ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐÀM MINH TOẢN
PH¸P LUËT VÒ §ÇU T¦ TRùC TIÕP RA N¦íC NGOµI Vµ THùC TIÔN THùC HIÖN CñA C¸C DOANH NGHIÖP Cã NGUåN VèN NHµ N¦íC
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
ĐÀM MINH TOẢN
PH¸P LUËT VÒ §ÇU T¦ TRùC TIÕP RA N¦íC NGOµI Vµ THùC TIÔN THùC HIÖN CñA C¸C DOANH NGHIÖP Cã NGUåN VèN NHµ N¦íC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN TIẾN VINH
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đàm Minh Toản
i
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, bên cạnh
sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng
dẫn của thầy cô trong tổ bộ môn, các phòng ban của Khoa Luật, gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
PGS.TS. Nguyễn Tiến Vinh đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo và tạo mọi điều
kiện cho tôi trong toàn bộ quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Chủ nhiệm Khoa Luật
cùng toàn thể quý thầy cô, cán bộ phòng Đào tạo, Bộ môn Luật Kinh doanh đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
luôn bên cạnh, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu luận văn thạc
sĩ của mình.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận
văn đã cho tôi những góp ý quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Tác giả
Đàm Minh Toản
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
RA NƯỚC NGOÀI .............................................................................................6
1.1. Tổng quan về đầu tư ra nước ngoài ................................................................6
1.1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư ra nước ngoài ....................................................6
1.1.2. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .............................................................................7
1.1.3. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài .........................................................................9
1.2. Tổng quan pháp luật về đầu tư ra nước ngoài........................................... 10
1.2.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư ra nước ngoài ................................................. 10
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN ................................................. 12
1.2.3. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTRNN........................................ 12
1.3. Quản lý Nhà nước về đầu tư .......................................................................... 17
1.3.1. Quản lý, giám sát đầu tư .................................................................................... 21
1.3.2. Theo dõi và báo cáo hoạt động đầu tư ............................................................. 22
1.4. Quy định đầu tư ra nước ngoài đối với các doanh nghiệp có sử
dụng nguồn vốn Nhà nước.............................................................................. 23
1.4.1. Sử dụng vốn, tài sản của Doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước để
đầu tư ra nước ngoài........................................................................................... 23
1.4.2. Trách nhiệm của Người được giao quản lý vốn ............................................. 24
1.4.3. Các quy định riêng làm hạn chế đầu tư ra nước ngoài của Doanh
nghiệp có sử dụng vốn Nhà nước ..................................................................... 26
1.5. Quá trình hình thành khung pháp lý về đầu tư ra nước ngoài .............. 27
1.5.1. Giai đoạn từ 1999 đến năm ban hành Luật đầu tư 2005................................ 27
1.5.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015 ............................................................. 28
1.5.3. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay ........................................................................ 29
iii
1.5.4. Các thỏa thuận đầu tư quốc tế và khu vực có tác động tới ĐTRNN ............ 30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................................ 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CÓ NGUỒN
VỐN NHÀ NƯỚC................................................................................................................................ 33
2.1. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam ...... 33
2.1.1. Tình hình đầu tư.................................................................................................. 33
2.1.2. Phân nhóm đầu tư ............................................................................................... 33
2.1.3. Kết quả đầu tư ra nước ngoài đã đạt được ....................................................... 35
2.1.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong ĐTRNN ................................ 37
2.2. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có nguồn
vốn Nhà nước..................................................................................................... 40
2.2.1. Phân nhóm đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có sử dụng
nguồn vốn Nhà nước .......................................................................................... 40
2.2.2. Các lĩnh vực được đầu tư quy mô lớn .............................................................. 41
2.3. Chủ thể tham gia đầu tư ra nước ngoài ...................................................... 46
2.3.1. Quyền của Nhà đầu tư........................................................................................ 46
2.3.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài ........................................................... 48
2.4. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài ........................................................................ 49
2.4.1. Thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài ............................ 50
2.4.2. Cấp và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài. ........................... 51
2.4.3. Chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài để triển khai đầu tư ................................ 54
2.4.4. Chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài ..................................................................... 55
2.4.5. Chuyển lợi nhuận về nước ................................................................................. 59
2.4.6. Sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài ...................................................... 59
2.4.7. Chấm dứt hoạt động đầu tư tại nước ngoài. .................................................... 60
2.5. Các thỏa thuận đầu tư quốc tế và khu vực có tác động tới ĐTRNN .......... 61
2.6. Những quy định pháp luật bổ sung đối với doanh nghiệp có sử
dụng nguồn vốn Nhà nước khi đầu tư ra nước ngoài .............................. 63
2.6.1. Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài ............................ 63
2.6.2. Các cam kết, đánh giá hiệu quả khi thực hiện đầu tư .................................... 64
iv
2.6.3. Kiểm soát và báo cáo giám sát .......................................................................... 64
2.7. Thực thi pháp luật về đầu tư ra nước ngoài ............................................... 65
2.7.1. Quá trình xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư...................................................... 65
2.7.2. Việc xin phép chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài ............................................ 66
2.7.3. Đầu tư ra nước ngoài bằng tài sản có sử dụng Nguồn vốn Nhà nước ......... 68
2.7.4. Chứng minh hiệu quả và tính tự chịu trách nhiệm của Nhà đầu tư .............. 69
2.7.5. Tính phù hợp của thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài............... 71
2.7.6. Quản lý và giám sát nguồn vốn đầu tư ............................................................ 74
2.7.7. Trách nhiệm của Người được giao quản lý nguồn vốn của Doanh
nghiệp có vốn Nhà nước .................................................................................... 75
2.7.8. Vai trò của chính sách trong việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư
thực hiện đầu tư ra nước ngoài ......................................................................... 77
2.7.9. Chuyển lợi nhuận về nước, báo cáo đ ầu tư của nhà đầu tư........................... 78
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 82
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ
HOÀN THIỆN VỀ PHÁP LUẬT VÀ QUẢN LÝ ĐẦU TƯ RA
NƯỚC NGOÀI .................................................................................................. 83
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về ĐTRNN ........................................... 83
3.1.1. Chủ trương về phát triển đầu tư ra nước ngoài ............................................... 83
3.1.2. Chính sách hoạt động ĐTRNN ......................................................................... 83
3.1.3. Hiệu quả của Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước đầu tư ............... 84
3.1.4. Chế tài đối với nhà đầu tư vi phạm .................................................................. 85
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ĐTRNN................ 86
3.2.1. Kiến nghị về thủ tục xin cấp phép ĐTRNN .................................................... 86
3.2.2. Kiến nghị về công tác hỗ trợ Nhà đầu tư ĐTRNN ......................................... 86
3.2.3. Kiến nghị về hướng xử lý vấn đề chưa được quy định cụ thể ...................... 90
3.2.4. Kiến nghị về việc chuyển tiền ra nước ngoài .................................................. 90
3.2.5. Kiến nghị giải quyết các trường hợp vi phạm, tranh chấp phát sinh ........... 91
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 93
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 95
PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 97
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ KH-Đ Bộ Kế hoạch và Đầu tư
DNNN Doanh nghiệp Nhà Nước
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
ĐTRNN Đầu tư ra nước ngoài
ĐTTTRNN Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
GCN Giấy chứng nhận
KHĐT Kế hoạch đầu tư
NĐ-CP Nghị định- Chính Phủ
QĐ-BKH Quyết định- Bộ kế hoạch
TT-NHNN Thông tư- Ngân hàng Nhà Nước
vi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để mang ngoại tệ về nước
còn với tỷ lệ còn thấp, mặc dù chính sách đầu tư ra nước ngoài đã có từ rất sớm,
nhưng có thể do khó khăn về nguồn vốn, nhân sự, rào cản về tư duy … mà các
doanh nghiệp Việt Nam không dám đầu tư ra nước ngoài và nếu có thì chỉ đầu tư
nhỏ lẻ, tự phát và đầu tư tại các nước láng giềng. Quy mô đầu tư của các doanh
nghiệp Việt Nam còn nhỏ. Một số dự án đầu tư ra nước ngoài quy mô lớn thì phần
lớn là các dự án sử dụng vốn của nhà nước do các tập đoàn, công ty nhà nước làm
chủ đầu tư. Hiệu quả vốn đầu tư chưa cao, kết quả kinh doanh của các dự án Đầu tư
ra nước ngoài (ĐTRNN) còn thấp. Bên cạnh hoạt động ĐTRNN nhằm mục tiêu
kinh doanh, tạo thêm nguồn ngoại tệ cũng như các nguồn lực khác để phát triển đất
nước, hiện có xu hướng đầu tư mang tính mua sắm tài sản cố định. ĐTRNN được
thực hiện tốt Việt Nam sẽ giành quyền chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế.
Hoạt động này chính là việc chuyển các nguồn lực có lợi thế so sánh trong nước ra
bên ngoài để tạo thế cạnh tranh, nâng cao năng lực sản xuất; tìm nguồn tài nguyên
thay thế; hạn chế ô nhiễm môi trường trong nước; mở rộng thị trường tiêu thụ; thúc
đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế phân bổ nguồn lực trong không gian rộng lớn hơn;
tăng cường động lực để phát triển kinh tế bền vững nhằm thu lợi ích cao nhất cho
đất nước. Đầu tư ra nước ngoài có nhiều hình thức, nhưng được pháp luật tóm lược
chung thành đầu tư ra nước ngoài có trực tiếp tham gia quản lý của nhà đầu tư và
đầu tư ra nước ngoài không tham gia quản lý. (Điều 52 Luật đầu tư năm 2014).
Do vậy, việc nghiên cứu xây dựng “Đề tài: Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài và thực tiễn thực hiện của các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà
nước” trong thời gian tới để có giải pháp thức đẩy phát triển là phù hợp với tính
chất công việc của cá nhân học viên đang làm và mong muốn góp phần bổ sung
hoàn thiện hơn về quy định đầu tư ra nước ngoài, thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, có
giải pháp và hướng để huy động vốn, thông qua đó hoàn thiện công tác quản lý hoạt
động đầu tư ra nước ngoài hơn nữa.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, vấn đề đầu tư ra nước ngoài và
thực tiễn hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước
đã có nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu ở những khía cạnh và góc độ khác nhau.
Sau đây là một số công trình, bài viết cơ bản có liên quan đến vấn đề đầu tư ra nước
ngoài sau đây:
- Nguyễn Khắc Định, Hoàn thiện pháp luật về ĐTTTNN trong xu hướng nhất
thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội 2003.
- PGS.TS Đinh Trọng Thịnh (Chủ biên), Thúc đẩy Doanh nghiệp Việt Nam
ĐTTTRNN, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội 2006.
- Nguyễn Thị Ngọc Mai, Nguyễn Thị Kim Anh, Nguyễn Cẩm Nhung,
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam: nhân tố tác động và hàm ý chính
sách, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội 2018
- Nguyễn Hải Đăng, Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế, Đại học
Quốc gia Hà Nội 2012.
Các tác giả của các công trình nghiên cứu, bài luận văn đều đề cập về
ĐTRNN trên khía cạnh khái quát, thủ tục đầu tư, tổng hợp về vai trò của ĐTRNN,
điều kiện ĐTRNN, Các doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN, điều kiện ĐTRNN, chính
sách của Nhà nước, thách thức và những khó khăn trong quá trình đầu tư của các
nhà đầu tư Việt Nam, sự chưa đồng bộ và hoàn thiện về chính sách pháp luật và đưa
ra các giải pháp mang tầm vĩ mô, quản lý đối với chính sách của Chính phủ và cả
chính từ phía Nhà đầu tư để thúc đẩy ĐTRNN.
Luận văn thạc sĩ với để tài “Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và
thực tiễn thực hiện của các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước” làm rõ những
vấn đề liên quan đến điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN và thực tiễn trong quá trình
áp dụng, đặc biệt là đối với các Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước để
đầu tư. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về ĐTRNN, đồng thời nghiên cứu các
2
vấn đề phát sinh trong thực tiễn hoạt động từ hoạt động khảo sát, xin cấp phép,
chuyển tiền, triển khai đầu tư, từ đó đưa ra các kiến nghị để góp phần hoàn thiện
hơn nữa pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi để nhà đầu tư Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là thành
phần kinh tế ngoài nhà nước mở rộng thị trường đầu tư, kinh doanh, khai thác tiềm
năng, thế mạnh ở bên ngoài; Có khung pháp lý rõ ràng, có định hướng để các nhà
đầu tư có sử dụng phần vốn Nhà nước khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài tự tin đầu
tư, tự tin đi ra nước ngoài kinh mang ngoại tệ về nước, tạo công ăn việc làm cho
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; tiếp cận công nghệ hiện đại,
nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế -
xã hội đất nước.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của ĐTRNN
và thực trạng ĐTRNN của các Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước, luận
văn đưa ra các đề xuất, những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả đầu tư, cải cách
thủ tục đầu tư để không làm mất cơ hội của nhà đầu tư, cách quản lý hiệu quả, tư
vấn cho nhà đầu tư trước khi thực hiện ĐTRNN và có giải pháp hỗ trợ các nhà đầu
tư khi gặp khó khăn.
4. Nhiệm vụ của đề tài
- Phân tích những vấn đề lý luận về ĐTRNN
- Phân tích thực trạng pháp luật về ĐTRNN đang áp dụng đối với các nhà
đầu tư, những vướng mắc thực tế trong quá trình thực hiện.
- Đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về ĐTRNN để tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đặc biệt là
các nhà đầu tư là Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước.
5. Đối tượng và phạm vi nghi ên cứu
Đối tượng nghiên cứu: “Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và thực
tiễn thực hiện của các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước”;
3
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn phân tích thực trạng về ĐTTTRNN của các
nhà đầu tư là doanh nghiệp Việt Nam có sử dụng nguồn vốn Nhà nước giai đoạn từ
2005 – 2018, từ đó đưa ra các kiến nghị đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Việt Nam thực hiện ĐTRNN.
6. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu và trình bày của luận văn dựa trên cơ sở nguyên tắc bảo
đảm quyền lợi, khuyến khích hoạt động ĐTRNN của các nhà đầu tư, trong đó xác
định hiệu quả đầu tư của các nhà đầu tư là Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà
nước, các quy định pháp luật về ĐTRNN. Trong quá trình nghiên cứu, học viên có
tham khảo một số công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố, có nội
dung liên quan tới vấn đề mà luận văn đề cập.
- Phương pháp nghiên cứu
Để tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp và diễn dịch có so
sánh nhàm đạt tới mục đích đề tài đã đề ra.
7. Đóng góp mới của đề tài
- Luận văn phân tích những vấn đề lý luận về ĐTRNN;
- Phân tích thực trạng ĐTRNN của các nhà đầu tư là Doanh nghiệp có sử
dụng nguồn vốn Nhà nước trên cơ sở phân tích nghiên cứu các quy định về ĐTRNN
qua các thời kỳ của Việt Nam, đồng thời nghiên cứu các vấn đề phát sinh trong thực
tiễn hoạt động từ hoạt động khảo sát, xin cấp phép, chuyển tiền, triển khai đầu tư để
đề xuất giải pháp điều chỉnh.
- Đề tài được lựa chọn mang tính mới cao, vì hiện tại các quy định về đầu tư
ra nước ngoài còn chưa hoàn thiện, các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài còn ít,
các thủ tục, vướng mắc của doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài ở thực tế còn nhiều
nhưng các cơ quan quản lý cũng còn lúng túng trong việc hỗ trợ giải quyết.
- Những đóng góp của đề tài về mặt khoa học cũng như thực tiễn: Góp phần
hoàn thiện hơn về các quy định về đầu tư ra nước ngoài; Về việc quản lý dòng tiền đầu
tư ra, lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài; Đề xuất việc khuyến khích đầu tư ra
nước ngoài cần gắn liền với các hành động cụ thể, các giải pháp rõ ràng để các doanh
4
nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài; Hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài
định hướng đầu tư; Thực tiễn phát sinh các vướng mắc trong công tác quản lý, trong
thủ tục đầu tư, trong quản lý dự án hay quản lý nguồn vốn… tại nước ngoài.
8. Giới hạn của đề tài
Với chủ đề: “Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và thực tiễn thực
hiện của các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước”, phạm vi của Đề tài chủ yếu
tập trung nghiên cứu pháp luật đầu tư ra nước ngoài và thực trạng đầu tư ra nước
ngoài thời gian từ năm 2005 – 2018 của các Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài của
các Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước (vì theo thống kê thì các doanh
nghiệp này đang đầu tư ra nước ngoài ở quy mô lớn nhất), thực tế các vướng mắc
trong quá trình đầu tư và đề xuất giải pháp hợp lý nhằm góp phần thúc đẩy đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam có hiệu quả, đóng góp một phần vào việc
quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là đầu tư ra nước
ngoài có sử dụng vốn đầu tư của nhà nước trong thời gian tới
Đề tài này giới hạn ở hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được quy định
tại các điểm a, b, c, đ khoản 1 Điều 52 Luật Đầu tư 2014; Nghị định 83/2015/NĐ-
CP ngày 25/9/2015 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài, Nghị định
83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015 Quy định về đầu tư ra nước ngoài.
Không nghiên cứu về hình thức đầu tư gián tiếp ra nước ngoài thông qua đầu tư
mua cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường nước ngoài, được quy định tại điểm d khoản 1
Điều 52 Luật Đầu tư 2014 và Nghị định số 135/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 quy
định đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.
9. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật đầu tư ra nước ngoài.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về đầu tư ra nước ngoài và thực tiễn áp dụng
với các doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước.
Chương 3. Một số đề xuất giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện về pháp luật
và quản lý đầu tư ra nước ngoài.
5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
1.1. Tổng quan về đầu tư ra nước ngoài
1.1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư ra nước ngoài
Những năm 90, Nhà đầu tư Việt Nam chưa dám nghĩ, dám làm, chưa dám
đầu tư ra nước ngoài để mang ngoại tệ về nước, mặc dù chính sách đầu tư ra nước
ngoài đã có từ rất sớm, nhưng có thể do khó khăn về nguồn vốn, nhân sự, rào cản về
tư duy. Nhưng đến đầu những năm 2000 các nhà đầu tư trong nước đã thực hiện
nhiều hoạt động ĐTRNN, ban đầu là các nước gần, sau đó đã sang các nước tại
châu Phi, châu Mĩ, châu Âu …. Vai trò của ĐTRNN ngày càng quan trọng. Khái
niệm về đầu tư và đầu tư ra nước ngoài được quy định như sau:
Luật đầu tư năm 2005 định nghĩa:
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô
hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định
của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan (Điều 3
khoản 1).
Luật đầu tư 2014 định nghĩa:
Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt
động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp
vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình
thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư” (Điều 3 khoản 1).
Về bản chất đầu tư hay đầu tư kinh doanh là việc bỏ vốn để tiến hành các
hoạt động kinh doanh nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định lớn hơn
nguồn vốn đã bỏ ra. Những kết quả thu về đó có thể là tài sản tài chính (vốn bằng
tiền), tài sản vật chất (nhà máy, hạ tầng, các của cải vật chất khác, …), kết quả này
có thể làm tăng thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư, đồng thời làm tăng thêm của cải vật
chất cho xã hội [1, tr.12-13].
Với luật đầu tư năm 2005, thời kỳ đầu hoàn thiện khung pháp lý về ĐTRNN
6
đã định nghĩa và xác định đầu tư theo hình thức góp vốn và tính chất quản lý của nhà
đầu tư đối với vốn đầu tư, theo đó đã chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư (Điều 3 khoản 2 Luật đầu tư 2005). ĐTTT là nhà đầu tư
trực tiếp tham gia quản lý hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh
doanh, nhà đầu tư cần phải có nghề trong lĩnh vực mình đầu tư. Trong hoạt động
đầu tư không tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư với vốn
đầu tư [1, tr.18].
Đến năm 2015, khi hoạt động ĐTRNN đã thực hiện được hơn 15 năm, Luật
đầu tư 2015 chỉ đưa ra một định nghĩa chung là Đầu tư kinh doanh, không phân biệt
đầu tư trực tiếp và gián tiếp nữa, tương tự thì hoạt động Đầu tư ra nước ngoài cũng
được ghi nhận chung là “Hoạt động đầu tư ra nước ngoài” mà không phân biệt đầu
tư trực tiếp hay gián tiếp ra nước ngoài, nhưng các nội dung quy định tại Chương V
Luật đầu tư 2014 thì ghi nhận Hoạt động đầu tư ra nước ngoài chính là hoạt động
trực tiếp ra nước ngoài khi điều 52 khoản 1 điểm d ghi nhận hoạt động “Mua, bán
chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng
khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài” sẽ được Chính phủ quy
định chi tiết hình thức đầu tư này [14, tr.17-18].
Khái niệm Đầu tư ra nước ngoài được giải thích cụ thể tại Nghị định
83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 quy định về đầu tư ra nước ngoài (Nghị định 83/2015):
Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán
mua một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu
để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng
thời trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó (Điều 3 khoản 1 Nghị
định 83/2015).
1.1.2. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán mua
một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu để thực hiện
7
hoạt động đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng thời trực tiếp tham gia
quản lý hoạt động đầu tư đó.
Về thực chất ĐTTTRNN là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư quốc tế để
xây dựng hoạt mua một cổ phần, thậm chí toàn bộ cơ sở kinh doanh ở nước ngoài
để làm chủ sở hữu toàn bộ hay một phần cơ sở đó. Trực tiếp quản lý điều hành hoặc
tham gia quản lý điều hành hoạt động đối với đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chịu
trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quản sản xuất kinh doanh của cơ sở đó.
Đầu tư ra nước ngoài có các đặc điểm sau:
- Chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định,
tùy theo luật đầu tư nước ngoài của nước tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
quy định, quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn gắn liền với chủ đầu tư.
- Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn của mỗi bên. Với
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì chủ đầu tư toàn quyền quản lý doanh nghiệp.
- Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh
doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được thực hiện thông qua việc thành lập
doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt động
hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà
còn gắn với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý,
tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía tiếp nhận đầu tư. Vốn đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình
thức vốn pháp định mà nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai
và mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư trích từ lợi nhuận thu được trong quá trình
hoạt động của doanh nghiệp.
- Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tạo ra một nguồn vốn dài hạn cho nước
chủ nhà và ít chịu sự chi phối của chính phủ cũng như các quan hệ chính trị giữa
chủ đầu tư với chính phủ nước tiếp nhận đầu tư.
Trên thực tế, đầu tư ra nước ngoài được thực hiện dưới rất nhiều dạng, một số
8
dạng cơ bản, phổ biến ở nước ta bao gồm: (i). Hợp đồng hợp tác kinh doanh; (ii).
Doanh nghiệp liên doanh; Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài; (iii). Các hình
thức đầu tư thông qua Hợp đồng như Hợp hợp đồng BOT, BTP, BT [14, tr.23-25].
1.1.3. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài
Năm 2009, sau 10 năm đầu tư ra nước ngoài kể từ khi có cơ chế mang tính
pháp lý đầu tiên cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài, mặc dù trước đó đã có nhiều
doanh nghiệp thực hiện đầu tư ra và có hiệu quả. Nhưng đến hiện nay, hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam còn mang tính tự phát của doanh nghiệp, phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng: Số lượng và quy mô các dự án còn nhỏ so với
các nước có điều kiện tương tự; nhiều doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài gặp nhiều
khó khăn mà không có sự hỗ trợ từ các cấp có thẩm quyền. Ngoài nguyên nhân nội
tại của nhà đầu tư thì nguyên nhân quan trọng nhất tác động toàn diện đến chiến
lược, thể chế chính sách, thủ tục hành chính đối với các hoạt động đầu tư ra nước
ngoài, đó là các cấp quản lý nhà nước có thẩm quyền, xã hội chưa coi trọng vai trò
của đầu tư ra nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế đất nước trong điều kiện trong
nước còn thiếu nguồn lực tài chính, phải tăng cường kêu gọi vốn FDI để tham gia
xây dựng đất nước. Việc kêu gọi đầu tư vào đang gặp nhiều khó khăn, trong khi
việc đầu tư ra nước ngoài lại mang ngoại tệ từ trong nước ra nước ngoài. Chính điều
đó đã làm giảm lợi thế trong việc đàm phán song phương khi ký hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư. Thường chúng ta sẽ chỉ ký và đàm phán tốt được với các
nước không có đầu tư vào Việt Nam, còn các nước chúng ta không đầu tư, chỉ có họ
đầu tư đến chúng ta sẽ bỏ qua mất lợi thế đàm phán [14, tr.25]
Qua nghiên cứu các tài liệu và tình hình thực tế có thể thấy việc nhận định về
vai trò của hoạt động ĐTRNN như trên là chưa thỏa đáng, khiến cho việc hoàn thiện
cơ chế chính sách cho loại hình đầu tư này diễn ra chậm. Nhiều nước trên thế giới, kể
cả các nước đang phát triển vẫn khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài vì vai
trò tích cực đối với nước xuất khẩu vốn và nhà đầu tư ở nước ngoài, cụ thể như:
(i). Đối với quốc gia: Giúp củng cố vai trò chính trị và vị thế kinh tế của VN
trong khu vực và trên thế giới. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài luôn đi kèm với hoạt
động kinh tế đối ngoại của Việt Nam; Khi thanh công hoạt động đầu tư nước ngoài
9
góp phàn tác động ngược lại nền kinh tế trong nước theo hướng thúc đẩy công cuộc
cải tổ nền kinh tế, cải cách về thể chế chính sách, về thuế, thủ tục hành chính, hệ
thống thông tin đối ngoại, chính sách điều hành vĩ mô. Góp phần tạo ra đội ngũ
thương nhân năng động, có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, góp phần làm tăng
năng lực quốc gia. góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của VN theo
hướng ổn định và có hiệu quả hơn vì chính cơ sở sản xuất và dịch vụ ở nước ngoài
là điểm đến của hàng hóa, thiết bị, bí quyết công nghệ (y khoa, chế biến thực
phẩm…), nhân công của Việt Nam [14, tr.27]
(ii). Đối với Doanh nghiệp:
Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường thế
giới, tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt hơn, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Giúp
các công ty phát triển vốn vô hình của mình: thương hiệu, công nghệ, bí quyết công
nghệ; Giúp doanh nghiệp có điều kiện phân tán rủi ro kinh doanh, điều này có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong thế giới đầy biến động về kinh tế – chính trị như hiện nay.
Tóm lại, hoạt động ĐTRNN thể hiện mối quan hệ hữu cơ ”Ích nước, lợi cho
nhà đầu tư”, cho nên cần có những giải pháp mang tính chủ động làm cho hoạt động
này phát triển có hiệu quả, và làm giảm tác động hạn chế như sau của hoạt động đầu
tư ra nước ngoài:
Tại văn bản hướng dẫn về đầu tư ra nước ngoài ghi nhận:
Nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức kinh tế tại Việt Nam đầu
tư ra nước ngoài đối với những lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động; phát
huy có hiệu quả các ngành, nghề truyền thống của Việt Nam; mở rộng thị
trường, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư; tăng khả
năng xuất khẩu, thu ngoại tệ (Điều 75 khoản 1 Nghị định 78/2006).
Tuy nhiên thực tế thực hiện vẫn còn rất nhiều vấn đề cần bàn tới để tạo hành
lang và điều kiện cho đầu tư ra nước ngoài [14, tr.30-31]
1.2. Tổng quan pháp luật về đầu tư ra nước ngoài
1.2.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư ra nước ngoài
Như đã phân tích ở phần tổng quan về đầu tư ra nước ngoài có thể thấy đầu
tư ra nước ngoài với dự án đầu tư thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh vực, chủ đầu tư
10
thuộc nhiều thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn
Nhà nước... ở mỗi góc độ, hoặc mục đích đầu tư khác nhau sẽ có những cách hiểu
khác nhau và pháp luật về đầu tư ra nước ngoài và pháp luật về đầu tư ra nước ngoài
là một góc độ nghiên cứu, tiếp cận pháp lý với nội dung liên quan đến các quy định
pháp luật về đầu tư ra nước ngoài.
Hiểu theo nghĩa rộng: “Pháp luật đầu tư ra nước ngoài là tổng hợp các quy
phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình các nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài”.
Theo cách định nghĩa trên, ĐTRNN được điều chỉnh bởi nhiều quan hệ pháp
luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm: Luật đầu tư 2014, Luật doanh nghiệp
năm 2014, Luật quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp 2014 cùng các văn bản hướng dẫn kèm theo. Các quy định về
ĐTRNN trong các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên phần nào phù hợp với các
cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký.
Hiểu theo nghĩa hẹp: “Pháp luật đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư
chuyển vốn; hoặc thanh toán mua một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc
xác lập quyền sở hữu để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt
Nam; đồng thời trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó”.
Theo cách hiểu trên thì pháp luật về ĐTRNN sẽ điều chỉnh hoạt động
ĐTRNN của các nhà đầu tư có đăng ký đầu tư, điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan
quản lý nhà nước với doanh nghiệp, là công cụ để nhà nước thực hiện quyền quản
lý trong nền kinh tế.
Cụ thể pháp luật về ĐTRNN quy định về chủ thể đầu tư, hình thức đầu tư, nguồn
vốn đầu tư, chế độ báo cáo, chuyển lợi nhuận về nước, điều chỉnh, chấm dứt dự án.
Dù hiểu theo cách nào thì những khái niệm trên đều mang tính tương đối và
định ra giới hạn của việc tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá pháp luật về ĐTRNN
trong tổng thể pháp luật nói chung. Tuy vậy hai cách hiểu này đã giúp cho việc xây
dựng luận cứ khoa học và giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật ĐTRNN tại Việt Nam.
11
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN
ĐTRNN chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Mỗi một
văn bản pháp luật khác nhau lại có những nguyên tắc điều chỉnh khác nhau. Do vậy,
nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN cũng sẽ thay đổi theo sự điều chỉnh của
từng nguyên tắc pháp luật trong từng lĩnh vực riêng. Đây chính là điểm khác biệt
của hoạt động ĐTRNN so với các hoạt động đầu tư thông thường khác.
Trong mỗi một lĩnh vực pháp luật như doanh nghiệp, đầu tư … đều chứa
đựng một phần những quy định về đầu tư. Khi những quy định riêng, những lĩnh
vực riêng giao thoa với nhau tạo nên không gian chung sẽ hình thành những chuyên
tắc chung điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN. Trong sự hiểu biết và nghiên cứu, luận
văn chỉ ra những nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về ĐTRNN như sau:
- Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài
nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch
vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và bổ sung
nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước (Điều 51 khoản 1 Luật đầu tư 2014).
- Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải tuân thủ quy định
của Luật đầu tư, quy định khác của pháp luật có liên quan, pháp luật của quốc gia,
vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên; tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước
ngoài (Điều 51 khoản 2 Luật đầu tư 2014).
- Nhà nước Việt Nam không cấp phép ĐTRNN đối với những dự án gây
phương hại đến bí mật, an ninh quốc gia, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần phong
mỹ tục của Việt Nam.
1.2.3. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTRNN
1.2.3.1. Nội dung quy định pháp luật chung
Để điều chỉnh được các quan hệ phát sinh trong hoạt động ĐTRNN, pháp
luật về ĐTRNN phải được cụ thể hóa bởi hệ thống pháp luật như sau:
Một là, Luật Đầu tư 2014 với những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
ĐTRNN. Luật đầu tư 2014 là căn cứ chung trong việc thực hiện ĐTRNN. Mặc dù là
12
quy định chung, nhưng khá đầy đủ về quy định đầu tư, quản lý đầu tư, thủ tục đầu
tư, là cơ sở để các nhà đầu tư thực hiện hoạt động ĐTRNN.
Hai là, các quy định hiện hành nằm rải rác trong Luật Doanh nghiệp, Luật
quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp và các Nghị định
hướng dẫn thi hành. Các văn bản pháp luật này quy định về ĐTRNN bao gồm thẩm
quyền phê duyệt, lập dự án, góp vốn, loại hình vốn góp, mua cổ phần, thành lập
công ty triển khai dự án. Luật Doanh nghiệp và Luật quản lý và sử dụng vốn nhà
nước đầu tư tại các doanh nghiệp đã tạo khung pháp lý cũng như ghi nhận các
quyền của chủ thể tham gia ĐTRNN.
Ba là, Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh ngoại hối năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật kèm theo điều
chỉnh chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong đó có hoạt động giao dịch
chuyển vốn giữa người cư trú với người không cư trú trong các hoạt động đầu tư
trực tiếp, vay nợ nước ngoái, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài.
1.2.3.1. Nội dung pháp luật về ĐTRNN
Theo phân tích trên, hoạt động ĐTRNN chịu sự điều chỉnh của nhiều văn
bản pháp luật ở các ngành khác nhau như doanh nghiệp, đầu tư, quản lý ngoại hối.
Bên cạnh đó, ĐTRNN là lĩnh vực đặc thù nên nó cũng cần tuân thủ những quy định
liên quan đến hoạt động xin cấp phép, lĩnh vực khuyến khích, hạn chế đầu tư, đảm
bảo nguồn vốn. Để biết được pháp luật điều chỉnh như thế nào đối với ĐTRNN, cần
phân tích các mục được pháp luật quản lý như sau
Về góc độ Nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài
Nhà đầu tư chịu trách nhiệm góp vốn và huy động các nguồn vốn để thực
hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Việc vay vốn bằng ngoại tệ, chuyển vốn đầu tư
bằng ngoại tệ phải tuân thủ điều kiện và thủ tục theo quy định của pháp luật về ngân
hàng, về các tổ chức tín dụng, về quản lý ngoại hối. (Điều 53 Luật đầu tư 2014).
Từng nhà đầu tư Việt Nam giải trình về nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài cần
phải giải trình về nguồn vốn và phương thức sử dụng nguồn vốn của mình, trong đó
Vốn chủ sở hữu là bao nhiêu, sử dụng vốn vay là bao nhiều, trong đó đối với nguồn
13
vốn vay thì vay tổ chức tín dụng trong và ngoài nước như thế nào, giá trị bao nhiêu,
thời hạn, lãi suất như thế nào [1, tr.40].
Đối với dự án sử dụng vốn nhà nước để đầu tư ra nước ngoài, cần phải nêu
sự phù hợp với quy định về quản lý và sử dụng vốn nhà nước để đầu tư tại nước
ngoài. Sự phù hợp này là đánh giá hồ sơ nội bộ của dự án, theo đó cấp có thẩm
quyền được giao quản lý vốn nhà nước sẽ xin phép và phê duyệt đầu tư. Các nhà
đầu tư là doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn nhà nước (không phải là vốn của nhà
nước đầu tư ra nước ngoài) sẽ không phải đánh giá trực tiếp về nội dung này, tuy
nhiên khi có nguồn vốn Nhà nước, có cơ quan quản lý, giám sát nguồn vốn đó thì
khi xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài, Bộ KHĐT đã gửi một bộ hồ sơ
xin cấp phép để xin ý kiến lại Bộ chủ quản nhà đầu tư về đề nghị đầu tư ra nước
ngoài của doanh nghiệp đó, theo đó Nhà đầu tư cũng sẽ vẫn phải giải trình, làm rõ
hồ sơ đối với cơ quan chủ quản đó về tính hợp lệ của nguồn vốn.
Nhà đầu tư dù có sử dụng nguồn vốn từ nhà nước hay không đều phải cam
kết về tính hợp pháp của nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài và cam kết tự chịu trách
nhiệm về hiệu quả của dự án đầu tư.
Khi đề nghị xin thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư phải tự
cam kết thu xếp ngoại tệ để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài, trong đó
nêu rõ khoản ngoại tệ đang đó trên tài khoản ngân hàng và có văn bản của tổ chức
tín dụng xác nhận số dư tài khoản ngoại tệ của nhà đầu tư. Mặc dù việc nhà đầu tư
chủ động về nguồn vốn, nhưng đối với nguồn ngoại tệ vẫn cần một sự cam kết tự
thu xếp của nhà đầu tư. Nhưng khi đã cam kết tự thực hiện, tại sao vẫn cần sự xác
nhận của Ngân hàng, có thể đây là một điều kiện để tránh hiểu nhầm khi cấp phép
cho dự án thì trách nhiệm đối với ngoại tệ không thuộc về Ngân hàng Nhà nước,
đồng thời cũng cần chứng minh dự án có đủ điều kiện để triển khai thay vì cấp
phép xong sẽ khó thực hiện và vốn là một yếu tố quan trọng nhất để triển khai dự
án đầu tư, đặc biệt là dự án đầu tư ra nước ngoài, luôn cần nguồn ngoại tệ để
chuyển ra nước ngoài [1, tr.45].
14
Về nguyên tắc thực hiện hoạt động ĐTRNN
Theo pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư được ĐTRNN trong tất cả các lĩnh vực,
ngành nghề của nền kinh tế quốc dân và khuyến khích đầu tư đầu tư cụ thể như sau:
- Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước
ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu
hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực
quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước (Điều 51 khoản
1 Luật đầu tư 2014).
- Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải tuân thủ quy định
của Luật đầu tư, quy định khác của pháp luật có liên quan, pháp luật của quốc gia,
vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên; tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước
ngoài (Điều 51 khoản 2 Luật đầu tư 2014).
- Nhà nước Việt Nam không cấp phép ĐTRNN đối với những dự án gây
phương hại đến bí mật, an ninh quốc gia, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần phong
mỹ tục của Việt Nam.
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam là nước đông dân, nguồn lao động rất dồi
dào. Nhà nước cần phải có chính sách để sử dụng nguồn lao động đó. Nếu không có
đủ việc làm thì không những rất lãng phí sức lao động mà sẽ xuất hiện nhiều tệ nạn
xã hội, càng ngày càng gia tăng. Do đó, lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động cần phải
được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi bằng các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ để các
doanh nghiệp đưa nhiều lao động ra nước ngoài.
Ngoài ra, ở Việt Nam hiện nay còn có rất nhiều làng nghề truyền thống như:
gốm sứ Bát Tràng, lụa Hà Đông, khảm trai, mỹ nghệ… cũng là một trong những thế
mạnh cần được mở rộng, hướng ra thị trường thế giới nhằm cải thiện đời sống người
nông dân, thay đổi cơ chế sản xuất nhỏ lẻ tạo nên cơ chế sản xuất chuyên nghiệp hơn,
rộng lớn hơn, lợi nhuận nhiều hơn, phù hợp với xu thế vận động toàn cầu.
Không những vậy, pháp luật khuyến khích ĐTRNN đối với lĩnh vực khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư, đây là hướng đi đúng đắn mà tất cả các
15
quốc gia phát triển trên thế giới không có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào sử
dụng khi tiến hành ĐTRNN. Nhật Bản là một nước có 67% là đồi núi, với rất nhiều
núi lửa, không được ưu đãi về nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng nên kinh tế rất
phát triển vì chủ yếu xuất phát từ số lượng đầu tư ra nước ngoài nhiều [14, tr.47]
Không chỉ vậy, những lĩnh vực đầu tư làm tăng khả năng xuất khẩu, thu
ngoại tệ cũng được nhà nước Việt Nam khuyến khích. Bởi vì hoạt động ĐTRNN
của các nhà đầu tư không chỉ thu lại nhiều lợi nhuận cho đất nước mà còn là đòn
bẩy đẩy mạnh các hoạt động kinh tế quan trọng khác phát triển.
Bên cạnh lĩnh vực khuyến khích đầu tư, nhà nước còn quy định những lĩnh
vực cấm cấp phép đầu tư nhằm đảm bảo bí mật an ninh quốc phòng, lịch sử, văn
hoá, thuần phong mỹ tục của Việt Nam bởi suy cho cùng tất cả các hoạt động của
nhà nước đều nhằm mục đích cuối cùng là xây dựng đất nước Việt Nam ổn định,
hoà bình và phát triển. Vì vậy, phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và đảm bảo
an ninh quốc phòng, ổn định chính trị đất nước. Không thể vì lợi ích kinh tế trước
mắt mà Chính phủ xem nhẹ lợi ích lâu dài, bảo vệ tổ quốc và lịch sử, văn hoá, thuần
phong mỹ tục của quốc gia mình.
Với những quy định trên thì Nghị định 22/1999/NĐ-CP đã đảm bảo việc đầu
tư có quy hoạch, đem lại lợi ích cho nhà đầu tư và cho xã hội. Tuy nhiên điểm hạn
chế dễ nhận thấy sau khi đi vào thực hiện là các quy định này chỉ mới dừng lại ở
tính chất là các quy định khung. Cho đến Nghị định 83/2015/NĐ-CP cũng không hề
có các quy định cụ thể về danh mục các lĩnh vực được khuyến khích, hạn chế, cấm
ĐTRNN [14, tr.50-51].
Điều kiện đầu tư ra nước ngoài:
Để được đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư trực tiếp, Luật đầu tư
năm 2014 quy định, nhà đầu tư phải có các điều kiện bao gồm:
- Có dự án đầu tư ra nước ngoài;
- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam;
- Được cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
16
Khi đáp ứng được các điều kiện, Bộ KHĐT sẽ xem xét và lấy ý kiến các cơ
quan Bộ, Ngang bộ về hồ sơ đề nghị cấp phép đối với tùy từng dự án để quyết định
cấp phép hoặc tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ hoặc Quốc hội xem xét quyết
định chủ trương đầu tư sau đó cấp phép cho nhà đầu tư. Khi được cấp Giấy chứng
nhận đầu tư ra nước ngoài, Nhà đầu tư mới đủ điều kiện đăng ký chuyển tiền ra
nước ngoài thông qua tài khoản Ngoại tệ đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước nơi có
trụ sở để chuyển tiền và thực hiện đầu tư [14, tr.55]
1.3. Quản lý Nhà nước về đầu tư
Cấp phép cho các dự án đầu tư và mang tiền, tài sản trị giá bằng tiền để đầu
tư ra nước ngoài để tìm kiếm nguồn lợi nhuận, mang lợi nhuận, công nghệ, ngoại tệ
về Việt Nam, tạo công việc cho lao động trong nước là trách nhiệm của các cơ quan
Nhà nước. Tuy nhiên việc quản lý hoạt động đầu tư là rất cần thiết.
Trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Điều 28 Nghị định 83/2015).
Trong thời gian tới, hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam sẽ càng
mạnh mẽ hơn, do vậy vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp là rất
quan trọng, cùng với đó là khung pháp lý và thể chế hoàn thiện hơn nhằm khơi
thông dòng chảy vốn ra nước ngoài. Như vậy, Nhà nước cần rà soát lại những cơ
chế, chính sách chưa phù hợp và còn gây khó khăn cho doanh nghiệp khi đầu tư ra
nước ngoài, đồng thời tăng cường cơ chế cung cấp thông tin và xúc tiến đầu tư. Các
cơ chế chính sách thúc đẩy ĐTRNN cần được kết hợp hữu hiệu với các chính sách
phát triển doanh nghiệp, cải cách doanh nghiệp Nhà nước (nhất là cơ chế quản lý tài
chính các tập đoàn, tổng công ty), cải cách môi trường kinh doanh và phát triển công
nghệ của đất nước. Vấn đề cốt lõi là tạo cơ chế, chính sách nâng cao sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp và tăng khả năng tích tụ vốn. Để đạt được điều này, Nhà nước
cần tạo ra một môi trường kinh doanh - đầu tư bình đẳng, thân thiện [1, tr.57-58].
Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Điều 29 Nghị định 83/2015)
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan khác có liên
quan trong việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm
quyền ban hành các quy định của pháp luật, các cơ chế, chính sách về tín dụng,
17
quản lý ngoại hối, kiểm soát các hành vi rửa tiền liên quan đến hoạt động đầu
tư ra nước ngoài.
Tham gia ý kiến về các vấn đề liên quan đến nguồn vốn và quản lý ngoại hối
của các dự án đầu tư khi có yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ hoặc đề nghị của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, kiểm tra thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với hoạt động
chuyển ngoại tệ từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài về Việt Nam liên quan
đến các dự án đầu tư ra nước ngoài [1, tr.65]
Giám sát các ngân hàng thương mại trong việc cho nhà đầu tư vay để thực
hiện các hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo quy định pháp luật về quản lý ngoại hối.
Trách nhiệm của Bộ Tài chính (Điều 30 Nghị định 83/2015).
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành liên quan trong
việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành
các quy định của pháp luật, các cơ chế, chính sách về tài chính liên quan đến hoạt
động đầu tư ra nước ngoài.
Tham gia ý kiến về các vấn đề thuộc lĩnh vực tài chính, thuế, hải quan, đầu
tư có sử dụng vốn nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài khi có
yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ hoặc đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị có ý kiến đối với các dự án
đầu tư thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ.
Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao (Điều 31 Nghị định 83/2015)
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan
trong việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban
hành các quy định của pháp luật, các cơ chế hỗ trợ của cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước ngoài và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư Việt Nam tại quốc gia,
vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư.
Chỉ đạo cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài theo dõi và hỗ trợ hoạt
động đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam tại quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư;
hỗ trợ Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xác minh thông tin liên quan đến hoạt
động đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam trên địa bàn quản lý khi có yêu cầu.
18
Thực hiện chế độ báo cáo về tình hình hỗ trợ của cơ quan đại diện Việt Nam
ở nước ngoài đối với hoạt động đầu tư của Việt Nam tại quốc gia, vùng lãnh thổ
tiếp nhận đầu tư theo quy định tại Khoản 2 Điều 72 của Luật Đầu tư gửi Bộ Kế
hoạch và Đầu tư bằng văn bản và thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.
Trách nhiệm của Bộ Công Thương (Điều 32 Nghị định 83/2015)
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan
trong việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban
hành các quy định của pháp luật, các cơ chế, chính sách về thương mại, công nghiệp
và năng lượng liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với hoạt động thương mại,
công nghiệp và năng lượng liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Điều 33 Nghị
định 83/2015)
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan
trong việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban
hành các quy định của pháp luật, các cơ chế, chính sách về nông nghiệp, lâm
nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản liên quan đến hoạt động đầu tư
ra nước ngoài.
Kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với hoạt động nông
nghiệp, lâm nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản liên quan đến hoạt
động đầu tư ra nước ngoài.
Trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Điều 34 Nghị định
83/2015)
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan
trong việc xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban
hành các quy định, của pháp luật, các cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng lao
động Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
19
Kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với việc đưa lao động Việt
Nam ra nước ngoài làm việc tại các dự án đầu tư ở nước ngoài.
Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (Điều
35 Nghị định 83/2015)
Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xây dựng các quy định của
pháp luật, chính sách, quy hoạch liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Tham gia ý kiến về các vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được phân
công liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài khi có yêu cầu của Thủ tướng
Chính phủ hoặc đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được văn bản đề nghị có ý kiến đối với các dự án đầu tư thuộc diện cần
có quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ.
Kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với các vấn đề thuộc lĩnh
vực quản lý nhà nước được phân công liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Quản lý và giám sát việc sử dụng nguồn vốn nhà nước để đầu tư ra nước
ngoài đối với các doanh nghiệp nhà nước, phần vốn nhà nước đầu tư tại doanh
nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý hoặc do mình làm đại diện chủ sở hữu.
Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(Điều 36 Nghị định 83/2015)
Theo dõi và quản lý các nhà đầu tư đặt trụ sở hoặc cư trú trên địa bàn có hoạt
động đầu tư ra nước ngoài theo quy định của pháp luật doanh nghiệp và pháp luật
liên quan.
Tham gia ý kiến về các nội dung thuộc thẩm quyền quản lý liên quan đến dự
án đầu tư của các nhà đầu tư có trụ sở chính đặt tại địa bàn khi có yêu cầu của Thủ
tướng Chính phủ hoặc đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị có ý kiến đối với các dự án đầu tư thuộc diện
cần có quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ.
Phối hợp với các Bộ, ngành hướng dẫn các quy định của pháp luật về đầu tư
ra nước ngoài; kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư ra nước ngoài; giải quyết những
vướng mắc trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư ra nước ngoài.
20
Quản lý và giám sát việc sử dụng nguồn vốn nhà nước để đầu tư ra nước
ngoài đối với các doanh nghiệp nhà nước, phần vốn Nhà nước đầu tư tại doanh
nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý hoặc do mình làm đại diện chủ sở hữu.
Trách nhiệm của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (Điều 37 Nghị
định 83/2015)
1. Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm làm đầu mối
phối hợp với các cơ quan của Việt Nam ở nước ngoài theo dõi và hỗ trợ các nhà
đầu tư trong việc chấp hành các quy định pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ
tiếp nhận đầu tư.
2. Thực hiện chế độ báo cáo về tình hình hỗ trợ của cơ quan đại diện Việt
Nam ở nước ngoài đối với hoạt động đầu tư của Việt Nam tại địa bàn mình quản lý
theo quy định tại Khoản 2 Điều 72 của Luật Đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư
bằng văn bản và thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.
- Mặc dù có quy định như trên, nhưng một số cơ quan đại diện ngoại giao ở
nước ngoài cho biết các đơn vị này không có kinh phí và cơ chế tài chính hỗ trợ
hoạt động ĐTRNN (bao gồm cả hoạt động thẩm tra, xác minh thông tin). Nên việc
quy định trách nhiệm của cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài là có, nhưng
việc thực hiện rất khó khăn, chưa kể những nước có hoạt động đầu tư nhỏ, rải rác.
1.3.1. Quản lý, giám sát đầu tư
Quản lý, giám sát dự án ĐTRNN sử dụng vốn nhà nước, theo quy định về
quản lý sử dụng vốn, trách nhiệm thuộc về các cơ quan đại diện chủ sở hữu tại các
doanh nghiệp. Các cơ quan liên quan chịu trách nhiệm quản lý theo chức năng,
nhiệm vụ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý việc tuân thủ và chấp hành các quy định
pháp luật về ĐTRNN thuộc phạm vi quản lý của BKHĐT [1, tr.68].
Ngày 26 tháng 11 năm 2014 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư 2014, Luật
quản lý sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp giúp tăng cường phân rõ hơn vai
trò, trách nhiệm quản lý vốn Nhà nước đầu tư trong các dự án ĐTRNN.
Thực hiện Luật Đầu tư 2014 với các quy định chặt chẽ hơn trong vấn đề sử
21
dụng vốn nhà nước để đầu tư ra nước ngoài, số lượng các dự án đầu tư ra nước
ngoài có sử dụng vốn nhà nước đã giảm đáng kể từ năm 2015 đến nay. Vốn chuyển
ra nước ngoài cũng giảm mạnh từ chiếm khoảng 80% xuống còn khoảng 40-45%
tổng vốn chuyển ra nước ngoài.
Hiện nay, các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có sử dụng nguồn vốn Nhà
nước đã giảm, nhưng các doanh nghiệp đã xin cấp phép và đang thực hiện hoạt
động còn rất nhiều, việc quản lý như thế nào cho phù hợp cũng đang gây nhiều khó
khăn cho cơ quan Nhà nước nước, do: Khi đầu tư ra nước ngoài các doanh nghiệp
tại nước ngoài hoạt động theo luật pháp nước tiếp nhận đầu tư, đó là các doanh
nghiệp tại nước ngoài, ngoài nhà đầu tư Việt Nam, còn có các nhà đầu tư khác. Các
doanh nghiệp đó đầu tư theo hình thức nào, có theo dự án đã trình hay không, việc
báo cáo và giám sát rất khó, phụ thuộc vào báo cáo của Nhà đầu tư. Việc các cơ
quan xác định quản lý đến mức nào đang gây khó khăn, chỉ quản lý hiệu quả vốn
đầu tư hay sẽ quản lý về tổng thể dự án. Cái muốn thì không làm được, cái thực
hiện được cũng có nhiều lo lắng chưa dám làm [14, tr.69]
- Ngoài ra, các Bộ, ngành khi xây dựng, ban hành/trình các cấp có thẩm
quyền ban hành các văn bản pháp luật khác có những nội dung liên quan đến
ĐTRNN cũng đã lồng ghép một số nội dung quy định có liên quan đến ĐTRNN. Ví
dụ các quy định pháp luật do Bộ Tài chính xây dựng có lồng ghép quy định về
ĐTRNN: Luật số 69/2014/QH13 về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp có điều khoản quy định về ĐTRNN của doanh
nghiệp; Nghị định số 87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 về giám sát đầu tư vốn nhà
nước, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước có mục về giám sát vốn của
doanh nghiệp ĐTRNN; Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 hướng dẫn
kê khai thuế thu nhập doanh nghiệp đối với cả trường hợp doanh nghiệp có dự án
đầu tư ở nước ngoài [14, tr.70].
1.3.2. Theo dõi và báo cáo hoạt động đầu tư
Bên cạnh việc triển khai, thực hiện các công tác, nhiệm vụ cụ thể được giao
liên quan đến quản lý nhà nước về ĐTRNN, các cơ quan quản lý nhà nước về
22
ĐTRNN còn có nhiệm vụ thực hiện các chế độ báo cáo định kỳ về tình hình
ĐTRNN. Theo quy định tại Điều 72 Luật Đầu tư 2014, các bộ, cơ quan ngang bộ và
ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm định kỳ 06 tháng và hàng năm báo cáo tình
hình quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTRNN gửi BKHĐT tổng hợp; BKHĐT
định kỳ 06 tháng, hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình ĐTRNN và
tình hình thực hiện chế độ báo cáo của các cơ quan khác [14, tr.76]
Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng đã có nhiều báo cáo lên lãnh đạo Chính phủ các
cấp/Quốc hội về tình hình ĐTRNN của Việt Nam nói chung, VD: các báo cáo tình
hình hoạt động đầu tư sang các địa bàn nhất định phục vụ các hội nghị cấp quốc gia,
các đoàn công tác của lãnh đạo các cấp, báo cáo Ủy ban kinh tế quốc hội, báo cáo
tình hình ĐTRNN đi kèm các chương trình tổng kết 5 năm Đề án thúc đẩy đầu tư ra
nước ngoài, trình chiến lược đầu tư sang Lào và Campuchia, rà soát, đánh giá đầu tư
sang Lào & Campuchia...
Theo như thông tin cổng quốc gia đầu tư, hiện tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
xây dựng, vận hành và hoàn thiện Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài
và đầu tư ra nước ngoài nhằm kết nối thông tin giữa nhà đầu tư và các cơ quan quản
lý nhà nước, theo thông tin từ Bộ KHĐT tiến tới cổng thông tin sẽ kết nối giữa các
cơ quan quản lý nhà nước với nhau để phối hợp trong công tác theo dõi, giám sát
bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà
nước và nhà đầu tư [14, tr.77].
1.4. Quy định đầu tư ra nước ngoài đối với các doanh nghiệp có sử dụng
nguồn vốn Nhà nước
1.4.1. Sử dụng vốn, tài sản của Doanh nghiệp có nguồn vốn Nhà nước để
đầu tư ra nước ngoài
Theo quy định tại Điều 3 khoản 8, 9 Luật số 69/2014 về quản lý, sử dụng
vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại Doanh nghiệp, thì vốn Nhà nước
tại doanh nghiệp có:
Vốn nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn
tiếp nhận có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại
doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp; vốn tín dụng do Chính phủ bảo
23
lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu
tư tại doanh nghiệp.
Vốn của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ bao gồm vốn
chủ sở hữu của doanh nghiệp và vốn do doanh nghiệp huy động.
Đối với một số công ty, mặc dù không trực tiếp sử dụng vốn nhà nước từ các
nguồn nêu trên, nhưng trong doanh nghiệp lại có Nguồn vốn từ Nhà nước, đó là
Doanh nghiệp Nhà nước góp vốn vào các công ty cổ phần, công ty Trách nhiệm
Hữu hạn 2 thành viên trở lên và Doanh nghiệp sử dụng vốn Nhà nước đó cử Người
đại diện vốn của mình tại Doanh nghiệp đầu tư để quản lý nguồn vốn đó.
Khi có dự án đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp sử dụng vốn Nhà nước
cần chứng minh được: Nguồn vốn đầu tư có tỷ lệ nguồn vốn từ Nhà nước là bao
nhiêu và phải chứng minh được sự chấp thuận của Người đại điện hoặc cơ quan có
thẩm quyền đối với nguồn vốn đó để thực hiện đầu tư [14, tr.78].
1.4.2. Trách nhiệm của Người được giao quản lý vốn
Đối với những vấn đề của doanh nghiệp thường liên quan đến các vấn đề
quản lý và giám sát bao gồm:
- Tuân thủ theo quy định của pháp luật, Điều lệ của Doanh nghiệp đã cử
Người Đại diện; các quy định của doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ được
giao, các quyền, trách nhiệm của mình.
- Khi được ủy quyền thực hiện một số hoặc toàn bộ quyền của cổ đông hoặc
thành viên góp vốn tại Doanh nghiệp thì Người Đại diện phải sử dụng các quyền đó
một cách cẩn trọng theo đúng chỉ đạo, chiến lược và định hướng của doanh nghiệp
trong từng thời kỳ; giám sát, bảo toàn, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng liên
quan đến phần vốn góp của Doanh nghiệp.
- Thực hiện quyền của cổ đông/thành viên góp vốn, thành viên quản lý điều
hành tại Doanh nghiệp theo đúng các quy định của công ty để định hướng phát triển
và sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp theo chiến lược và định hướng.
- Theo dõi, giám sát tình hình hoạt động, kết quả sản xuất kinh doanh, tài
chính của Doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và Điều lệ doanh nghiệp đó;
24
báo cáo kịp thời, đề xuất những giải pháp đối về tình hình Doanh nghiệp hoạt động
thua lỗ; không đảm bảo khả năng thanh toán; đầu tư không đúng mục tiêu chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch; không hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ do của Doanh
nghiệp cử làm Người đại diện vốn.
- Người Đại diện ở Công ty con, Doanh nghiệp có vốn góp chi phối có trách
nhiệm hướng Doanh nghiệp đó đi đúng mục tiêu, định hướng; sử dụng quyền chi
phối hoặc phủ quyết để quyết định các định hướng, chủ trương của công ty theo
đúng mục tiêu. Khi phát hiện Doanh nghiệp đi chệch mục tiêu, định hướng thì phải
báo cáo kịp thời và đề xuất giải pháp khắc phục. Sau khi được phê duyệt giải pháp
khắc phục, Người Đại diện cần tổ chức thực hiện ngay để nhanh chóng hướng
doanh nghiệp đi đúng mục tiêu, định hướng đã xác định.
- Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
Doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những yếu kém, sai phạm trong quản lý, điều hành
sản xuất kinh doanh tại Doanh nghiệp và kiến nghị các giải pháp khắc phục kịp
thời. Trong trường hợp cần thiết, Người Đại diện kiến nghị thực hiện các biện pháp
xử lý khẩn cấp như: triệu tập Đại hội đồng cổ đông để giải quyết các vấn đề.
- Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo định kỳ quý và hàng năm, báo cáo đột
xuất và báo cáo khác theo quy định của Doanh nghiệp cử Người đại diện.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và Doanh nghiệp cử Người đại diện về
các nhiệm vụ được giao. Trường hợp thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật, trách
nhiệm của Người đại diện vốn, lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn gây thiệt hại đến kinh
tế, gây mất vốn, tài sản thì sẽ bị xử lý kỷ luật, chịu trách nhiệm bồi thường, hoàn trả
theo quy định của pháp luật.
- Người Đại diện phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Doanh nghiệp
cử mình là Người đại diện.
- Khi có thông báo chia lợi nhuận, cổ tức Người Đại diện yêu cầu doanh
nghiệp được cử làm Người Đại diện chuyển phần lợi nhuận, cổ tức được chia
hoặc thu hồi vốn đầu tư về; giám sát việc thu hồi vốn đầu tư, thu lợi nhuận, cổ
tức được chia.
25
Những quy định nêu trên, Người Đại diện Vốn thường phải xin ý kiến về
Doanh nghiệp cử Người đại diện trước khi tham gia ý kiến, biểu quyết, quyết định
tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông [14, tr.79-80].
1.4.3. Các quy định riêng làm hạn chế đầu tư ra nước ngoài của Doanh
nghiệp có sử dụng vốn Nhà nước
Việc đầu tư ra nước ngoài là việc mang ngoại tệ ra nước ngoài để đầu tư,
điều đó sẽ làm giảm nguồn ngoại tệ của Việt Nam. Nhằm tránh việc hiểu lầm của
các doanh nghiệp khi xin dự án đầu tư ra nước ngoài là chấp thuận cấp phép dự án
là việc chấp thuận cho mua ngoại tệ để thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Thông tư số
03/2018 ngày 17 tháng 10 năm 2018 Hướng dẫn và ban hành mẫu văn bản thực
hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài (Thông tư 03/2018) đã có quy định trong Hồ sơ
xin cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài bản cam kết nhà đầu tư tự thu xếp
ngoại tệ để thực hiện đầu tư. Việc này cũng phần nào hạn chế Nhà đầu tư thực hiện
đầu tư ra nước ngoài trong khi ngoại tệ được quản lý mua bán, nhất là đối với các
Nhà đầu tư có sử dụng nguồn vốn nhà nước, việc phê duyệt, xin ý kiến cần qua
nhiều bước, nhiều khâu kiểm duyệt.
Việc sử dụng vốn có nguồn gốc từ nhà nước để đầu tư ra nước ngoài, ngoài
việc thực hiện kinh doanh thu ngoại tệ thông thường, đôi khi dự án còn chứa đựng
cả mục tiêu quản lý vĩ mô trong đó, như đầu tư sang các nước lãng giềng như Lào,
Campuchia, Myanmar phần nào góp phần bảo vệ an ninh biên giới từ xa, nên việc
thẩm tra các dự án đó cũng cần cần trọng, lâu hơn các dự án thông thường. Điều này
xuất phát từ một số dự án kinh doanh đầu tư nhưng hiệu quả mang lại chưa cao.
Nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, cũng giống như Nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào nước ta, các nước tiếp nhận đầu tư cũng cẩn trọng với các doanh
nghiệp có nguồn vốn Nhà nước đầu tư vào, việc ảnh hưởng đến nguồn vốn của nhà
nước đầu tư vào, nếu có bất kỳ vấn đề nào, việc sử dụng các biện pháp ngoại giao sẽ
được sử dụng, nên đôi khi hoạt động hợp tác của doanh nghiệp lại có phần ảnh
hưởng tới nhà nước tiếp nhận đầu tư.
26
1.5. Quá trình hình thành khung pháp lý về đầu tư ra nước ngoài
1.5.1. Giai đoạn từ 1999 đến năm ban hành Luật đầu tư 2005
Hoạt động ĐTRNN của Việt Nam bắt đầu từ những năm 90, một số doanh
nghiệp tư nhân của một số địa phương tại vùng biên giới với một số nước bạn (Lào,
Campuchia) đã thực hiện dự án đầu tư tại nước bạn theo thoả thuận hợp tác song
phương giữa chính quyền hai nước.
Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 quy định ĐTRNN của doanh
nghiệp Việt Nam hướng dẫn và quản lý hoạt động ĐTRNN. Mặc dù hành lang
pháp lý cho ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam mới được ban hành đầu năm
1999, thế nhưng trước thời điểm này một số doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành
hoạt động ĐTRNN.
Để triển khai Nghị định 22/1999/NĐ-CP, các Bộ, ngành liên quan đã ban
hành các văn bản hướng dẫn cụ thể hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh
nghiệp Việt Nam. ĐTRNN đã tạo ra một khung pháp lý cần thiết cho hoạt động đầu
tư của các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời tạo môi trường ổn định, thông thoáng
nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
Bên cạnh đó, Các Bộ trực thuộc Chính phủ cũng đưa các văn bản pháp lý về
một số ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp ĐTRNN như Thông tư số
97/2002/TT-BTC của bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với
doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN.
Riêng đối với lĩnh vực dầu khí, theo Quyết định số 116/2001/QĐ-TTg ngày
02/8/2001 của Thủ tướng chính phủ về một số ưu đãi, khuyến khích đầu tư ra nước
ngoài trong lĩnh vực hoạt động dầu khí. Chính phủ áp dụng một số ưu đãi, khuyến
khích đối với hình thức đầu tư 100% vốn hoặc góp vốn theo tỷ lệ tham gia trong
lĩnh vực hoạt động dầu khí bao gồm: tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ và khai thác
dầu khí; kể cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt động dầu khí và khi xác
định số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tại Việt Nam đối với các dự án dầu khí
ĐTRNN, doanh nghiệp được trừ số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp ở nước
ngoài hoặc đã được nước tiếp nhận đầu tư trả thay (có chứng từ hợp lệ).
27
Các văn bản này đã tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời nó cũng khơi thông một
dòng chảy mới về vốn đầu tư. Song, do được ban hành ngay sau cuộc khủng hoảng
tài chính khu vực trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang
giảm sút, pháp luật về ĐTRNN nhìn chung mang tính thận trọng, tính kiểm soát hơn
là tính khuyến khích các doanh nghiệp ĐTRNN.
Trong giai đoạn này, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc chuyển
vốn ra nước ngoài để thực hiện đầu tư cũng như việc chuyển lợi nhuận về nước. Đối
với những doanh nghiệp muốn đầu tư ra nước ngoài nhưng hạn chế về nguồn vốn thì
lại chưa có một cơ chế nào quy định về việc cho vay ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài.
Khung pháp luật của Việt Nam trong giai đoạn này mới bước đầu tạo ra một
khung pháp lý bao quát được những vấn đề xung quanh hoạt động ĐTRNN, và
trong giai đoạn mà số lượng các dự án ĐTRNN còn ít, quy mô chưa lớn. Tuy nhiên,
trước xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, từ năm 2001, Đại hội Đảng IX đã xác
định chủ trương “Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam
ĐTRNN”. Theo đó Nhà nước có trách nhiệm trong việc “tạo ra khuôn khổ pháp lý
nhằm khuyến khích hoạt động ĐTRNN để phát huy lợi thế so sánh của đất nước”.
Tuy nhiên trong quá trình này các văn bản bộc lộ nhiều hạn chế, gây khó khăn cho
các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện ĐTRNN, và cũng gây khó khăn cho các
cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý các vấn đề về đầu tư [15, tr.20-25].
1.5.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015
Trước những khó khăn của các doanh nghiệp đang gặp phải cũng như công
tác quản lý của nhà nước không được đảm bảo. Năm 2005 Luật đầu tư được Quốc
hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/07/2005, thay thế Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam. Luật Đầu tư đã dành một chương quy định về hoạt động đầu tư ra
nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Đến năm 2006, nhằm kế thừa và phát
huy có chọn lọc những mặt tích cực và khắc phục hạn chế của hệ thống luật hiện
hành về ĐTRNN và nâng cao quyền tự chủ, tự do kinh doanh của doanh nghiệp,
Nghị định 78/2006/NĐ-CP quy định về ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam được
28
Chính phủ ban hành ngày 09/8/2006 (thay thế Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày
14/4/1999) với mục tiêu chính là:
- Phù hợp với thực tiễn hoạt động và yêu cầu của hoạt động ĐTRNN; cho
phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động ĐTRNN
bình đẳng như các doanh nghiệp Việt Nam.
- Quy định rõ ràng, cụ thể và minh bạch hơn các vấn đề liên quan đến thủ tục
đầu tư theo hướng giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước và tăng quyền chủ động
cho doanh nghiệp;
- Tăng cường hiệu quả của quản lý nhà nước và xác định rõ trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước trong việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ĐTRNN.
Nghị định 78/2006/NĐ-CP với tinh thần chung là quy định các nhà đầu tư và
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài, đều có quyền ĐTRNN, có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh, được lựa chọn hay thay đổi hình thức tổ chức quản lý nội bộ, hình thức đầu
tư thích ứng với yêu cầu kinh doanh và được pháp luật Việt Nam bảo hộ; giảm thiểu
các quy định mang tính "xin - cho" hoặc "phê duyệt" bất hợp lý, trái với nguyên tắc
tự do kinh doanh, gây phiền hà cho hoạt động đầu tư, nhưng có tính đến lộ trình
cam kết trong các thoả thuận song phương và đa phương trong hội nhập kinh tế
quốc tế, nhất là các nguyên tắc đối xử quốc gia và tối huệ quốc [12, tr.10-15].
1.5.3. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay
Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo quy
định tại Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định số 78/2006/NĐ-CP, với việc ban hành,
sửa đổi bổ sung một số văn bản đã tạo ra khung pháp luật thông thoáng hơn, từng
bước một chú trọng sát với thực tế, mở rộng hành lang pháp lý hơn và tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp Việt Nam vững bước vươn ra thị trường khu vực và thế giới,
hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam có những bước tiến đáng kể, thủ tục
đầu tư cụ thể và minh bạch hơn, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước và tăng
quyền chủ động cho doanh nghiệp.
Nhằm kế thừa và phát huy những mặt tích cực và khắc phục hạn chế của hệ
29
thống luật hiện hành về ĐTRNN, Chính phủ ban hành Nghị định số 83/2015/NĐ-
CP ngày 25/9/2015 quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, theo đó chú trọng
vào việc quản lý, giám sát hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp và
nâng cao quyền tự chủ, tự do kinh doanh của doanh nghiệp, tiến tới xóa bỏ việc cấp
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài [15, tr.18-20]
1.5.4. Các thỏa thuận đầu tư quốc tế và khu vực có tác động tới ĐTRNN
Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước ĐTRNN và thu hút FDI, trên trường
quốc tế, Chính phủ Việt Nam cũng đã tham gia vào Hiệp định khung về Khu vực
đầu tư ASEAN (AIA).
Việt Nam cũng đã tích cực ký kết các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu
tư với các nước trên thế giới. Kể từ khi bắt đầu triển khai ký kết (1990), đến nay,
Việt Nam đã ký kết 67 Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư với các quốc gia
và vùng lãnh thổ (Phụ lục số 1).
Trong quá trình mở cửa nền kinh tế, và hội nhập sâu và rộng hơn vào nền
kinh tế, tính đến ngày 10/8/2016, Việt Nam đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thu nhập với 75 nước/vùng lãnh thổ trên thế
giới (Phụ lục số 2).
Mục đích ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần nhằm loại bỏ việc
đánh thuế trùng bằng cách: (a) miễn, giảm số thuế phải nộp tại Việt Nam cho các
đối tượng cư trú của nước ký kết hiệp định; hoặc (b) khấu trừ số thuế mà đối tượng
cư trú Việt Nam đã nộp tại nước ký kết hiệp định vào số thuế phải nộp tại Việt
Nam. Ngoài ra, Hiệp định còn tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hợp tác và hỗ trợ lẫn
nhau giữa cơ quan thuế Việt Nam với cơ quan thuế các nước/vùng lãnh thổ trong
công tác quản lý thuế quốc tế nhằm ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại
thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản.
Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với
luật thuế trong nước. Trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó Việt Nam
có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó hoặc thu thuế với một mức thuế
suất nhất định nhưng pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam chưa có quy định thu
30
thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thuế suất thấp hơn thì áp dụng
theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam, nghĩa là không thu thuế
hoặc thu thuế với mức thuế suất thấp hơn.
Tuy nhiên có một số nước, Việt Nam có đầu tư sang ở mức lớn, nhưng hiện
cả hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
vẫn chưa ký kết được, các Bộ cũng chưa có khuyến nghị, tư vấn đối với các doanh
nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài, vào một nước Việt Nam chưa ký hiệp định, để
trước khi đầu tư phía Việt Nam có lợi thế về đàm phán để ký kết các Hiệp định, mà
sau đó khi nhận thấy có doanh nghiệp của Việt Nam đầu tư vào quốc gia đó, mới
mời các nước đã có doanh nghiệp đầu tư thực hiện đàm phán ký hiệp định, lúc đó
phía bạn không còn nhiều thiện ý để ký kết nữa, ví dụ như nước Cộng hòa Thống
nhất Tanzania, Cộng hòa Cameroun … nhiều lần đàm phán, thống nhất nhưng chưa
ký kết được.
Trở thành thành viên chính thức viên của WTO, Việt Nam được mở cửa thị
trường xuất khẩu và đầu tư vào các thành viên khác. Việc thực hiện các cam kết tạo
ra nhiều cơ hội to lớn và nâng cao địa vị pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư ra nước ngoài.
Việt Nam đã tham gia đàm phán, ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự
do (FTA) với EU, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á-Âu và nhất là Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đang mở ra cơ hội rất lớn cho doanh nghiệp Việt
mở rộng thị trường ở nước ngoài [15, tr.30-32].
31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Mặc dù đã hơn 10 năm có quy định về ĐTRNN, các dự án đầu tư ngày càng
nhiều, nhưng các nhà đầu tư của Việt Nam vẫn đầu tư ở các nước láng giềng, quy
mô đầu tư nhỏ, nếu quy mô lớn thường là các doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn
nhà nước, ngoài mục đích đầu tư kinh doanh mang lại lợi nhuận còn có cả các mục
đích khác như an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, những nội dung điều chỉnh của
pháp luật trong hoạt động ĐTRNN vẫn còn chưa hoàn thiện, vẫn chưa tháo gỡ
được cho các nhà đầu tư khi ĐTRNN, chưa hỗ trợ và song hành cùng nhà đầu tư,
trách nhiệm đầu tư là thuộc về doanh nghiệp, nhưng về tổng thể khi mang ngoại tệ
ra nước ngoài, trách nhiệm bảo toàn phát triển nguồn ngoại tệ đó là rất cần thiết,
nhưng chúng ta mới kiểm soát được khâu cấp phép mà chưa kiểm soát được hoạt
động đầu tư.
Các hoạt động đầu tư của Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn nhà nước
thực sự có hiệu quả, nhưng chưa cao vì được vận hành qua nhiều lớp, chưa phù
hợp với tính năng động của thị trường ngày một nhanh, quy định về ĐTRNN cải
thiện thông thoáng về chính sách, khuyến khích đầu tư, nhưng để triển khai và
thực thi còn chưa rõ ràng, cần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan chuyên
môn, cơ quan quản lý nguồn vốn nhà nước, hỗ trợ các nhà đầu tư không sử dụng
nguồn vốn Nhà nước thì ĐTRNN của nước ta mới phát triển và thu ngoại tệ về
nước trong thời gian tới.
32
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
CÓ NGUỒN VỐN NHÀ NƯỚC
2.1. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
2.1.1. Tình hình đầu tư
Tính đến hết năm 2018, Việt Nam có lũy kế 1.469 dự án đầu tư ra nước
ngoài đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài (GCNĐK
ĐTRNN) và với tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài là 22,1 tỷ USD. Trong đó,
có 1.172 GCNĐK ĐTRNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký ĐTRNN là 20,2 tỷ
USD. Trong đó, riêng giai đoạn 2009-2017 có 895 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng
ký đạt 17,4 tỷ USD, chiếm 69,9% số dự án đầu tư và 81,3% tổng số vốn đăng ký
đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam, vì đây là giai đoạn chính sách đầu tư được mở
rộng, thủ tục đầu tư đơn giản hơn với sự ra đời của Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày
09/8/2006 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015 Quy định về
đầu tư ra nước ngoài; Luật đầu tư năm 2015 [12, tr.33-34]
2.1.2. Phân nhóm đầu tư
2.1.2.1. Theo địa bàn đầu tư
ĐTRNN của Việt Nam xuất hiện ở 72 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập trung
nhiều nhất tại Lào (4,89 tỷ USD, 201 dự án còn hiệu lực), tiếp đó là Nga (2,83 tỷ
USD, 15 dự án còn hiệu lực), Campuchia (2,73 tỷ USD, 173 dự án còn hiệu lực).
Tiếp theo là các thị trường Venezuela (1,82 tỷ USD), Myanmar (1,32 tỷ USD),
Algeria (1,26 tỷ USD), Peru (1,24 tỷ USD) (xem phụ lục 1).
2.1.2.2. Theo lĩnh vực đầu tư
Hoạt động ĐTRNN của Việt Nam trải rộng trên rất nhiều ngành nghề, lĩnh
vực. Xét theo quy mô vốn, ĐTRNN tập trung chủ yếu vào khai khoáng (7,97 tỷ
USD), nông nghiệp (3,1 tỷ USD), thông tin và truyền thông (2,6 tỷ USD), điện năng
(1,48 tỷ USD), công nghiệp sản xuất (1 tỷ USD), nghệ thuật vui chơi giải trí (1 tỷ
USD) (xem phụ lục 2).
33
2.1.2.3. Theo năm đầu tư
Kể từ khi xuất hiện từ năm 1989 đến nay, hoạt động ĐTRNN của Việt Nam
có thể chia thành 04 giai đoạn chính (xem phụ lục 3):
- 1989-1999 (21 dự án; vốn đăng ký 9,2 triệu USD): Giai đoạn này chủ yếu
là các công ty có vốn nhà nước thành lập liên doanh với đối tác nước ngoài, quy mô
vốn nhỏ, số lượng hoạt động ĐTRNN ít.
- 1999-2005 (132 dự án, 559,6 triệu USD): Nghị định 22/1999/NĐ-CP ra
đời năm 1999 là nghị định đầu tiên quy định về ĐTRNN. Từ đây, hoạt động
ĐTRNN bắt đầu thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia hơn.
- 2006-2014 (792 dự án, 18,98 tỷ USD): Kể từ năm 2005 ra đời Luật Đầu tư
2005 và Nghị định 78/2006/NĐ-CP hướng dẫn về ĐTRNN, ĐTRNN tăng mạnh về
mặt số lượng hoạt động đầu tư cũng như số vốn đăng ký. Nguyên nhân tăng mạnh
hoạt động ĐTRNN gồm: xu hướng hội nhập quốc tế, sự phổ cập rộng rãi quy định
pháp luật về ĐTRNN, sự lớn mạnh nhất định của doanh nghiệp trong nước. Ngoài
ra, giai đoạn này nhiều doanh nghiệp nhà nước thực hiện ĐTRNN theo Quyết định
236 về khuyến khích ĐTRNN của Thủ tướng Chính phủ. Các dự án ĐTRNN của
Doanh nghiệp Nhà nước thường ở trong các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn (thăm dò khai
thác dầu khí, khai khoáng, trồng cây công nghiệp, viễn thông, thủy điện…) dẫn đến
sự gia tăng mạnh vốn đăng ký ĐTRNN trong giai đoạn này.
- 2015 đến nay (hết 2018) (544 dự án, 2,5 tỷ USD): Trong giai đoạn này,
Luật Đầu tư 2015 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP ra đời thay thế các quy định cũ về
ĐTRNN. Về cơ bản cách thức quản lý ĐTRNN không thay đổi nhưng chuyển từ
nguyên tắc thẩm tra cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN sang nguyên tắc ghi nhận cấp
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài (GCNĐK ĐTRNN), đơn giản hóa
thủ tục hành chính cấp GCNĐK ĐTRNN. Ở giai đoạn này số lượng hoạt động đầu
tư tăng gấp 1,5 lần trung bình năm của giai đoạn trước nhưng vốn đăng ký đã giảm
mạnh. Nguyên nhân: số lượng hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp nhà nước/có
vốn nhà nước trong các lĩnh vực có quy mô vốn lớn giảm. Tuy nhiên, số lượng hoạt
động đầu tư vẫn ổn định và tăng nhẹ (do sự tham gia ngày càng nhiều của doanh
34
nghiệp phi nhà nước và của các cá nhân) cho thấy xu hướng ĐTRNN vẫn là xu
hướng tất yếu cùng với sự phát triển và tính chất mở cửa của nền kinh tế.
- Riêng trong 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư ra nước ngoài cho 155 dự án đầu tư sang 39 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng
vốn đăng ký ĐTRNN là 421,5 triệu đô la Mỹ (tăng 19% số dự án và 57% vốn đăng ký
so với năm 2017); cấp điều chỉnh GCNĐK ĐTRNN để thay đổi vốn cho 35 dự án với
tổng số vốn điều chỉnh tăng thêm 56 triệu đô la Mỹ. Tính tổng số vốn cấp mới và tăng
thêm trong năm 2018 là 477,6 triệu đô la Mỹ (tăng 36% so với năm 2017).
2.1.2.4. Theo quy mô vốn đầu tư
Xét theo quy mô vốn, hoạt động ĐTRNN tập trung vào: Hoạt động tài chính
(105,7 triệu USD), thương mại (82,9 triệu USD), công nghiệp sản xuất chế biến
(80,4 triệu USD), nông nghiệp (52,3 triệu USD) (xem Phụ lục 4).
2.1.3. Kết quả đầu tư ra nước ngoài đã đạt được
Theo báo cáo của các nhà đầu tư, tổng vốn chuyển ra nước ngoài trong năm
2018 để thực hiện các hoạt động đầu tư là 515,2 triệu đô la Mỹ, (nếu so sánh năm
2017, năm 2018 tăng khoảng 44%).
Tổng vốn đã chuyển ra nước ngoài lũy kế hết 2018 của các hoạt động
ĐTRNN đạt 8,1 tỷ USD. Vốn đã chuyển ra nước ngoài lớn nhất là lĩnh vực khai
khoáng (3,17 tỷ USD), tiếp theo là các lĩnh vực thông tin truyền thông (1,35 tỷ
USD), nông nghiệp (1,3 tỷ USD), sản xuất điện (668 triệu USD), ngân hàng – tài
chính (565 triệu USD), kinh doanh bất động sản (379 triệu USD), hoạt động chuyên
môn, khoa học công nghệ (196 triệu USD), sản xuất công nghiệp (178 triệu USD),
thương mại (140 triệu USD), vận tải (116 triệu USD), dịch vụ lưu trú ăn uống (42
triệu USD), dịch vụ xây dựng (4 triệu USD), các hoạt động khác (1,5 triệu USD).
Với hoạt động đầu tư ra nước ngoài và số vốn đã chuyển ra, kết quả đạt được
đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài là:
- Hoạt động ĐTRNN của Việt Nam dù mới phát triển rõ nét hơn 10 năm (kể
từ năm 2006) nhưng đến nay đã thu được những kết quả nhất định, đem lại lợi ích
cho bản thân doanh nghiệp cũng như đóng góp một phần cho nền kinh tế trong
35
nước. Đối với nền kinh tế: nhiều dự án ĐTRNN đã đi vào triển khai hoạt động có
doanh thu, lợi nhuận chuyển về nước, thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước,
điều này góp phần tăng thu ngoại tệ và tăng thu ngân sách cho nhà nước. Cụ thể,
theo số liệu báo cáo của nhà đầu tư, lợi nhuận và tiền chuyển về nước lũy kế hết
2018 là 1,23 tỷ USD. Con số vốn chuyển ra nước ngoài và lợi nhuận thu được của
các dự án ĐTRNN có thể sẽ lớn hơn trên thực tế vì có nhiều nhà đầu tư chưa thực
hiện báo cáo.
- Về mặt đóng góp cho ngân sách nhà nước, mặc dù nhiều quốc gia có
xuất hiện hoạt động đầu tư của Việt Nam đã ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai
lần với Việt Nam nên nhà đầu tư không phải nộp thuế hoặc nộp ít thuế cho nhà
nước Việt Nam đối với phần lợi nhuận chuyển về, nhưng theo báo cáo năm 2018
của các nhà đầu tư, số tiền thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước lũy kế đến
hết 2018 đạt 39 triệu USD.
- Hoạt động ĐTRNN cũng gắn với nhiệm vụ chính trị, hỗ trợ công tác an
ninh, quốc phòng như các dự án thăm dò dầu khí tại Campuchia, dự án bô xít tại
Mondulkiri, Campuchia, dự án Hãng hàng không Angkor Air; một số dự án đầu
tư xây dựng phát triển cụm làng bản tại Lào của các doanh nghiệp thuộc khối
quốc phòng…
- Hoạt động ĐTRNN cũng tạo ra một khối lượng việc làm nhất định tại
nước ngoài cho lao động Việt Nam, đặc biệt là các dự án trồng cây công nghiệp,
dịch vụ xây dựng, thủy điện, khai khoáng, viễn thông. Theo báo cáo năm 2018,
tổng số lao động Việt Nam đưa ra nước ngoài là 8.574 người. Lao động Việt Nam
đưa ra nước ngoài trong các ngành, lĩnh vực khác chủ yếu là quản lý, kỹ thuật.
Mặc dù lượng lao động Việt Nam đưa ra nước ngoài chưa đáng kể nhưng số liệu
này thể hiện rằng, hoạt động ĐTRNN có thể phần nào giúp giải quyết vấn đề lao
động trong nước. Ngoài ra, số lao động ra làm việc ở nước ngoài này có thể được
hưởng chế độ tốt hơn trong nước, thu nhập cao hơn, đồng thời có cơ hội học hỏi
và nâng cao tay nghề, chuyên môn, trình độ, tích lũy kinh nghiệm làm việc trong
môi trường nước ngoài.
36
- Hoạt động ĐTRNN đã và đang giúp cho Việt Nam mở rộng và đa dạng hóa
thị trường tiêu thụ sản phẩm tại nước ngoài và tránh những hàng rào bảo hộ thương
mại của nước nhận đầu tư và các nước thứ ba. Một trong những lợi ích cơ bản và
lớn nhất của ĐTRNN nói chung chính là mở rộng thị trường sản phẩm, dịch vụ
trong nước ra nước ngoài. Đối với ĐTRNN của Việt Nam, lĩnh vực thương mại
xuất nhập khẩu có số lượng dự án lớn nhất (327 dự án còn hiệu lực, chiếm gần 30%
tổng số dự án đăng ký ĐTRNN lũy kế đến hết 2018). Nhiều doanh nghiệp Việt Nam
đã thực hiện hoạt động xuất khẩu thường xuyên muốn tiến tới thành lập công ty tại
thị trường nhập khẩu sản phẩm của mình để trực tiếp phân phối, bán và tiếp thị sản
phẩm của mình tại thị trường nước ngoài thay vì qua trung gian để giảm giá bán,
tăng tính cạnh tranh của sản phẩm hoặc để tiếp cận số lượng khách hàng lớn hơn
Có thể thấy hoạt động ĐTRNN bước đầu giúp doanh nghiệp Việt Nam phát
triển năng lực quản lý, tích lũy kinh nghiệm kinh doanh trong môi trường quốc tế,
tăng tính cạnh tranh và khả năng hội nhập.
2.1.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong ĐTRNN
2.1.4.1. Tồn tại, hạn chế nói chung
Bên cạnh những dự án ĐTRNN đã đi vào hoạt động, thành công, có doanh
thu, lợi nhuận, cũng có một số dự án ĐTRNN không triển khai được được ngay từ
đầu hoặc gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai khiến đầu tư kinh doanh
không hiệu quả, phải tạm dừng, giãn tiến độ hoặc đóng cửa, giải thể. Tính đến hết
2018 có 1.469 dự án được cấp GCNĐK ĐTRNN, trong số đó, có 298 GCNĐK
ĐTRNN đã chấm dứt hiệu lực vì 02 lý do: (i) Hết thời hạn quy định trên GCNĐK
ĐTRNN mà nhà đầu tư không làm thủ tục gia hạn (do nhà đầu tư cũng đã chấm dứt
thực hiện dự án) và (ii) nhà đầu tư chủ động đề nghị chấm dứt hiệu lực GCNĐK
ĐTRNN do chấm dứt thực hiện đầu tư ở nước ngoài.
Hiệu quả đầu tư của hoạt động ĐTRNN nói chung ở thời điểm hiện tại chưa
cao. Bên cạnh việc một số dự án ĐTRNN không hiệu quả, thua lỗ, phải chấm dứt,
một số dự án có doanh thu tốt cũng chưa có lợi nhuận lũy kế do mới bắt đầu kinh
doanh hoặc chịu ảnh hưởng của biến động tỉ giá. Nhiều dự án có quá trình chuẩn bị
37
đầu tư, xây dựng cơ bản kéo dài, chưa bước vào giai đoạn vận hành, khai thác, sản
xuất, kinh doanh nên ở giai đoạn hiện tại chưa
2.1.4.2. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế
Nguyên nhân chủ quan
Năng lực quản trị của doanh nghiệp ĐTRNN còn yếu, chưa tìm hiểu kỹ thị
trường, lường hết các khó khăn vướng mắc có thể gặp phải và chưa có biện pháp
quản trị rủi ro hiệu quả. Một số báo cáo của các nhà đầu tư phản ánh dự án của
mình hoạt động kém hiệu quả, cần tái cơ cấu để hoạt động lại
Nhiều công ty cũng phản ánh vấn đề khó khăn trong bất đồng ngôn ngữ, do
đó không tìm hiểu được hết các quy định của pháp luật.
Nhiều doanh nghiệp thay đổi cơ cấu đầu tư trong nước nên cũng tạm dừng
các dự án đầu tư tại nước ngoài.
Xảy ra những vấn đề tranh chấp, rắc rối trong nội bộ nhà đầu tư Việt Nam
hoặc giữa các nhà đầu tư Việt Nam.
Nhiều dự án gặp khó khăn về vốn, không thu xếp được và huy động được đủ
vốn đầu tư. Đây là một nguyên nhân tương đối phổ biến do hoạt động ĐTRNN sử
dụng đồng tiền đầu tư là ngoại tệ, biến động tỉ giá có thể khiến nhà đầu tư gặp khó
khăn về huy động vốn. Đồng thời, một số dự án đầu tư kéo dài, dưới các biến động
của môi trường đầu tư cũng sẽ thay đổi quy mô vốn đầu tư, khiến nhà đầu tư gặp
khó khăn trong việc thu xếp vốn.
Nguyên nhân khách quan
ĐTRNN đang ở giai đoạn đầu, nhiều dự án trong giai đoạn lỗ kế hoạch, chưa
có lợi nhuận, nhiều dự án đang trong giai đoạn triển khai đầu tư, chưa kinh doanh.
Nhiều dự án đầu tư sau khi kết thúc giai đoạn tìm kiếm, thăm dò, nghiên cứu
thị trường thì nhận thấy không khả thi để tiếp tục đầu tư kinh doanh vì cơ hội đầu tư
đã trôi qua, tình hình thị trường không thuận lợi.
Nhiều dự án gặp khó khăn trong quá trình triển khai vì các vấn đề thuộc về
môi trường đầu tư: yếu kém của môi trường đầu tư nước ngoài, sự chậm trễ của
chính quyền nước tiếp nhận đầu tư trong việc giải quyết các thủ tục hành chính về
giấy phép, đất đai, pháp lý...
38
Nhiều thị trường có sự cạnh tranh quyết liệt khiến doanh nghiệp Việt Nam
gặp nhiều khó khăn. Ngay ở hai thị trường truyền thống và có nhiều điều kiện thuận
lợi để đầu tư là Lào và Campuchia, Việt Nam là một trong các nhà đầu tư nước
ngoài lớn nhưng hiện tại cũng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các nước khác như Thái
Lan và đặc biệt là Trung Quốc.
Một số dự án phản ánh đối tác gặp khó khăn nên không triển khai được dự án.
Rất nhiều dự án không lường trước được các thủ tục pháp lý tại nước
ngoài kéo dài khiến dự án chậm tiến độ, hoặc không tìm được địa điểm phù hợp
để kinh doanh.
Pháp luật về ĐTRNN còn những điểm vướng/không rõ ràng/chưa hướng dẫn
trong khi nhu cầu thực tế của nhà đầu tư phát sinh (VD: chuyển vốn ra nước ngoài
trước khi được cấp GCNĐK ĐTRNN, đối với các dự án tìm kiếm thăm dò dầu khí:
vướng trong việc chuyển tiền ra nước ngoài để thực hiện công tác kết thúc dự án
(hoàn trả hiện trạng môi trường...), đặc biệt đối với các dự án dầu khí còn rất nhiều
vướng mắc, nhất là trong hướng quản lý đối với các dự án đầu tư bộc lộ tính kém
hiệu quả, thua lỗ. Một số doanh nghiệp phản ánh gặp khó khăn trong việc chuyển
tiền ra nước ngoài vì vướng thủ tục chuyển tiền, cần có giấy chứng nhận đầu tư ra
nước ngoài mới có thể chuyển tiền, trong khi phía nước ngoài cần một thời hạn nhất
định (thường ngắn hơn thời gian xin cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài).
Một số dự án cao su và thủy điện phản ánh khó khăn vướng mắc trong áp dụng
chính sách về tiền lương, bảo hiểm, chế độ cho người lao động Việt Nam ra nước
ngoài trong các dự án ĐTRNN.
Môi trường đầu tư không thuận lợi, một trong các rủi ro lớn là rủi ro về mặt
tỉ giá, khiến dự án có doanh thu tốt nhưng vẫn lỗ.
Một số dự án phản ảnh không mua được ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài
thực hiện dự án. Một số dự án triển khai kinh doanh tốt, nhưng không mua được đô
la để chuyển về Việt Nam, hoặc việc mất giá của đồng nội tệ, nên công ty kinh
doanh tốt, nhưng khi quy đổi ra đồng đô la thì lại trở thành lỗ.
39
2.2. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có nguồn
vốn Nhà nước
Tính đến hết tháng 02 năm 2018, các doanh nghiệp có nguồn vốn nhà nước
đầu tư ra nước ngoài là 187 dự án với tổng vốn đầu tư cấp mới là 11,26 tỷ đô la Mỹ,
điều chỉnh tăng vốn 60 dự án với tổng số vốn tăng thêm là 3,9 tỷ đô la Mỹ. Tính
chung cả cấp mới và tăng thêm là 15,22 tỷ đô la Mỹ. Hiện có 6 Tập đoàn, Tổng
công ty có vốn đăng ký đầu tư trên 1 tỷ đô la Mỹ, gồm Tập đoàn dầu khí Việt Nam,
Tập đoàn Cao su, Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội, Tổng công ty
Sông Đà, Tập đoàn Hoàng Anh - Gia Lai và Công ty cổ phần Golf Long Thành.
2.2.1. Phân nhóm đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có sử dụng
nguồn vốn Nhà nước
2.2.1.1. Phân theo ngành đầu tư
Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn nhà nước tập trung chủ
yếu vào các ngành: khai khoáng với 52 dự án, vốn đầu tư 9,16 tỷ USD, chiếm
60,20% tổng vốn đầu tư (tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, tìm kiếm thăm dò
và khai thác khoáng sản); thông tin truyền thông với 28 dự án, số vốn 2,70 tỷ USD,
chiếm 17,77%; nông lâm nghiệp với 40 dự án, số vốn 1,32 tỷ USD, chiếm 8,69%
tổng vốn đầu tư; sản xuất và phân phối điện, khí đốt với 5 dự án, số vốn 1,18 tỷ
USD, chiếm 7,81% tổng vốn đầu tư; tài chính ngân hàng, bảo hiểm với 15 dự án, số
vốn 583 triệu USD, chiếm 3,83%; tiếp đến là lĩnh vực vận tải kho bãi, công nghiệp
chế biến chế tạo.
2.2.1.2. Phân theo địa bàn đầu tư
Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn nhà nước tập trung vào
các nước Lào đứng thứ nhất với 61 dự án với vốn đầu tư 2,42 tỷ USD chiếm 16%
tổng vốn đầu tư; Liên bang Nga đứng thứ 2 với 6 dự án với số vốn đầu tư 2,28 tỷ
USD chiếm 15% tổng vốn đầu tư, Venezuela đứng thứ 3 với 01 dự án với số vốn
1,82 tỷ USD chiếm 12% tổng vốn đầu tư, Campuchia đứng thứ 4 với 42 dự án với
vốn đầu tư là 1,53 tỷ USD, chiếm 10,1% về tổng vốn đầu tư; Peru đứng thứ 5 với
05 dự án với số vốn 1,33 tỷ USD chiếm 8,8% tổng vốn đầu tư… (phụ lục 2).
40
2.2.1.3. Phân theo năm
Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn nhà nước tập trung
chủ yếu vào các năm 2013, 2010, 2008, 2011, 2014, trong đó năm 2013 có 8 dự
án cấp mới và 11 dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn đầu tư là 3,47 tỷ USD
chiếm 24,1% tổng vốn đầu tư; năm 2010 đứng thứ 2 với 23 dự án cấp mới và 3
dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn đầu tư là 2,6 tỷ USD chiếm 18,1% tổng vốn
đầu tư; năm 2008 đứng thứ 3 với 36 dự án cấp mới, 01 dự án điều chỉnh tăng
vốn với vốn đầu tư là 2,16 tỷ USD chiếm 15,1% tổng vốn đầu tư; năm 2011
đứng thứ 4 với 14 dự án cấp mới và 10 dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn cấp
mới và tăng thêm là 1,91 tỷ USD chiếm 13,3% tổng vốn đầu tư; năm 2014
đứng thứ 5 với 16 dự án cấp mới và 09 dự án tăng vốn với vốn cấp mới và tăng
thêm là 1,53 tỷ USD chiếm 10,6% tổng vốn đầu tư.
Như vậy, tình hình đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn nhà nước
tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực khai khoáng, thông tin truyền thông và tập trung vào
các địa bàn như Lào, Liên bang Nga, Venezuela, Campuchia, Peru (các địa bàn truyền
thống và các địa bàn có nhiều dầu khí). Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp có vốn
nhà nước chủ yếu tập trung vào các năm 2008, 2010, 2011, 2013, 2014.
Trong những 02 năm gần đây, đầu tư của các doanh nghiệp có vốn nhà nước
có xu hướng giảm rất mạnh (năm 2015 chỉ còn 12 dự án cấp mới và 22 dự án điều
chỉnh với tổng số vốn đăng ký là 280 triệu USD chiếm 2% tổng vốn đăng ký, năm
2016 có 06 dự án cấp mới và 09 dự án điều chỉnh với tổng số vốn đăng ký là -616,1
triệu USD chiếm -4,3% tổng vốn đăng ký). Như vậy, việc giảm vốn của doanh
nghiệp có vốn đầu tư ra nước ngoài phản ánh rất rõ định hướng đầu tư ra nước
ngoài của Việt Nam hiện nay, đó là trong khi nguồn lực nhà nước còn hạn chế thì
việc đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp tư nhân ngày càng được đẩy mạnh
và cũng phù hợp với chủ trương của Chính phủ là thúc đẩy khối doanh nghiệp tư
nhân phát triển.
2.2.2. Các lĩnh vực được đầu tư quy mô lớn
Đầu tư ra nước ngoài đối với một số lĩnh vực, cần quy mô đầu tư lớn, các
doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có nguồn vốn từ Nhà nước có thể là đầu tư
41
độc lập hoặc cùng các nhà đầu tư khác để thực hiện đầu tư, các lĩnh vực đó bao
gồm, hoạt động khai thác, thăm dò dầu khí; lĩnh vực viễn thông; lĩnh vực khai
thác khoáng sản; lĩnh vực cao su; lĩnh vực tài chính ngân hàng; lĩnh vực thủy
điện, cụ thể như sau:
Hoạt động ĐTRNN trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí:
Tính đến nay đã có 31 dự án ra nước ngoài trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò,
khai thác dầu khí, trong đó: hiện còn 13 dự án đang hoạt động, 18 dự án đã và đang
làm thủ tục kết thúc hoạt động (đã kết thúc 10 dự án, đang làm thủ tục kết thúc dự
án 8 dự án), trong đó:
- Tổng mức đầu tư ra nước ngoài theo Giấy chứng nhận đầu tư khoảng 8,029
tỷ USD, trong đó vốn đăng ký của 13 dự án đang hoạt động là 7,161 tỷ USD.
- Tổng chi phí đã thực hiện đến hết 30/6/2017: 4,850 tỷ USD, bằng 60,40%
so với tổng mức đầu tư.
- Tổng vốn đã chuyển ra nước ngoài đến hết 30/6/2017: 3,356 tỷ USD, bằng
41,79% tổng mức đầu tư ra nước ngoài theo Giấy chứng nhận đầu tư; bằng 69,19%
tổng chi phí thực hiện dự án.
Đánh giá kết quả đầu tư ra nước ngoài của các Doanh nghiệp trong lĩnh vực
dầu khí
Đến nay lĩnh vực dầu khí đã thực hiện 31 dự án đầu tư ở nước ngoài với tổng
vốn đầu tư đăng ký là 8,0 tỷ USD, trong đó có 13 dự án đang triển khai và 18 dự án
đã và đang làm thủ tục kết thúc do không phát hiện dầu khí.
Theo báo cáo của doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực dầu khí, tính đến
nay, tổng chi phí thực hiện dự án đến nay đạt khoảng 4,5 tỷ USD, trong đó vốn
chuyển ra nước ngoài bằng tiền mặt đạt gần 3,2 tỷ USD. Kết quả thu được với
tổng trữ lượng dầu quy đổi phát hiện khoảng 158 triệu tấn. Sản lượng khai thác
đến cuối năm 2016 đạt khoảng 9,25 triệu tấn, số tiền đã chuyển về nước đến nay
đạt 941,1 triệu USD.
Các dự án dầu khí hiện nay đang gặp khó khăn do giá dầu xuống thấp, một
số dự án phải tạm dừng khai thác để tránh lỗ. Hiện nay Tập đoàn Dầu khí đẩy mạnh
42
tái cơ cấu các hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm giảm thiểu rủi ro từ việc giá dầu
trên thị trường thế giới xuống thấp và kéo dài từ năm 2014 đến nay.
Theo báo cáo của doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực dầu khí, tổng số tiền đã
chuyển về nước đến hết tháng 30/6/2017: 1,1539 tỷ USD, bằng 34,38% tổng vốn
chuyển ra nước ngoài. Số tiền chuyển về nước gồm tiền thu hồi Hợp đồng nhận nợ
và lãi được chia.
Tuy nhiên một số dự án xác định sẽ khó có khả năng thu hồi do có rủi ro về
chính trị, hoặc chuyển nhượng không thành, tổng số tiền đã đầu tư không thu hồi
được là 1.458,7 triệu USD.
Đối với các dự án đã và đang làm thủ tục kết thúc: Số tiền đầu tư không thể thu
hồi là 654,81 triệu USD, trong đó số tiền 326,63 triệu USD đã được phân bổ chi phí.
Như vậy có thể thấy rằng, hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực này chưa cao, số
tiền chuyển về nước có tỷ lệ bằng 1/3 số tiền chuyển ra nước ngoài, khả năng thu
hồi các khoản đã chuyển là khó.
Hoạt động ĐTRNN trong lĩnh vực cao su của Doanh nghiệp Cao su Việt
Nam thực hiện đầu tư ra nước ngoài
Hiện tại Doanh nghiệp Cao su Việt Nam đầu tư 23 dự án trồng cao su tại Lào
và Campuchia với tổng diện tích đăng ký là 139.450 ha, trong đó tại Campuchia là
114.816 ha và Lào là 24.634 ha. Tính đến cuối năm 2017, Doanh nghiệp Cao su
Việt Nam đã trồng được khoảng 120 nghìn ha cao su với vốn đầu tư thực hiện
khoảng 16.000 tỷ đồng, diện tích cao su đưa vào khai thác khoảng 13.000 ha. Tại
Campuchia. Đã đầu tư hoàn chỉnh 02 nhà máy chế biến mủ cao su tại đây với tổng
công suất là 8.000 tấn/năm. Tại Lào, Doanh nghiệp Cao su Việt Nam đã đầu tư 01
nhà máy chế biến mủ cao su với công suất chế biến 13.000 tấn/năm và đã đưa vào
chế biến từ năm 2013 (xem phụ lục). …Tổng vốn đã chuyển ra nước ngoài lũy kế
đến hết 2017 là 702,4 triệu đô la Mỹ, tổng số lao động đưa ra nước ngoài l à 1793,
lợi nhuận đã chuyển về nước lũy kế hết 2017 là 481.322 đô la Mỹ, lợi nhuận giữ lại
tái đầu tư là 282.000 đô la Mỹ.
Các dự án cao su tại Lào và Campuchia triển khai tốt, nhiều dự án đã đi vào
khai thác.
43
Hoạt động ĐTRNN của lĩnh vực thủy điện:
Theo thống kê, đến hết năm 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đã cấp
Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài cho 4 dự án thủy điện có vốn nhà nước, với
tổng công suất đạt 1.145 MW, tổng vốn đầu tư khoảng 2 tỷ USD, vốn đăng ký đầu
tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam là 1,04 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng
725 triệu USD. Trong đó có 03 dự án tại Lào, với tổng công suất đạt 745 MW, tổng
vốn đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam là 1,03 tỷ USD.
Dự án thuỷ điện Xekaman 3 đã điện từ tháng 6/2013, sản xuất được 2,18 tỉ
kWh, doanh thu 103,96 triệu USD, tuy nhiên đến nay đang phải dừng hoạt động do
sự cố kỹ thuật. Dự án Xekaman 1 đã hoạt động từ tháng 8/2016. Đến nay đã sản
xuất 1,5 tỷ kWh, doanh thu đạt được 83,13 triệu USD. Cả 2 dự án đều bán 100%
sản lượng điện về Việt Nam. Các dự án khác đang trong giai đoạn thực hiện.
Hoạt động ĐTRNN của lĩnh vực viễn thông
Hiện nay đầu tư ra nước ngoài của Doanh nghiệp viễn thông có 2 Tập đoàn
là: (i). Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (trực tiếp đầu tư và đầu tư
thông qua Tổng Công ty CP Đầu tư Quốc tế Viettel). (ii). Tập đoàn Bưu chính viễn
thông Việt Nam
Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông quân đội (“Tập đoàn Viettel”) hiện có
13 dự án ĐTRNN đang triển khai tại nước ngoài trong lĩnh vực thông tin và truyền
thông. Trong đó, Tập đoàn Viettel trực tiếp tham gia 04 dự án thực hiện các dịch vụ
viễn thông tại Peru, Pháp, Hoa Kỳ và Nga. Tổng Công ty cổ phần đầu tư quốc tế
Viettel thực hiện 9 dự án tại Campuchia, Lào, Mozambique, Đông Timor,
Cameroon, Burundi, Tanzania, Haiti và Myanmar. Tổng vốn đăng ký phía Việt
Nam đạt 2,56 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt khoảng 1,18 tỷ USD.
Lợi nhuận và vốn đầu tư đã chuyển về nước lũy kế đến hết năm 2018 là
442,4 triệu USD, trong đó hai dự án tại Campuchia và Lào mang lợi hiệu quả cao
với lợi nhuận và vốn chuyển về nước lần lượt là 217,75 triệu USD và 136,78 triệu
USD. Các dự án viễn thông của Tập đoàn Viettel tại các nước Châu Phi cũng đã đi
vào hoạt động một số dự án đã có doanh thu lợi nhuận về nước, tuy nhiên có một số
dự án gặp phải vấn đề khó khăn do tỷ giá ngoại tệ biến động tại các thị trường này.
44
Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT): có 04 dự án ĐTRNN đã
được cấp GCNĐK ĐTRNN trong các lĩnh vực dịch vụ viễn thông (không có dự án
kinh doanh mạng). Tổng vốn đăng ký ĐTRNN là 13,12 triệu USD, trong đó có dự
án đầu tư tại Myanmar có tổng vốn 10 triệu USD, mới cấp GCNĐK ĐTRNN năm
2016, đang trong giai đoạn triển khai ban đầu. Vốn đã chuyển ra nước ngoài lũy kế
hết 2017 là 2,89 triệu USD, lợi nhuận về nước lũy kế hết 2017 là 865.550 USD
(xem phụ lục). Các dự án đầu tư hoạt động bình thường.
Hoạt động ĐTRNN ra nước ngoài trong lĩnh vực khoáng sản
Lĩnh vực Than và khoáng sản, hiện có 5 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu
lực với tổng vốn đầu tư là 33,85 triệu USD, trong đó vốn đã chuyển ra nước ngoài
là 14,4 triệu USD. Các dự án tập trung tại Lào với 2 dự án là dự án khảo sát thăm dò
mỏ sắt Phu Nhuon, dự án khảo sát thăm dò khoáng sản muối; tại Campuchia với 3
dự án là dự án khảo sát, thăm dò khoáng sản Bauxit, dự án thăm dò khoáng sản
Crom và Antimon, dự án khảo sát thăm dò khoáng sản sắt.
Các Dự án đầu tư tại Lào và Campuchia chủ yếu nằm ở giai đoạn khảo sát,
thăm dò, lập báo cáo khả thi; Mặt khác, các Dự án thăm dò khoáng sản tại Lào và
Campuchia đều nằm ở khu vực không thuận lợi về điều kiện giao thông, cơ sở hạ
tầng và các tiện ích khác tại các khu vực mỏ rất thấp. Qua rà soát, đánh giá và phân
loại 05 Dự án hiện đang thực hiện đầu tư tại Lào và Campuchia nêu trên đều thuộc
loại: “Những Dự án đang khó khăn, vướng mắc, không khả thi hoặc không có khả
năng thực hiện”. Hiện doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực này đang cơ cấu lại các
dự án theo hướng chuyển nhượng các dự án và thu hồi vốn.
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam tại tỉnh Khăm Muộn (Lào) với tổng vốn đầu tư
của dự án là 522,5 triệu USD. Tháng 9/2015, Vinachem đã tiến hành khởi công xây
dựng nhà máy chế biến muối mỏ kali tại Lào. Tổng chi phí đã thực hiện là 210 triệu
USD. Do hiện tại Vinachem không có đủ vốn để đầu tư và do giá kali trên thị
trường giảm sâu, dự án không còn hiệu quả. Bộ Công Thương đã báo cáo Lãnh đạo
Chính phủ và Bộ Chính trị. Mới đây, Bộ Chính trị đã đồng ý dừng dự án, tìm kiếm
đối tác để chuyển nhượng, thu hồi vốn đầu tư.
45
02 dự án trong lĩnh vực khai khoáng của Tổng công ty hợp tác kinh tế của
Bộ Quốc phòng hiện đang triển khai hoạt động tốt, có hiệu quả. Vốn đã chuyển ra
nước ngoài của nhà đầu tư là 2,47 triệu USD, lợi nhuận đã mang về Việt Nam là
3,91 triệu USD.
Hoạt động ĐTRNN ra nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
Lĩnh vực này có sự tham gia của nhiều ngân hàng TMCP có vốn nhà nước như
BIDV, Vietcombank, Agribank, MB, Vietinbank. Tổng số dự án đầu tư trong lĩnh
vực này là 9 dự án với vốn đầu tư ra nước ngoài của các dự án này là 397 triệu USD,
vốn đã chuyển ra nước ngoài là 276,5 triệu USD. Lợi nhuận chuyển về nước lũy kế
hết 2017 là 28,7 triệu USD (chưa kể phần tăng vốn từ lợi nhuận giữ lại tái đầu tư).
Hiện tất cả các dự án đã đi vào hoạt động, có doanh thu, lợi nhuận và có
đóng góp quan trọng trong việc cung cấp tín dụng cho hầu hết các dự án đầu tư của
Việt Nam tại Lào, Campuchia, Myanmar; đồng thời còn tham gia vào quá trình điều
tiết lĩnh vực tài chính, ngân hàng tại các thị trường này. Các dự án ngân hàng này
sau thời gian ghi lỗ năm đầu hoặc đến năm thứ hai thì liên tục báo lãi, điều này cho
thấy hiệu quả đầu tư là rất tốt.
2.3. Chủ thể tham gia đầu tư ra nước ngoài
Nghị định 83/NĐ-CP quy định chủ thể đầu tư ra nước ngoài là các nhà đầu
tư bao gồm:
- Tổ chức kinh tế thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập và hoạt động theo quy định tại
Luật Hợp tác xã;
- Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng;
- Hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật, cá nhân mang quốc tịch Việt Nam;
- Các tổ chức khác thực hiện đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật
Việt Nam.
2.3.1. Quyền của Nhà đầu tư
Pháp luật về ĐTRNN quy định những quyền lợi mà bất cứ Nhà đầu tư nào
46
khi tham gia quan hệ pháp luật này đều được hưởng. Bên cạnh đó, pháp luật cũng
đặt ra nghĩa vụ ràng buộc trách nhiệm của nhà đầu tư đối với nhà nước khi tiến hành
ĐTRNN. Để được hưởng quyền lợi thì trước tiên đòi hỏi nhà đầu tư phải chấp hành
và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Thực tiễn cho thấy, thái độ của nhà nước
đối với hoạt động này càng thông thoáng thì các quy định về quyền của nhà đầu tư
càng được mở rộng.
- Nhà đầu tư có quyền tiếp cận và khai thác thị trường thế giới, mở rộng hoạt
động sản xuất - kinh doanh, tìm kiếm các nguồn cung cấp, thúc đẩy xuất khẩu, tiếp
thu công nghệ tiên tiến, nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa
và cạnh tranh quốc tế quyết liệt. Đó là xu hướng chung của tất cả các quốc gia trên
toàn thế giới, đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển trong việc
phát huy những lợi thế của mình.
- Luật đầu tư ra đời cùng hàng loạt chính sách ghi nhận quyền của các nhà
đầu tư ra nước ngoài đã khuyến khích các nhà đầu tư trong nước không ngừng mở
rộng kinh doanh ra thế giới. Sự tạo điều kiện của chính phủ Việt Nam đã tạo thuận
lợi cho các dòng vốn từ các nhà đầu tư trong nước ra nước ngoài, tăng cơ hội tìm
kiếm cơ hội đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Luật đầu tư năm 2014 ghi nhận quyền và trách nhiệm của nhà đầu tư trong
Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài khi cấp cho Nhà đầu tư. Cụ thể như sau:
- Nhà đầu tư được toàn quyền chủ động lập dự án đầu tư để thực hiện mục tiêu
của mình, quyết định việc đầu tư ra nước ngoài để nhằm mục đích thu lợi nhuận;
- Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài, được quyền
chuyển tiền ra nước ngoài theo quy định tại Giấy chứng nhận ĐTRNN;
Để được cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN, nhà đầu tư cần chứng minh được dự
án của mình khả thi khi thực hiện, mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư và mang lợi
nhuận từ nước ngoài về Việt Nam. Mặc dù có sự giám sát, thẩm tra của các cơ quan
Nhà nước, chủ trì là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhưng Nhà đầu tư có toàn quyền quyết
định trong việc xây dựng dự án và đề xuất xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước
ngoài. Sau khi được cấp phép Nhà đầu tư được toàn quyền chủ động thực hiện triển
khai dự án đã đề xuất.
47
Với quy định đảm bảo tuân thủ các quy định về đầu tư ra nước ngoài, các nhà
đầu tư Việt Nam đã được nhà nước ghi nhận, bảo hộ quyền ĐTRNN để tìm kiếm lợi
nhuận, mở rộng kinh doanh, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
2.3.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài
Song song với việc được ghi nhận quyền thì các nhà đầu tư Việt Nam cũng
được quy định nghĩa vụ khi đầu tư ra nước ngoài tại Luật đầu tư 2014 cũng đã
không ghi cụ thể nghĩa vụ vào một điều riêng, mà trách nhiệm và nghĩa vụ của Nhà
đầu tư là tuân thù pháp luật về đầu tư. Các nghĩa vụ đó cũng được ghi nhận trong
Giấy chứng nhận ĐTRNN và được tổng hợp và thống kê như sau:
- Tuân thủ cac quy định của Luật Đầu tư số 67/2014/QH13, Nghị định số
83/2015/NĐ-CP và các quy định khác của pháp luật Việt Nam trong phạm vi có liên
quan đến việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả
hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
- Tuân thủ pháp luật quốc tế, tuân thủ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư
khi tiến hành đầu tư.
- Thực hiện chuyển lợi nhuận về nước theo quy định tại Điều 65 Luật Đầu tư
và chuyển về nước toàn bộ các khoản thu còn lại từ việc thanh lý dự án đầu tư ở
nước ngoài theo quy định tại Nghị định số 83/2015/NĐ-CP;
- Thực hiện chế độ báo cáo bằng văn bản và thông qua Hệ thống thông tin
quốc gia về đầu tư nước ngoài theo quy định tại Điều 72 của Luật Đầu tư và quy
định tại Nghị định số 83/2015/NĐ-CP.
- Thực hiện đăng ký cấp tài khoản truy cập Hệ thống thông tin quốc gia về
đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài để thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo quy
định tại Điều 18 Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015 của
Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài.
- Thực hiện thủ tục chấm dứt dự án đầu tư ra nước ngoài theo Điều 62 Luật
Đầu tư và Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ
quy định về đầu tư ra nước ngoài.
Nghĩa vụ tuân thủ quy định của nước tiếp nhận đầu tư vì sang nước khác đầu
48
tư, Nhà đầu tư không chỉ mang danh nghĩa của mình mà còn là đại diện cho quốc
gia Việt Nam. Khi nhà đầu tư kinh doanh có uy tín, hiệu quả, nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật sẽ được nước chủ nhà dành nhiều ưu đãi, và sẽ đem lại lợi thế cho
các nhà đầu tư sau. Nếu ngược lại, Nhà đầu tư sẽ gây ấn tượng xấu không chỉ về
chính mình mà còn ảnh hưởng đến uy tín của con người, quốc gia Việt Nam. Theo
tham khảo, khi đầu tư vào các nước như Haiti, Mozambique, Cameroun, Peru,
Burundi, Tanzania… thì người dân nơi đây không biết Việt Nam nằm ở đâu trên
bản đồ thế giới. Chính vì vậy, khi Doanh nghiệp đầu tư là mang hình ảnh, ấn tượng
về con người, dân tộc Việt Nam vào đất nước đó. Pháp luật quy định nghĩa vụ của
các Nhà đầu tư ra nước ngoài là cần thiết.
Ngoài nghĩa vụ trên, Nhà đầu tư còn có nghĩa vụ chuyển lợi nhuận về nước,
thực hiện báo cáo về tình hình đầu tư, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, quyền lợi luôn đi đôi với nghĩa vụ của các
nhà đầu tư khi đầu tư ra nước ngoài. Đó cũng là cách thức để nhà nước dễ dàng
quản lý hoạt động của các doanh nghiệp. Các nhà đầu tư cần nghiêm chỉnh thực
hiện quy định này. Vì rằng việc giám sát, kiểm tra các hoạt động đầu tư tại nước
ngoài là rất khó khăn khi pháp nhân triển khai dự án hoạt động theo pháp luật nước
tiếp nhận đầu tư và ngoài ra còn có các nhà đầu tư khác nữa, nên việc báo cáo đầu
đủ theo định kỳ một cách chính xác trung thực là nghĩa vụ của Nhà đầu tư khi thực
hiện đầu tư ra nước ngoài.
2.4. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài
Để thực hiện đầu tư ra nước ngoài, Nhà đầu tư cần xin cấp Giấy chứng nhận
đầu tư ra nước ngoài để thực hiện chuyển tiền và thực hiện đầu tư. Luật Đầu tư
2014 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP ra đời đã đơn giản hoá, phù hợp với thực tiễn
hoạt động ĐTRNN của các Nhà đầu tư Việt Nam hiện nay, mở rộng hơn loại hình
ĐTRNN và giảm thiểu các thủ tục hành chính, khắc phục được tính rườm rà và
phức tạp can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại
các quy định cũ.
Quy định về hồ sơ dự án đầu tư, Nghị định 83/2015/NĐ-CP không còn yêu
49
cầu về văn bản chấp thuận đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu
tư cấp, hợp đồng, bản thoả thuận với bên nước ngoài về dự án đầu tư và báo cáo
tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một năm gần nhất. Đây cũng được coi là
một bước tiến nhằm tháo dỡ rào cản mà pháp luật đã từng đặt ra đối với hoạt động
ĐTRNN trước đây. Về nguồn vốn, Nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về nguồn vốn,
chỉ cần cam kết tự thu xếp ngoại tệ và tự thu xếp về nguồn vốn, cơ quan thẩm tra
không đánh giá và thẩm tra về nguồn vốn của Nhà đầu tư. Điều đó cho thấy Nhà
nước đã nhìn hoạt động ĐTRNN một cách cởi mở. Đồng thời đã tạo cơ hội cho các
doanh nghiệp có thể chủ động và độc lập chịu trách nhiệm đối với quyết định và
hành vi của mình, không trực tiếp can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh trong
nội bộ của các nhà đầu tư về thủ tục.
2.4.1. Thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài
Điều 54 Luật đầu tư 2014 quy định về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu
tư ra nước ngoài, theo đó:
Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với các dự án đầu
tư sau đây:
- Dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 20.000 tỷ đồng trở lên;
- Dự án yêu cầu áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội
quyết định.
Trừ các trường hợp cần Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư nêu trên, Thủ
tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với các dự án đầu
tư sau đây:
- Dự án thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát
thanh, truyền hình, viễn thông có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 400 tỷ đồng trở lên;
- Dự án đầu tư không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này có
vốn đầu tư ra nước ngoài từ 800 tỷ đồng trở lên.
Sau khi được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương
đầu tư cho các dự án như trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành các thủ tục cấp
Giấy chứng nhận đầu tư.
50
Đối với các dự án không thuộc diện có quyết định chủ trương đầu tư của
Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ, thì Bộ KHĐT là cơ quan cấp phép, trong
trường hợp dự án có vốn đăng ký chuyển ra nước ngoài bằng ngoại tệ tương đương
20 tỷ đồng trở lên thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến bằng văn bản của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định tại Khoản 3 Điều 58 của Luật Đầu tư (Điều
15 khoản 4 Nghị định 83/2015).
Từ các văn bản trên, Pháp luật đã có những quy định rất cụ thể về việc phân
định thẩm quyền chấp thuận đối với các dự án đầu tư, phân cấp rõ thẩm quyền và
thủ tục xin chấp thuận chủ trương đầu tư.
Mặc dù đã có rất nhiều quy định khuyến khích hoạt động ĐTRNN, đơn giản
hóa về thủ tục, tuy nhiên, các Nhà đầu tư vẫn kêu ca phàn nàn bất cập về pháp luật
quy định thời gian cấp phép ĐTRNN vẫn còn quá lâu, nhiều thủ tục giả trình, nhiều
cấp phê duyệt, điều này thể hiện rằng chính sách chưa thống nhất. Nếu khuyến
khích ĐTRNN, nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm thì cần xem xét đơn giản tối đa thủ
tục, tập trung vào quản lý giám sát thay vì thẩm tra chặt chẽ cấp phép, sau đó hoạt
động hay không, không quản lý được.
Ngoài ra trong quá trình đầu tư Nhà đầu tư phát sinh nhiều vấn đề chưa được
quy định ví dụ như việc Nhà đầu tư cho công ty ở nước ngoài vay vốn để hoạt động
đầu tư nhằm thu hồi vốn nhanh hơn là góp vào vốn Điều lệ, nhưng khi xin điều
chỉnh giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài thì Bộ KHĐT từ chối do việc quản lý
ngoại hối thuộc về Ngân hàng Nhà nước, nhưng Ngân hàng Nhà nước thì lại không
tiếp nhận do việc điều chỉnh giấy phép là Bộ KĐT là đơn vị được phân công làm
đầu mối. Điều đó làm mất rất nhiều thời gian của Nhà đầu tư để có thể thực hiện
được việc chuyển tiền cho vay ra nước ngoài.
2.4.2. Cấp và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.
Tính đến hết 2018, Việt Nam có lũy kế 1.469 dự án đầu tư ra nước ngoài đã
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài (GCNĐK ĐTRNN) và với
tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài là 22,1 tỷ USD. Trong đó, có 1.172 GCNĐK
ĐTRNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký ĐTRNN là 20,2 tỷ USD.
51
- 2015 đến nay (hết 2018) (544 dự án, 2,5 tỷ USD): Trong giai đoạn này,
Luật Đầu tư 2015 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP ra đời thay thế các quy định cũ về
ĐTRNN. Về cơ bản cách thức quản lý ĐTRNN không thay đổi nhưng chuyển từ
nguyên tắc thẩm tra cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN sang nguyên tắc ghi nhận cấp
GCNĐK ĐTRNN, đơn giản hơn về thủ tục cấp GCNĐK ĐTRNN. Ở giai đoạn này
số lượng hoạt động đầu tư tăng gấp rưỡi trung bình năm của giai đoạn trước nhưng
vốn đăng ký đã giảm mạnh. Nguyên nhân: số lượng hoạt động ĐTRNN của doanh
nghiệp nhà nước/có vốn nhà nước trong các lĩnh vực có quy mô vốn lớn giảm. Các
doanh nghiệp phi nhà nước và của các cá nhân tham gia đầu tư, điều đó cho thấy xu
hướng ĐTRNN vẫn là xu hướng tất yếu cùng với sự phát triển và tính chất mở cửa
của nền kinh tế.
* Riêng năm 2018
Trong 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
ra nước ngoài cho 155 dự án đầu tư sang 39 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn
đăng ký ĐTRNN là 421,5 triệu đô la Mỹ (tăng 19% số dự án và 57% vốn đăng ký
so với năm 2017); cấp điều chỉnh GCNĐK ĐTRNN để thay đổi vốn cho 35 dự án
với tổng số vốn điều chỉnh tăng thêm 56 triệu đô la Mỹ. Tính tổng số vốn cấp mới
và tăng thêm trong năm 2018 là 477,6 triệu đô la Mỹ (tăng 36% so với năm 2017).
52
Về địa bàn đầu tư: Xét theo quy mô vốn, hoạt động ĐTRNN tập trung vào
các địa bàn: Lào (106,9 triệu USD), Úc (56,33 triệu USD), Mỹ (52,9 triệu USD),
Campuchia (36,7 triệu USD) và Slovakia (35,9 triệu USD) (xem Phụ lục 3).
Về lĩnh vực đầu tư: Xét theo quy mô vốn, hoạt động ĐTRNN tập trung vào:
Hoạt động tài chính (105,7 triệu USD), thương mại (82,9 triệu USD), công nghiệp
sản xuất chế biến (80,4 triệu USD), nông nghiệp (52,3 triệu USD) (xem Phụ lục 4).
Một số hoạt động ĐTRNN mới trong năm 2018 có vốn đăng ký lớn trên 10
triệu USD:
- Dự án ngân hàng con tại Lào của Vietcombank, 80 triệu đô la Mỹ;
- Dự án trang trại chăn nuôi bò sữa, trồng nho, khu nghỉ dưỡng và khu căn hộ
cao cấp tại Slovakia của CTCP Sữa Đà Lạt tại Slovakia, 35,9 triệu đô la Mỹ;
- Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến tại Lào của Vinamilk, 25,4 triệu đô la Mỹ;
- Dự án sản xuất vali tại Myanmar của CTCP Đầu tư Thái Bình, 20 triệu đô la Mỹ;
- Dự án sản xuất sứ trắng và vật liệu tại Cuba của Viglacera, 19,9 triệu đô la Mỹ;
- Dự án dịch vụ quản lý khách sạn tại Hồng Kông của Công ty TNHH BB
Hospitality, 15 triệu đô la Mỹ;
- Dự án điều hành câu lạc bộ bóng đá tại Bosnia và Herzegovina của Công ty
TNHH Địa ốc Long Cường, 14 triệu đô la Mỹ;
- Dự án kinh doanh cho thuê mặt bằng tại Úc của Công ty TNHH Xây dựng
– Kinh doanh nhà Gia Hòa, 12 triệu đô la Mỹ;
- Dự án kinh doanh thương mại (phụ tùng ô tô) tại Đức của CTCP Tập đoàn
Thành Công, 11,53 triệu đô la Mỹ;
- Dự án nghiên cứu công nghệ tại Hàn Quốc của CTCP Phát triển Công nghệ
Vintech, 11 triệu đô la Mỹ;
- Dự án tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến vàng và các khoáng sản đi
kèm tại Lào của các cá nhân Ông Phạm Ngọc Khanh; Ông Phạm Văn Khánh; Ông
Phạm Ngọc Khang; Ông Trần Đại Duyện; Bà Lê Thị Hằng Nga; Ông Trần Văn
Thọ, 10,79 đô la Mỹ.
- Dự án tư vấn, kinh doanh vật liệu xây dựng ở Mỹ của Công ty TNHH
Thương mại Vision, 10 triệu đô la Mỹ.1. [4].
53
2.4.3. Chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài để triển khai đầu tư
- Hoạt động ĐTRNN của Việt Nam dù mới phát triển rõ nét hơn 10 năm (kể
từ năm 2006) nhưng đến nay đã thu được những kết quả nhất định, đem lại lợi ích
cho bản thân doanh nghiệp cũng như đóng góp một phần cho nền kinh tế trong
nước. Đối với nền kinh tế: nhiều dự án ĐTRNN đã đi vào triển khai hoạt động có
doanh thu, lợi nhuận chuyển về nước, thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước,
điều này góp phần tăng thu ngoại tệ và tăng thu ngân sách cho nhà nước. Cụ thể,
theo số liệu báo cáo của nhà đầu tư, lợi nhuận và tiền chuyển về nước lũy kế hết
2018 là 1,23 tỷ USD. Con số vốn chuyển ra nước ngoài và lợi nhuận thu được của
các dự án ĐTRNN có thể sẽ lớn hơn trên thực tế vì nhiều nhà đầu tư chưa thực
hiện báo cáo.
- Về mặt đóng góp cho ngân sách nhà nước, mặc dù nhiều quốc gia có xuất
hiện hoạt động đầu tư của Việt Nam đã ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần
với Việt Nam nên nhà đầu tư không phải nộp thuế hoặc nộp ít thuế cho nhà nước
Việt Nam đối với phần lợi nhuận chuyển về, nhưng theo báo cáo năm 2018 của
các nhà đầu tư, số tiền thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước lũy kế đến hết
2018 đạt 39 triệu USD.
- Hoạt động ĐTRNN cũng gắn với nhiệm vụ chính trị, hỗ trợ công tác an
ninh, quốc phòng như các dự án thăm dò dầu khí lô XV tại Campuchia của
PVN/PVEP, dự án bô xít tại Mondulkiri, Campuchia của TKV, dự án Hãng hàng
không Angkor Air của TCT Hàng không Việt Nam; một số dự án đầu tư xây dựng
phát triển cụm làng bản tại Lào của các doanh nghiệp thuộc khối quốc phòng…
- Hoạt động ĐTRNN cũng tạo ra một khối lượng việc làm nhất định tại nước
ngoài cho lao động Việt Nam, đặc biệt là các dự án trồng cây công nghiệp, dịch vụ
xây dựng, thủy điện, khai khoáng. Theo báo cáo năm 2018, tổng số lao động Việt
Nam đưa ra nước ngoài là 8.574 người. Lao động Việt Nam đưa ra nước ngoài
trong các ngành, lĩnh vực khác chủ yếu là quản lý, kỹ thuật. Mặc dù lượng lao động
Việt Nam đưa ra nước ngoài chưa đáng kể nhưng số liệu này thể hiện rằng, hoạt
động ĐTRNN có thể phần nào giúp giải quyết vấn đề lao động trong nước. Ngoài
54
ra, số lao động ra làm việc ở nước ngoài này có thể được hưởng chế độ tốt hơn
trong nước, thu nhập cao hơn, đồng thời có cơ hội học hỏi và nâng cao tay nghề,
chuyên môn, trình độ, tích lũy kinh nghiệm làm việc trong môi trường nước ngoài.
- Hoạt động ĐTRNN đã và đang giúp cho Việt Nam mở rộng và đa dạng hóa
thị trường tiêu thụ sản phẩm tại nước ngoài và tránh những hàng rào bảo hộ thương
mại của nước nhận đầu tư và các nước thứ ba. Một trong những lợi ích cơ bản và
lớn nhất của ĐTRNN nói chung chính là mở rộng thị trường sản phẩm, dịch vụ
trong nước ra nước ngoài. Đối với ĐTRNN của Việt Nam, lĩnh vực thương mại
xuất nhập khẩu có số lượng dự án lớn nhất (327 dự án còn hiệu lực, chiếm gần 30%
tổng số dự án đăng ký ĐTRNN lũy kế đến hết 2018). Nhiều doanh nghiệp Việt Nam
đã thực hiện hoạt động xuất khẩu thường xuyên muốn tiến tới thành lập công ty tại
thị trường nhập khẩu sản phẩm của mình để trực tiếp phân phối, bán và tiếp thị sản
phẩm của mình tại thị trường nước ngoài thay vì qua trung gian để giảm giá bán,
tăng tính cạnh tranh của sản phẩm hoặc để tiếp cận số lượng khách hàng lớn hơn
Nhìn chung, hoạt động ĐTRNN bước đầu giúp doanh nghiệp Việt Nam phát
triển năng lực quản lý, tích lũy kinh nghiệm kinh doanh trong môi trường quốc tế,
tăng tính cạnh tranh và khả năng hội nhập
2.4.4. Chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài
Về vốn chuyển ra nước ngoài:
Theo báo cáo của các nhà đầu tư, tổng vốn chuyển ra nước ngoài trong năm
2018 để thực hiện các hoạt động đầu tư là 515,2 triệu đô la Mỹ, tăng khoảng 44% so
với năm 2017.
Tổng vốn đã chuyển ra nước ngoài lũy kế hết 2018 của các hoạt động
ĐTRNN đạt 8,1 tỷ USD. Vốn đã chuyển ra nước ngoài lớn nhất là lĩnh vực khai
khoáng (3,17 tỷ USD), tiếp theo là các lĩnh vực thông tin truyền thông (1,35 tỷ
USD), nông nghiệp (1,3 tỷ USD), sản xuất điện (668 triệu USD), ngân hàng –
tài chính (565 triệu USD), kinh doanh bất động sản (379 triệu USD), hoạt động
chuyên môn, khoa học công nghệ (196 triệu USD), sản xuất công nghiệp (178
triệu USD), thương mại (140 triệu USD), vận tải (116 triệu USD), dịch vụ lưu
55
trú ăn uống (42 triệu USD), dịch vụ xây dựng (4 triệu USD), các hoạt động
khác (1,5 triệu USD) [6].
- Các doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư ở nước ngoài chưa có được sự
quan tâm, hỗ trợ đúng mức từ phía các cơ quan nhà nước. Mối liên hệ giữa cơ quan
đại diện ngoại giao và thương vụ ta ở nước ngoài với các doanh nghiệp ĐTRNN
còn lỏng lẻo nên chưa hỗ trợ được nhiều cho các doanh nghiệp khi giải quyết những
vấn đề phát sinh khi triển khai dự án tại nước ngoài. Quyết định đầu tư vào một thị
trường nào đó, phần lớn các doanh nghiệp phải tự bươn chải, tìm hiểu thị trường, cơ
hội đầu tư và đối tác, luật pháp, chính sách và các thủ tục đầu tư mà ít có sự hỗ trợ
hướng dẫn và cung cấp thông tin của các cơ quan quản lý, xúc tiến thương mại và
đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài. Do đó, đã có không ít doanh nghiệp đã gặp khó
khăn trong việc triển khai dự án do quy định hoặc do thủ tục của phía bạn nên mất
rất nhiều thời gian và chi phí.
Trường hợp của Công ty Sacom là một ví dụ Sacom có dự án liên doanh với
một đối tác ở Campuchia để phát triển hạ tầng mạng thông tin và khai thác viễn
thông của đất nước này. Sacom đã đăng ký đầu tư và làm đầy đủ các thủ tục đầu tư
theo đúng quy định từ phía chính quyền Campuchia. Hai bên đang triển khai dự án
đầu tư, thì không hiểu lí do gì, cảnh sát phía Campuchia nghi ngờ về việc kinh
doanh của liên doanh không hợp pháp và đã đến trụ sở công ty tháo dỡ cũng như
tịch thu một số thiết bị mà liên doanh đã lắp đặt, đồng thời yêu cầu một số nhân
viên của liên doanh về trụ sở của họ để khai báo. Sự việc đã được sáng tỏ từ năm
2007 là liên doanh không vi phạm và làm sai điều gì trong kinh doanh, nhưng số
thiết bị bị tịch thu trước đó thì cho đến giờ vẫn chưa được trả lại mà phía chính
quyền Campuchia còn bắt liên doanh phải đóng thuế cho những thiết bị bị tịch thu
này. Tại hội nghị thúc đẩy hoạt động ĐTRNN của Bộ kế hoạch đầu tư ngày
5/9/2008, bà Phạm Thị Lợi, đại diện của Sacom cho biết, do sự việc trên chưa được
giải quyết, chưa được sự giúp đỡ hỗ trợ từ phía các cơ quan quản lý Việt Nam ở
Campuchia, nên Sacom đang chồn chân cho kế hoạch đầu tư mở rộng sang các
nước khác như Philippin, Malaysia…. (Nguồn: Gian nan đầu tư nước ngoài – Thời
báo kinh tế Sài Gòn online 6/9/2008)
56
- Doanh nghiệp khi thực hiện ĐTRNN cũng gặp phải những khó khăn trong
việc vay tiền để thực hiện hoạt động đầu tư. Hiện nay, việc vay ngoại tệ của ngân
hàng thương mại để ĐTRNN vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là các ngân
hàng thương mại chưa có cơ chế để quản lý nguồn tiền vay khi họ không có văn
phòng đại diện ở quốc gia mà doanh nghiệp đầu tư. Ngoài ra cơ chế quản lý ngoại
hối của Ngân hàng Nhà nước hiện nay chưa quy định về quản lý đồng tiền ĐTRNN.
Sự thiếu hụt vốn đã khiến cho một số dự án chỉ tồn tại được một thời gian ngắn, và
khó khăn trong việc triển khai thực hiện dự án.
Bên cạnh đó doanh nghiệp vẫn còn gặp phải rất nhiều khó khăn do việc
chuyển tiền ra nước ngoài để thực hiện đầu tư.
Theo như Thông tư số 01/2001/TT- NHNN ngày 19/1/2001 của Ngân hàng
Nhà nước hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với ĐTTTRNN của doanh nghiệp
Việt Nam. Theo đó, doanh nghiệp phải mở một tài khoản tại ngân hàng, mọi giao
dịch chuyển tiền ra nước ngoài, và vào Việt Nam liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp phải được thực hiện thông qua tài khoản này. Ngoài ra doanh nghiệp
còn phải làm thủ tục đăng ký với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tại địa phương
mình có trụ sở chính về việc mở tài khoản ngoại tệ và tiến độ chuyển vốn ĐTRNN.
Như vậy, cùng một việc chuyển vốn ĐTRNN doanh nghiệp phải hai lần đăng ký mở
tài khoản, với chi nhánh ngân hàng Nhà nước và với ngân hàng thương mại khác
hoạt động tại Việt Nam. Doanh nghiệp chỉ được phép sử dụng nguồn ngoại tệ trên
tài khoản tiền gửi ngoại tệ của mình mở tại ngân hàng được phép để chuyển ra nước
ngoài góp vốn đầu tư trên cơ sở quy định tại giấy phép đầu tư do cơ quan có thẩm
quyền cấp. Ngoài ra, để mở được tài khoản tại ngân hàng phục vụ việc chuyển tiền
ra nước ngoài doanh nghiệp phải chứng minh được dự án đầu tư, giấy phép đầu tư
do nước ngoài cấp... Như vậy giai đoạn làm khảo sát, thăm dò, thiết kế dự án của
doanh nghiệp tại nước ngoài sẽ không được chuyển tiền ra nước ngoài. Đây sẽ là
khó khăn cho doanh nghiệp khi hoạt động chuẩn bị cho dự án đầu tư, trong khi đây
là giai đoạn cần thiết để có được giấy phép chấp thuận đầu tư của nước doanh
nghiệp muốn đầu tư.
57
Một số trường hợp thậm chí khi dự án nhận được giấy phép thì việc chuyển
vốn ĐTRNN lại bị tắc nghẽn khiến việc triển khai nhiều dự án chậm so với kế hoạch
và cũng làm nản lòng các nhà đầu tư. Như trường hợp của công ty cổ phần Xuất nhập
khẩu Việt Trang (Viettranimex) ông Nguyễn Văn Thanh, chủ tịch Hội đồng quản trị
của công ty nói mặc dù dự án xây dựng tòa nhà thương mại quốc gia Việt Nam tại
khu thương mại quốc tế Trung Quốc – ASEAN ở Trung Quốc của công ty ông đã
được cắt băng khánh thành, nhưng phía Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa cho công ty
được phép chuyển tiền. Theo một số doanh nghiệp, thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài
do Ngân hàng Nhà nước quy định quá phức tạp dẫn đến nhiều khó khăn cho họ trong
việc chậm triển khai dự án, thậm chí phải bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
Trường hợp của Công ty cổ phần Cao su Việt Lào (CSVL) cũng là một trong
những ví dụ điển hình. Theo giấy phép đầu tư, CSVL (cổ đông là các công ty cao su
thuộc Tổng công ty Cao su VN) được đầu tư 22 triệu USD ở Lào để trồng 10.000 ha
cao su tại tỉnh Champasak. Các cổ đông của công ty đã chuyển vài chục tỷ đồng đến
Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh TP HCM, nhưng ngân hàng này chưa thể
chuyển sang Lào vì còn chờ giấy phép chuyển ngoại tệ từ Ngân hàng Nhà nước.
CSVL đành phải chờ đợi trong tâm trạng sợ lỡ thời vụ sản xuất và tốn kém. Trồng
cao su phải theo mùa vụ, tranh thủ mưa xuống là phải xuống giống. Giống được đưa
qua, mưa đã có, nhưng tiền vẫn ở VN. Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh TP
HCM phải gỡ khó cho các nhà đầu tư bằng cách bảo lãnh cho CSVL vay tiền chi
nhánh bên Lào, để có tiền trang trải chi phí và trả lương cho công nhân. Chỉ sau khi
có được ủy quyền từ Ngân hàng Nhà nước cho Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP
HCM, Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh TP HCM mới được chuyển tiền
của CSVL sang Lào.
Khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc chuyển tiền là vậy nhưng việc
chuyển lợi nhuận về nước cũng gặp nhiều khó khăn. Theo quy định, lợi nhuận của
các dự án đầu tư phải chuyển về nước chậm nhất là 6 tháng khi năm tài chính kết
thúc, nhưng lại chưa có quy định rõ ràng lợi nhuận bao gồm cụ thể những gì. Chủ
đầu tư VN muốn chuyển lợi nhuận thành vốn đầu tư tiếp để khỏi phải chuyển tiền
đầu tư ra cũng không phải là chuyện đơn giản.
58
2.4.5. Chuyển lợi nhuận về nước
Liên quan đến việc chuyển tiền ra nước ngoài có nhiều khó khăn, nhưng việc
chuyển lợi nhuận về nước cũng gặp nhiều khó khăn. Theo quy định tại Điều 65 Luật
đầu tư: “Trừ trường hợp sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài, trong thời hạn
06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý
tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải
chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầ u tư ở nước
ngoài về Việt Nam”, việc quy định này với thực tế là khó thực hiện khi mà thời
điểm có quyết toán thuế với thời điểm có báo cáo tài chính và thời điểm họp chủ
đầu tư để phân phối lợi nhuận là khác nhau, việc ấn định một thời hạn cụ thể sẽ gây
khó khăn cho nhà đầu tư.
Một số thị trường đầu tư do chính sách kinh tế vĩ mô không ổn định, đồng
nội tệ mất giá cao có khi lên đến 70% (ví dụ như Mozambique năm 2013 – 2015,
Burundi 2015 – 2017; Peru 2014 – 3016) nếu hạch toán theo đồng tiền sở tại thì
doanh nghiệp tại nước đầu tư có lãi, nhưng khi chuyển sang đồng đô la Mỹ để mang
về nước thì lại không có lãi. Ngoài ra có thị trường không thể mua được đồng đô la
Mỹ để mang về nước, chênh lệch về giá mua giữa tỷ giá công bố và giá trị thực quá
cao, doanh nghiệp lúng túng trong trường hợp này, chưa biết cách xử lý, ví dụ như
thị trường Lào năm 2019, Burundi năm 2017-2019.
Trên thực tế có nhiều dự án đầu tư ra nước ngoài, nhưng do không nắm chắc
được các thủ tục, các nhà đầu tư đã mang tiền trực tiếp ra nước ngoài để đầu tư mà
không thông qua một tài khoản ngoại tệ, khi có lợi nhuận chuyển về nước thì lúng
túng không biết mang tiền về bằng cách nào, lúc đó mới đăng ký tài khoản ngoại tệ,
mặc dù dự án có hiệu quả, nhưng về thủ tục đầu tư là đang vi phạm.
2.4.6. Sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài
Để thực hiện dự án ĐTRNN doanh nghiệp phải mở một tài khoản tiền gửi
ngoại tệ tại ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối. Mọi giao dịch chuyển tiền ra
nước ngoài và vào Việt Nam liên quan đến hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp
phải thực hiện thông qua tài khoản này; đồng thời trường hợp doanh nghiệp sử dụng
lợi nhuận để mở rộng đầu tư hoặc kéo dài thời hạn đầu tư ở nước ngoài thì:
59
- Nhà đầu tư sử dụng lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài để
tăng vốn, mở rộng hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải thực hiện thủ tục điều chỉnh
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài và báo cáo Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.
- Trường hợp dùng lợi nhuận thu được từ dự án đầu tư ở nước ngoài để thực
hiện dự án đầu tư khác ở nước ngoài thì nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục cấp Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài cho dự án đầu tư đó và phải đăng ký tài
khoản vốn, tiến độ chuyển vốn đầu tư bằng tiền với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Sau khi có văn bản chấp thuận của BKHĐT doanh nghiệp phải đăng ký với
chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Hàng năm trong thời hạn 6 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính của nước tiếp
nhận đầu tư, doanh nghiệp phải gửi cho chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành
phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính (trong đó có bảng tổng kết tài sản và kết quả
kinh doanh lãi- lỗ của doanh nghiệp) có chứng nhận của cơ quan kiểm toán hoặc cơ
quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư. (Điều 66 Luật đầu tư 2014)
2.4.7. Chấm dứt hoạt động đầu tư tại nước ngoài.
Thiếu công cụ quản lý hoạt động đầu tư tại nước ngoài: GCNĐK ĐTRNN do
BKHĐT cấp và thủ tục đăng ký chuyển ngoại tệ ra nước ngoài với NHNNVN chỉ là
công cụ để kiểm soát lượng ngoại tệ chuyển ra nước ngoài, không có tác dụng trong
việc quản lý hoạt động đầu tư tại nước ngoài. Sau khi nhà đầu tư đã chuyển ngoại tệ
ra nước ngoài, nhà nước không có biện pháp/công cụ để kiểm soát hoạt động
ĐTRNN, để không cho thực hiện hay buộc chấm dứt dự án tại nước ngoài trong
trường hợp nhà đầu tư có các vi phạm quy định về ĐTRNN. Lý do là vì hoạt động
ĐTRNN diễn ra tại nước ngoài, các tổ chức kinh tế thành lập tại nước ngoài trong
dự án là pháp nhân nước ngoài, hoạt động theo pháp luật nước ngoài, không thể bị
cưỡng bức giải thể, tạm ngừng hoạt động theo quyết định của nhà nước Việt Nam.
Ngay cả biện pháp chấm dứt hiệu lực GCNĐK ĐTRNN đối với các dự án không
thực hiện chế độ báo cáo theo quy định có thể không buộc được nhà đầu tư chấm
dứt hoạt động của công ty đã được thành lập tại nước ngoài trong dự án đó.
60
2.5. Các thỏa thuận đầu tư quốc tế và khu vực có tác động tới ĐTRNN
Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước ĐTRNN và thu hút FDI, trên trường
quốc tế, Chính phủ Việt Nam cũng đã tham gia vào Hiệp định khung về Khu vực
đầu tư ASEAN (AIA).
Với những mục tiêu của AIA là xây dựng một môi trường đầu tư thông
thoáng và rõ ràng hơn giữa các quốc gia thành viên, nhằm đẩy mạnh đầu tư vào
ASEAN từ các nguồn cả trong và ngoài ASEAN; cùng thúc đẩy ASEAN thành khu
vực đầu tư hấp dẫn nhất; giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và điều kiện đầu tư
có thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN;
và đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần hướng tới việc tất
cả các ngành nghề được mở cửa cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho
tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020, ngoại trừ các ngoại lệ được quy định trong
Hiệp định này.
Bản thân Việt Nam cũng đã tích cực ký kết các hiệp định khuyến khích và
bảo hộ đầu tư với các nước trên thế giới. Kể từ khi bắt đầu triển khai ký kết (1990),
đến nay, Việt Nam đã ký kết 67 Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư với các
quốc gia và vùng lãnh thổ (Phụ lục số 1).
Trong quá trình mở cửa nền kinh tế, và hội nhập sâu và rộng hơn vào nền
kinh tế, tính đến ngày 10/8/2016, Việt Nam đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thu nhập với 75 nước/vùng lãnh thổ trên thế
giới (Phụ lục số 2).
Mục đích ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần nhằm loại bỏ việc
đánh thuế trùng bằng cách: (a) miễn, giảm số thuế phải nộp tại Việt Nam cho các
đối tượng cư trú của nước ký kết hiệp định; hoặc (b) khấu trừ số thuế mà đối tượng
cư trú Việt Nam đã nộp tại nước ký kết hiệp định vào số thuế phải nộp tại Việt
Nam. Ngoài ra, Hiệp định còn tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hợp tác và hỗ trợ lẫn
nhau giữa cơ quan thuế Việt Nam với cơ quan thuế các nước/vùng lãnh thổ trong
công tác quản lý thuế quốc tế nhằm ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại
thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản.
61
Hiệp định chỉ áp dụng đối với các đối tượng là đối tượng cư trú của Việt
Nam hoặc là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam hoặc đồng
thời là đối tượng cư trú của Việt Nam và Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.
Các loại thuế áp dụng trong các Hiệp định thuế là các loại thuế đánh vào thu
nhập và tài sản được quy định cụ thể tại từng Hiệp định. Trong trường hợp của Việt
Nam, các loại thuế thuộc phạm vi áp dụng Hiệp định là: (i). Thuế thu nhập doanh
nghiệp; và (ii). Thuế thu nhập cá nhân.
Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với
luật thuế trong nước. Trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó Việt Nam
có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó hoặc thu thuế với một mức thuế
suất nhất định nhưng pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam chưa có quy định thu
thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thuế suất thấp hơn thì áp dụng
theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam, nghĩa là không thu thuế
hoặc thu thuế với mức thuế suất thấp hơn.
Khi Việt Nam thực hiện các quy định tại Hiệp định, nếu có các thuật ngữ
chưa được định nghĩa tại Hiệp định, thì các thuật ngữ chưa được định nghĩa sẽ có
nghĩa như quy định tại pháp luật của Việt Nam cho các mục đích thuế tại thời điểm
đó. Đối với một thuật ngữ chưa được định nghĩa tại Hiệp định và chưa được định
nghĩa hoặc đồng thời được định nghĩa tại pháp luật của Việt Nam và của Nước ký
kết Hiệp định với Việt Nam thì Nhà chức trách có thẩm quyền của hai nước sẽ thực
hiện giải quyết vấn đề qua thủ tục thỏa thuận song phương.
Tuy nhiên có một số nước, Việt Nam có đầu tư sang ở mức lớn, nhưng hiện
cả hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
vẫn chưa ký kết được, các Bộ cũng chưa có khuyến nghị, tư vấn đối với các doanh
nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài, vào một nước Việt Nam chưa ký hiệp định, để
trước khi đầu tư phía Việt Nam có lợi thế về đàm phán để ký kết các Hiệp định, mà
sau đó khi nhận thấy có doanh nghiệp của Việt Nam đầu tư vào quốc gia đó, mới
mời các nước đã có doanh nghiệp đầu tư thực hiện đàm phán ký hiệp định, lúc đó
phía bạn không còn nhiều thiện ý để ký kết nữa, ví dụ như nước Cộng hòa Thống
62
nhất Tanzania, Cộng hòa Cameroun … nhiều lần đàm phán, thống nhất nhưng chưa
ký kết được.
Trở thành thành viên chính thức viên của WTO, Việt Nam được mở cửa thị
trường xuất khẩu và đầu tư vào các thành viên khác. Việc thực hiện các cam kết tạo
ra nhiều cơ hội to lớn và nâng cao địa vị pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư ra nước ngoài.
Việt Nam đã tham gia đàm phán, ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự
do (FTA) với EU, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á-Âu và nhất là Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đang mở ra cơ hội rất lớn cho doanh nghiệp Việt
mở rộng thị trường ở nước ngoài.
2.6. Những quy định pháp luật bổ sung đối với doanh nghiệp có sử dụng
nguồn vốn Nhà nước khi đầu tư ra nước ngoài
2.6.1. Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài
Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước ngoài việc tuân thủ quy định
về đầu tư ra nước ngoài, việc quyết định đầu tư ra nước ngoài của của Doanh
nghiệp Nhà nước phải tuân thủ theo quy định của Luật 69/2014 ngày 26/11/2014,
trong đó quy định về thẩm quyền quyết định đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư là
doanh nghiệp nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng
vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Điều 57 khoản 1
Luật đầu tư). Ngoài ra cần tuân thủ về mục tiêu đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà
nước tại doanh nghiệp đó là: định hướng, điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới,
nâng cao hiệu quả đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp, nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp phải thông qua người đại diện
chủ sở hữu trực tiếp hoặc người đại diện phần vốn nhà nước; bảo đảm doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, bình, đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo
pháp luật (Điều 5 Luật số 69/2014), theo đó cấp có thẩm quyền quyết định chủ
trương đầu tư phải là cơ quan được giao quản lý và quyết định việc đầu tư và Người
đại diện phần vốn chỉ được thực hiện khi được cơ quan quản lý thống nhất nội
dung. Thẩm quyền vẫn phải thuộc về cơ quan quản lý nguồn vốn đó.
63
2.6.2. Các cam kết, đánh giá hiệu quả khi thực hiện đầu tư
Khi xây dựng dự án đầu tư ra nước ngoài, Nhà đầu tư cần có bản tính toán
mức độ khả thi của dự án khi thực hiện. Bộ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đầu tư ra
nước ngoài sẽ bao gồm các bảng tính toán hiệu quả, khả năng thu hồi vốn, thời gian
hoàn vốn và lợi nhuận dự kiến mang lại, trong đó cũng nêu rõ những cam kết về
triển khai dự án như thời gian triển khai, hoạt động và kinh doanh cụ thể vào lúc
nào. Tất cả những cam kết và đánh giá đó được Bộ KH và ĐT lưu vào hồ sơ và một
phần được thể hiện tại Giấy CNĐT để theo định kỳ báo cáo 6 tháng và báo cáo năm
Nhà đầu tư phải thực hiện báo cáo kết quả thực hiện công việc của mình.
Trong trường hợp thực hiện dự án, những vấn đề phát sinh làm cho những
tính toàn của Nhà đầu tư có thay đổi nhiều, trong báo cáo thường kỳ phải thực hiện
báo cáo với Bộ KHĐT để kịp thời nắm bắt để có những hướng dẫn kịp thời tháo gỡ
cho Nhà đầu tư, với một số trường hợp thay đổi lớn, kéo dài thời gian thu hồi vốn,
các kết quả tính toán sai lệch quá nhiều Nhà đầu tư cần phải điều chỉnh lại Giấy
chứng nhận đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế.
2.6.3. Kiểm soát và báo cáo giám sát
Theo quy định tại Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 23/10/2015, tất cả các bộ
và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đều có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra và/hoặc
giám sát hoạt động ĐTRNN theo thẩm quyền và trong lĩnh vực quản lý nhà nước
được phân công.
Theo đó, hàng năm, BKHĐT đều có văn bản nhắc nhở các nhà đầu tư thực
hiện chế độ báo cáo hàng năm về ĐTRNN, trên cơ sở đó để tiến hành rà soát, nắm
bắt tình hình hoạt động của các dự án ĐTRNN. Đây là cơ chế chính để theo dõi tình
hình hoạt động ĐTRNN: thông qua báo cáo của các nhà đầu tư.
BKHĐT cũng đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tổ chức một số đoàn
kiểm tra tình hình chấp hành pháp luật hàng năm về ĐTRNN đối với một số dự án,
nhóm dự án trong các lĩnh vực nhất định: ngân hàng, viễn thông, dầu khí, trồng cao
su... Tại các buổi làm việc này, đại diện các bộ ngành đã có sự trao đổi với nhà đầu
tư về tình hình thực hiện các dự án ĐTRNN, chỉ ra nhưng điểm được và chưa được
64
trong việc tuân thủ các quy định pháp luật về ĐTRNN, lập biên bản họp giữa nhà
đầu tư và đoàn kiểm tra để làm cơ sở tiếp tục theo dõi, giám sát hoạt động ĐTRNN
của các đơn vị này. Ngoài ra, BKHĐT cũng phối hợp với các Bộ ngành và cơ quan
đại diện ngoại giao tại hai thị trường Lào và Campuchia tổ chức một số đoàn kiểm tra
thực địa một số dự án có quy mô lớn tại Lào và Campuchia với mục đích chủ yếu là
ghi nhận các phản ánh về thực trạng hoạt động, khó khăn, vướng mắc mà các doanh
nghiệp gặp phải. Riêng đối với địa bàn Lào, các cuộc kiểm tra thực địa của đoàn bộ
ngành Việt Nam còn có sự tham gia của đoàn bộ ngành Lào cùng phối hợp.
Riêng đối với việc quản lý, giám sát việc sử dụng nguồn vốn nhà nước để
ĐTRNN: Các Bộ ngành, UBND tỉnh, thành phố có trách nhiệm quản lý, giám sát
việc sử dụng nguồn vốn nhà nước để ĐTRNN đối với các doanh nghiệp nhà nước,
phần vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý hoặc do do
đơn vị làm đại diện chủ sở hữu; trong đó, Bộ Tài chính là cơ quan theo dõi, giám sát
và tổng hợp việc sử dụng nguồn vốn đầu tư của nhà nước để ĐTRNN [7].
2.7. Thực thi pháp luật về đầu tư ra nước ngoài
2.7.1. Quá trình xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư
Nhìn chung về quy định pháp luật về việc xin cấp phép đã rõ ràng về hồ sơ
xin cấp phép, quy trình và thời gian cấp phép, bao gồm cả việc xin chấp thuận chủ
trương của Quốc Hội và Thủ tướng Chính phủ. Nhưng thực tế quá trình thẩm định
cấp phép các dự án ĐTRNN của Việt Nam vẫn còn chậm, các thủ tục cấp giấy phép
vẫn còn rườm rà. Mặc dù theo điều 10 Nghị định 83/2015 và Điều 55 khoản 4 Luật
đầu tư 2014, thời gian thẩm định cấp giấy phép ĐTRNN không quá 30 ngày kể từ
ngày nhận được hồ sơ hợp lệ và Thủ tướng Chính phủ có ý kiến trong thời gian 10
ngày kể từ ngày nhận được Báo cáo thẩm tra của Bộ KHĐT. Tuy nhiên trên thực tế
thời gian này kéo dài hàng tháng, thậm chí hàng năm. Không ít doanh nghiệp khi
xin giấy phép đầu tư ra nước ngoài phải mất rất nhiều thời gian dẫn đến việc triển
khai dự án bị chậm so với kế hoạch. Trường hợp của công ty cổ phần Xuất nhập
khẩu Việt Trang (Viettranimex), công ty hiện nay đã trình một số dự án đầu tư sang
Lào, nhưng đã hơn sáu tháng nay vẫn chưa có câu trả lời là có cấp phép hay không
65
từ phía Bộ kế hoạch – Đầu tư. Mặc dù ông Thanh đã nhiều lần làm văn bản đề nghị
Bộ Kế hoạch-Đầu tư trả lời nhưng đến nay vẫn chưa thấy hồi âm. Hay như trường
hợp của dự án nhà máy điện Xêkaman 3 đầu tư sang Lào, sau khi tiến hành xin ý
kiến các bộ ngành lần một năm 2004 thì đến tận cuối năm 2005, dự án mới được
cấp giấy phép.
Bên cạnh đó việc cấp giấy chứng nhận ĐTRNN còn chưa được phân cấp,
còn tập trung ở Bộ kế hoạch đầu tư. Các doanh nghiệp ở địa phương muốn ĐTRNN
đều phải tốn thời gian đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xin phép. Tính ra, doanh
nghiệp muốn hoàn thiện thủ tục để có được giấy phép ĐTRNN phải qua 11 đầu mối
các cơ quan quản lý trong nước. Các thủ tục hành chính trong việc đăng ký cấp
phép của Việt Nam còn quá rườm rà, làm nản lòng các nhà đầu tư thậm chí còn mất
cơ hội kinh doanh của họ. Việc này gây tình trạng mất thời gain, đôi khi tạo ra
những chi phí không cần thiết.
Công tác quản lý của nhà nước về ĐTRNN trong thời gian qua gặp nhiều
khó khăn. Chức năng quản lý của các cơ quan nhà nước như Bộ kế hoạch đầu tư,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ tài chính, Bộ thương mại… đối với hoạt động
ĐTRNN đã được quy định rõ trong Luật Đầu tư và Nghị định 83/2015/NĐ-CP
nhưng trong thực tiễn chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý các dự án,
vẫn có cách hiểu và quy trách nhiệm toàn bộ cho cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu
tư đối với những vấn đề phát sinh của doanh nghiệp và dự án ĐTRNN. Việc kiểm
tra, đánh giá hoạt động ĐTRNN cũng chưa được tiến hành thường xuyên, chủ yếu
còn dựa trên các bản báo cáo của các doanh nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn nhiều
doanh nghiệp không thực hiện nghiêm chỉnh chế độ báo cáo về dự án ĐTRNN, vì
thế doanh nghiệp vẫn chưa nhận được sự hỗ trợ tối đa của Nhà nước khi gặp những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư.
2.7.2. Việc xin phép chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài
Nhà đầu tư được chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động
đầu tư khi đáp ứng các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, nhà đầu tư được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài;
66
Thứ hai, Hoạt động đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp
nhận đầu tư chấp thuận hoặc cấp phép. Trường hợp pháp luật của nước tiếp nhận
đầu tư không quy định về việc cấp phép đầu tư hoặc chấp thuận đầu tư, nhà đầu tư
phải có tài liệu chứng minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư;
Thứ ba, các nhà đầu tư phải có tài khoản vốn theo quy định tại Điều 63 của
Luật đầu tư;
Thứ tư, nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm đối với việc chuyển vốn đầu tư ra
nước ngoài, đảm bảo đúng mục đích, đúng thời hạn và tuân thủ các quy định của
hợp đồng dầu khí, hợp đồng mua bán cổ phần…;
Thứ năm, nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài thông qua tài khoản
vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sau khi được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác
nhận đăng ký giao dịch ngoại hối liên quan đến đầu tư ra nước ngoài.
Trình tự thực hiện chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài:
+ Bước 1: Doanh nghiệp được phép đầu tư ra nước ngoài lập hồ sơ đăng ký
tài khoản ngoại tệ và tiến độ chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài gửi Ngân hàng Nhà
nước chi nhánh tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
+ Bước 2: Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố xem xét thẩm
định hồ sơ;
+ Bước 3: Trong thời gian 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ,
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính
có trách nhiệm xác nhận việc mở tài khoản và đăng ký tiến độ chuyển vốn đầu tư ra
nước ngoài để nhà đầu tư Việt Nam làm cơ sở chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài
thực hiện dự án đầu tư thông qua tài khoản đã mở ở ngân hàng được phép.
Việc quy định đã rõ ràng, nhưng thực tế thủ tục thực hiện có nhiều khó khăn
về thời gian chuyển, trong khi các doanh nghiệp thực hiện tham gia đấu thầu giấy
phép, một số gói thầu bên nước ngoài có yêu cầu về thời gian nhất định để chuyển
tiền, nếu chậm sẽ được coi là từ bỏ tham gia, điều đó gây khó khăn cho nhà đầu tư
(i). Không thực hiện được cam kết; (ii). Mất khoản tiền đặt cọc tham gia; (iii). Mất
đi cơ hội đầu tư. Ví dụ: Công ty Viettel Overseas khi tham gia đấu thầu giấy phép
67
viễn thông tại Haiti, khi thắng thầu, trong thông báo trúng thầu của cơ quan quản lý
viễn thông Haiti quy định Viettel Overseas có 30 ngày để chuyển tiền thanh toán
giấy phép, quay lại các thủ tục ở Việt Nam, Viettel Overseas thấy khó khăn khi
hoàn thành các thủ tục, thời điểm năm 2010 Viettel Overseas đã phải huy động các
nguồn lực để thực hiện các thủ tục xin cấp phép, chuyển tiền, trong khi không đáng
phải như vậy và không đáng để đưa nhà đầu tư vào tình thế khó khăn [21].
2.7.3. Đầu tư ra nước ngoài bằng tài sản có sử dụng Nguồn vốn Nhà nước
Các doanh nghiệp nhà nước có 114 dự án đầu tư ra nước ngoài, tính đến hết
năm 2018. Tổng số lỗ phát sinh trong năm 2018 của các dự án báo lỗ là 367 triệu
USD, tăng 265% so với năm 2017
Đánh giá tình hình đầu tư vốn ra nước ngoài đến 31/12/2018, báo cáo của
Chính phủ cho biết: Tính đến 31/12/2018 có 19 DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà
nước chi phối (Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) có dự án đầu tư ra nước
ngoài, thực hiện đầu tư tại 114 dự án, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực viễn thông,
thăm dò và khai thác dầu khí, trồng cây cao su, khai thác khoáng sản và lĩnh vực tài
chính ngân hàng.
Tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án là 11,9 tỷ USD. Trong năm 2018, các
doanh nghiệp thực hiện đầu tư vốn ra nước ngoài 194 triệu USD.
Lũy kế đến ngày 31/12/2018, tổng vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện của 19
doanh nghiệp là 5,8 tỷ USD (đạt 48,62%/tổng số vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài).
Số tiền còn phải tiếp tục đầu tư ra nước ngoài so với vốn đăng ký đầu tư ra
nước ngoài của các dự án trên là 6,1 tỷ USD (51,39%/tổng số vốn đăng ký đầu tư ra
nước ngoài).
Trong năm 2018, các dự án đầu tư ra nước ngoài đã thu hồi được 559 triệu
USD, trong đó chiếm tỷ trọng 60% là thu hồi vốn đầu tư (333 triệu USD), 38% là
lợi nhuận chuyển về nước (212 triệu USD), 2% là thu tiền lãi từ việc cho các dự án
tại nước ngoài vay vốn (14 triệu USD).
Lũy kế đến ngày 31/12/2018, có 6/19 doanh nghiệp đã thu hồi vốn đầu tư từ các
dự án tại nước ngoài với số tiền gần 2,6 tỷ USD, bằng 45% vốn đầu tư đã thực hiện.
68
Năm 2018, các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có 84/114 dự án phát sinh
doanh thu, lợi nhuận với tổng doanh thu tại nước ngoài cả năm là 4,1 tỷ USD, giảm
4% so với năm 2017.
Tổng lợi nhuận của các dự án có lãi là 187 triệu USD, giảm 24% so với năm 2017.
Tổng số lỗ phát sinh trong năm của các dự án báo lỗ là 367 triệu USD, tăng
265% so với năm 2017 [7].
Số lỗ hàng trăm triệu USD nói trên có nguyên nhân chủ yếu do đồng nội tệ
mất giá cũng như tình trạng lạm phát tại nước đầu tư (như các nước châu Phi, Trung
Mỹ hoặc Đông Nam Á) và cạnh tranh gay gắt.
Lĩnh vực trồng, chế biến mủ cao su lỗ do giá cao su tự nhiên thế giới sụt
giảm sâu và ảnh hưởng của việc các quốc gia sở tại thay đổi chính sách đầu tư, đất
đai (Lào, Campuchia).
Bên cạnh đó, nguyên nhân chủ quan chung dẫn đến kết quả hoạt động đầu tư
ra nước ngoài còn chưa đạt như kỳ vọng là khả năng dự báo thị trường, năng lực quản
lý, năng lực tài chính và về kinh nghiệm trong đầu tư ra nước ngoài còn hạn chế.
Chính sách về quản lý nguồn vốn của Nhà nước khi đầu tư cần đảm bảo an
toàn, có sự kiểm soát chặt chẽ, người đại diện nguồn vốn cần báo cáo xin ý kiến
trước khi thực hiện, trách nhiệm đối với người đại diện vốn là rất lớn, nên việc cân
nhắc các chính sách, phương án trong kinh doanh thường là chậm, sự chuyển biến
chậm nên hiệu quả kinh doanh không cao, không dám đối mới, không dám đột phá
nên kết quả thường ở mức trung bình.
2.7.4. Chứng minh hiệu quả và tính tự chịu trách nhiệm của Nhà đầu tư
Tính đến ngày 31-12-2018 có 19 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh
nghiệp có vốn nhà nước chi phối (nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) đầu tư tại 114 dự
án đầu tư ra nước ngoài, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực viễn thông, thăm dò và
khai thác dầu khí, trồng cây cao su, khai thác khoáng sản và ngân hàng.
Tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án là 11.964 triệu USD, trong đó dẫn
đầu là PVN với 6,677 tỉ USD (chiếm 56%), tiếp theo là Tập đoàn Viettel đầu tư
2,992 tỉ USD (chiếm 25%), và VRG với 1,429 tỉ USD (chiếm 12%).
Tổng vốn đầu tư lũy kế đến ngày 31-12-2018 của 19 doanh nghiệp này
69
đạt 5,817 tỉ USD, trong đó nhiều nhất là PVN với 3,032 triệu USD (chiếm 49%),
Viettel đứng thứ hai với 1,606 triệu USD (chiếm 26%).
Tuy nhiên, trong năm 2018, các dự án đầu tư ra nước ngoài đã thu hồi được
559 triệu USD, chiếm tỉ trọng 60% là thu hồi vốn đầu tư (333 triệu USD), 38% là
lợi nhuận chuyển về nước (212 triệu USD)….
Lũy kế đến ngày 31-12-2018, 6 trên 19 doanh nghiệp đã thu hồi vốn đầu tư
từ các dự án tại nước ngoài với số tiền 2.594 triệu USD, bằng 45% vốn đầu tư đã
thực hiện.
Theo báo cáo của Chính phủ, năm 2018 các doanh nghiệp đầu tư ra nước
ngoài có 84/114 dự án phát sinh doanh thu, lợi nhuận với tổng doanh thu tại nước
ngoài cả năm là 4,158 tỉ USD, giảm 4% so với năm 2017. Tổng lợi nhuận của các
dự án có lãi là 187 triệu USD giảm 24% so với năm 2017.
Trong khi đó, tổng số lỗ phát sinh trong năm của các dự án báo lỗ là 367
triệu USD, tăng 265% so với năm 2017, trong đó dẫn đầu là các dự án của Viettel
với số lỗ phát sinh là 349 triệu USD, VRG với số lỗ phát sinh là 7,7 triệu USD.
Nhìn chung, lĩnh vực viễn thông, kinh doanh xăng dầu, dịch vụ dầu khí, xây
lắp và dịch vụ lưu trú có trên 60% các dự án phát sinh lãi.
Ngược lại, lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và khai thác khoáng
sản có tỉ lệ dự án lãi thấp, lần lượt là 17% và 11%. Ngoài ra, lĩnh vực viễn thông,
trồng - chế biến mủ cao su và lĩnh vực khai thác khoáng sản là 3 lĩnh vực còn nhiều
dự án đang bị lỗ lũy kế với số lượng lần lượt là 11; 22 và 6 dự án.
Viễn thông lỗ nhiều nhất được cho là do đồng nội tệ mất giá cũng như tình
trạng lạm phát tại nước đầu tư (như các nước châu Phi, Trung Mỹ hoặc Đông
Nam Á)...
Trong khi đó, cao su cũng được dự báo giá thế giới tiếp tục giảm sâu, cũng
như sự thay đổi chính sách tại các quốc gia như Lào và Campuchia, khiến cho nhà
đầu tư phải chịu lỗ nặng [7].
Căn cứ vào báo cáo tình hình hoạt động của các nhà đầu tư là DNNN có thể
thấy vẫn có những lĩnh vực ở một số quốc gia đầu tư có hiệu quả, nhưng cơ bản là
70
hiệu quả không cao hoặc bị tác động bởi môi trường đầu tư, nhiều yếu tố chủ quan
và khách quan tác động tới quá trình đầu tư và kinh doanh. Đối với nguồn vốn của
Nhà nước đầu tư ra nước ngoài, Điều 42 Luật 69/2014 quy định trách nhiệm của cơ
quan đại diện chủ sở hữu “Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc quản lý, sử dụng, bảo
toàn và phát triển vốn, thực hiện chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển, việc tuyển
dụng lao động, thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp; có ý kiến
về việc giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền đối
với hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp”; và “Đánh
giá kết quả hoạt động, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;
đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ trong quản lý, điều hành của người quản lý
doanh nghiệp, Kiểm soát viên”.
2.7.5. Tính phù hợp của thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài
Hiện nay, xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu đang lan tỏa mạnh mẽ đến tất cả
các nước trên thế giới mà trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh hội nhập
hiệu quả nhất, nhanh nhất để các nền kinh tế trên thế giới giao thương lẫn nhau.
Hoạt động này đã xuất hiện ở các nước phát triển từ rất lâu nhưng đối với các nước
đang phát triển và kém phát triển thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mới xuất hiện
trong vài thập kỷ trở lại đây. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ, hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng chỉ thực sự phát triển trong những năm gần đây và
đang có xu hướng gia tăng trong thời gian tới.
Đầu tư ra nước ngoài đang được xem là xu hướng mới của doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài tính đến hết quý I năm
2013, Việt Nam có 742 dự án đầu tư ra nước ngoài của của doanh nghiệp
Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 15,5 tỷ USD. Các dự án ĐTRNN của
doanh nghiệp Việt Nam tập trung phần lớn trong lĩnh vực khai khoáng với 99 dự án,
tổng vốn đầu tư 4,6 tỷ USD, (chiếm 13,3% về số dự án và 46% tổng vốn đầu tư);
tiếp theo là lĩnh vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản với 80 dự án, tổng vốn đầu tư 1,9
tỷ USD (chiếm 10,8% số dự án và 12,6% tổng vốn đầu tư); lĩnh vực sản xuất điện
đứng thứ ba với 1,8 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 12,1%.
71
Đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư sang 59 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Trong đó, Lào đứng vị trí thứ nhất với có 227 dự án, tổng vốn đầu tư trên
4,2 tỷ USD (chiếm 30,6% số dự án và 27,1% vốn đầu tư), Campuchia đứng vị trí
thứ 2 với 129 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 2,7 tỷ USD (chiếm 17,4% số dự
án và 17,6% vốn đầu tư). Tiếp theo là Liên bang Nga (chiếm 15,2% vốn đầu
tư), Venezuela (11,8% vốn đầu tư) và các quốc gia khác.
Vốn thực hiện lũy kế đến nay ước đạt khoảng 3,8 tỷ USD; trong đó khoảng
2,9 tỷ USD trong lĩnh vực dầu khí; gần 500 triệu USD trong lĩnh vực trồng cây cao
su khoảng; 400 triệu USD trong lĩnh vực thủy điện; viễn thông 249 triệu USD…
Vốn đầu tư thực hiện tại Lào đạt khoảng 691 triệu USD; Campuchia đạt khoảng
trên 621 triệu USD...
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án đầu tư ra nước ngoài, có
một phần đáng kể vốn được thực hiện thông qua việc mua sắm, sử dụng hàng
hóa, máy móc, thiết bị, dịch vụ từ trong nước. Điều này góp phần làm tăng giá trị
xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam ra nước ngoài. Trong nước (không
chuyển ra nước ngoài). Theo báo cáo của Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Tập đoàn
Sông Đà, Tập đoàn cao su Việt Nam, Tập đoàn Than khoáng sản, Viettel, Hoàng
Anh - Gia Lai… một phần vốn đầu tư ra nước ngoài được thực hiện để trả cho
các nhà thầu của Việt Nam hoặc mua háng hóa, dịch vụ của Việt Nam để chuyển
ra nước ngoài thực hiện dự án.
Tuy nhiên, phần lớn các dự án đầu tư quy mô lớn đang trong giai đoạn triển
khai thực hiện nhưng cũng đã có một số dự án hoạt động hiệu quả và đã đạt được
những lợi ích kinh tế nhất định cho nhà đầu tư. Hiện nay, tập đoàn Hoàng Anh Gia
Lai là nhà đầu tư nước ngoài lớn của một số nước trong khu vực Đông Nam Á như
Lào, Campuchia. Gần đây, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai đã mở rộng đầu tư vào dự
án phức hợp tổ hợp khách sạn văn phòng nhà ở cao cấp ở Myanmar với mức đầu tư
440 triệu USD. Hay như tại Nga, Việt Nam là quốc gia nước ngoài duy nhất được
cấp phép tham gia các hoạt động thăm dò dầu khí. Ngoài ra, Công nghệ thông tin
bưu chính viễn thông cũng là lĩnh vực mà các nhà đầu tư Việt Nam quan tâm như
72
tập đoàn bưu chính Viễn thông, Tập đoàn Viettel đã đầu tư ra 13 thị trường như
Campuchia, Lào, Haiti, Peru, Mozambique, Đông Timor và Cameroon…
Đầu tư ra nước ngoài và cơ hội giao thương quốc tế thì doanh nghiệp sẽ đạt
được rất nhiều lợi ích khi đầu tư ra nước ngoài như:
Mở rộng thị trường cho sản phẩm của doanh nghiệp.
Không gom “trứng vào một sọt”
Vượt qua sự giới hạn và cạnh tranh của thị trường trong nước.
Có cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ, từ đó nâng cao năng lực cạnh
tranh cho doanh nghiệp
Thể hiện sự lớn mạnh của doanh nghiệp. Do đó việc mở rộng đầu tư không
chỉ dừng lại ở các quốc gia “yếu” hơn mình mà cần chú trọng vào các thị trường
lớn, cò nền kinh tế năng động.
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam còn mới nên gặp nhiều khó
khăn, lúng túng do chúng ta còn thiếu định chế, chưa có hệ thống yểm trợ bảo vệ
cho doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay Cục Đầu tư nước ngoài mới chỉ hỗ trợ doanh
nghiệp khi có hoạt động đầu tư tại nước ngoài, bằng cách liên hệ với các Đại sứ
quán để quảng bá các hoạt động của doanh nghiệp, hay mở một số lớp đào tạo về
hoạt động đầu tư, cho nên sắp tới chúng ta sẽ nghiên cứu để đưa ra những định chế
phù hợp cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài này.
Để hoạt động đầu tư ra nước ngoài thực sự hiệu quả thì việc định hướng địa
bàn đầu tư và lĩnh vực đầu tư là việc hết sức cần thiết và quan trọng, việc xin cấp
Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài có phần chưa phù hợp, thời gian cấp phép
kéo dài làm mất đi cơ hội của Doanh nghiệp, các nước phát triển đã không còn quy
định thủ tục này, vì vậy cần xem xét nghiên cứu khả năng phân cấp quản lý về đầu
tư ra nước ngoài, tiến tới bỏ Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài; xây
dựng hệ thống thông tin Quốc gia về đầu tư ra nước ngoài và áp dụng cơ chế liên
thông trong quản lý và hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước ngoài để chia sẻ thông tin
giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau và giữa các cơ quan quản lý nhà nước
với nhà đầu tư.
73
2.7.6. Quản lý và giám sát nguồn vốn đầu tư
Về việc thực hiện chế độ báo cáo tình hình đầu tư:
Bên cạnh việc triển khai, thực hiện các công tác, nhiệm vụ cụ thể được giao
liên quan đến quản lý nhà nước về ĐTRNN, các cơ quan quản lý nhà nước về
ĐTRNN còn có nhiệm vụ thực hiện các chế độ báo cáo định kỳ về tình hình
ĐTRNN. Theo quy định tại Điều 72 Luật Đầu tư 2014, các bộ, cơ quan ngang bộ và
ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm định kỳ 06 tháng và hàng năm báo cáo tình
hình quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTRNN gửi BKHĐT tổng hợp; BKHĐT
định kỳ 06 tháng, hàng năm báo cáo TTCP về tình hình ĐTRNN và tình hình thực
hiện chế độ báo cáo của các cơ quan khác.
Hằng năm các bộ và ủy ban nhân dân các tỉnh đã thực hiện chế độ báo cáo về
ĐTRNN theo văn bản đốc thúc của BKHĐT (tuy nhiên, một số đơn vị vẫn chưa chủ
động và chưa thực hiện thường xuyên chế độ báo cáo). Các bộ, tùy theo chức năng
nhiệm vụ đã có các báo cáo về công tác quản lý trong lĩnh vực mình phụ trách, VD:
Bộ Tài chính có báo cáo về tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế của các dự án
ĐTRNN, ĐTRNN của doanh nghiệp nhà nước; NHNN có báo cáo về ĐTRNN của
các tổ chức tín dụng, Bộ NN&PTNT, Công Thương có báo cáo trong các lĩnh vực
nông nghiệp, năng lượng, khai khoáng..., nhiều địa phương có báo cáo tình hình
hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp/cá nhân trên địa bàn của mình.
Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng đã có nhiều báo cáo lên lãnh đạo Chính phủ các
cấp/Quốc hội về tình hình ĐTRNN của Việt Nam nói chung, VD: các báo cáo tình
hình hoạt động đầu tư sang các địa bàn nhất định phục vụ các hội nghị cấp quốc gia,
các đoàn công tác của lãnh đạo các cấp, báo cáo Ủy ban kinh tế quốc hội, báo cáo
tình hình ĐTRNN đi kèm các chương trình tổng kết 5 năm Đề án thúc đẩy đầu tư ra
nước ngoài, trình chiến lược đầu tư sang Lào và Campuchia, rà soát, đánh giá đầu tư
sang Lào & Campuchia...
Các cơ quan quản lý nhà nước cũng kịp thời có những báo cáo đối với các
nội dung, sự việc liên quan đến hoạt động ĐTRNN, ví dụ: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
có báo cáo Văn phòng Chính phủ về việc rà soát thông tin báo chí phản ánh về “Tài
74
liệu Panama” năm 2016, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Bộ Kế hoạch
và Đầu tư có báo cáo về thông tin người Việt mua nhà tại Mỹ năm 2017.
Cuối cùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xây dựng, vận hành và hoàn
thiện Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài
nhằm kết nối thông tin giữa nhà đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước, giữa
các cơ quan quản lý nhà nước với nhau để phối hợp trong công tác theo dõi,
giám sát bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước và nhà đầu tư.
2.7.7. Trách nhiệm của Người được giao quản lý nguồn vốn của Doanh
nghiệp có vốn Nhà nước
Hoạt động ĐTRNN của Việt Nam đã bắt đầu từ năm 1989. Trong 30 năm
hoạt động ĐTRNN của Việt Nam đã có những bước tiến phát triển vượt bậc tăng cả
về số vốn lẫn số dự án thực hiện đầu tư. Để đạt được những thành tựu đó, Việt Nam
đã có những chính sách thúc đẩy hoạt động ĐTRNN, đặc biệt một số thị trường
quan trọng, lĩnh vực quan trọng, các doanh nghiệp không đầu tư, các doanh nghiệp
có vốn Nhà nước có định hướng đầu tư để đảm bảo an ninh biên giới, an ninh năng
lượng, an ninh chủ quyền. Mặc dù kết hợp giữa kinh tế và an ninh chính trị, nhưng
Người được giao quản lý nguồn vốn của doanh nghiệp có vốn Nhà nước phải thực
hiện trách nhiệm của mình một các cẩn trọng, tuân thủ quy định của pháp luật như:
Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc quản lý, sử dụng, bảo toàn và phát triển
vốn, thực hiện chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển, việc tuyển dụng
lao động, thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp; có
ý kiến về việc giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan, tổ chức khác
có thẩm quyền đối với hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước
tại doanh nghiệp; và Đánh giá kết quả hoạt động, hiệu quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm
vụ trong quản lý, điều hành của người quản lý doanh nghiệp, Kiểm soát
viên (Điều 42 Luật 69/2014).
Ngoài ra Người được giao quản lý vốn cần tuân thủ theo quy định của pháp
75
luật, Điều lệ của Doanh nghiệp đã cử Người Đại diện; các quy định của doanh
nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, các quyền, trách nhiệm của mình.
Thực hiện một số hoặc toàn bộ quyền của cổ đông hoặc thành viên góp vốn tại
Doanh nghiệp thì Người Đại diện phải sử dụng các quyền đó một cách cẩn trọng
theo đúng chỉ đạo, chiến lược và định hướng của doanh nghiệp trong từng thời kỳ;
giám sát, bảo toàn, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng liên quan đến phần vốn
góp của Doanh nghiệp. Theo dõi, giám sát tình hình hoạt động, kết quả sản xuất
kinh doanh, tài chính của Doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và Điều lệ
doanh nghiệp đó; báo cáo kịp thời, đề xuất những giải pháp đối về tình hình Doanh
nghiệp hoạt động thua lỗ; không đảm bảo khả năng thanh toán; đầu tư không đúng
mục tiêu chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; không hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ do
của Doanh nghiệp cử làm Người đại diện vốn. Có trách nhiệm hướng Doanh nghiệp
đó đi đúng mục tiêu, định hướng; sử dụng quyền chi phối hoặc phủ quyết để quyết
định các định hướng, chủ trương của công ty theo đúng mục tiêu. Khi phát hiện
Doanh nghiệp đi chệch mục tiêu, định hướng thì phải báo cáo kịp thời và đề xuất
giải pháp khắc phục. Sau khi được phê duyệt giải pháp khắc phục, Người Đại diện
cần tổ chức thực hiện ngay để nhanh chóng hướng doanh nghiệp đi đúng mục tiêu,
định hướng đã xác định. Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của Doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những yếu kém, sai phạm trong quản
lý, điều hành sản xuất kinh doanh tại Doanh nghiệp và kiến nghị các giải pháp khắc
phục kịp thời. Trong trường hợp cần thiết, Người Đại diện kiến nghị thực hiện các
biện pháp xử lý khẩn cấp như: triệu tập Đại hội đồng cổ đông để giải quyết các vấn
đề. Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo định kỳ quý và hàng năm, báo cáo đột xuất và
báo cáo khác theo quy định của Doanh nghiệp cử Người đại diện. Chịu trách nhiệm
trước pháp luật và Doanh nghiệp cử Người đại diện về các nhiệm vụ được giao.
Trường hợp thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật, trách nhiệm của Người đại diện
vốn, lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn gây thiệt hại đến kinh tế, gây mất vốn, tài sản thì
sẽ bị xử lý kỷ luật, chịu trách nhiệm bồi thường, hoàn trả theo quy định của pháp
luật. Người Đại diện phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Doanh nghiệp cử
76
mình là Người đại diện. Khi có thông báo chia lợi nhuận, cổ tức Người Đại diện yêu
cầu doanh nghiệp được cử làm Người Đại diện chuyển phần lợi nhuận, cổ tức được
chia hoặc thu hồi vốn đầu tư về; giám sát việc thu hồi vốn đầu tư, thu lợi nhuận, cổ
tức được chia.
2.7.8. Vai trò của chính sách trong việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư
thực hiện đầu tư ra nước ngoài
Nhà đầu tư trong nước thực hiện đầu tư ra nước ngoài là một cố gắng lớn
trong điều kiện thực tại, việc tạo điều kiện để hỗ trợ cho các nhà đầu tư để thực hiện
đầu tư ra nước ngoài mang ngoại tệ về nước là hoạt động cần được tạo điều kiện và
hỗ trợ. Hiện nay các cơ quan Nhà nước đã có nhiều biện pháp hỗ trợ, tuy nhiên chưa
được hệ thống và tổng quát, đang tập trung vào giải quyết các khó khăn về vụ việc
và đôi khi là không thể giải quyết được.
Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm làm đầu mối phối
hợp với các cơ quan của Việt Nam ở nước ngoài theo dõi và hỗ trợ các nhà đầu tư
trong việc chấp hành các quy định pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận
đầu tư; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư ở nước ngoài; thông qua đường
ngoại giao, đề xuất và kiến nghị chính quyền nước sở tại hỗ trợ, tạo điều kiện và
tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án đầu tư ở nước
ngoài phù hợp với các quy định tại Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; hỗ trợ Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xác
minh thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam trên địa bàn
quản lý khi có yêu cầu.
Thực hiện chế độ báo cáo về tình hình hỗ trợ của cơ quan đại diện Việt Nam
ở nước ngoài đối với hoạt động đầu tư của Việt Nam tại địa bàn mình quản lý theo
quy định tại Khoản 2 Điều 72 của Luật Đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư bằng văn
bản và thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Nhưng việc thực hiện không dễ, thực tế một
số cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cho biết các đơn vị này không có kinh
phí và cơ chế tài chính hỗ trợ hoạt động ĐTRNN (bao gồm cả hoạt động thẩm tra,
xác minh thông tin).
77
Từ thực tế cho thấy, các cơ quan cần phát huy vai trò của mình, xây dựng chính
sách trong việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư thực hiện đầu tư ra nước ngoài:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý, chính sách về đầu tư ra
nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi và định hướng cho các nhà đầu tư Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài an toàn và hiệu quả. Tạo lập khuôn khổ pháp lý hợp tác
đầu tư thông qua việc đẩy mạnh đàm phán, ký kết và thực hiện các thỏa thuận, hiệp
định song phương với các đối tác có tiềm năng hợp tác đầu tư, tạo điều kiện thuận
lợi cho các hoạt động đầu tư và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
- Tiếp tục thực hiện công khai, minh bạch về thủ tục hành chính về đầu tư ra
nước ngoài; đơn giản hóa hồ sơ và các giấy tờ liên quan, rút ngắn thời gian, giảm
chi phí xã hội cho nhà đầu tư.
- Hình thành đồng bộ các công cụ, biện pháp hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước
ngoài, trong đó đặc biệt chú trọng các biện pháp hỗ trợ như tạo khuôn khổ pháp lý
an toàn; hỗ trợ cung cấp thông tin chính sách và cơ hội đầu tư nước sở tại, bảo hộ
quyền lợi của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài; có chính
sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với
một số dự án thuộc lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư ra nước ngoài theo pháp
luật Việt Nam và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Kết nối giữa các nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài, tạo sức mạnh khi đầu
tư vào các địa bàn cụ thể, đảm bảo phát huy thế mạnh của từng nhà đầu tư và bổ
sung cho nhau cùng phát triển.
2.7.9. Chuyển lợi nhuận về nước, báo cáo đầu tư của nhà đầu tư
Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn nhà nước tập trung chủ
yếu vào các ngành: khai khoáng với 52 dự án, vốn đầu tư 9,16 tỷ USD, chiếm
60,20% tổng vốn đầu tư (tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, tìm kiếm thăm dò
và khai thác khoáng sản); thông tin truyền thông với 28 dự án, số vốn 2,70 tỷ USD,
chiếm 17,77%; nông lâm nghiệp với 40 dự án, số vốn 1,32 tỷ USD, chiếm 8,69%
tổng vốn đầu tư; sản xuất và phân phối điện, khí đốt với 5 dự án, số vốn 1,18 tỷ
USD, chiếm 7,81% tổng vốn đầu tư; tài chính ngân hàng, bảo hiểm với 15 dự án, số
78
vốn 583 triệu USD, chiếm 3,83%; tiếp đến là lĩnh vực vận tải kho bãi, công nghiệp
chế biến chế tạo và tập trung vào các nước Lào đứng thứ nhất với 61 dự án với
vốn đầu tư 2,42 tỷ USD chiếm 16% tổng vốn đầu tư; Liên bang Nga đứng thứ 2
với 6 dự án với số vốn đầu tư 2,28 tỷ USD chiếm 15% tổng vốn đầu tư, Venezue la
đứng thứ 3 với 01 dự án với số vốn 1,82 tỷ USD chiếm 12% tổng vốn đầu tư,
Campuchia đứng thứ 4 với 42 dự án với vốn đầu tư là 1,53 tỷ USD, chiếm 10,1%
về tổng vốn đầu tư; Peru đứng thứ 5 với 05 dự án với số vốn 1,33 tỷ USD chiếm
8,8% tổng vốn đầu tư…
Trong các dự án đầu tư thì có 6 nhà đầu tư lớn nhất có sử dụng nguồn vốn
Nhà nước và có lợi nhuận chuyển về nước đó là:
- Hoạt động ĐTRNN trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí của Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tổng công ty Thăm dò và khai thác dầu khí: Tổng số
tiền đã chuyển về nước đến hết tháng 30/6/2017: 1,1539 tỷ USD, bằng 34,38% tổng
vốn chuyển ra nước ngoài. Số tiền chuyển về nước gồm tiền thu hồi Hợp đồng nhận
nợ và lãi được chia.
- Hoạt động ĐTRNN trong lĩnh vực cao su của Tập đoàn Cao su Việt Nam:
Lợi nhuận đã chuyển về nước lũy kế hết 2017 là 481.322 đô la Mỹ, lợi nhuận giữ lại
tái đầu tư là 282.000 đô la Mỹ.
- Hoạt động ĐTRNN của lĩnh vực thủy điện: chưa chuyển lợi nhuận về nước.
- Hoạt động ĐTRNN của lĩnh vực viễn thông: Tập đoàn Công nghiệp – Viễn
thông Quân đội có lợi nhuận và vốn đầu tư đã chuyển về nước lũy kế đến nay là
442,4 triệu USD, trong đó hai dự án tại Campuchia và Lào mang lợi hiệu quả cao
với lợi nhuận và vốn chuyển về nước lần lượt là 217,75 triệu USD và 136,78 triệu
USD; Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam: Lợi nhuận về nước lũy kế hết
2017 là 865.550 USD.
- Hoạt động ĐTRNN ra nước ngoài trong lĩnh vực khoáng sản: lợi nhuận đã
mang về Việt Nam là 3,91 triệu USD.
- Hoạt động ĐTRNN ra nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm: Lợi nhuận chuyển về nước lũy kế hết 2017 là 28,7 triệu USD (chưa kể phần
tăng vốn từ lợi nhuận giữ lại tái đầu tư).
79
- ĐTRNN của một số doanh nghiệp nhà nước khác: chuyển lợi nhuận về
nước là 6,91 triệu USD [7].
Dựa vào lượng tiền lợi nhuận chuyển về nước của các Doanh nghiệp có
nguồn vốn Nhà nước có thể thấy rằng hoạt động ĐTRNN thời gian qua có quy mô
lớn về vốn đăng ký cũng như vốn thực hiện. Nhiều dự án có đặc điểm thời gian đầu
tư xây dựng ban đầu kéo dài (trồng trọt, viễn thông, thủy điện, khoáng sản…).
Nhiều dự án thực hiện đúng tiến độ, có lợi nhuận chuyển về nước, giúp mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, tăng cường năng lực kinh nghiêm kinh doanh
cho nhà đầu tư Việt Nam, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác, ngoại giao, xã hội
giữa Việt Nam và các nước.
Bên cạnh đó, còn một số dự án gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai,
kết quả triển khai không khả quan, không có lợi nhuận, thua lỗ vì nhiều lý do. Một
số dự án đã kết thúc do không khả khi, không có khả năng tiếp tục phải tìm cách
chuyển nhượng.
Một số dự án đầu tư trong lĩnh vực khai khoáng là lĩnh vực có nhiều rủi ro,
đặc biệt ở các nước có nền kinh tế không ổn định hoặc thiếu thốn các tài liệu địa
chất. Môi trường đầu tư có nhiều rủi ro cộng thêm các tác động khách quan của
kinh tế toàn cầu và khu vực dẫn đến những biến động khó lường về giá cả đầu ra,
tác động đến giá thành đầu vào dẫn đến một số dự án gặp phải khó khăn về vốn và
huy động vốn và thị trường.
Các dự án có sử dụng vốn nhà nước đang hoạt động bình thường, có khả
năng phát triển, mở rộng thị trường và thu hồi vốn đầu tư, đem lại hiệu quả như:
các dự án của Viettel, lĩnh vực ngân hàng, các dự án trồng cao su, các dự án của
Tổng công ty hợp tác kinh tế quân khu 4, dự án của Vinamilk, dự án thủy điện
Xekaman 1 của Sông Đà, dự án khai thác lô Nhenhexky, PM304 của PVN… Bên
cạnh đó, còn một số dự án của doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn như các dự
án khảo sát thăm dò dầu khí của PVN, khai khoáng của TKV, dự án thủy điện
Xekaman 3 của Sông Đà.
Về báo cáo tình hình đầu tư: Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư tại nước
80
ngoài, các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, các nhà đầu tư lớn đã chấp hành chế
độ báo cáo về tình hình thực hiện và hoạt động của các dự án đầu tư, nên công tác
rà soát, theo dõi và quản lý các dự án đầu tư quy mô lớn của các Tập đoàn, Tổng
công ty nhà nước hoặc các nhà đầu tư lớn được thuận lợi và dần đi vào nề nếp.
Tuy nhiên việc báo cáo của Nhà đầu tư có trung thực hay không, phụ thuộc
rất nhiều vào ý thức của nhà đầu tư do công tác quản lý, giám sát các dự án đầu tư
ra nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn do hoạt động đầu tư nước ngoài thực hiện
bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, tuân thủ pháp luật nước sở tại, việc quản lý, giám sát
thông qua các báo cáo của doanh nghiệp.
Để việc quản lý thông tin về đầu tư được thống nhất, cơ quan quản lý xem
xét xây dựng hệ thống xây dựng hệ thống thông tin Quốc gia về đầu tư ra nước
ngoài và áp dụng cơ chế liên thông trong quản lý và hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước
ngoài để chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau và giữa các
cơ quan quản lý nhà nước với nhà đầu tư để đảm bảo công tác quản lý, không phụ
thuộc hoàn toàn vào các báo cáo của nhà đầu tư.
81
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Đầu tư ra nước ngoài được quy định tại nhiều văn bản, có quy định cụ thể về
trình tự thủ tục, điều kiện đầu tư, chuyển vốn, chuyển lợi nhuận về nước, báo cáo
của các nhà đầu tư trong quá trình hoạt động. Theo đó, chủ thể tham gia ĐTRNN
phải tuân thủ trình tự thủ tục phải đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật nêu trên.
Nhưng thực tế cho thấy do mới thực hiện ĐTRNN nên các quy định chưa
bao quát hết các tình huống, còn nhiều trường hợp cả nhà đầu tư và cơ quan
quản lý còn chưa có phương án giải quyết, việc quản lý còn gặp nhiều khó khăn
do chưa đồng bộ được thông tin và quy định chức năng cho các cơ quan nhưng
chưa thể thực thi tốt, việc thẩm tra dự án mới chặt chẽ về cấp phép, quản lý
chưa được đồng bộ.
Luận văn đưa ra các dữ liệu về ĐTRNN của Việt Nam trong các năm gần
đây. Việc đưa ra dẫn chứng thực tế, giúp cho những phân tích tại Chương 2 trở nên
sáng tỏ và có căn cứ về mặt thực tiễn bổ sung cho những căn cứ về mặt lý luận.
Luận văn giới hạn khi nghiên cứu hoạt động ĐTRNN của các chủ đầu tư có
sử dụng nguồn vốn Nhà nước, là các nhà đầu tư lớn. Như vậy, thực trạng luận văn
đưa ra là thực trạng của pháp luật trong đó phân tích sâu vào những bất cập của các
quy định pháp luật để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện tại chương 3.
82
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN VỀ
PHÁP LUẬT VÀ QUẢN LÝ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về ĐTRNN
3.1.1. Chủ trương về phát triển đầu tư ra nước ngoài
Chủ trương về ĐTRNN, đã có rất nhiều quy định khuyến khích hoạt động
ĐTRNN, đơn giản hóa về thủ tục, điều đó đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư thực
hiện ĐTRNN tăng lên về số lượng, chất lượng và quy mô vốn, đã đóng góp cho sự
phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua.
Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước
ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu
hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực
quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước (Điều 51
khoản 1 Luật đầu tư 2014).
Tuy nhiên như đã phân tích, các Nhà đầu tư vẫn kêu ca phàn nàn bất cập về
pháp luật quy định thời gian cấp phép ĐTRNN vẫn còn quá lâu, nhiều thủ tục giả
trình, nhiều cấp phê duyệt, điều này thể hiện rằng chính sách chưa thống nhất, có
quy định nhưng chưa có cách thức cụ thể để thực thi, mặc dù Luật đầu tư năm 2014
và Nghị định 83/2015 đã đơn giản hóa về phương thức, thủ tục đầu tư hơn rất nhiều.
Tóm lại, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là khuyến khích và
thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Chủ trương trên đã đáp ứng phần nào yêu
cầu của nhà đầu tư trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
3.1.2. Chính sách hoạt động ĐTRNN
Để hoạt động ĐTRNN của Việt Nam có hiệu quả cao hơn và đủ khả năng
cạnh tranh trên thị trường. Nhà nước cần xây dựng củng cố các doanh nghiệp Nhà
nước cần định hướng lĩnh vực đầu tư, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực phù hợp
với từng nhà đầu tư riêng biệt.
Tăng cường vai trò của cơ quan đại diện chủ sở vốn nhà nước tại doanh
83
nghiệp (đặc biệt là Ủy ban quản lý vốn nhà nước mới thành lập) trong việc đề
xuất/phê duyệt chủ trương đầu tư các dự án ĐTRNN có sử dụng vốn nhà nước;
giám sát chặt chẽ, bảo đảm các dự án thực hiện đúng mục tiêu, hiệu quả.
Hạn chế dần hoạt động ĐTRNN sử dụng vốn nhà nước theo hướng xem xét
sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư 2014, Luật số 69 về quản lý sử dụng vốn nhà nước quy
định rõ chỉ sử dụng vốn nhà nước để ĐTRNN đối với một số ngành lĩnh vực và một
số địa bàn nhất định; và bổ sung thêm các điều kiện về hiệu quả đầu tư, công cụ hạn
chế rủi ro trong hoạt động ĐTRNN.
Trách nhiệm của doanh nghiệp khi đầu tư được xác định rõ, tổng thể phát
triển tốt thì 1 dự án không may, không khép vào mất vốn, quản lý kém. Tăng cường
vai trò, trách nhiệm và công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà
nước trong lĩnh vực chuyên môn như: ngoại hối, tài chính và cơ quan đại diện chủ
sở hữu tại doanh nghiệp.
Quy định rõ hơn trách nhiệm của chủ đầu tư, doanh nghiệp trong quyết định
đầu tư ra nước ngoài.
Bỏ thủ tục cấp GCNĐK ĐTRNN tại BKHĐT bởi việc quản lý theo GCNĐK
ĐTRNN như hiện hành không có tính khả thi, thêm thủ tục và hầu hết các quốc gia
trên thế giới không cấp GCNĐK ĐTRNN. Thay vào đó, tăng cường trách nhiệm
của cơ quan đại diện chủ sở hữu cũng như vai trò của cơ quan quản lý ngoại hối và
các cơ quan quản lý chuyên ngành.
3.1.3. Hiệu quả của Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước đầu tư
Như đã phân tích và dẫn chứng về tình hình đầu tư tại chương 2, Nhà đầu tư
là doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước, có những doanh nghiệp đã thành
công như Viettel, lĩnh vực ngân hàng, trồng cao su, nhưng sự thành công cũng
không phải đến từ tất cả các thị trường thuộc các lĩnh vực nêu trên, có thị trường
phù hợp thì phát triển, có thị trường còn gặp khó khăn. Hiệu quả là có nhưng chưa
cao, phạm vi chưa được rộng, để giải quyết vấn đề đó cần:
Doanh nghiệp cần chú trọng đến công tác quản lý, sử dụng lao động, vì hầu
hết các nước nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra là nước kém phát triển.
84
Quy định báo cáo để xử lý các công việc của Người đại diện vốn kéo dài,
làm mất đi cơ hội kinh doanh của Nhà đầu tư, hiện Tập đoàn Viettel phát triển được
là do tinh thần làm việc quyết liệt, không kể thời gian, đầu tư vào đúng lĩnh vực mà
các nước kém phát triển cần phải đầu tư, là nhu cầu của người dân, nhưng nếu các
cơ chế báo cáo xin ý kiến được linh hoạt, có thể sự phát triển sẽ còn cao hơn. Các
ngân hàng đầu tư có hiệu quả cũng tương tự như vậy, áp dụng được sự phát triển
của công nghệ thông tin, là xu thế phát triển tất yêu của nước kém phát triển. Lĩnh
vực trồng cây cao sư, nông nghiệp đơn thuần có sự phát triển nhưng không tạo ra
được sự đột phá, đó là lao động giản đơn.
Các lĩnh vực khác đa phần là chưa thu được kết quả tốt, một phần vì nhiệm
vụ phải thực hiện, một phần vì mục tiêu bảo vệ biên giới, lãnh thổ từ xa, nên mặc dù
chưa hiệu quả vẫn phải thực hiện.
Đề nghị trong tương lai, Chính phủ cần quy hoạch và xác định rõ các thị
trường, lĩnh vực phù hợp để các nhà đầu tư có sử dụng vốn Nhà nước đầu tư có hiệu
quả, hạn chế các lĩnh vực các nhà đầu tư Việt Nam có sức cạnh tranh yếu, hạn chế
đầu tư vào các thị trường có tiềm ẩm rủi ro, kém ổn định.
3.1.4. Chế tài đối với nhà đầu tư vi phạm
Như đã phân tích tại chương 2, các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ thẩm tra
kỹ đối với dự án xin đầu tư để cấp phép, nhưng việc có đầu tư hay không, có thông
tin về dự án hay không lại phụ thuộc hoàn toàn vào báo cáo của Nhà đầu tư, nhà đầu
tư không báo cáo, các cơ quan cũng không có công cụ quản lý, những dự án có thể
chấm dứt hoạt động, nhưng cơ quan quản lý không biết, có rất nhiều vi phạm liên
quan đến đầu tư, thậm chí quá trình đầu tư đã khác rất nhiều so với dự án trình ban
đầu. Những vi phạm đó nếu không được xử lý sẽ làm cho hình ảnh của Nhà đầu tư
Việt Nam tại nước ngoài không được đánh giá tốt, không thể bảo vệ được người lao
động Việt Nam tại nước ngoài và xấu hơn là trong một số trường hợp không bảo vệ
được vốn đầu tư, thất thoát đầu tư. Vì vậy cơ quan Nhà nước cần có những quy định
cụ thể để buộc các nhà đầu tư tuân thủ quy định về đầu tư:
85
- Ngân hàng nhà nước cần có các quy định về quản lý đồng tiền ĐTRNN khi
cho vay, và cũng cần có những giám sát chặt chẽ trong việc chuyển tiền về nước
ngoài thông qua hình thức thuế của các doanh nghiệp Việt Nam. Ngân hàng nhà
nước cần quy định một cách rõ ràng về lợi nhuận chuyển về tạo điều kiện thuận lợi
cho nhà đầu tư. Hơn nữa ngân hàng nhà nước cũng cần đơn giản hóa các vần đề về
thủ tục thực hiện khi chuyển tiền ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận từ nước ngoài
về Việt Nam để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.
- Các chính sách bảo hộ đầu tư đối với các doanh nghiệp ĐTRNN cũng cần
phải được Nhà nước nghiên cứu, và đưa ra cho hợp lý để nhà đầu tư xác định được
lợi ích của mình trong công tác báo cáo để nhận được những lợi ích to lớn hơn.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ĐTRNN
3.2.1. Kiến nghị về thủ tục xin cấp phép ĐTRNN
Từ thực trạng về quá trình xin cấp giấy chứng nhận ĐTRNN tại chương 2,
luận văn đã chỉ ra những điểm bất cập trong việc xin cấp phép, điều đó làm mất đi
cơ hội của Nhà đầu tư. Điều này được tham chiếu từ Luật đầu tư năm 2014, Nghị
định 83/NĐ-CP năm 2015.
Nghiên cứu khả năng từng bước phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt
động đầu tư ra nước ngoài, tiến tới bỏ Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước
ngoài. Việc quản lý thông qua thẩm tra giấy phép không còn phù hợp nữa, quan
trọng là công tác giám sát, đánh giá đầu tư để không làm mất đi cơ hội của nhà đầu
tư, không tạo ra một sự cho phép và vô hình dung ràng buộc trách nhiệm của cơ
quan thẩm tra, trong khi thẩm tra cấp phép xong thì không quản lý được.
3.2.2. Kiến nghị về công tác hỗ trợ Nhà đầu tư ĐTRNN
Như đã phân tích tại chương 2, việc nhà đầu tư Việt Nam tìm kiếm cơ hội để
đầu tư là đã khó, nhưng khi thực hiện đầu tư có rất nhiều nguy cơ tiềm tàng, trong
khi cơ quan nhà nước tại nước đó hoặc trong nước chưa hỗ trợ được nhiều như tìm
hiểu thì trường, tăng cường quan hệ ngoại giao, đàm phán ký hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư, tránh đánh thuế 2 lần trước khi đầu tư lại chưa làm được, vì
vậy đề nghị:
86
Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Tăng cường xúc tiến đầu tư cho hoạt động ĐTRNN trước hết tập trung vào
những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh.
Chính phủ cần chỉ đạo Bộ kế hoạch đầu tư phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ
Công thương…. tổ chức thường xuyên các diễn đàn, hội thảo đánh giá lợi thế của
các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Chính phủ cũng cần tổ chức
các đoàn công tác với sự tham gia của các cơ quan trên tất cả các lĩnh vực luật pháp,
kinh tế, tài chính, cùng với các doanh nhân đi thăm dò, tìm kiếm và khai thác tình
hình thực tế các nước trong khu vực và trên thế giới, tìm kiếm cơ hội đầu tư theo
từng lĩnh vực, ngành nghề, sau đó phổ biến cho các doanh nghiệp trong nước. Đây
là một trong những hình thức thực hiện xúc tiến đầu tư hiệu quả nhất vừa tạo ra các
lợi thế cho các doanh nghiệp, vừa giúp cho các doanh nghiệp tìm hiểu thông tin về
thị trường một cách kỹ lưỡng hơn trước khi quyết định ĐTRNN.
Xây dựng ban hành cơ chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về đầu
tư ra nước ngoài và vận hành Hệ thống thông tin Quốc gia về đầu tư ra nước ngoài
để kết nối trực tuyến nhà đầu tư với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và tiến tới
kết nối giữa các cơ quan quản lý nhà nước, bảo đảm thông tin thông suốt trong quá
trình quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Triển khai và thực hiện thống nhất các nội dung của các hiệp định, thỏa
thuận song phương, đa phương giữa Việt Nam với các nước, trong đó có Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư cũng như Hiệp định tránh đánh thuế trùng của Việt
Nam với các nước để làm cơ sở cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp mỗi nước
Bộ Tài chính:
Xem xét xây dựng trình Chính phủ ban hành cơ chế ưu đãi, hỗ trợ về tài
chính, tín dụng đầu tư đối với các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư vào một số lĩnh vực
và địa bàn trọng điểm.
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn cụ thể quy định về
chính sách ưu đãi tín dụng, bảo đảm nguồn vốn vay cho một số dự án đầu tư ra
nước ngoài thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi tín dụng, bảo đảm nguồn vốn
vay theo quy định của pháp luật.
87
Tổ chức triển khai thực hiện các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần đã ký kết
với các quốc gia, vùng lãnh thổ; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đẩy
mạnh đàm phán, ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần với các nước, vùng lãnh
thổ Việt Nam chưa ký kết hiệp định, nhưng đang có nhiều hoạt động đầu tư của
Việt Nam hoặc các địa bàn có tiềm năng hợp tác đầu tư.
Phối hợp với cơ quan đại diện chủ sở hữu thực hiện giám sát các dự án đầu
tư ra nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước, công ty con của doanh nghiệp nhà
nước, bảo đảm đầu tư đúng mục đích, hiệu quả và tuân thủ pháp luật.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nghiên cứu, xây dựng định hướng, tiêu chí đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực ngân hàng vào một số địa bàn tiềm năng, tạo kênh hỗ trợ vốn, thanh toán, giao
dịch an toàn, hiệu quả cho nhà đầu tư Việt Nam; đồng thời bảo đảm an toàn, hiệu
quả và giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan
nghiên cứu cơ chế kiểm soát chặt chẽ các giao dịch ngoại hối liên quan đến hoạt
động đầu tư ra nước ngoài.
Kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền đối với hoạt động chuyển tiền
từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài về Việt Nam trong hoạt động đầu tư ra
nước ngoài; theo dõi, tiếp nhận, xử lý các thông tin, dấu hiệu đáng ngờ về rửa tiền
trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Giám sát các ngân hàng thương mại trong việc cho nhà đầu tư vay để thực hiện
các hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo quy định pháp luật về quản lý ngoại hối.
Bộ Công Thương
Chủ trì xây dựng định hướng và tiêu chí hoạt động đầu tư ra nước ngoài lĩnh
vực năng lượng, khoáng sản và đầu tư ra nước ngoài gắn với xuất khẩu hàng hóa,
dịch vụ vào một số địa bàn tiền năng ở nước ngoài.
Tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế liên quan đến thương mại, công
nghiệp, năng lượng, khoáng sản với các quốc gia, vùng lãnh thổ có tiềm năng, tạo
88
điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư Việt Nam đầu tư các lĩnh vực này tại các địa
bàn tiềm năng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Chủ trì xây dựng định hướng và tiêu chí khuyến khích và hỗ trợ đầu tư lĩnh
vực nông, lâm, ngư nghiệp vào một số địa bàn tiềm năng ở nước ngoài.
Đàm phán, ký kết các thỏa thuận thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực nông, lâm,
ngư nghiệp với một số quốc gia có tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư Việt Nam đầu tư, kinh doanh tại các quốc gia, vùng lãnh thổ có tiềm năng
hợp tác đầu tư.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Xây dựng cơ chế hợp tác với các đối tác, tạo thuận lợi cho việc đưa lao động
Việt Nam làm việc cho dự án đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài.
Hướng dẫn chính sách đặc thù về tiền lương, bảo hiểm và các chế độ liên
quan đến người lao động Việt Nam làm việc cho các dự án đầu tư của nhà đầu tư
Việt Nam tại nước ngoài.
Trao đổi và thoả thuận đưa nội dung an toàn lao động, xử lý vi phạm trong
lĩnh vực lao động vào Hiệp định ký kết về hợp tác lao động giữa Chính phủ Việt
Nam với Chính phủ các nước mà Việt Nam có quan hệ hợp tác.
Bộ Ngoại giao:
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan xây
dựng định hướng phát huy nguồn lực người Việt Nam sinh sống, làm việc, định cư
tại nước ngoài với hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam.
Thông qua cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài, chủ động
hỗ trợ nhà đầu tư trong xử lý các vấn đề vướng mắc trong quá trình đầu tư, kinh
doanh tại nước sở tại, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho
nhà đầu tư Việt Nam hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Định kỳ tổ chức gặp mặt các
nhà đầu tư Việt Nam tại nước sở tại; đồng thời hỗ trợ hình thành các Hiệp hội của
doanh nghiệp Việt Nam tại nước tiếp nhận đầu tư nhằm tạo ra sức mạnh đoàn kết
nhà đầu tư Việt Nam trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền lợi của
các thành viên.
89
3.2.3. Kiến nghị về hướng xử lý vấn đề chưa được quy định cụ thể
Nhà đầu tư thực hiện ĐTRNN như đã phân tích thực trạng tại chương 2, tiềm
ẩn nhiều rủi ro từ an ninh, an toàn tại nơi đầu tư đến hệ thống pháp luật, cơ quan
quản lý, môi trường kinh doanh, mâu thuẫn lợi ích với các nhà đầu tư nước sở tại …
tất cả những điều đó đã tạo nên những khó khăn cho nhà đầu tư phải giải quyết và
nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư. Ngoài ra khi đầu tư các nhà đầu tư do
mới trong giai đoạn đầu đi ra nước ngoài, chưa hiểu rõ quy định, việc đầu tư còn
thiếu nhiều thủ tục, hệ thống pháp luật của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, hạn
chế, chưa thực sự khuyến khích hoạt động của các doanh nghiệp. Những điều đó
trong quá trình thực hiện mới phát sinh, điều cần thiết là giải quyết được hoặc có
hướng giải quyết để các nhà đầu tư biết và thực hiện, tránh trường hợp nêu ý kiến
nhưng không có lời giải, theo đó tại luận văn đề nghị:
- Chính phủ cần có những sửa đổi trong những quy định theo hướng tạo điều
kiện cho doanh nghiệp chuyển tiền trước khi có giấy chứng nhận ĐTRNN.
- Chính phủ cần yêu cầu các Bộ, ngành có liên quan sớm ban hành các văn
bản còn thiếu liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp ở nước ngoài tạo hành lang
pháp lý đồng bộ điều chỉnh hoạt động kinh tế mới này. Ví dụ như Ngân hàng cần
xây dựng các chính sách về cho vay vốn với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp,
hoặc là Bộ LĐTB-XH hướng dẫn các văn bản hướng dẫn doanh nghiệp đưa người
lao động ra nước ngoài.
- Nhà nước cần đưa ra các quy định ban hành về việc kiểm tra, thanh tra
giám sát hoạt động ĐTRNN một cách thường xuyên, để đánh giá hiệu quả hoạt
động ĐTRNN. Từ đó thấy được những vướng mắc hạn chế trong hoạt động
ĐTRNN để kịp thời điều chỉnh các văn bản quy phạm một cách phù hợp hơn.
3.2.4. Kiến nghị về việc chuyển tiền ra nước ngoài
Việc chuyển tiền ra nước ngoài, điều kiện cần có Giấy chứng nhận đầu tư ra
nước ngoài, điều này làm ảnh hưởng đến việc mua giấy phép hoặc thời điểm góp
vốn của nhà đầu tư. Hiện tại Luật đầu tư cho phép nhà đầu tư được chuyển tiền
90
trước khi cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài (Điều 63 khoản 3), nhưng Nghị
định 83/2015 quy định khoản tiền chuyển trước chỉ là một lượng nhỏ, hạn mức
chuyển ngoại tệ trong trường hợp này không vượt quá 5% tổng vốn đầu tư ra nước
ngoài và không quá 300.000 đô la Mỹ, được tính vào tổng vốn đầu tư ra nước ngoài
(Điều 19 khoản 4 Nghị định 83/2015), điều này sẽ không có nhiều ý nghĩa đối với
các dự án lớn, chỉ phù hợp cho hoạt động xúc tiến đầu tư.
Như đã phân tích tại chương 2 với trường hợp ví dụ của công ty Viettel
Overseas, tìm được cơ hội đầu tư đã khó, trúng thầu là một cơ hội, nhưng khi
chuyển tiền muộn thì lại mất đi cơ hội đầu tư và nguy cơ mất đi khoản bảo lãnh cam
kết thực hiện trong khi vướng phải thủ tục trong nước không thể chuyển tiền ra
nước ngoài để thực hiện.
Việc quy định cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài là vướng mắc đi liền với
nội dung này, trong quá trình đề nghị xem xét bỏ thủ tục cấp phép, đề nghị xem xét
sửa đổi Luật đầu tư 2014 để quy định trách nhiệm đảm bảo hiệu quả của nhà đầu tư,
việc quyết định đầu tư do nhà đâu tư chịu trách nhiệm để có thể đăng ký chuyển tiền
ra nước ngoài.
3.2.5. Kiến nghị giải quyết các trường hợp vi phạm, tranh chấp phát sinh
Như đã phân tích, do ở giải đoạn đầu của ĐTRNN, nhiều nhà đầu tư chưa
hiểu rõ các quy định về đầu tư ra nước ngoài nên có những thủ tục chưa thực hiện.
Ngoài ra do khác biệt về môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh, các nhà đầu
tư cũng có nhiều bất đồng, mâu thuẫn, tranh chấp giữa công ty tại nước ngoài với
các công ty khác, xử lý ép của cơ quan quản lý tại nước ngoài … những điều đó cần
có sự hỗ trợ của cơ quan quản lý Nhà nước để tháo gỡ, tạo điều kiện để nhà đầu tư
tiếp tục đầu tư nếu dự kiến có lợi ích mang lại:
- Cơ quan đại diện ngoại Việt Nam cũng nên thành lập các hiệp hội ĐTRNN
của các doanh nghiệp Việt Nam để bảo vệ quyền lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp
Việt Nam giải quyết các vướng mắc. Việt Nam cũng nên thành lập quỹ hỗ trợ
ĐTRNN của Việt Nam với mục đích nhằm tài trợ tài chính cho các dự án ĐTTRNN
và bảo đảm lợi ích và bảo vệ các doanh nghiệp trước những rủi ro về chính trị hoặc
91
các rủi ro khác mà các công ty bảo hiểm thường không thể cung cấp dịch vụ đó.
Đồng thời chính phủ cũng nên cung cấp dịch vụ bảo hiểm giúp các doanh nghiệp
hạn chế được những tác động rủi ro về chính trị, luật pháp có thể gặp trong quá trình
đầu tư ở nước ngoài.
- Đối với việc vi phạm các thủ tục đầu tư, có chính sách và hướng dẫn để nhà
đầu tư hoàn thiện nếu các vi phạm đó không nghiệm trọng, không liên quan đến các
hoạt động gian lận, trốn thuế …
- Đối với chính sách tại nước ngoài liên quan đến ép buộc, hạn chế sự phát
triển của nhà đầu tư, Chính phủ xem xét có các hoạt động hợp tác, kiến nghị, đến
thăm để hoạt động đầu tư được thuận lợi.
- Đối với các nước chưa ký hiệp định khuyến khích bảo hộ đầu tư, hợp tác
song phương, đa phương, tránh đánh thuế 2 lần, cần tiến hành đàm phán ký kết
ngay để đảm bảo tránh những thiệt hại nếu có liên quan đến chính trị, quốc hữu
hóa tài sản …
- Đối với các tranh chấp phát sinh đến mức ra Tòa án hoặc trọng tài quốc tế,
hỗ trợ nhà đầu tư về phương thức thực hiện, đánh giá vấn đề để nhà đầu tư xác định
và tự tin khi đầu tư.
92
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Việc nêu ra quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước cũng như đưa ra
định hướng hoàn thiện pháp luật về ĐTRNN là những căn cứ cho những kiến nghị
hoàn thiện pháp luật. Bên cạnh đó, kiến nghị hoàn thiện pháp luật ĐTRNN mà luận
văn đưa ra cũng dựa trên phần thực trạng trong chương 2. Hai cơ sở nêu trên, giúp
luận văn đưa ra những kiến nghị sát thực, giải quyết các tồn tại thực tế, cơ bản trong
hoạt động ĐTRNN.
Năm kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về ĐTRNN luận văn đưa ra có
tính chất lâu dài trong điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Góp phần sửa đổi
được những bất cập còn tồn tại trong hệ thống pháp luật Việt Nam, như bất cập
trong quy định cấp phép, chuyển tiền. Đồng thời, góp phần bổ sung, hoàn thiện
pháp luật trong xác định trách nhiệm của nhà đầu tư, trách nhiệm của cơ quan quản
lý và giải quyết các vấn đề phát sinh, hỗ trợ những khó khăn khi ĐTRNN.
93
KẾT LUẬN
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, đầu tư quốc tế trở thành một hoạt
động mang lại nhiều hiệu quả không chỉ cho các doanh nghiệp đầu tư cũng như cho
nước tiếp nhận đầu tư. Và trong tiến trình hội nhập này không chỉ có sự đặc quyền
của các quốc gia có nền kinh tế phát triển, có tiềm lực mạnh về tài chính, khoa học
công nghệ, trình độ quản lý cao mà đã có sự tham gia tích cực của các quốc gia
đang phát triển với tư cách là nước đầu tư. Việt Nam không nằm ngoài trong xu thế
chung đó, và cũng đang nỗ lực thúc đẩy và xúc tiến hoạt động ĐTRNN.
Trong 30 năm thực hiện ĐTRNN, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã từng
bước tiếp cận được với thị trường thế giới, học hỏi và cũng đã đạt được những
thành công nhất định. Tuy nhiên do là một nước mới thực hiện ĐTRNN các doanh
nghiệp Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức do những hạn chế
về vốn, công nghệ, kinh nghiệm sản xuất ở nước ngoài, hạn chế trong tìm hiểu môi
trường của nước nhận đầu tư. Bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn trong những
tồn tại về cơ chế, chính sách, những hỗ trợ thiếu hiệu quả từ phía nhà nước dành
cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động ĐTRNN. Trong những năm sắp tới, với
sự phát triển của nền kinh tế, và trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay ngày càng có
nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam, Việt Nam cũng đang tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách, xúc tiến hoạt động ĐTRNN của các doanh
nghiệp, do đó hứa hẹn sự mở rộng đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng phát triển trong
quan hệ ngoại thương quốc tế.
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu An (2013), Giáo trình kinh tế đầu tư, ĐH kinh tế quốc dân.
2. Báo cáo tổng kết 01 năm thi hành Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014.
3.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài từ khi luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lục từ ngày 01/7/2015 , Hà Nội.
4.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về Tình hình đầu tư ra nước ngoài từ 01/7/2015 đến hết năm 2018, Hà Nội.
5.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài của các Doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn Nhà nước đến hết năm 2018 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
6.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam năm 2018 của Bộ KHĐT trình Thủ tướng Chính, Hà Nội.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài của
các doanh nghiệp có vốn Nhà nước, Hà Nội.
8.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Thông tư 03/2018/TT-BKHĐT ngày 17/10/2018 ban hành mẫu văn bản hướng dẫn thực hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài, Hà Nội.
9.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Tổng hợp Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đến hết năm 2018 , Hà Nội.
10. Chính phủ (2015), Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015
quy định về đầu tư ra nước ngoài, Hà Nội.
11. Chính phủ (2017), Nghị định 124/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2017
quy định về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí, Hà Nội.
12. Nguyễn Hải Đăng (2012), Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh
tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
13. Nguyễn Khắc Định (2003), Hoàn thiện pháp luật về ĐTTTNN trong xu hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
95
14. Phạm Thị Gái (2014), Giáo trình lập dự án đầu tư, ĐH kinh tế quốc dân.
15. Nguyễn Thị Ngọc Mai (2018), Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam:
nhân tố tác động và hàm ý chính sách, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế, Đại
học Quốc gia Hà Nội
16. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư 12/2016/TT-NHNN ngày
29/6/2016 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước
ngoài, Hà Nội.
17. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm
2014, Hà Nội.
18. Quốc hội (2014), Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13, Hà Nội.
19. Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội, Một số báo cáo về tình hình
đầu tư ra nước ngoài.
20. Đinh Trọng Thịnh (Chủ biên) (2006), Thúc đẩy Doanh nghiệp Việt Nam
ĐTTTRNN, Nxb Tài chính, Hà Nội.
21. Viettel Overseas (2013), Báo cáo về tình hình đầu tư ra nước ngoài.
96
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: MỘT SỐ DỰ ÁN ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI QUY MÔ LỚN
TRÊN 25 TRIỆU USD (Từ 1/7/2015 đến tháng 12/2018)
1. Dự án đầu tư và kinh doanh mạng viễn thông và công nghệ thông tin tại
Cộng hòa liên bang Myanmar của Tập đoàn Viettel với số vốn đăng ký VN là 860
triệu USD.
2. Dự án Tổ hợp chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công
nghiệp tại Liên Bang Nga của Công ty TNHH Mía đường Nghệ An với vốn đăng ký
là 500 triệu USD.
3. Dự án Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh
Yangon của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam với số vốn đăng ký là
85 triệu USD.
4. Dự án của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam kinh doanh ngân
hàng tại Lào, vốn đăng ký 80 triệu USD.
5. Dự án của TCTCP Dịch vụ kỹ thuật dầu khí tại Marshall Islands để đầu
tư sở hữu FPSO để cung cấp dịch vụ cho Talisman Vietnam 07/03 B.V. Limited
thuê phục vụ pahst triển mỏ Cá Rồng Đỏ thuộc lô 07/03 ngoài khơi Việt Nam (dự
án), vốn đăng ký là 56,92 triệu USD.
6. Dự án trông và chăm sóc 8825 ha cây cọ dầu và xây dựng nhà máy chế
biến dầu cọ tại huyện Lumphat, tỉnh Rattanakiri, Campuchia của CTCP Đông Pênh
với số vốn đăng ký là 35,35 triệu USD.
7. Dự án khai thác chế biến vàng và kim loại màu tại quận Mubende cách
140 km về phía tây của thành phố Kampala của Uganda của CTCP Tư vấn đầu tư
xây dựng Ba Đình với số vốn đăng ký là 35 triệu USD.
8. Dự án của CTCP Đầu tư IMG đầu tư, xây dựng nhà để bán và cho thuê
thương mại tại Úc, vốn đăng ký là 34,5 triệu USD.
9. Dự án đầu tư bất động sản Thiên Phúc Lộc - Hoa Kỳ của Công ty TNHH
đầu tư kinh doanh Thiên Phúc Lộc với số vốn đăng ký là 33,5 triệu USD.
97
10. Dự án đầu tư trang trại nông nghiệp và du lịch sinh thái Swanport tại
Australia của ông Phạm Nhật Vũ với số vốn đăng ký là 33 triệu USD.
11. Dự án khai thác, tuyển và luyện vàng tại mỏ vàng vùng O Khloek Khlak,
huyện Sambo, tỉnh Krarie, Campuchia của CTCP Rạng Đông với vốn đăng ký là
28,6 triệu USD.
12. Dự án Công ty Cổ phần Niềm Kiêu hãnh Thái Bình Dương tại Campuchia
(trồng cao su) của CTCP Gemadept với số vốn đăng ký là 27,7 triệu USD;
13. Dự án Tập đoàn T&T tại Liên Bang Nga của Công ty Cổ phần Tập đoàn
T&T với số vốn đăng ký là 25 triệu USD;
14. Dự án tòa nhà HQC Washington của Công ty TNHH đầu tư giáo dục
Hoàng Quân với số vốn đăng ký là 25 triệu USD.
98
PHỤ LỤC 2: VIỆT NAM ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI - THEO LĨNH VỰC
Kỳ báo cáo:
Nước báo cáo:
Ngày lập báo cáo:
Từ 1/7/2015 đến nay
Stt
Lĩnh vực
(All) Vốn Việt Nam đăng ký (usd)
15-May-18 Vốn điều chỉnh (usd)
Tổng vốn đăng ký (usd)
Số dự án
Lượt điều chỉnh
% số dự án đăng ký mới/tổng số dự án đăng ký mới
% vốn đăng ký mới/tổng vốn đăng ký mới
126
34.90%
169,968,947
7.53%
18
26,660,629
196,629,576
1 Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác
2 Thông tin và truyền thông
34
878,519,599
38.91%
444,746
878,964,345
9.42%
3
3 Dịch vụ lưu trú và ăn uống
33
9.14%
21,335,957
0.95%
31,697,887
53,033,844
6
4 Xây dựng
33
9.14%
13,848,258
0.61%
579,800
14,428,058
5
5 Hoạt động chuyên môn, khoa học và
29
8.03%
75,324,257
3.34%
1,251,754
76,576,011
3
công nghệ
28
7.76%
6 Công nghiệp chế biến, chế tạo
574,848,087
25.46%
17
36,483,322
611,331,409
7 Vận tải kho bãi
15
4.16%
12,726,364
0.56%
10,000
12,736,364
1
14
3.88%
134,258,540
5.95%
10,159,270
144,417,810
5
8 Hoạt động kinh doanh bất động sản 9 Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ
12
3.32%
5,057,678
0.22%
15,000
5,072,678
1
trợ
10 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy
12
3.32%
120,534,387
5.34%
22,261,931
142,796,318
7
sản
11 Khai khoáng
6
1.66%
73,295,294
3.25%
817,440
74,112,734
1
12 Dịch vụ khác
5
1.39%
6,664,777
0.30%
55,517
6,720,294
2
99
13 Hoạt động tài chính, ngân hàng và
5
1.39%
167,719,999
7.43%
72,000,000
239,719,999
3
bảo hiểm
4
1.11%
1,031,665
0.05%
1,031,665
14 Giáo dục và đào tạo
3
0.83%
1,183,768
0.05%
1,183,768
15 Nghệ thuật, vui chơi và giải trí
2
0.55%
1,320,000
0.06%
1,320,000
0.00%
0.00%
(667,412,546)
(667,412,546)
3
16 Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 17 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí
Tổng
361
100.00%
2,257,637,577
1
75
(464,975,250)
1,792,662,327
100
PHỤ LỤC 3: VIỆT NAM ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI - THEO ĐỊA BÀN
Stt
Địa bàn
Số dự án
Vốn Việt Nam đăng ký (usd)
Lượt điều chỉnh
Vốn điều chỉnh (usd)
Tổng vốn đăng ký (usd)
% vốn đăng ký mới/tổng vốn đăng ký mới
1 Myanmar
56
978,993,065
43.36%
11
2,813,800
981,806,865
2 Nga
4
527,600,000
23.37%
527,600,000
3 Lào
13
117,763,457
5.22%
10
145,932,137
263,695,594
4 Mỹ
51
154,663,070
6.85%
16
64,037,037
218,700,107
5 Úc
27
108,584,636
4.81%
1
600,000
109,184,636
6 Marshall Islands
1
56,926,220
2.52%
56,926,220
7 Singapore
36
48,525,808
2.15%
5
7,970,000
56,495,808
8 Uganda
1
35,000,000
1.55%
35,000,000
9 Cuba
2
29,279,066
1.30%
29,279,066
10 New Zealand
6
16,391,609
0.73%
1
1,888,800
18,280,409
11 Hồng Kông
7
13,926,427
0.62%
13,926,427
12 Đức
15
8,830,392
0.39%
3
3,131,024
11,961,416
13 Trung Quốc
8
7,770,621
0.34%
7,770,621
14 Nhật Bản
28
6,037,907
0.27%
2
30,370
6,068,277
15 British
Virgin
3
5,850,000
0.26%
5,850,000
Islands (BVI)
16 Canada
4
5,648,329
0.25%
5,648,329
101
17 Malaysia
8
3,986,330
0.18%
183,346
1
4,169,676
18 Philippines
3
3,700,000
0.16%
305,000
2
4,005,000
19 Pháp
8
3,755,938
0.17%
3,755,938
20 Thái Lan
6
3,751,697
0.17%
3,751,697
21
Indonesia
7
3,569,023
0.16%
164,893
1
3,733,916
22 Tây Ban Nha
2
2,810,430
0.12%
2,810,430
23 Hà Lan
3
2,515,000
0.11%
2,515,000
24 Hàn Quốc
9
2,230,974
0.10%
101,519
2
2,332,493
25 Anh
1
300,000
0.01%
1,867,154
2
2,167,154
26 Bờ Biển Ngà
1
895,000
0.04%
895,000
27 Uzbekistan
1
850,000
0.04%
850,000
28 Tanzania
1
670,000
0.03%
670,000
29 Seychelles
1
500,000
0.02%
500,000
30 Ấn Độ
3
210,000
0.01%
3
262,157
472,157
31 Đài Loan
5
283,627
0.01%
283,627
32 CH Séc
1
200,000
0.01%
200,000
33
Ireland
1
114,190
0.01%
114,190
34 Phần Lan
2
92,857
0.00%
92,857
35 Belize
1
50,000
0.00%
50,000
36 Bangladesh
0.00%
1
20,000
20,000
37 Mexico
1
20,000
0.00%
20,000
102
38 Thụy Điển
1
10,000
0.00%
10,000
39 Haiti
1
2,455
0.00%
2,455
40 Campuchia
32
105,329,448
4.67%
14
(694,282,487)
(588,953,039)
361
2,257,637,577
1
75
(464,975,250)
1,792,662,327
Tổng
103