, đồng thời có cơ hội học hỏi và nâng cao tay nghề,

chuyên môn, trình độ, tích lũy kinh nghiệm làm việc trong môi trường nước ngoài.

- Hoạt động ĐTRNN đã và đang giúp cho Việt Nam mở rộng và đa dạng hóa

thị trường tiêu thụ sản phẩm tại nước ngoài và tránh những hàng rào bảo hộ thương

mại của nước nhận đầu tư và các nước thứ ba. Một trong những lợi ích cơ bản và

lớn nhất của ĐTRNN nói chung chính là mở rộng thị trường sản phẩm, dịch vụ

trong nước ra nước ngoài. Đối với ĐTRNN của Việt Nam, lĩnh vực thương mại

xuất nhập khẩu có số lượng dự án lớn nhất (327 dự án còn hiệu lực, chiếm gần 30%

tổng số dự án đăng ký ĐTRNN lũy kế đến hết 2018). Nhiều doanh nghiệp Việt Nam

đã thực hiện hoạt động xuất khẩu thường xuyên muốn tiến tới thành lập công ty tại

thị trường nhập khẩu sản phẩm của mình để trực tiếp phân phối, bán và tiếp thị sản

phẩm của mình tại thị trường nước ngoài thay vì qua trung gian để giảm giá bán,

tăng tính cạnh tranh của sản phẩm hoặc để tiếp cận số lượng khách hàng lớn hơn

Nhìn chung, hoạt động ĐTRNN bước đầu giúp doanh nghiệp Việt Nam phát

triển năng lực quản lý, tích lũy kinh nghiệm kinh doanh trong môi trường quốc tế,

tăng tính cạnh tranh và khả năng hội nhập

2.4.4. Chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài

Về vốn chuyển ra nước ngoài:

Theo báo cáo của các nhà đầu tư, tổng vốn chuyển ra nước ngoài trong năm

2018 để thực hiện các hoạt động đầu tư là 515,2 triệu đô la Mỹ, tăng khoảng 44% so

với năm 2017.

Tổng vốn đã chuyển ra nước ngoài lũy kế hết 2018 của các hoạt động

ĐTRNN đạt 8,1 tỷ USD. Vốn đã chuyển ra nước ngoài lớn nhất là lĩnh vực khai

khoáng (3,17 tỷ USD), tiếp theo là các lĩnh vực thông tin truyền thông (1,35 tỷ

USD), nông nghiệp (1,3 tỷ USD), sản xuất điện (668 triệu USD), ngân hàng –

tài chính (565 triệu USD), kinh doanh bất động sản (379 triệu USD), hoạt động

chuyên môn, khoa học công nghệ (196 triệu USD), sản xuất công nghiệp (178

triệu USD), thương mại (140 triệu USD), vận tải (116 triệu USD), dịch vụ lưu

55

trú ăn uống (42 triệu USD), dịch vụ xây dựng (4 triệu USD), các hoạt động

khác (1,5 triệu USD) [6].

- Các doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư ở nước ngoài chưa có được sự

quan tâm, hỗ trợ đúng mức từ phía các cơ quan nhà nước. Mối liên hệ giữa cơ quan

đại diện ngoại giao và thương vụ ta ở nước ngoài với các doanh nghiệp ĐTRNN

còn lỏng lẻo nên chưa hỗ trợ được nhiều cho các doanh nghiệp khi giải quyết những

vấn đề phát sinh khi triển khai dự án tại nước ngoài. Quyết định đầu tư vào một thị

trường nào đó, phần lớn các doanh nghiệp phải tự bươn chải, tìm hiểu thị trường, cơ

hội đầu tư và đối tác, luật pháp, chính sách và các thủ tục đầu tư mà ít có sự hỗ trợ

hướng dẫn và cung cấp thông tin của các cơ quan quản lý, xúc tiến thương mại và

đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài. Do đó, đã có không ít doanh nghiệp đã gặp khó

khăn trong việc triển khai dự án do quy định hoặc do thủ tục của phía bạn nên mất

rất nhiều thời gian và chi phí.

Trường hợp của Công ty Sacom là một ví dụ Sacom có dự án liên doanh với

một đối tác ở Campuchia để phát triển hạ tầng mạng thông tin và khai thác viễn

thông của đất nước này. Sacom đã đăng ký đầu tư và làm đầy đủ các thủ tục đầu tư

theo đúng quy định từ phía chính quyền Campuchia. Hai bên đang triển khai dự án

đầu tư, thì không hiểu lí do gì, cảnh sát phía Campuchia nghi ngờ về việc kinh

doanh của liên doanh không hợp pháp và đã đến trụ sở công ty tháo dỡ cũng như

tịch thu một số thiết bị mà liên doanh đã lắp đặt, đồng thời yêu cầu một số nhân

viên của liên doanh về trụ sở của họ để khai báo. Sự việc đã được sáng tỏ từ năm

2007 là liên doanh không vi phạm và làm sai điều gì trong kinh doanh, nhưng số

thiết bị bị tịch thu trước đó thì cho đến giờ vẫn chưa được trả lại mà phía chính

quyền Campuchia còn bắt liên doanh phải đóng thuế cho những thiết bị bị tịch thu

này. Tại hội nghị thúc đẩy hoạt động ĐTRNN của Bộ kế hoạch đầu tư ngày

5/9/2008, bà Phạm Thị Lợi, đại diện của Sacom cho biết, do sự việc trên chưa được

giải quyết, chưa được sự giúp đỡ hỗ trợ từ phía các cơ quan quản lý Việt Nam ở

Campuchia, nên Sacom đang chồn chân cho kế hoạch đầu tư mở rộng sang các

nước khác như Philippin, Malaysia…. (Nguồn: Gian nan đầu tư nước ngoài – Thời

báo kinh tế Sài Gòn online 6/9/2008)

56

- Doanh nghiệp khi thực hiện ĐTRNN cũng gặp phải những khó khăn trong

việc vay tiền để thực hiện hoạt động đầu tư. Hiện nay, việc vay ngoại tệ của ngân

hàng thương mại để ĐTRNN vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là các ngân

hàng thương mại chưa có cơ chế để quản lý nguồn tiền vay khi họ không có văn

phòng đại diện ở quốc gia mà doanh nghiệp đầu tư. Ngoài ra cơ chế quản lý ngoại

hối của Ngân hàng Nhà nước hiện nay chưa quy định về quản lý đồng tiền ĐTRNN.

Sự thiếu hụt vốn đã khiến cho một số dự án chỉ tồn tại được một thời gian ngắn, và

khó khăn trong việc triển khai thực hiện dự án.

Bên cạnh đó doanh nghiệp vẫn còn gặp phải rất nhiều khó khăn do việc

chuyển tiền ra nước ngoài để thực hiện đầu tư.

Theo như Thông tư số 01/2001/TT- NHNN ngày 19/1/2001 của Ngân hàng

Nhà nước hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với ĐTTTRNN của doanh nghiệp

Việt Nam. Theo đó, doanh nghiệp phải mở một tài khoản tại ngân hàng, mọi giao

dịch chuyển tiền ra nước ngoài, và vào Việt Nam liên quan đến hoạt động của

doanh nghiệp phải được thực hiện thông qua tài khoản này. Ngoài ra doanh nghiệp

còn phải làm thủ tục đăng ký với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tại địa phương

mình có trụ sở chính về việc mở tài khoản ngoại tệ và tiến độ chuyển vốn ĐTRNN.

Như vậy, cùng một việc chuyển vốn ĐTRNN doanh nghiệp phải hai lần đăng ký mở

tài khoản, với chi nhánh ngân hàng Nhà nước và với ngân hàng thương mại khác

hoạt động tại Việt Nam. Doanh nghiệp chỉ được phép sử dụng nguồn ngoại tệ trên

tài khoản tiền gửi ngoại tệ của mình mở tại ngân hàng được phép để chuyển ra nước

ngoài góp vốn đầu tư trên cơ sở quy định tại giấy phép đầu tư do cơ quan có thẩm

quyền cấp. Ngoài ra, để mở được tài khoản tại ngân hàng phục vụ việc chuyển tiền

ra nước ngoài doanh nghiệp phải chứng minh được dự án đầu tư, giấy phép đầu tư

do nước ngoài cấp... Như vậy giai đoạn làm khảo sát, thăm dò, thiết kế dự án của

doanh nghiệp tại nước ngoài sẽ không được chuyển tiền ra nước ngoài. Đây sẽ là

khó khăn cho doanh nghiệp khi hoạt động chuẩn bị cho dự án đầu tư, trong khi đây

là giai đoạn cần thiết để có được giấy phép chấp thuận đầu tư của nước doanh

nghiệp muốn đầu tư.

57

Một số trường hợp thậm chí khi dự án nhận được giấy phép thì việc chuyển

vốn ĐTRNN lại bị tắc nghẽn khiến việc triển khai nhiều dự án chậm so với kế hoạch

và cũng làm nản lòng các nhà đầu tư. Như trường hợp của công ty cổ phần Xuất nhập

khẩu Việt Trang (Viettranimex) ông Nguyễn Văn Thanh, chủ tịch Hội đồng quản trị

của công ty nói mặc dù dự án xây dựng tòa nhà thương mại quốc gia Việt Nam tại

khu thương mại quốc tế Trung Quốc – ASEAN ở Trung Quốc của công ty ông đã

được cắt băng khánh thành, nhưng phía Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa cho công ty

được phép chuyển tiền. Theo một số doanh nghiệp, thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài

do Ngân hàng Nhà nước quy định quá phức tạp dẫn đến nhiều khó khăn cho họ trong

việc chậm triển khai dự án, thậm chí phải bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.

Trường hợp của Công ty cổ phần Cao su Việt Lào (CSVL) cũng là một trong

những ví dụ điển hình. Theo giấy phép đầu tư, CSVL (cổ đông là các công ty cao su

thuộc Tổng công ty Cao su VN) được đầu tư 22 triệu USD ở Lào để trồng 10.000 ha

cao su tại tỉnh Champasak. Các cổ đông của công ty đã chuyển vài chục tỷ đồng đến

Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh TP HCM, nhưng ngân hàng này chưa thể

chuyển sang Lào vì còn chờ giấy phép chuyển ngoại tệ từ Ngân hàng Nhà nước.

CSVL đành phải chờ đợi trong tâm trạng sợ lỡ thời vụ sản xuất và tốn kém. Trồng

cao su phải theo mùa vụ, tranh thủ mưa xuống là phải xuống giống. Giống được đưa

qua, mưa đã có, nhưng tiền vẫn ở VN. Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh TP

HCM phải gỡ khó cho các nhà đầu tư bằng cách bảo lãnh cho CSVL vay tiền chi

nhánh bên Lào, để có tiền trang trải chi phí và trả lương cho công nhân. Chỉ sau khi

có được ủy quyền từ Ngân hàng Nhà nước cho Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP

HCM, Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh TP HCM mới được chuyển tiền

của CSVL sang Lào.

Khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc chuyển tiền là vậy nhưng việc

chuyển lợi nhuận về nước cũng gặp nhiều khó khăn. Theo quy định, lợi nhuận của

các dự án đầu tư phải chuyển về nước chậm nhất là 6 tháng khi năm tài chính kết

thúc, nhưng lại chưa có quy định rõ ràng lợi nhuận bao gồm cụ thể những gì. Chủ

đầu tư VN muốn chuyển lợi nhuận thành vốn đầu tư tiếp để khỏi phải chuyển tiền

đầu tư ra cũng không phải là chuyện đơn giản.

58

2.4.5. Chuyển lợi nhuận về nước

Liên quan đến việc chuyển tiền ra nước ngoài có nhiều khó khăn, nhưng việc

chuyển lợi nhuận về nước cũng gặp nhiều khó khăn. Theo quy định tại Điều 65 Luật

đầu tư: “Trừ trường hợp sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài, trong thời hạn

06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý

tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải

chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầ u tư ở nước

ngoài về Việt Nam”, việc quy định này với thực tế là khó thực hiện khi mà thời

điểm có quyết toán thuế với thời điểm có báo cáo tài chính và thời điểm họp chủ

đầu tư để phân phối lợi nhuận là khác nhau, việc ấn định một thời hạn cụ thể sẽ gây

khó khăn cho nhà đầu tư.

Một số thị trường đầu tư do chính sách kinh tế vĩ mô không ổn định, đồng

nội tệ mất giá cao có khi lên đến 70% (ví dụ như Mozambique năm 2013 – 2015,

Burundi 2015 – 2017; Peru 2014 – 3016) nếu hạch toán theo đồng tiền sở tại thì

doanh nghiệp tại nước đầu tư có lãi, nhưng khi chuyển sang đồng đô la Mỹ để mang

về nước thì lại không có lãi. Ngoài ra có thị trường không thể mua được đồng đô la

Mỹ để mang về nước, chênh lệch về giá mua giữa tỷ giá công bố và giá trị thực quá

cao, doanh nghiệp lúng túng trong trường hợp này, chưa biết cách xử lý, ví dụ như

thị trường Lào năm 2019, Burundi năm 2017-2019.

Trên thực tế có nhiều dự án đầu tư ra nước ngoài, nhưng do không nắm chắc

được các thủ tục, các nhà đầu tư đã mang tiền trực tiếp ra nước ngoài để đầu tư mà

không thông qua một tài khoản ngoại tệ, khi có lợi nhuận chuyển về nước thì lúng

túng không biết mang tiền về bằng cách nào, lúc đó mới đăng ký tài khoản ngoại tệ,

mặc dù dự án có hiệu quả, nhưng về thủ tục đầu tư là đang vi phạm.

2.4.6. Sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài

Để thực hiện dự án ĐTRNN doanh nghiệp phải mở một tài khoản tiền gửi

ngoại tệ tại ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối. Mọi giao dịch chuyển tiền ra

nước ngoài và vào Việt Nam liên quan đến hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp

phải thực hiện thông qua tài khoản này; đồng thời trường hợp doanh nghiệp sử dụng

lợi nhuận để mở rộng đầu tư hoặc kéo dài thời hạn đầu tư ở nước ngoài thì:

59

- Nhà đầu tư sử dụng lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài để

tăng vốn, mở rộng hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải thực hiện thủ tục điều chỉnh

Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài và báo cáo Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam.

- Trường hợp dùng lợi nhuận thu được từ dự án đầu tư ở nước ngoài để thực

hiện dự án đầu tư khác ở nước ngoài thì nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục cấp Giấy

chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài cho dự án đầu tư đó và phải đăng ký tài

khoản vốn, tiến độ chuyển vốn đầu tư bằng tiền với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Sau khi có văn bản chấp thuận của BKHĐT doanh nghiệp phải đăng ký với

chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.

Hàng năm trong thời hạn 6 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính của nước tiếp

nhận đầu tư, doanh nghiệp phải gửi cho chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành

phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính (trong đó có bảng tổng kết tài sản và kết quả

kinh doanh lãi- lỗ của doanh nghiệp) có chứng nhận của cơ quan kiểm toán hoặc cơ

quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư. (Điều 66 Luật đầu tư 2014)

2.4.7. Chấm dứt hoạt động đầu tư tại nước ngoài.

Thiếu công cụ quản lý hoạt động đầu tư tại nước ngoài: GCNĐK ĐTRNN do

BKHĐT cấp và thủ tục đăng ký chuyển ngoại tệ ra nước ngoài với NHNNVN chỉ là

công cụ để kiểm soát lượng ngoại tệ chuyển ra nước ngoài, không có tác dụng trong

việc quản lý hoạt động đầu tư tại nước ngoài. Sau khi nhà đầu tư đã chuyển ngoại tệ

ra nước ngoài, nhà nước không có biện pháp/công cụ để kiểm soát hoạt động

ĐTRNN, để không cho thực hiện hay buộc chấm dứt dự án tại nước ngoài trong

trường hợp nhà đầu tư có các vi phạm quy định về ĐTRNN. Lý do là vì hoạt động

ĐTRNN diễn ra tại nước ngoài, các tổ chức kinh tế thành lập tại nước ngoài trong

dự án là pháp nhân nước ngoài, hoạt động theo pháp luật nước ngoài, không thể bị

cưỡng bức giải thể, tạm ngừng hoạt động theo quyết định của nhà nước Việt Nam.

Ngay cả biện pháp chấm dứt hiệu lực GCNĐK ĐTRNN đối với các dự án không

thực hiện chế độ báo cáo theo quy định có thể không buộc được nhà đầu tư chấm

dứt hoạt động của công ty đã được thành lập tại nước ngoài trong dự án đó.

60

2.5. Các thỏa thuận đầu tư quốc tế và khu vực có tác động tới ĐTRNN

Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước ĐTRNN và thu hút FDI, trên trường

quốc tế, Chính phủ Việt Nam cũng đã tham gia vào Hiệp định khung về Khu vực

đầu tư ASEAN (AIA).

Với những mục tiêu của AIA là xây dựng một môi trường đầu tư thông

thoáng và rõ ràng hơn giữa các quốc gia thành viên, nhằm đẩy mạnh đầu tư vào

ASEAN từ các nguồn cả trong và ngoài ASEAN; cùng thúc đẩy ASEAN thành khu

vực đầu tư hấp dẫn nhất; giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và điều kiện đầu tư

có thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN;

và đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần hướng tới việc tất

cả các ngành nghề được mở cửa cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho

tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020, ngoại trừ các ngoại lệ được quy định trong

Hiệp định này.

Bản thân Việt Nam cũng đã tích cực ký kết các hiệp định khuyến khích và

bảo hộ đầu tư với các nước trên thế giới. Kể từ khi bắt đầu triển khai ký kết (1990),

đến nay, Việt Nam đã ký kết 67 Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư với các

quốc gia và vùng lãnh thổ (Phụ lục số 1).

Trong quá trình mở cửa nền kinh tế, và hội nhập sâu và rộng hơn vào nền

kinh tế, tính đến ngày 10/8/2016, Việt Nam đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần

và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thu nhập với 75 nước/vùng lãnh thổ trên thế

giới (Phụ lục số 2).

Mục đích ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần nhằm loại bỏ việc

đánh thuế trùng bằng cách: (a) miễn, giảm số thuế phải nộp tại Việt Nam cho các

đối tượng cư trú của nước ký kết hiệp định; hoặc (b) khấu trừ số thuế mà đối tượng

cư trú Việt Nam đã nộp tại nước ký kết hiệp định vào số thuế phải nộp tại Việt

Nam. Ngoài ra, Hiệp định còn tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hợp tác và hỗ trợ lẫn

nhau giữa cơ quan thuế Việt Nam với cơ quan thuế các nước/vùng lãnh thổ trong

công tác quản lý thuế quốc tế nhằm ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại

thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản.

61

Hiệp định chỉ áp dụng đối với các đối tượng là đối tượng cư trú của Việt

Nam hoặc là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam hoặc đồng

thời là đối tượng cư trú của Việt Nam và Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Các loại thuế áp dụng trong các Hiệp định thuế là các loại thuế đánh vào thu

nhập và tài sản được quy định cụ thể tại từng Hiệp định. Trong trường hợp của Việt

Nam, các loại thuế thuộc phạm vi áp dụng Hiệp định là: (i). Thuế thu nhập doanh

nghiệp; và (ii). Thuế thu nhập cá nhân.

Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với

luật thuế trong nước. Trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó Việt Nam

có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó hoặc thu thuế với một mức thuế

suất nhất định nhưng pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam chưa có quy định thu

thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thuế suất thấp hơn thì áp dụng

theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam, nghĩa là không thu thuế

hoặc thu thuế với mức thuế suất thấp hơn.

Khi Việt Nam thực hiện các quy định tại Hiệp định, nếu có các thuật ngữ

chưa được định nghĩa tại Hiệp định, thì các thuật ngữ chưa được định nghĩa sẽ có

nghĩa như quy định tại pháp luật của Việt Nam cho các mục đích thuế tại thời điểm

đó. Đối với một thuật ngữ chưa được định nghĩa tại Hiệp định và chưa được định

nghĩa hoặc đồng thời được định nghĩa tại pháp luật của Việt Nam và của Nước ký

kết Hiệp định với Việt Nam thì Nhà chức trách có thẩm quyền của hai nước sẽ thực

hiện giải quyết vấn đề qua thủ tục thỏa thuận song phương.

Tuy nhiên có một số nước, Việt Nam có đầu tư sang ở mức lớn, nhưng hiện

cả hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần

vẫn chưa ký kết được, các Bộ cũng chưa có khuyến nghị, tư vấn đối với các doanh

nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài, vào một nước Việt Nam chưa ký hiệp định, để

trước khi đầu tư phía Việt Nam có lợi thế về đàm phán để ký kết các Hiệp định, mà

sau đó khi nhận thấy có doanh nghiệp của Việt Nam đầu tư vào quốc gia đó, mới

mời các nước đã có doanh nghiệp đầu tư thực hiện đàm phán ký hiệp định, lúc đó

phía bạn không còn nhiều thiện ý để ký kết nữa, ví dụ như nước Cộng hòa Thống

62

nhất Tanzania, Cộng hòa Cameroun … nhiều lần đàm phán, thống nhất nhưng chưa

ký kết được.

Trở thành thành viên chính thức viên của WTO, Việt Nam được mở cửa thị

trường xuất khẩu và đầu tư vào các thành viên khác. Việc thực hiện các cam kết tạo

ra nhiều cơ hội to lớn và nâng cao địa vị pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam

đầu tư ra nước ngoài.

Việt Nam đã tham gia đàm phán, ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự

do (FTA) với EU, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á-Âu và nhất là Hiệp định Đối tác

xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đang mở ra cơ hội rất lớn cho doanh nghiệp Việt

mở rộng thị trường ở nước ngoài.

2.6. Những quy định pháp luật bổ sung đối với doanh nghiệp có sử dụng

nguồn vốn Nhà nước khi đầu tư ra nước ngoài

2.6.1. Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài

Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước ngoài việc tuân thủ quy định

về đầu tư ra nước ngoài, việc quyết định đầu tư ra nước ngoài của của Doanh

nghiệp Nhà nước phải tuân thủ theo quy định của Luật 69/2014 ngày 26/11/2014,

trong đó quy định về thẩm quyền quyết định đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư là

doanh nghiệp nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng

vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Điều 57 khoản 1

Luật đầu tư). Ngoài ra cần tuân thủ về mục tiêu đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà

nước tại doanh nghiệp đó là: định hướng, điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới,

nâng cao hiệu quả đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp, nâng

cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp phải thông qua người đại diện

chủ sở hữu trực tiếp hoặc người đại diện phần vốn nhà nước; bảo đảm doanh nghiệp

sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, bình, đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo

pháp luật (Điều 5 Luật số 69/2014), theo đó cấp có thẩm quyền quyết định chủ

trương đầu tư phải là cơ quan được giao quản lý và quyết định việc đầu tư và Người

đại diện phần vốn chỉ được thực hiện khi được cơ quan quản lý thống nhất nội

dung. Thẩm quyền vẫn phải thuộc về cơ quan quản lý nguồn vốn đó.

63

2.6.2. Các cam kết, đánh giá hiệu quả khi thực hiện đầu tư

Khi xây dựng dự án đầu tư ra nước ngoài, Nhà đầu tư cần có bản tính toán

mức độ khả thi của dự án khi thực hiện. Bộ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đầu tư ra

nước ngoài sẽ bao gồm các bảng tính toán hiệu quả, khả năng thu hồi vốn, thời gian

hoàn vốn và lợi nhuận dự kiến mang lại, trong đó cũng nêu rõ những cam kết về

triển khai dự án như thời gian triển khai, hoạt động và kinh doanh cụ thể vào lúc

nào. Tất cả những cam kết và đánh giá đó được Bộ KH và ĐT lưu vào hồ sơ và một

phần được thể hiện tại Giấy CNĐT để theo định kỳ báo cáo 6 tháng và báo cáo năm

Nhà đầu tư phải thực hiện báo cáo kết quả thực hiện công việc của mình.

Trong trường hợp thực hiện dự án, những vấn đề phát sinh làm cho những

tính toàn của Nhà đầu tư có thay đổi nhiều, trong báo cáo thường kỳ phải thực hiện

báo cáo với Bộ KHĐT để kịp thời nắm bắt để có những hướng dẫn kịp thời tháo gỡ

cho Nhà đầu tư, với một số trường hợp thay đổi lớn, kéo dài thời gian thu hồi vốn,

các kết quả tính toán sai lệch quá nhiều Nhà đầu tư cần phải điều chỉnh lại Giấy

chứng nhận đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế.

2.6.3. Kiểm soát và báo cáo giám sát

Theo quy định tại Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 23/10/2015, tất cả các bộ

và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đều có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra và/hoặc

giám sát hoạt động ĐTRNN theo thẩm quyền và trong lĩnh vực quản lý nhà nước

được phân công.

Theo đó, hàng năm, BKHĐT đều có văn bản nhắc nhở các nhà đầu tư thực

hiện chế độ báo cáo hàng năm về ĐTRNN, trên cơ sở đó để tiến hành rà soát, nắm

bắt tình hình hoạt động của các dự án ĐTRNN. Đây là cơ chế chính để theo dõi tình

hình hoạt động ĐTRNN: thông qua báo cáo của các nhà đầu tư.

BKHĐT cũng đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tổ chức một số đoàn

kiểm tra tình hình chấp hành pháp luật hàng năm về ĐTRNN đối với một số dự án,

nhóm dự án trong các lĩnh vực nhất định: ngân hàng, viễn thông, dầu khí, trồng cao

su... Tại các buổi làm việc này, đại diện các bộ ngành đã có sự trao đổi với nhà đầu

tư về tình hình thực hiện các dự án ĐTRNN, chỉ ra nhưng điểm được và chưa được

64

trong việc tuân thủ các quy định pháp luật về ĐTRNN, lập biên bản họp giữa nhà

đầu tư và đoàn kiểm tra để làm cơ sở tiếp tục theo dõi, giám sát hoạt động ĐTRNN

của các đơn vị này. Ngoài ra, BKHĐT cũng phối hợp với các Bộ ngành và cơ quan

đại diện ngoại giao tại hai thị trường Lào và Campuchia tổ chức một số đoàn kiểm tra

thực địa một số dự án có quy mô lớn tại Lào và Campuchia với mục đích chủ yếu là

ghi nhận các phản ánh về thực trạng hoạt động, khó khăn, vướng mắc mà các doanh

nghiệp gặp phải. Riêng đối với địa bàn Lào, các cuộc kiểm tra thực địa của đoàn bộ

ngành Việt Nam còn có sự tham gia của đoàn bộ ngành Lào cùng phối hợp.

Riêng đối với việc quản lý, giám sát việc sử dụng nguồn vốn nhà nước để

ĐTRNN: Các Bộ ngành, UBND tỉnh, thành phố có trách nhiệm quản lý, giám sát

việc sử dụng nguồn vốn nhà nước để ĐTRNN đối với các doanh nghiệp nhà nước,

phần vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý hoặc do do

đơn vị làm đại diện chủ sở hữu; trong đó, Bộ Tài chính là cơ quan theo dõi, giám sát

và tổng hợp việc sử dụng nguồn vốn đầu tư của nhà nước để ĐTRNN [7].

2.7. Thực thi pháp luật về đầu tư ra nước ngoài

2.7.1. Quá trình xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư

Nhìn chung về quy định pháp luật về việc xin cấp phép đã rõ ràng về hồ sơ

xin cấp phép, quy trình và thời gian cấp phép, bao gồm cả việc xin chấp thuận chủ

trương của Quốc Hội và Thủ tướng Chính phủ. Nhưng thực tế quá trình thẩm định

cấp phép các dự án ĐTRNN của Việt Nam vẫn còn chậm, các thủ tục cấp giấy phép

vẫn còn rườm rà. Mặc dù theo điều 10 Nghị định 83/2015 và Điều 55 khoản 4 Luật

đầu tư 2014, thời gian thẩm định cấp giấy phép ĐTRNN không quá 30 ngày kể từ

ngày nhận được hồ sơ hợp lệ và Thủ tướng Chính phủ có ý kiến trong thời gian 10

ngày kể từ ngày nhận được Báo cáo thẩm tra của Bộ KHĐT. Tuy nhiên trên thực tế

thời gian này kéo dài hàng tháng, thậm chí hàng năm. Không ít doanh nghiệp khi

xin giấy phép đầu tư ra nước ngoài phải mất rất nhiều thời gian dẫn đến việc triển

khai dự án bị chậm so với kế hoạch. Trường hợp của công ty cổ phần Xuất nhập

khẩu Việt Trang (Viettranimex), công ty hiện nay đã trình một số dự án đầu tư sang

Lào, nhưng đã hơn sáu tháng nay vẫn chưa có câu trả lời là có cấp phép hay không

65

từ phía Bộ kế hoạch – Đầu tư. Mặc dù ông Thanh đã nhiều lần làm văn bản đề nghị

Bộ Kế hoạch-Đầu tư trả lời nhưng đến nay vẫn chưa thấy hồi âm. Hay như trường

hợp của dự án nhà máy điện Xêkaman 3 đầu tư sang Lào, sau khi tiến hành xin ý

kiến các bộ ngành lần một năm 2004 thì đến tận cuối năm 2005, dự án mới được

cấp giấy phép.

Bên cạnh đó việc cấp giấy chứng nhận ĐTRNN còn chưa được phân cấp,

còn tập trung ở Bộ kế hoạch đầu tư. Các doanh nghiệp ở địa phương muốn ĐTRNN

đều phải tốn thời gian đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xin phép. Tính ra, doanh

nghiệp muốn hoàn thiện thủ tục để có được giấy phép ĐTRNN phải qua 11 đầu mối

các cơ quan quản lý trong nước. Các thủ tục hành chính trong việc đăng ký cấp

phép của Việt Nam còn quá rườm rà, làm nản lòng các nhà đầu tư thậm chí còn mất

cơ hội kinh doanh của họ. Việc này gây tình trạng mất thời gain, đôi khi tạo ra

những chi phí không cần thiết.

Công tác quản lý của nhà nước về ĐTRNN trong thời gian qua gặp nhiều

khó khăn. Chức năng quản lý của các cơ quan nhà nước như Bộ kế hoạch đầu tư,

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ tài chính, Bộ thương mại… đối với hoạt động

ĐTRNN đã được quy định rõ trong Luật Đầu tư và Nghị định 83/2015/NĐ-CP

nhưng trong thực tiễn chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý các dự án,

vẫn có cách hiểu và quy trách nhiệm toàn bộ cho cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu

tư đối với những vấn đề phát sinh của doanh nghiệp và dự án ĐTRNN. Việc kiểm

tra, đánh giá hoạt động ĐTRNN cũng chưa được tiến hành thường xuyên, chủ yếu

còn dựa trên các bản báo cáo của các doanh nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn nhiều

doanh nghiệp không thực hiện nghiêm chỉnh chế độ báo cáo về dự án ĐTRNN, vì

thế doanh nghiệp vẫn chưa nhận được sự hỗ trợ tối đa của Nhà nước khi gặp những

khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư.

2.7.2. Việc xin phép chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài

Nhà đầu tư được chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động

đầu tư khi đáp ứng các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, nhà đầu tư được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài;

66

Thứ hai, Hoạt động đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp

nhận đầu tư chấp thuận hoặc cấp phép. Trường hợp pháp luật của nước tiếp nhận

đầu tư không quy định về việc cấp phép đầu tư hoặc chấp thuận đầu tư, nhà đầu tư

phải có tài liệu chứng minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư;

Thứ ba, các nhà đầu tư phải có tài khoản vốn theo quy định tại Điều 63 của

Luật đầu tư;

Thứ tư, nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm đối với việc chuyển vốn đầu tư ra

nước ngoài, đảm bảo đúng mục đích, đúng thời hạn và tuân thủ các quy định của

hợp đồng dầu khí, hợp đồng mua bán cổ phần…;

Thứ năm, nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài thông qua tài khoản

vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sau khi được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác

nhận đăng ký giao dịch ngoại hối liên quan đến đầu tư ra nước ngoài.

Trình tự thực hiện chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài:

+ Bước 1: Doanh nghiệp được phép đầu tư ra nước ngoài lập hồ sơ đăng ký

tài khoản ngoại tệ và tiến độ chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài gửi Ngân hàng Nhà

nước chi nhánh tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.

+ Bước 2: Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố xem xét thẩm

định hồ sơ;

+ Bước 3: Trong thời gian 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ,

Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính

có trách nhiệm xác nhận việc mở tài khoản và đăng ký tiến độ chuyển vốn đầu tư ra

nước ngoài để nhà đầu tư Việt Nam làm cơ sở chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài

thực hiện dự án đầu tư thông qua tài khoản đã mở ở ngân hàng được phép.

Việc quy định đã rõ ràng, nhưng thực tế thủ tục thực hiện có nhiều khó khăn

về thời gian chuyển, trong khi các doanh nghiệp thực hiện tham gia đấu thầu giấy

phép, một số gói thầu bên nước ngoài có yêu cầu về thời gian nhất định để chuyển

tiền, nếu chậm sẽ được coi là từ bỏ tham gia, điều đó gây khó khăn cho nhà đầu tư

(i). Không thực hiện được cam kết; (ii). Mất khoản tiền đặt cọc tham gia; (iii). Mất

đi cơ hội đầu tư. Ví dụ: Công ty Viettel Overseas khi tham gia đấu thầu giấy phép

67

viễn thông tại Haiti, khi thắng thầu, trong thông báo trúng thầu của cơ quan quản lý

viễn thông Haiti quy định Viettel Overseas có 30 ngày để chuyển tiền thanh toán

giấy phép, quay lại các thủ tục ở Việt Nam, Viettel Overseas thấy khó khăn khi

hoàn thành các thủ tục, thời điểm năm 2010 Viettel Overseas đã phải huy động các

nguồn lực để thực hiện các thủ tục xin cấp phép, chuyển tiền, trong khi không đáng

phải như vậy và không đáng để đưa nhà đầu tư vào tình thế khó khăn [21].

2.7.3. Đầu tư ra nước ngoài bằng tài sản có sử dụng Nguồn vốn Nhà nước

Các doanh nghiệp nhà nước có 114 dự án đầu tư ra nước ngoài, tính đến hết

năm 2018. Tổng số lỗ phát sinh trong năm 2018 của các dự án báo lỗ là 367 triệu

USD, tăng 265% so với năm 2017

Đánh giá tình hình đầu tư vốn ra nước ngoài đến 31/12/2018, báo cáo của

Chính phủ cho biết: Tính đến 31/12/2018 có 19 DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà

nước chi phối (Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) có dự án đầu tư ra nước

ngoài, thực hiện đầu tư tại 114 dự án, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực viễn thông,

thăm dò và khai thác dầu khí, trồng cây cao su, khai thác khoáng sản và lĩnh vực tài

chính ngân hàng.

Tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án là 11,9 tỷ USD. Trong năm 2018, các

doanh nghiệp thực hiện đầu tư vốn ra nước ngoài 194 triệu USD.

Lũy kế đến ngày 31/12/2018, tổng vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện của 19

doanh nghiệp là 5,8 tỷ USD (đạt 48,62%/tổng số vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài).

Số tiền còn phải tiếp tục đầu tư ra nước ngoài so với vốn đăng ký đầu tư ra

nước ngoài của các dự án trên là 6,1 tỷ USD (51,39%/tổng số vốn đăng ký đầu tư ra

nước ngoài).

Trong năm 2018, các dự án đầu tư ra nước ngoài đã thu hồi được 559 triệu

USD, trong đó chiếm tỷ trọng 60% là thu hồi vốn đầu tư (333 triệu USD), 38% là

lợi nhuận chuyển về nước (212 triệu USD), 2% là thu tiền lãi từ việc cho các dự án

tại nước ngoài vay vốn (14 triệu USD).

Lũy kế đến ngày 31/12/2018, có 6/19 doanh nghiệp đã thu hồi vốn đầu tư từ các

dự án tại nước ngoài với số tiền gần 2,6 tỷ USD, bằng 45% vốn đầu tư đã thực hiện.

68

Năm 2018, các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có 84/114 dự án phát sinh

doanh thu, lợi nhuận với tổng doanh thu tại nước ngoài cả năm là 4,1 tỷ USD, giảm

4% so với năm 2017.

Tổng lợi nhuận của các dự án có lãi là 187 triệu USD, giảm 24% so với năm 2017.

Tổng số lỗ phát sinh trong năm của các dự án báo lỗ là 367 triệu USD, tăng

265% so với năm 2017 [7].

Số lỗ hàng trăm triệu USD nói trên có nguyên nhân chủ yếu do đồng nội tệ

mất giá cũng như tình trạng lạm phát tại nước đầu tư (như các nước châu Phi, Trung

Mỹ hoặc Đông Nam Á) và cạnh tranh gay gắt.

Lĩnh vực trồng, chế biến mủ cao su lỗ do giá cao su tự nhiên thế giới sụt

giảm sâu và ảnh hưởng của việc các quốc gia sở tại thay đổi chính sách đầu tư, đất

đai (Lào, Campuchia).

Bên cạnh đó, nguyên nhân chủ quan chung dẫn đến kết quả hoạt động đầu tư

ra nước ngoài còn chưa đạt như kỳ vọng là khả năng dự báo thị trường, năng lực quản

lý, năng lực tài chính và về kinh nghiệm trong đầu tư ra nước ngoài còn hạn chế.

Chính sách về quản lý nguồn vốn của Nhà nước khi đầu tư cần đảm bảo an

toàn, có sự kiểm soát chặt chẽ, người đại diện nguồn vốn cần báo cáo xin ý kiến

trước khi thực hiện, trách nhiệm đối với người đại diện vốn là rất lớn, nên việc cân

nhắc các chính sách, phương án trong kinh doanh thường là chậm, sự chuyển biến

chậm nên hiệu quả kinh doanh không cao, không dám đối mới, không dám đột phá

nên kết quả thường ở mức trung bình.

2.7.4. Chứng minh hiệu quả và tính tự chịu trách nhiệm của Nhà đầu tư

Tính đến ngày 31-12-2018 có 19 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh

nghiệp có vốn nhà nước chi phối (nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) đầu tư tại 114 dự

án đầu tư ra nước ngoài, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực viễn thông, thăm dò và

khai thác dầu khí, trồng cây cao su, khai thác khoáng sản và ngân hàng.

Tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án là 11.964 triệu USD, trong đó dẫn

đầu là PVN với 6,677 tỉ USD (chiếm 56%), tiếp theo là Tập đoàn Viettel đầu tư

2,992 tỉ USD (chiếm 25%), và VRG với 1,429 tỉ USD (chiếm 12%).

Tổng vốn đầu tư lũy kế đến ngày 31-12-2018 của 19 doanh nghiệp này

69

đạt 5,817 tỉ USD, trong đó nhiều nhất là PVN với 3,032 triệu USD (chiếm 49%),

Viettel đứng thứ hai với 1,606 triệu USD (chiếm 26%).

Tuy nhiên, trong năm 2018, các dự án đầu tư ra nước ngoài đã thu hồi được

559 triệu USD, chiếm tỉ trọng 60% là thu hồi vốn đầu tư (333 triệu USD), 38% là

lợi nhuận chuyển về nước (212 triệu USD)….

Lũy kế đến ngày 31-12-2018, 6 trên 19 doanh nghiệp đã thu hồi vốn đầu tư

từ các dự án tại nước ngoài với số tiền 2.594 triệu USD, bằng 45% vốn đầu tư đã

thực hiện.

Theo báo cáo của Chính phủ, năm 2018 các doanh nghiệp đầu tư ra nước

ngoài có 84/114 dự án phát sinh doanh thu, lợi nhuận với tổng doanh thu tại nước

ngoài cả năm là 4,158 tỉ USD, giảm 4% so với năm 2017. Tổng lợi nhuận của các

dự án có lãi là 187 triệu USD giảm 24% so với năm 2017.

Trong khi đó, tổng số lỗ phát sinh trong năm của các dự án báo lỗ là 367

triệu USD, tăng 265% so với năm 2017, trong đó dẫn đầu là các dự án của Viettel

với số lỗ phát sinh là 349 triệu USD, VRG với số lỗ phát sinh là 7,7 triệu USD.

Nhìn chung, lĩnh vực viễn thông, kinh doanh xăng dầu, dịch vụ dầu khí, xây

lắp và dịch vụ lưu trú có trên 60% các dự án phát sinh lãi.

Ngược lại, lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và khai thác khoáng

sản có tỉ lệ dự án lãi thấp, lần lượt là 17% và 11%. Ngoài ra, lĩnh vực viễn thông,

trồng - chế biến mủ cao su và lĩnh vực khai thác khoáng sản là 3 lĩnh vực còn nhiều

dự án đang bị lỗ lũy kế với số lượng lần lượt là 11; 22 và 6 dự án.

Viễn thông lỗ nhiều nhất được cho là do đồng nội tệ mất giá cũng như tình

trạng lạm phát tại nước đầu tư (như các nước châu Phi, Trung Mỹ hoặc Đông

Nam Á)...

Trong khi đó, cao su cũng được dự báo giá thế giới tiếp tục giảm sâu, cũng

như sự thay đổi chính sách tại các quốc gia như Lào và Campuchia, khiến cho nhà

đầu tư phải chịu lỗ nặng [7].

Căn cứ vào báo cáo tình hình hoạt động của các nhà đầu tư là DNNN có thể

thấy vẫn có những lĩnh vực ở một số quốc gia đầu tư có hiệu quả, nhưng cơ bản là

70

hiệu quả không cao hoặc bị tác động bởi môi trường đầu tư, nhiều yếu tố chủ quan

và khách quan tác động tới quá trình đầu tư và kinh doanh. Đối với nguồn vốn của

Nhà nước đầu tư ra nước ngoài, Điều 42 Luật 69/2014 quy định trách nhiệm của cơ

quan đại diện chủ sở hữu “Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc quản lý, sử dụng, bảo

toàn và phát triển vốn, thực hiện chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển, việc tuyển

dụng lao động, thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp; có ý kiến

về việc giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền đối

với hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp”; và “Đánh

giá kết quả hoạt động, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;

đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ trong quản lý, điều hành của người quản lý

doanh nghiệp, Kiểm soát viên”.

2.7.5. Tính phù hợp của thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài

Hiện nay, xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu đang lan tỏa mạnh mẽ đến tất cả

các nước trên thế giới mà trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh hội nhập

hiệu quả nhất, nhanh nhất để các nền kinh tế trên thế giới giao thương lẫn nhau.

Hoạt động này đã xuất hiện ở các nước phát triển từ rất lâu nhưng đối với các nước

đang phát triển và kém phát triển thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mới xuất hiện

trong vài thập kỷ trở lại đây. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ, hoạt động

đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng chỉ thực sự phát triển trong những năm gần đây và

đang có xu hướng gia tăng trong thời gian tới.

Đầu tư ra nước ngoài đang được xem là xu hướng mới của doanh nghiệp

Việt Nam hiện nay. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài tính đến hết quý I năm

2013, Việt Nam có 742 dự án đầu tư ra nước ngoài của của doanh nghiệp

Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 15,5 tỷ USD. Các dự án ĐTRNN của

doanh nghiệp Việt Nam tập trung phần lớn trong lĩnh vực khai khoáng với 99 dự án,

tổng vốn đầu tư 4,6 tỷ USD, (chiếm 13,3% về số dự án và 46% tổng vốn đầu tư);

tiếp theo là lĩnh vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản với 80 dự án, tổng vốn đầu tư 1,9

tỷ USD (chiếm 10,8% số dự án và 12,6% tổng vốn đầu tư); lĩnh vực sản xuất điện

đứng thứ ba với 1,8 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 12,1%.

71

Đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư sang 59 quốc gia và vùng

lãnh thổ. Trong đó, Lào đứng vị trí thứ nhất với có 227 dự án, tổng vốn đầu tư trên

4,2 tỷ USD (chiếm 30,6% số dự án và 27,1% vốn đầu tư), Campuchia đứng vị trí

thứ 2 với 129 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 2,7 tỷ USD (chiếm 17,4% số dự

án và 17,6% vốn đầu tư). Tiếp theo là Liên bang Nga (chiếm 15,2% vốn đầu

tư), Venezuela (11,8% vốn đầu tư) và các quốc gia khác.

Vốn thực hiện lũy kế đến nay ước đạt khoảng 3,8 tỷ USD; trong đó khoảng

2,9 tỷ USD trong lĩnh vực dầu khí; gần 500 triệu USD trong lĩnh vực trồng cây cao

su khoảng; 400 triệu USD trong lĩnh vực thủy điện; viễn thông 249 triệu USD…

Vốn đầu tư thực hiện tại Lào đạt khoảng 691 triệu USD; Campuchia đạt khoảng

trên 621 triệu USD...

Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án đầu tư ra nước ngoài, có

một phần đáng kể vốn được thực hiện thông qua việc mua sắm, sử dụng hàng

hóa, máy móc, thiết bị, dịch vụ từ trong nước. Điều này góp phần làm tăng giá trị

xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam ra nước ngoài. Trong nước (không

chuyển ra nước ngoài). Theo báo cáo của Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Tập đoàn

Sông Đà, Tập đoàn cao su Việt Nam, Tập đoàn Than khoáng sản, Viettel, Hoàng

Anh - Gia Lai… một phần vốn đầu tư ra nước ngoài được thực hiện để trả cho

các nhà thầu của Việt Nam hoặc mua háng hóa, dịch vụ của Việt Nam để chuyển

ra nước ngoài thực hiện dự án.

Tuy nhiên, phần lớn các dự án đầu tư quy mô lớn đang trong giai đoạn triển

khai thực hiện nhưng cũng đã có một số dự án hoạt động hiệu quả và đã đạt được

những lợi ích kinh tế nhất định cho nhà đầu tư. Hiện nay, tập đoàn Hoàng Anh Gia

Lai là nhà đầu tư nước ngoài lớn của một số nước trong khu vực Đông Nam Á như

Lào, Campuchia. Gần đây, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai đã mở rộng đầu tư vào dự

án phức hợp tổ hợp khách sạn văn phòng nhà ở cao cấp ở Myanmar với mức đầu tư

440 triệu USD. Hay như tại Nga, Việt Nam là quốc gia nước ngoài duy nhất được

cấp phép tham gia các hoạt động thăm dò dầu khí. Ngoài ra, Công nghệ thông tin

bưu chính viễn thông cũng là lĩnh vực mà các nhà đầu tư Việt Nam quan tâm như

72

tập đoàn bưu chính Viễn thông, Tập đoàn Viettel đã đầu tư ra 13 thị trường như

Campuchia, Lào, Haiti, Peru, Mozambique, Đông Timor và Cameroon…

Đầu tư ra nước ngoài và cơ hội giao thương quốc tế thì doanh nghiệp sẽ đạt

được rất nhiều lợi ích khi đầu tư ra nước ngoài như:

Mở rộng thị trường cho sản phẩm của doanh nghiệp.

Không gom “trứng vào một sọt”

Vượt qua sự giới hạn và cạnh tranh của thị trường trong nước.

Có cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ, từ đó nâng cao năng lực cạnh

tranh cho doanh nghiệp

Thể hiện sự lớn mạnh của doanh nghiệp. Do đó việc mở rộng đầu tư không

chỉ dừng lại ở các quốc gia “yếu” hơn mình mà cần chú trọng vào các thị trường

lớn, cò nền kinh tế năng động.

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam còn mới nên gặp nhiều khó

khăn, lúng túng do chúng ta còn thiếu định chế, chưa có hệ thống yểm trợ bảo vệ

cho doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay Cục Đầu tư nước ngoài mới chỉ hỗ trợ doanh

nghiệp khi có hoạt động đầu tư tại nước ngoài, bằng cách liên hệ với các Đại sứ

quán để quảng bá các hoạt động của doanh nghiệp, hay mở một số lớp đào tạo về

hoạt động đầu tư, cho nên sắp tới chúng ta sẽ nghiên cứu để đưa ra những định chế

phù hợp cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài này.

Để hoạt động đầu tư ra nước ngoài thực sự hiệu quả thì việc định hướng địa

bàn đầu tư và lĩnh vực đầu tư là việc hết sức cần thiết và quan trọng, việc xin cấp

Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài có phần chưa phù hợp, thời gian cấp phép

kéo dài làm mất đi cơ hội của Doanh nghiệp, các nước phát triển đã không còn quy

định thủ tục này, vì vậy cần xem xét nghiên cứu khả năng phân cấp quản lý về đầu

tư ra nước ngoài, tiến tới bỏ Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài; xây

dựng hệ thống thông tin Quốc gia về đầu tư ra nước ngoài và áp dụng cơ chế liên

thông trong quản lý và hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước ngoài để chia sẻ thông tin

giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau và giữa các cơ quan quản lý nhà nước

với nhà đầu tư.

73

2.7.6. Quản lý và giám sát nguồn vốn đầu tư

Về việc thực hiện chế độ báo cáo tình hình đầu tư:

Bên cạnh việc triển khai, thực hiện các công tác, nhiệm vụ cụ thể được giao

liên quan đến quản lý nhà nước về ĐTRNN, các cơ quan quản lý nhà nước về

ĐTRNN còn có nhiệm vụ thực hiện các chế độ báo cáo định kỳ về tình hình

ĐTRNN. Theo quy định tại Điều 72 Luật Đầu tư 2014, các bộ, cơ quan ngang bộ và

ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm định kỳ 06 tháng và hàng năm báo cáo tình

hình quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTRNN gửi BKHĐT tổng hợp; BKHĐT

định kỳ 06 tháng, hàng năm báo cáo TTCP về tình hình ĐTRNN và tình hình thực

hiện chế độ báo cáo của các cơ quan khác.

Hằng năm các bộ và ủy ban nhân dân các tỉnh đã thực hiện chế độ báo cáo về

ĐTRNN theo văn bản đốc thúc của BKHĐT (tuy nhiên, một số đơn vị vẫn chưa chủ

động và chưa thực hiện thường xuyên chế độ báo cáo). Các bộ, tùy theo chức năng

nhiệm vụ đã có các báo cáo về công tác quản lý trong lĩnh vực mình phụ trách, VD:

Bộ Tài chính có báo cáo về tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế của các dự án

ĐTRNN, ĐTRNN của doanh nghiệp nhà nước; NHNN có báo cáo về ĐTRNN của

các tổ chức tín dụng, Bộ NN&PTNT, Công Thương có báo cáo trong các lĩnh vực

nông nghiệp, năng lượng, khai khoáng..., nhiều địa phương có báo cáo tình hình

hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp/cá nhân trên địa bàn của mình.

Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng đã có nhiều báo cáo lên lãnh đạo Chính phủ các

cấp/Quốc hội về tình hình ĐTRNN của Việt Nam nói chung, VD: các báo cáo tình

hình hoạt động đầu tư sang các địa bàn nhất định phục vụ các hội nghị cấp quốc gia,

các đoàn công tác của lãnh đạo các cấp, báo cáo Ủy ban kinh tế quốc hội, báo cáo

tình hình ĐTRNN đi kèm các chương trình tổng kết 5 năm Đề án thúc đẩy đầu tư ra

nước ngoài, trình chiến lược đầu tư sang Lào và Campuchia, rà soát, đánh giá đầu tư

sang Lào & Campuchia...

Các cơ quan quản lý nhà nước cũng kịp thời có những báo cáo đối với các

nội dung, sự việc liên quan đến hoạt động ĐTRNN, ví dụ: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

có báo cáo Văn phòng Chính phủ về việc rà soát thông tin báo chí phản ánh về “Tài

74

liệu Panama” năm 2016, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Bộ Kế hoạch

và Đầu tư có báo cáo về thông tin người Việt mua nhà tại Mỹ năm 2017.

Cuối cùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xây dựng, vận hành và hoàn

thiện Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài

nhằm kết nối thông tin giữa nhà đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước, giữa

các cơ quan quản lý nhà nước với nhau để phối hợp trong công tác theo dõi,

giám sát bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm của các cơ quan

quản lý nhà nước và nhà đầu tư.

2.7.7. Trách nhiệm của Người được giao quản lý nguồn vốn của Doanh

nghiệp có vốn Nhà nước

Hoạt động ĐTRNN của Việt Nam đã bắt đầu từ năm 1989. Trong 30 năm

hoạt động ĐTRNN của Việt Nam đã có những bước tiến phát triển vượt bậc tăng cả

về số vốn lẫn số dự án thực hiện đầu tư. Để đạt được những thành tựu đó, Việt Nam

đã có những chính sách thúc đẩy hoạt động ĐTRNN, đặc biệt một số thị trường

quan trọng, lĩnh vực quan trọng, các doanh nghiệp không đầu tư, các doanh nghiệp

có vốn Nhà nước có định hướng đầu tư để đảm bảo an ninh biên giới, an ninh năng

lượng, an ninh chủ quyền. Mặc dù kết hợp giữa kinh tế và an ninh chính trị, nhưng

Người được giao quản lý nguồn vốn của doanh nghiệp có vốn Nhà nước phải thực

hiện trách nhiệm của mình một các cẩn trọng, tuân thủ quy định của pháp luật như:

Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc quản lý, sử dụng, bảo toàn và phát triển

vốn, thực hiện chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển, việc tuyển dụng

lao động, thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp; có

ý kiến về việc giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan, tổ chức khác

có thẩm quyền đối với hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước

tại doanh nghiệp; và Đánh giá kết quả hoạt động, hiệu quả hoạt động sản

xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm

vụ trong quản lý, điều hành của người quản lý doanh nghiệp, Kiểm soát

viên (Điều 42 Luật 69/2014).

Ngoài ra Người được giao quản lý vốn cần tuân thủ theo quy định của pháp

75

luật, Điều lệ của Doanh nghiệp đã cử Người Đại diện; các quy định của doanh

nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, các quyền, trách nhiệm của mình.

Thực hiện một số hoặc toàn bộ quyền của cổ đông hoặc thành viên góp vốn tại

Doanh nghiệp thì Người Đại diện phải sử dụng các quyền đó một cách cẩn trọng

theo đúng chỉ đạo, chiến lược và định hướng của doanh nghiệp trong từng thời kỳ;

giám sát, bảo toàn, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng liên quan đến phần vốn

góp của Doanh nghiệp. Theo dõi, giám sát tình hình hoạt động, kết quả sản xuất

kinh doanh, tài chính của Doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và Điều lệ

doanh nghiệp đó; báo cáo kịp thời, đề xuất những giải pháp đối về tình hình Doanh

nghiệp hoạt động thua lỗ; không đảm bảo khả năng thanh toán; đầu tư không đúng

mục tiêu chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; không hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ do

của Doanh nghiệp cử làm Người đại diện vốn. Có trách nhiệm hướng Doanh nghiệp

đó đi đúng mục tiêu, định hướng; sử dụng quyền chi phối hoặc phủ quyết để quyết

định các định hướng, chủ trương của công ty theo đúng mục tiêu. Khi phát hiện

Doanh nghiệp đi chệch mục tiêu, định hướng thì phải báo cáo kịp thời và đề xuất

giải pháp khắc phục. Sau khi được phê duyệt giải pháp khắc phục, Người Đại diện

cần tổ chức thực hiện ngay để nhanh chóng hướng doanh nghiệp đi đúng mục tiêu,

định hướng đã xác định. Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động sản xuất kinh

doanh của Doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những yếu kém, sai phạm trong quản

lý, điều hành sản xuất kinh doanh tại Doanh nghiệp và kiến nghị các giải pháp khắc

phục kịp thời. Trong trường hợp cần thiết, Người Đại diện kiến nghị thực hiện các

biện pháp xử lý khẩn cấp như: triệu tập Đại hội đồng cổ đông để giải quyết các vấn

đề. Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo định kỳ quý và hàng năm, báo cáo đột xuất và

báo cáo khác theo quy định của Doanh nghiệp cử Người đại diện. Chịu trách nhiệm

trước pháp luật và Doanh nghiệp cử Người đại diện về các nhiệm vụ được giao.

Trường hợp thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật, trách nhiệm của Người đại diện

vốn, lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn gây thiệt hại đến kinh tế, gây mất vốn, tài sản thì

sẽ bị xử lý kỷ luật, chịu trách nhiệm bồi thường, hoàn trả theo quy định của pháp

luật. Người Đại diện phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Doanh nghiệp cử

76

mình là Người đại diện. Khi có thông báo chia lợi nhuận, cổ tức Người Đại diện yêu

cầu doanh nghiệp được cử làm Người Đại diện chuyển phần lợi nhuận, cổ tức được

chia hoặc thu hồi vốn đầu tư về; giám sát việc thu hồi vốn đầu tư, thu lợi nhuận, cổ

tức được chia.

2.7.8. Vai trò của chính sách trong việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư

thực hiện đầu tư ra nước ngoài

Nhà đầu tư trong nước thực hiện đầu tư ra nước ngoài là một cố gắng lớn

trong điều kiện thực tại, việc tạo điều kiện để hỗ trợ cho các nhà đầu tư để thực hiện

đầu tư ra nước ngoài mang ngoại tệ về nước là hoạt động cần được tạo điều kiện và

hỗ trợ. Hiện nay các cơ quan Nhà nước đã có nhiều biện pháp hỗ trợ, tuy nhiên chưa

được hệ thống và tổng quát, đang tập trung vào giải quyết các khó khăn về vụ việc

và đôi khi là không thể giải quyết được.

Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm làm đầu mối phối

hợp với các cơ quan của Việt Nam ở nước ngoài theo dõi và hỗ trợ các nhà đầu tư

trong việc chấp hành các quy định pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận

đầu tư; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư ở nước ngoài; thông qua đường

ngoại giao, đề xuất và kiến nghị chính quyền nước sở tại hỗ trợ, tạo điều kiện và

tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án đầu tư ở nước

ngoài phù hợp với các quy định tại Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; hỗ trợ Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xác

minh thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam trên địa bàn

quản lý khi có yêu cầu.

Thực hiện chế độ báo cáo về tình hình hỗ trợ của cơ quan đại diện Việt Nam

ở nước ngoài đối với hoạt động đầu tư của Việt Nam tại địa bàn mình quản lý theo

quy định tại Khoản 2 Điều 72 của Luật Đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư bằng văn

bản và thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam

và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Nhưng việc thực hiện không dễ, thực tế một

số cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cho biết các đơn vị này không có kinh

phí và cơ chế tài chính hỗ trợ hoạt động ĐTRNN (bao gồm cả hoạt động thẩm tra,

xác minh thông tin).

77

Từ thực tế cho thấy, các cơ quan cần phát huy vai trò của mình, xây dựng chính

sách trong việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư thực hiện đầu tư ra nước ngoài:

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý, chính sách về đầu tư ra

nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi và định hướng cho các nhà đầu tư Việt

Nam đầu tư ra nước ngoài an toàn và hiệu quả. Tạo lập khuôn khổ pháp lý hợp tác

đầu tư thông qua việc đẩy mạnh đàm phán, ký kết và thực hiện các thỏa thuận, hiệp

định song phương với các đối tác có tiềm năng hợp tác đầu tư, tạo điều kiện thuận

lợi cho các hoạt động đầu tư và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.

- Tiếp tục thực hiện công khai, minh bạch về thủ tục hành chính về đầu tư ra

nước ngoài; đơn giản hóa hồ sơ và các giấy tờ liên quan, rút ngắn thời gian, giảm

chi phí xã hội cho nhà đầu tư.

- Hình thành đồng bộ các công cụ, biện pháp hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước

ngoài, trong đó đặc biệt chú trọng các biện pháp hỗ trợ như tạo khuôn khổ pháp lý

an toàn; hỗ trợ cung cấp thông tin chính sách và cơ hội đầu tư nước sở tại, bảo hộ

quyền lợi của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài; có chính

sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với

một số dự án thuộc lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư ra nước ngoài theo pháp

luật Việt Nam và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

- Kết nối giữa các nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài, tạo sức mạnh khi đầu

tư vào các địa bàn cụ thể, đảm bảo phát huy thế mạnh của từng nhà đầu tư và bổ

sung cho nhau cùng phát triển.

2.7.9. Chuyển lợi nhuận về nước, báo cáo đầu tư của nhà đầu tư

Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn nhà nước tập trung chủ

yếu vào các ngành: khai khoáng với 52 dự án, vốn đầu tư 9,16 tỷ USD, chiếm

60,20% tổng vốn đầu tư (tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, tìm kiếm thăm dò

và khai thác khoáng sản); thông tin truyền thông với 28 dự án, số vốn 2,70 tỷ USD,

chiếm 17,77%; nông lâm nghiệp với 40 dự án, số vốn 1,32 tỷ USD, chiếm 8,69%

tổng vốn đầu tư; sản xuất và phân phối điện, khí đốt với 5 dự án, số vốn 1,18 tỷ

USD, chiếm 7,81% tổng vốn đầu tư; tài chính ngân hàng, bảo hiểm với 15 dự án, số

78

vốn 583 triệu USD, chiếm 3,83%; tiếp đến là lĩnh vực vận tải kho bãi, công nghiệp

chế biến chế tạo và tập trung vào các nước Lào đứng thứ nhất với 61 dự án với

vốn đầu tư 2,42 tỷ USD chiếm 16% tổng vốn đầu tư; Liên bang Nga đứng thứ 2

với 6 dự án với số vốn đầu tư 2,28 tỷ USD chiếm 15% tổng vốn đầu tư, Venezue la

đứng thứ 3 với 01 dự án với số vốn 1,82 tỷ USD chiếm 12% tổng vốn đầu tư,

Campuchia đứng thứ 4 với 42 dự án với vốn đầu tư là 1,53 tỷ USD, chiếm 10,1%

về tổng vốn đầu tư; Peru đứng thứ 5 với 05 dự án với số vốn 1,33 tỷ USD chiếm

8,8% tổng vốn đầu tư…

Trong các dự án đầu tư thì có 6 nhà đầu tư lớn nhất có sử dụng nguồn vốn

Nhà nước và có lợi nhuận chuyển về nước đó là:

- Hoạt động ĐTRNN trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí của Tập đoàn

Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tổng công ty Thăm dò và khai thác dầu khí: Tổng số

tiền đã chuyển về nước đến hết tháng 30/6/2017: 1,1539 tỷ USD, bằng 34,38% tổng

vốn chuyển ra nước ngoài. Số tiền chuyển về nước gồm tiền thu hồi Hợp đồng nhận

nợ và lãi được chia.

- Hoạt động ĐTRNN trong lĩnh vực cao su của Tập đoàn Cao su Việt Nam:

Lợi nhuận đã chuyển về nước lũy kế hết 2017 là 481.322 đô la Mỹ, lợi nhuận giữ lại

tái đầu tư là 282.000 đô la Mỹ.

- Hoạt động ĐTRNN của lĩnh vực thủy điện: chưa chuyển lợi nhuận về nước.

- Hoạt động ĐTRNN của lĩnh vực viễn thông: Tập đoàn Công nghiệp – Viễn

thông Quân đội có lợi nhuận và vốn đầu tư đã chuyển về nước lũy kế đến nay là

442,4 triệu USD, trong đó hai dự án tại Campuchia và Lào mang lợi hiệu quả cao

với lợi nhuận và vốn chuyển về nước lần lượt là 217,75 triệu USD và 136,78 triệu

USD; Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam: Lợi nhuận về nước lũy kế hết

2017 là 865.550 USD.

- Hoạt động ĐTRNN ra nước ngoài trong lĩnh vực khoáng sản: lợi nhuận đã

mang về Việt Nam là 3,91 triệu USD.

- Hoạt động ĐTRNN ra nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo

hiểm: Lợi nhuận chuyển về nước lũy kế hết 2017 là 28,7 triệu USD (chưa kể phần

tăng vốn từ lợi nhuận giữ lại tái đầu tư).

79

- ĐTRNN của một số doanh nghiệp nhà nước khác: chuyển lợi nhuận về

nước là 6,91 triệu USD [7].

Dựa vào lượng tiền lợi nhuận chuyển về nước của các Doanh nghiệp có

nguồn vốn Nhà nước có thể thấy rằng hoạt động ĐTRNN thời gian qua có quy mô

lớn về vốn đăng ký cũng như vốn thực hiện. Nhiều dự án có đặc điểm thời gian đầu

tư xây dựng ban đầu kéo dài (trồng trọt, viễn thông, thủy điện, khoáng sản…).

Nhiều dự án thực hiện đúng tiến độ, có lợi nhuận chuyển về nước, giúp mở rộng thị

trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, tăng cường năng lực kinh nghiêm kinh doanh

cho nhà đầu tư Việt Nam, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác, ngoại giao, xã hội

giữa Việt Nam và các nước.

Bên cạnh đó, còn một số dự án gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai,

kết quả triển khai không khả quan, không có lợi nhuận, thua lỗ vì nhiều lý do. Một

số dự án đã kết thúc do không khả khi, không có khả năng tiếp tục phải tìm cách

chuyển nhượng.

Một số dự án đầu tư trong lĩnh vực khai khoáng là lĩnh vực có nhiều rủi ro,

đặc biệt ở các nước có nền kinh tế không ổn định hoặc thiếu thốn các tài liệu địa

chất. Môi trường đầu tư có nhiều rủi ro cộng thêm các tác động khách quan của

kinh tế toàn cầu và khu vực dẫn đến những biến động khó lường về giá cả đầu ra,

tác động đến giá thành đầu vào dẫn đến một số dự án gặp phải khó khăn về vốn và

huy động vốn và thị trường.

Các dự án có sử dụng vốn nhà nước đang hoạt động bình thường, có khả

năng phát triển, mở rộng thị trường và thu hồi vốn đầu tư, đem lại hiệu quả như:

các dự án của Viettel, lĩnh vực ngân hàng, các dự án trồng cao su, các dự án của

Tổng công ty hợp tác kinh tế quân khu 4, dự án của Vinamilk, dự án thủy điện

Xekaman 1 của Sông Đà, dự án khai thác lô Nhenhexky, PM304 của PVN… Bên

cạnh đó, còn một số dự án của doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn như các dự

án khảo sát thăm dò dầu khí của PVN, khai khoáng của TKV, dự án thủy điện

Xekaman 3 của Sông Đà.

Về báo cáo tình hình đầu tư: Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư tại nước

80

ngoài, các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, các nhà đầu tư lớn đã chấp hành chế

độ báo cáo về tình hình thực hiện và hoạt động của các dự án đầu tư, nên công tác

rà soát, theo dõi và quản lý các dự án đầu tư quy mô lớn của các Tập đoàn, Tổng

công ty nhà nước hoặc các nhà đầu tư lớn được thuận lợi và dần đi vào nề nếp.

Tuy nhiên việc báo cáo của Nhà đầu tư có trung thực hay không, phụ thuộc

rất nhiều vào ý thức của nhà đầu tư do công tác quản lý, giám sát các dự án đầu tư

ra nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn do hoạt động đầu tư nước ngoài thực hiện

bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, tuân thủ pháp luật nước sở tại, việc quản lý, giám sát

thông qua các báo cáo của doanh nghiệp.

Để việc quản lý thông tin về đầu tư được thống nhất, cơ quan quản lý xem

xét xây dựng hệ thống xây dựng hệ thống thông tin Quốc gia về đầu tư ra nước

ngoài và áp dụng cơ chế liên thông trong quản lý và hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước

ngoài để chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau và giữa các

cơ quan quản lý nhà nước với nhà đầu tư để đảm bảo công tác quản lý, không phụ

thuộc hoàn toàn vào các báo cáo của nhà đầu tư.

81

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Đầu tư ra nước ngoài được quy định tại nhiều văn bản, có quy định cụ thể về

trình tự thủ tục, điều kiện đầu tư, chuyển vốn, chuyển lợi nhuận về nước, báo cáo

của các nhà đầu tư trong quá trình hoạt động. Theo đó, chủ thể tham gia ĐTRNN

phải tuân thủ trình tự thủ tục phải đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật nêu trên.

Nhưng thực tế cho thấy do mới thực hiện ĐTRNN nên các quy định chưa

bao quát hết các tình huống, còn nhiều trường hợp cả nhà đầu tư và cơ quan

quản lý còn chưa có phương án giải quyết, việc quản lý còn gặp nhiều khó khăn

do chưa đồng bộ được thông tin và quy định chức năng cho các cơ quan nhưng

chưa thể thực thi tốt, việc thẩm tra dự án mới chặt chẽ về cấp phép, quản lý

chưa được đồng bộ.

Luận văn đưa ra các dữ liệu về ĐTRNN của Việt Nam trong các năm gần

đây. Việc đưa ra dẫn chứng thực tế, giúp cho những phân tích tại Chương 2 trở nên

sáng tỏ và có căn cứ về mặt thực tiễn bổ sung cho những căn cứ về mặt lý luận.

Luận văn giới hạn khi nghiên cứu hoạt động ĐTRNN của các chủ đầu tư có

sử dụng nguồn vốn Nhà nước, là các nhà đầu tư lớn. Như vậy, thực trạng luận văn

đưa ra là thực trạng của pháp luật trong đó phân tích sâu vào những bất cập của các

quy định pháp luật để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện tại chương 3.

82

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN VỀ

PHÁP LUẬT VÀ QUẢN LÝ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về ĐTRNN

3.1.1. Chủ trương về phát triển đầu tư ra nước ngoài

Chủ trương về ĐTRNN, đã có rất nhiều quy định khuyến khích hoạt động

ĐTRNN, đơn giản hóa về thủ tục, điều đó đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư thực

hiện ĐTRNN tăng lên về số lượng, chất lượng và quy mô vốn, đã đóng góp cho sự

phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua.

Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước

ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu

hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực

quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước (Điều 51

khoản 1 Luật đầu tư 2014).

Tuy nhiên như đã phân tích, các Nhà đầu tư vẫn kêu ca phàn nàn bất cập về

pháp luật quy định thời gian cấp phép ĐTRNN vẫn còn quá lâu, nhiều thủ tục giả

trình, nhiều cấp phê duyệt, điều này thể hiện rằng chính sách chưa thống nhất, có

quy định nhưng chưa có cách thức cụ thể để thực thi, mặc dù Luật đầu tư năm 2014

và Nghị định 83/2015 đã đơn giản hóa về phương thức, thủ tục đầu tư hơn rất nhiều.

Tóm lại, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là khuyến khích và

thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Chủ trương trên đã đáp ứng phần nào yêu

cầu của nhà đầu tư trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.

3.1.2. Chính sách hoạt động ĐTRNN

Để hoạt động ĐTRNN của Việt Nam có hiệu quả cao hơn và đủ khả năng

cạnh tranh trên thị trường. Nhà nước cần xây dựng củng cố các doanh nghiệp Nhà

nước cần định hướng lĩnh vực đầu tư, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực phù hợp

với từng nhà đầu tư riêng biệt.

Tăng cường vai trò của cơ quan đại diện chủ sở vốn nhà nước tại doanh

83

nghiệp (đặc biệt là Ủy ban quản lý vốn nhà nước mới thành lập) trong việc đề

xuất/phê duyệt chủ trương đầu tư các dự án ĐTRNN có sử dụng vốn nhà nước;

giám sát chặt chẽ, bảo đảm các dự án thực hiện đúng mục tiêu, hiệu quả.

Hạn chế dần hoạt động ĐTRNN sử dụng vốn nhà nước theo hướng xem xét

sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư 2014, Luật số 69 về quản lý sử dụng vốn nhà nước quy

định rõ chỉ sử dụng vốn nhà nước để ĐTRNN đối với một số ngành lĩnh vực và một

số địa bàn nhất định; và bổ sung thêm các điều kiện về hiệu quả đầu tư, công cụ hạn

chế rủi ro trong hoạt động ĐTRNN.

Trách nhiệm của doanh nghiệp khi đầu tư được xác định rõ, tổng thể phát

triển tốt thì 1 dự án không may, không khép vào mất vốn, quản lý kém. Tăng cường

vai trò, trách nhiệm và công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà

nước trong lĩnh vực chuyên môn như: ngoại hối, tài chính và cơ quan đại diện chủ

sở hữu tại doanh nghiệp.

Quy định rõ hơn trách nhiệm của chủ đầu tư, doanh nghiệp trong quyết định

đầu tư ra nước ngoài.

Bỏ thủ tục cấp GCNĐK ĐTRNN tại BKHĐT bởi việc quản lý theo GCNĐK

ĐTRNN như hiện hành không có tính khả thi, thêm thủ tục và hầu hết các quốc gia

trên thế giới không cấp GCNĐK ĐTRNN. Thay vào đó, tăng cường trách nhiệm

của cơ quan đại diện chủ sở hữu cũng như vai trò của cơ quan quản lý ngoại hối và

các cơ quan quản lý chuyên ngành.

3.1.3. Hiệu quả của Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước đầu tư

Như đã phân tích và dẫn chứng về tình hình đầu tư tại chương 2, Nhà đầu tư

là doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước, có những doanh nghiệp đã thành

công như Viettel, lĩnh vực ngân hàng, trồng cao su, nhưng sự thành công cũng

không phải đến từ tất cả các thị trường thuộc các lĩnh vực nêu trên, có thị trường

phù hợp thì phát triển, có thị trường còn gặp khó khăn. Hiệu quả là có nhưng chưa

cao, phạm vi chưa được rộng, để giải quyết vấn đề đó cần:

Doanh nghiệp cần chú trọng đến công tác quản lý, sử dụng lao động, vì hầu

hết các nước nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra là nước kém phát triển.

84

Quy định báo cáo để xử lý các công việc của Người đại diện vốn kéo dài,

làm mất đi cơ hội kinh doanh của Nhà đầu tư, hiện Tập đoàn Viettel phát triển được

là do tinh thần làm việc quyết liệt, không kể thời gian, đầu tư vào đúng lĩnh vực mà

các nước kém phát triển cần phải đầu tư, là nhu cầu của người dân, nhưng nếu các

cơ chế báo cáo xin ý kiến được linh hoạt, có thể sự phát triển sẽ còn cao hơn. Các

ngân hàng đầu tư có hiệu quả cũng tương tự như vậy, áp dụng được sự phát triển

của công nghệ thông tin, là xu thế phát triển tất yêu của nước kém phát triển. Lĩnh

vực trồng cây cao sư, nông nghiệp đơn thuần có sự phát triển nhưng không tạo ra

được sự đột phá, đó là lao động giản đơn.

Các lĩnh vực khác đa phần là chưa thu được kết quả tốt, một phần vì nhiệm

vụ phải thực hiện, một phần vì mục tiêu bảo vệ biên giới, lãnh thổ từ xa, nên mặc dù

chưa hiệu quả vẫn phải thực hiện.

Đề nghị trong tương lai, Chính phủ cần quy hoạch và xác định rõ các thị

trường, lĩnh vực phù hợp để các nhà đầu tư có sử dụng vốn Nhà nước đầu tư có hiệu

quả, hạn chế các lĩnh vực các nhà đầu tư Việt Nam có sức cạnh tranh yếu, hạn chế

đầu tư vào các thị trường có tiềm ẩm rủi ro, kém ổn định.

3.1.4. Chế tài đối với nhà đầu tư vi phạm

Như đã phân tích tại chương 2, các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ thẩm tra

kỹ đối với dự án xin đầu tư để cấp phép, nhưng việc có đầu tư hay không, có thông

tin về dự án hay không lại phụ thuộc hoàn toàn vào báo cáo của Nhà đầu tư, nhà đầu

tư không báo cáo, các cơ quan cũng không có công cụ quản lý, những dự án có thể

chấm dứt hoạt động, nhưng cơ quan quản lý không biết, có rất nhiều vi phạm liên

quan đến đầu tư, thậm chí quá trình đầu tư đã khác rất nhiều so với dự án trình ban

đầu. Những vi phạm đó nếu không được xử lý sẽ làm cho hình ảnh của Nhà đầu tư

Việt Nam tại nước ngoài không được đánh giá tốt, không thể bảo vệ được người lao

động Việt Nam tại nước ngoài và xấu hơn là trong một số trường hợp không bảo vệ

được vốn đầu tư, thất thoát đầu tư. Vì vậy cơ quan Nhà nước cần có những quy định

cụ thể để buộc các nhà đầu tư tuân thủ quy định về đầu tư:

85

- Ngân hàng nhà nước cần có các quy định về quản lý đồng tiền ĐTRNN khi

cho vay, và cũng cần có những giám sát chặt chẽ trong việc chuyển tiền về nước

ngoài thông qua hình thức thuế của các doanh nghiệp Việt Nam. Ngân hàng nhà

nước cần quy định một cách rõ ràng về lợi nhuận chuyển về tạo điều kiện thuận lợi

cho nhà đầu tư. Hơn nữa ngân hàng nhà nước cũng cần đơn giản hóa các vần đề về

thủ tục thực hiện khi chuyển tiền ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận từ nước ngoài

về Việt Nam để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.

- Các chính sách bảo hộ đầu tư đối với các doanh nghiệp ĐTRNN cũng cần

phải được Nhà nước nghiên cứu, và đưa ra cho hợp lý để nhà đầu tư xác định được

lợi ích của mình trong công tác báo cáo để nhận được những lợi ích to lớn hơn.

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ĐTRNN

3.2.1. Kiến nghị về thủ tục xin cấp phép ĐTRNN

Từ thực trạng về quá trình xin cấp giấy chứng nhận ĐTRNN tại chương 2,

luận văn đã chỉ ra những điểm bất cập trong việc xin cấp phép, điều đó làm mất đi

cơ hội của Nhà đầu tư. Điều này được tham chiếu từ Luật đầu tư năm 2014, Nghị

định 83/NĐ-CP năm 2015.

Nghiên cứu khả năng từng bước phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt

động đầu tư ra nước ngoài, tiến tới bỏ Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước

ngoài. Việc quản lý thông qua thẩm tra giấy phép không còn phù hợp nữa, quan

trọng là công tác giám sát, đánh giá đầu tư để không làm mất đi cơ hội của nhà đầu

tư, không tạo ra một sự cho phép và vô hình dung ràng buộc trách nhiệm của cơ

quan thẩm tra, trong khi thẩm tra cấp phép xong thì không quản lý được.

3.2.2. Kiến nghị về công tác hỗ trợ Nhà đầu tư ĐTRNN

Như đã phân tích tại chương 2, việc nhà đầu tư Việt Nam tìm kiếm cơ hội để

đầu tư là đã khó, nhưng khi thực hiện đầu tư có rất nhiều nguy cơ tiềm tàng, trong

khi cơ quan nhà nước tại nước đó hoặc trong nước chưa hỗ trợ được nhiều như tìm

hiểu thì trường, tăng cường quan hệ ngoại giao, đàm phán ký hiệp định khuyến

khích và bảo hộ đầu tư, tránh đánh thuế 2 lần trước khi đầu tư lại chưa làm được, vì

vậy đề nghị:

86

Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

Tăng cường xúc tiến đầu tư cho hoạt động ĐTRNN trước hết tập trung vào

những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh.

Chính phủ cần chỉ đạo Bộ kế hoạch đầu tư phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ

Công thương…. tổ chức thường xuyên các diễn đàn, hội thảo đánh giá lợi thế của

các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Chính phủ cũng cần tổ chức

các đoàn công tác với sự tham gia của các cơ quan trên tất cả các lĩnh vực luật pháp,

kinh tế, tài chính, cùng với các doanh nhân đi thăm dò, tìm kiếm và khai thác tình

hình thực tế các nước trong khu vực và trên thế giới, tìm kiếm cơ hội đầu tư theo

từng lĩnh vực, ngành nghề, sau đó phổ biến cho các doanh nghiệp trong nước. Đây

là một trong những hình thức thực hiện xúc tiến đầu tư hiệu quả nhất vừa tạo ra các

lợi thế cho các doanh nghiệp, vừa giúp cho các doanh nghiệp tìm hiểu thông tin về

thị trường một cách kỹ lưỡng hơn trước khi quyết định ĐTRNN.

Xây dựng ban hành cơ chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về đầu

tư ra nước ngoài và vận hành Hệ thống thông tin Quốc gia về đầu tư ra nước ngoài

để kết nối trực tuyến nhà đầu tư với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và tiến tới

kết nối giữa các cơ quan quản lý nhà nước, bảo đảm thông tin thông suốt trong quá

trình quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Triển khai và thực hiện thống nhất các nội dung của các hiệp định, thỏa

thuận song phương, đa phương giữa Việt Nam với các nước, trong đó có Hiệp định

khuyến khích và bảo hộ đầu tư cũng như Hiệp định tránh đánh thuế trùng của Việt

Nam với các nước để làm cơ sở cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp mỗi nước

Bộ Tài chính:

Xem xét xây dựng trình Chính phủ ban hành cơ chế ưu đãi, hỗ trợ về tài

chính, tín dụng đầu tư đối với các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư vào một số lĩnh vực

và địa bàn trọng điểm.

Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn cụ thể quy định về

chính sách ưu đãi tín dụng, bảo đảm nguồn vốn vay cho một số dự án đầu tư ra

nước ngoài thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi tín dụng, bảo đảm nguồn vốn

vay theo quy định của pháp luật.

87

Tổ chức triển khai thực hiện các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần đã ký kết

với các quốc gia, vùng lãnh thổ; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đẩy

mạnh đàm phán, ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần với các nước, vùng lãnh

thổ Việt Nam chưa ký kết hiệp định, nhưng đang có nhiều hoạt động đầu tư của

Việt Nam hoặc các địa bàn có tiềm năng hợp tác đầu tư.

Phối hợp với cơ quan đại diện chủ sở hữu thực hiện giám sát các dự án đầu

tư ra nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước, công ty con của doanh nghiệp nhà

nước, bảo đảm đầu tư đúng mục đích, hiệu quả và tuân thủ pháp luật.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Nghiên cứu, xây dựng định hướng, tiêu chí đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực ngân hàng vào một số địa bàn tiềm năng, tạo kênh hỗ trợ vốn, thanh toán, giao

dịch an toàn, hiệu quả cho nhà đầu tư Việt Nam; đồng thời bảo đảm an toàn, hiệu

quả và giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan

nghiên cứu cơ chế kiểm soát chặt chẽ các giao dịch ngoại hối liên quan đến hoạt

động đầu tư ra nước ngoài.

Kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với hoạt động chuyển tiền

từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài về Việt Nam trong hoạt động đầu tư ra

nước ngoài; theo dõi, tiếp nhận, xử lý các thông tin, dấu hiệu đáng ngờ về rửa tiền

trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Giám sát các ngân hàng thương mại trong việc cho nhà đầu tư vay để thực hiện

các hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo quy định pháp luật về quản lý ngoại hối.

Bộ Công Thương

Chủ trì xây dựng định hướng và tiêu chí hoạt động đầu tư ra nước ngoài lĩnh

vực năng lượng, khoáng sản và đầu tư ra nước ngoài gắn với xuất khẩu hàng hóa,

dịch vụ vào một số địa bàn tiền năng ở nước ngoài.

Tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế liên quan đến thương mại, công

nghiệp, năng lượng, khoáng sản với các quốc gia, vùng lãnh thổ có tiềm năng, tạo

88

điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư Việt Nam đầu tư các lĩnh vực này tại các địa

bàn tiềm năng.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Chủ trì xây dựng định hướng và tiêu chí khuyến khích và hỗ trợ đầu tư lĩnh

vực nông, lâm, ngư nghiệp vào một số địa bàn tiềm năng ở nước ngoài.

Đàm phán, ký kết các thỏa thuận thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực nông, lâm,

ngư nghiệp với một số quốc gia có tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà

đầu tư Việt Nam đầu tư, kinh doanh tại các quốc gia, vùng lãnh thổ có tiềm năng

hợp tác đầu tư.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

Xây dựng cơ chế hợp tác với các đối tác, tạo thuận lợi cho việc đưa lao động

Việt Nam làm việc cho dự án đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài.

Hướng dẫn chính sách đặc thù về tiền lương, bảo hiểm và các chế độ liên

quan đến người lao động Việt Nam làm việc cho các dự án đầu tư của nhà đầu tư

Việt Nam tại nước ngoài.

Trao đổi và thoả thuận đưa nội dung an toàn lao động, xử lý vi phạm trong

lĩnh vực lao động vào Hiệp định ký kết về hợp tác lao động giữa Chính phủ Việt

Nam với Chính phủ các nước mà Việt Nam có quan hệ hợp tác.

Bộ Ngoại giao:

Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan xây

dựng định hướng phát huy nguồn lực người Việt Nam sinh sống, làm việc, định cư

tại nước ngoài với hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam.

Thông qua cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài, chủ động

hỗ trợ nhà đầu tư trong xử lý các vấn đề vướng mắc trong quá trình đầu tư, kinh

doanh tại nước sở tại, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho

nhà đầu tư Việt Nam hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Định kỳ tổ chức gặp mặt các

nhà đầu tư Việt Nam tại nước sở tại; đồng thời hỗ trợ hình thành các Hiệp hội của

doanh nghiệp Việt Nam tại nước tiếp nhận đầu tư nhằm tạo ra sức mạnh đoàn kết

nhà đầu tư Việt Nam trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền lợi của

các thành viên.

89

3.2.3. Kiến nghị về hướng xử lý vấn đề chưa được quy định cụ thể

Nhà đầu tư thực hiện ĐTRNN như đã phân tích thực trạng tại chương 2, tiềm

ẩn nhiều rủi ro từ an ninh, an toàn tại nơi đầu tư đến hệ thống pháp luật, cơ quan

quản lý, môi trường kinh doanh, mâu thuẫn lợi ích với các nhà đầu tư nước sở tại …

tất cả những điều đó đã tạo nên những khó khăn cho nhà đầu tư phải giải quyết và

nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư. Ngoài ra khi đầu tư các nhà đầu tư do

mới trong giai đoạn đầu đi ra nước ngoài, chưa hiểu rõ quy định, việc đầu tư còn

thiếu nhiều thủ tục, hệ thống pháp luật của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, hạn

chế, chưa thực sự khuyến khích hoạt động của các doanh nghiệp. Những điều đó

trong quá trình thực hiện mới phát sinh, điều cần thiết là giải quyết được hoặc có

hướng giải quyết để các nhà đầu tư biết và thực hiện, tránh trường hợp nêu ý kiến

nhưng không có lời giải, theo đó tại luận văn đề nghị:

- Chính phủ cần có những sửa đổi trong những quy định theo hướng tạo điều

kiện cho doanh nghiệp chuyển tiền trước khi có giấy chứng nhận ĐTRNN.

- Chính phủ cần yêu cầu các Bộ, ngành có liên quan sớm ban hành các văn

bản còn thiếu liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp ở nước ngoài tạo hành lang

pháp lý đồng bộ điều chỉnh hoạt động kinh tế mới này. Ví dụ như Ngân hàng cần

xây dựng các chính sách về cho vay vốn với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp,

hoặc là Bộ LĐTB-XH hướng dẫn các văn bản hướng dẫn doanh nghiệp đưa người

lao động ra nước ngoài.

- Nhà nước cần đưa ra các quy định ban hành về việc kiểm tra, thanh tra

giám sát hoạt động ĐTRNN một cách thường xuyên, để đánh giá hiệu quả hoạt

động ĐTRNN. Từ đó thấy được những vướng mắc hạn chế trong hoạt động

ĐTRNN để kịp thời điều chỉnh các văn bản quy phạm một cách phù hợp hơn.

3.2.4. Kiến nghị về việc chuyển tiền ra nước ngoài

Việc chuyển tiền ra nước ngoài, điều kiện cần có Giấy chứng nhận đầu tư ra

nước ngoài, điều này làm ảnh hưởng đến việc mua giấy phép hoặc thời điểm góp

vốn của nhà đầu tư. Hiện tại Luật đầu tư cho phép nhà đầu tư được chuyển tiền

90

trước khi cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài (Điều 63 khoản 3), nhưng Nghị

định 83/2015 quy định khoản tiền chuyển trước chỉ là một lượng nhỏ, hạn mức

chuyển ngoại tệ trong trường hợp này không vượt quá 5% tổng vốn đầu tư ra nước

ngoài và không quá 300.000 đô la Mỹ, được tính vào tổng vốn đầu tư ra nước ngoài

(Điều 19 khoản 4 Nghị định 83/2015), điều này sẽ không có nhiều ý nghĩa đối với

các dự án lớn, chỉ phù hợp cho hoạt động xúc tiến đầu tư.

Như đã phân tích tại chương 2 với trường hợp ví dụ của công ty Viettel

Overseas, tìm được cơ hội đầu tư đã khó, trúng thầu là một cơ hội, nhưng khi

chuyển tiền muộn thì lại mất đi cơ hội đầu tư và nguy cơ mất đi khoản bảo lãnh cam

kết thực hiện trong khi vướng phải thủ tục trong nước không thể chuyển tiền ra

nước ngoài để thực hiện.

Việc quy định cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài là vướng mắc đi liền với

nội dung này, trong quá trình đề nghị xem xét bỏ thủ tục cấp phép, đề nghị xem xét

sửa đổi Luật đầu tư 2014 để quy định trách nhiệm đảm bảo hiệu quả của nhà đầu tư,

việc quyết định đầu tư do nhà đâu tư chịu trách nhiệm để có thể đăng ký chuyển tiền

ra nước ngoài.

3.2.5. Kiến nghị giải quyết các trường hợp vi phạm, tranh chấp phát sinh

Như đã phân tích, do ở giải đoạn đầu của ĐTRNN, nhiều nhà đầu tư chưa

hiểu rõ các quy định về đầu tư ra nước ngoài nên có những thủ tục chưa thực hiện.

Ngoài ra do khác biệt về môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh, các nhà đầu

tư cũng có nhiều bất đồng, mâu thuẫn, tranh chấp giữa công ty tại nước ngoài với

các công ty khác, xử lý ép của cơ quan quản lý tại nước ngoài … những điều đó cần

có sự hỗ trợ của cơ quan quản lý Nhà nước để tháo gỡ, tạo điều kiện để nhà đầu tư

tiếp tục đầu tư nếu dự kiến có lợi ích mang lại:

- Cơ quan đại diện ngoại Việt Nam cũng nên thành lập các hiệp hội ĐTRNN

của các doanh nghiệp Việt Nam để bảo vệ quyền lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp

Việt Nam giải quyết các vướng mắc. Việt Nam cũng nên thành lập quỹ hỗ trợ

ĐTRNN của Việt Nam với mục đích nhằm tài trợ tài chính cho các dự án ĐTTRNN

và bảo đảm lợi ích và bảo vệ các doanh nghiệp trước những rủi ro về chính trị hoặc

91

các rủi ro khác mà các công ty bảo hiểm thường không thể cung cấp dịch vụ đó.

Đồng thời chính phủ cũng nên cung cấp dịch vụ bảo hiểm giúp các doanh nghiệp

hạn chế được những tác động rủi ro về chính trị, luật pháp có thể gặp trong quá trình

đầu tư ở nước ngoài.

- Đối với việc vi phạm các thủ tục đầu tư, có chính sách và hướng dẫn để nhà

đầu tư hoàn thiện nếu các vi phạm đó không nghiệm trọng, không liên quan đến các

hoạt động gian lận, trốn thuế …

- Đối với chính sách tại nước ngoài liên quan đến ép buộc, hạn chế sự phát

triển của nhà đầu tư, Chính phủ xem xét có các hoạt động hợp tác, kiến nghị, đến

thăm để hoạt động đầu tư được thuận lợi.

- Đối với các nước chưa ký hiệp định khuyến khích bảo hộ đầu tư, hợp tác

song phương, đa phương, tránh đánh thuế 2 lần, cần tiến hành đàm phán ký kết

ngay để đảm bảo tránh những thiệt hại nếu có liên quan đến chính trị, quốc hữu

hóa tài sản …

- Đối với các tranh chấp phát sinh đến mức ra Tòa án hoặc trọng tài quốc tế,

hỗ trợ nhà đầu tư về phương thức thực hiện, đánh giá vấn đề để nhà đầu tư xác định

và tự tin khi đầu tư.

92

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Việc nêu ra quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước cũng như đưa ra

định hướng hoàn thiện pháp luật về ĐTRNN là những căn cứ cho những kiến nghị

hoàn thiện pháp luật. Bên cạnh đó, kiến nghị hoàn thiện pháp luật ĐTRNN mà luận

văn đưa ra cũng dựa trên phần thực trạng trong chương 2. Hai cơ sở nêu trên, giúp

luận văn đưa ra những kiến nghị sát thực, giải quyết các tồn tại thực tế, cơ bản trong

hoạt động ĐTRNN.

Năm kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về ĐTRNN luận văn đưa ra có

tính chất lâu dài trong điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Góp phần sửa đổi

được những bất cập còn tồn tại trong hệ thống pháp luật Việt Nam, như bất cập

trong quy định cấp phép, chuyển tiền. Đồng thời, góp phần bổ sung, hoàn thiện

pháp luật trong xác định trách nhiệm của nhà đầu tư, trách nhiệm của cơ quan quản

lý và giải quyết các vấn đề phát sinh, hỗ trợ những khó khăn khi ĐTRNN.

93

KẾT LUẬN

Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, đầu tư quốc tế trở thành một hoạt

động mang lại nhiều hiệu quả không chỉ cho các doanh nghiệp đầu tư cũng như cho

nước tiếp nhận đầu tư. Và trong tiến trình hội nhập này không chỉ có sự đặc quyền

của các quốc gia có nền kinh tế phát triển, có tiềm lực mạnh về tài chính, khoa học

công nghệ, trình độ quản lý cao mà đã có sự tham gia tích cực của các quốc gia

đang phát triển với tư cách là nước đầu tư. Việt Nam không nằm ngoài trong xu thế

chung đó, và cũng đang nỗ lực thúc đẩy và xúc tiến hoạt động ĐTRNN.

Trong 30 năm thực hiện ĐTRNN, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã từng

bước tiếp cận được với thị trường thế giới, học hỏi và cũng đã đạt được những

thành công nhất định. Tuy nhiên do là một nước mới thực hiện ĐTRNN các doanh

nghiệp Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức do những hạn chế

về vốn, công nghệ, kinh nghiệm sản xuất ở nước ngoài, hạn chế trong tìm hiểu môi

trường của nước nhận đầu tư. Bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn trong những

tồn tại về cơ chế, chính sách, những hỗ trợ thiếu hiệu quả từ phía nhà nước dành

cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động ĐTRNN. Trong những năm sắp tới, với

sự phát triển của nền kinh tế, và trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay ngày càng có

nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam, Việt Nam cũng đang tiếp tục

đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách, xúc tiến hoạt động ĐTRNN của các doanh

nghiệp, do đó hứa hẹn sự mở rộng đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng phát triển trong

quan hệ ngoại thương quốc tế.

94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hữu An (2013), Giáo trình kinh tế đầu tư, ĐH kinh tế quốc dân.

2. Báo cáo tổng kết 01 năm thi hành Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014.

3.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài từ khi luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lục từ ngày 01/7/2015 , Hà Nội.

4.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về Tình hình đầu tư ra nước ngoài từ 01/7/2015 đến hết năm 2018, Hà Nội.

5.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài của các Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước đến hết năm 2018 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

6.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam năm 2018 của Bộ KHĐT trình Thủ tướng Chính, Hà Nội.

7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài của

các doanh nghiệp có vốn Nhà nước, Hà Nội.

8.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Thông tư 03/2018/TT-BKHĐT ngày 17/10/2018 ban hành mẫu văn bản hướng dẫn thực hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài, Hà Nội.

9.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Tổng hợp Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đến hết năm 2018 , Hà Nội.

10. Chính phủ (2015), Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015

quy định về đầu tư ra nước ngoài, Hà Nội.

11. Chính phủ (2017), Nghị định 124/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2017

quy định về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí, Hà Nội.

12. Nguyễn Hải Đăng (2012), Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh

tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

13. Nguyễn Khắc Định (2003), Hoàn thiện pháp luật về ĐTTTNN trong xu hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

95

14. Phạm Thị Gái (2014), Giáo trình lập dự án đầu tư, ĐH kinh tế quốc dân.

15. Nguyễn Thị Ngọc Mai (2018), Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam:

nhân tố tác động và hàm ý chính sách, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế, Đại

học Quốc gia Hà Nội

16. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư 12/2016/TT-NHNN ngày

29/6/2016 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước

ngoài, Hà Nội.

17. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm

2014, Hà Nội.

18. Quốc hội (2014), Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,

kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13, Hà Nội.

19. Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội, Một số báo cáo về tình hình

đầu tư ra nước ngoài.

20. Đinh Trọng Thịnh (Chủ biên) (2006), Thúc đẩy Doanh nghiệp Việt Nam

ĐTTTRNN, Nxb Tài chính, Hà Nội.

21. Viettel Overseas (2013), Báo cáo về tình hình đầu tư ra nước ngoài.

96

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: MỘT SỐ DỰ ÁN ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI QUY MÔ LỚN

TRÊN 25 TRIỆU USD (Từ 1/7/2015 đến tháng 12/2018)

1. Dự án đầu tư và kinh doanh mạng viễn thông và công nghệ thông tin tại

Cộng hòa liên bang Myanmar của Tập đoàn Viettel với số vốn đăng ký VN là 860

triệu USD.

2. Dự án Tổ hợp chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công

nghiệp tại Liên Bang Nga của Công ty TNHH Mía đường Nghệ An với vốn đăng ký

là 500 triệu USD.

3. Dự án Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh

Yangon của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam với số vốn đăng ký là

85 triệu USD.

4. Dự án của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam kinh doanh ngân

hàng tại Lào, vốn đăng ký 80 triệu USD.

5. Dự án của TCTCP Dịch vụ kỹ thuật dầu khí tại Marshall Islands để đầu

tư sở hữu FPSO để cung cấp dịch vụ cho Talisman Vietnam 07/03 B.V. Limited

thuê phục vụ pahst triển mỏ Cá Rồng Đỏ thuộc lô 07/03 ngoài khơi Việt Nam (dự

án), vốn đăng ký là 56,92 triệu USD.

6. Dự án trông và chăm sóc 8825 ha cây cọ dầu và xây dựng nhà máy chế

biến dầu cọ tại huyện Lumphat, tỉnh Rattanakiri, Campuchia của CTCP Đông Pênh

với số vốn đăng ký là 35,35 triệu USD.

7. Dự án khai thác chế biến vàng và kim loại màu tại quận Mubende cách

140 km về phía tây của thành phố Kampala của Uganda của CTCP Tư vấn đầu tư

xây dựng Ba Đình với số vốn đăng ký là 35 triệu USD.

8. Dự án của CTCP Đầu tư IMG đầu tư, xây dựng nhà để bán và cho thuê

thương mại tại Úc, vốn đăng ký là 34,5 triệu USD.

9. Dự án đầu tư bất động sản Thiên Phúc Lộc - Hoa Kỳ của Công ty TNHH

đầu tư kinh doanh Thiên Phúc Lộc với số vốn đăng ký là 33,5 triệu USD.

97

10. Dự án đầu tư trang trại nông nghiệp và du lịch sinh thái Swanport tại

Australia của ông Phạm Nhật Vũ với số vốn đăng ký là 33 triệu USD.

11. Dự án khai thác, tuyển và luyện vàng tại mỏ vàng vùng O Khloek Khlak,

huyện Sambo, tỉnh Krarie, Campuchia của CTCP Rạng Đông với vốn đăng ký là

28,6 triệu USD.

12. Dự án Công ty Cổ phần Niềm Kiêu hãnh Thái Bình Dương tại Campuchia

(trồng cao su) của CTCP Gemadept với số vốn đăng ký là 27,7 triệu USD;

13. Dự án Tập đoàn T&T tại Liên Bang Nga của Công ty Cổ phần Tập đoàn

T&T với số vốn đăng ký là 25 triệu USD;

14. Dự án tòa nhà HQC Washington của Công ty TNHH đầu tư giáo dục

Hoàng Quân với số vốn đăng ký là 25 triệu USD.

98

PHỤ LỤC 2: VIỆT NAM ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI - THEO LĨNH VỰC

Kỳ báo cáo:

Nước báo cáo:

Ngày lập báo cáo:

Từ 1/7/2015 đến nay

Stt

Lĩnh vực

(All) Vốn Việt Nam đăng ký (usd)

15-May-18 Vốn điều chỉnh (usd)

Tổng vốn đăng ký (usd)

Số dự án

Lượt điều chỉnh

% số dự án đăng ký mới/tổng số dự án đăng ký mới

% vốn đăng ký mới/tổng vốn đăng ký mới

126

34.90%

169,968,947

7.53%

18

26,660,629

196,629,576

1 Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác

2 Thông tin và truyền thông

34

878,519,599

38.91%

444,746

878,964,345

9.42%

3

3 Dịch vụ lưu trú và ăn uống

33

9.14%

21,335,957

0.95%

31,697,887

53,033,844

6

4 Xây dựng

33

9.14%

13,848,258

0.61%

579,800

14,428,058

5

5 Hoạt động chuyên môn, khoa học và

29

8.03%

75,324,257

3.34%

1,251,754

76,576,011

3

công nghệ

28

7.76%

6 Công nghiệp chế biến, chế tạo

574,848,087

25.46%

17

36,483,322

611,331,409

7 Vận tải kho bãi

15

4.16%

12,726,364

0.56%

10,000

12,736,364

1

14

3.88%

134,258,540

5.95%

10,159,270

144,417,810

5

8 Hoạt động kinh doanh bất động sản 9 Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ

12

3.32%

5,057,678

0.22%

15,000

5,072,678

1

trợ

10 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy

12

3.32%

120,534,387

5.34%

22,261,931

142,796,318

7

sản

11 Khai khoáng

6

1.66%

73,295,294

3.25%

817,440

74,112,734

1

12 Dịch vụ khác

5

1.39%

6,664,777

0.30%

55,517

6,720,294

2

99

13 Hoạt động tài chính, ngân hàng và

5

1.39%

167,719,999

7.43%

72,000,000

239,719,999

3

bảo hiểm

4

1.11%

1,031,665

0.05%

1,031,665

14 Giáo dục và đào tạo

3

0.83%

1,183,768

0.05%

1,183,768

15 Nghệ thuật, vui chơi và giải trí

2

0.55%

1,320,000

0.06%

1,320,000

0.00%

0.00%

(667,412,546)

(667,412,546)

3

16 Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 17 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí

Tổng

361

100.00%

2,257,637,577

1

75

(464,975,250)

1,792,662,327

100

PHỤ LỤC 3: VIỆT NAM ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI - THEO ĐỊA BÀN

Stt

Địa bàn

Số dự án

Vốn Việt Nam đăng ký (usd)

Lượt điều chỉnh

Vốn điều chỉnh (usd)

Tổng vốn đăng ký (usd)

% vốn đăng ký mới/tổng vốn đăng ký mới

1 Myanmar

56

978,993,065

43.36%

11

2,813,800

981,806,865

2 Nga

4

527,600,000

23.37%

527,600,000

3 Lào

13

117,763,457

5.22%

10

145,932,137

263,695,594

4 Mỹ

51

154,663,070

6.85%

16

64,037,037

218,700,107

5 Úc

27

108,584,636

4.81%

1

600,000

109,184,636

6 Marshall Islands

1

56,926,220

2.52%

56,926,220

7 Singapore

36

48,525,808

2.15%

5

7,970,000

56,495,808

8 Uganda

1

35,000,000

1.55%

35,000,000

9 Cuba

2

29,279,066

1.30%

29,279,066

10 New Zealand

6

16,391,609

0.73%

1

1,888,800

18,280,409

11 Hồng Kông

7

13,926,427

0.62%

13,926,427

12 Đức

15

8,830,392

0.39%

3

3,131,024

11,961,416

13 Trung Quốc

8

7,770,621

0.34%

7,770,621

14 Nhật Bản

28

6,037,907

0.27%

2

30,370

6,068,277

15 British

Virgin

3

5,850,000

0.26%

5,850,000

Islands (BVI)

16 Canada

4

5,648,329

0.25%

5,648,329

101

17 Malaysia

8

3,986,330

0.18%

183,346

1

4,169,676

18 Philippines

3

3,700,000

0.16%

305,000

2

4,005,000

19 Pháp

8

3,755,938

0.17%

3,755,938

20 Thái Lan

6

3,751,697

0.17%

3,751,697

21

Indonesia

7

3,569,023

0.16%

164,893

1

3,733,916

22 Tây Ban Nha

2

2,810,430

0.12%

2,810,430

23 Hà Lan

3

2,515,000

0.11%

2,515,000

24 Hàn Quốc

9

2,230,974

0.10%

101,519

2

2,332,493

25 Anh

1

300,000

0.01%

1,867,154

2

2,167,154

26 Bờ Biển Ngà

1

895,000

0.04%

895,000

27 Uzbekistan

1

850,000

0.04%

850,000

28 Tanzania

1

670,000

0.03%

670,000

29 Seychelles

1

500,000

0.02%

500,000

30 Ấn Độ

3

210,000

0.01%

3

262,157

472,157

31 Đài Loan

5

283,627

0.01%

283,627

32 CH Séc

1

200,000

0.01%

200,000

33

Ireland

1

114,190

0.01%

114,190

34 Phần Lan

2

92,857

0.00%

92,857

35 Belize

1

50,000

0.00%

50,000

36 Bangladesh

0.00%

1

20,000

20,000

37 Mexico

1

20,000

0.00%

20,000

102

38 Thụy Điển

1

10,000

0.00%

10,000

39 Haiti

1

2,455

0.00%

2,455

40 Campuchia

32

105,329,448

4.67%

14

(694,282,487)

(588,953,039)

361

2,257,637,577

1

75

(464,975,250)

1,792,662,327

Tổng

103