BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
…………………………………
TRỊNH DUY VIẾT
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG MUA LẠI CỔ PHẦN DỰA TRÊN LÝ THUYẾT NUÔNG CHIỀU CỔ TỨC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
…………………………………
TRỊNH DUY VIẾT
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG MUA LẠI CỔ PHẦN DỰA TRÊN LÝ THUYẾT NUÔNG CHIỀU CỔ TỨC
Chuyên ngành : Tài Chính - Ngân Hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ với đề tài “Nghiên cứu thực nghiệm các yếu tố tác động đến hoạt động mua lại cổ phần dựa trên lý thuyết nuông chiều cổ tức” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang.
Luận văn là kết quả nghiên cứu độc lập, không sao chép từ bất kỳ đề tài nào khác. Các số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, được lấy từ các nguồn hợp pháp và đáng tin cậy. Tôi sẽ chịu trách nhiệm về nội dung đã trình bày trong luận văn này.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 11 năm 2015
Trịnh Duy Viết
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
Tóm tắt
CHƢƠNG 1 GIỚI THIỆU ........................................................................................... 1
CHƢƠNG 2 TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC .................................... 5
CHƢƠNG 3 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ............... 25
3.1. Mô hình nghiên cứu ...................................................................................... 25
3.2.1. Mô hình Logistic Multinomial .................................................................. 25
3.2.2. Mô hình Tobit ............................................................................................ 26
3.2. Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................................ 27
3.2.1. Đo lường biến tỷ lệ mua lại cổ phần .......................................................... 28
3.2.2. Mua lại cổ phần lần đầu và mua lại cổ phần tiếp tục ................................ 29
3.2.3. Phần bù mua lại cổ phần (repurchase premium) ....................................... 32
3.2.4. Phần bù chi trả cổ tức ................................................................................ 36
3.2.5. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu ........................................................... 38
CHƢƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM .................................... 51
4.1. Các yếu tố tác động đến chính sách chi trả cổ tức, mua lại cổ phần ............. 51
4.2. Tác động thay thế của chính sách chi trả cổ tức và mua lại cổ phần ............ 57
4.3. Các yếu tố tác động đến mức độ mua lại cổ phần......................................... 59
CHƢƠNG 5 KẾT LUẬN ............................................................................................ 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.2.1: Tỷ lệ mua lại cổ phần lần đầu giai đoạn 2008-2014 ...................................... 32
Bảng 3.2.2: Tỷ lệ tiếp tục mua lại cổ phần giai đoạn 2008-2014 ................................ 32-33
Bảng 3.2.3: Thống kê giá trị phần bù mua lại cổ phần từ năm 2008 đến 2014 ................. 34
Bảng 3.2.4: Thống kê giá trị phần bù mua lại cổ phần theo phương pháp không trọng
số giai đoạn 2008 – 2014 ................................................................................................... 36
Bảng 3.2.5: Thống kê giá trị phần bù cổ tức và phần bù cổ tức chuẩn hóa giai đoạn
2008-2014 .......................................................................................................................... 38
Bảng 3.2.6: Thống kê các nhóm quyết định cổ tức ............................................................ 39
Bảng 3.2.7: Thống kê mô tả các biến nghiên cứu ........................................................ 41-43
Bảng 4.1.1: Kết quả hồi quy mô hình Logit................................................................. 53-54
Bảng 4.2.1: Kết quả ước lượng mô hình Tobit .................................................................. 61
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Kết quả nghiên cứu của Yoon và Starks (1995) bằng phương pháp hồi quy .. 17
Hình 2.2: Thống kê 3 biến đo lường mức chi trả cổ tức trong nghiên cứu của Baker và
Wurgler (2004) ................................................................................................................. 27
Hình 2.3: Đồ thị giá trị trung bình tỷ số giá thị trường trên giá sổ sách của nhóm chi trả
và không chi trả cổ tức trong nghiên cứu của Baker và Wurgler (2004) ......................... 28
Hình 2.4 : Đồ thị phần bù cổ tức (%) trong nghiên cứu của Baker và Wurgler (2004) .. 29
Hình 3.4.2: Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2008 .......................................................... 45
Hình 3.4.3: Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2009 .......................................................... 46
Hình 3.4.4: Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2010 .......................................................... 47
Hình 3.4.5: Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2011 .......................................................... 48
Hình 3.4.6: Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2012 .......................................................... 49
Hình 3.4.7: Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2013 .......................................................... 50
Hình 3.4.8: Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2014 .......................................................... 51
Tóm tắt
Bài nghiên cứu này mở rộng lý thuyết nuông chiều nhà đầu tư về chi trả cổ tức
của Baker và Wurgler (2004a). Với quan điểm rằng các công ty nuông chiều nhu cầu
chi trả cổ tức cũng tương tự như nuông chiều nhu cầu mua lại cổ phần của nhà đầu tư,
tôi đưa ra bằng chứng cho thấy rằng yếu tố phần bù mua lại cổ phần thay đổi hàng năm
có tác động đến quyết định mua lại cổ phần của công ty. Ngoài ra, tôi còn kiểm định
xem liệu rằng các nhà quản lý có xem xét quyết định mua lại cổ phần và quyết định chi
trả cổ tức như là những quyết định thay thế lẫn nhau hay không. Kết quả nghiên cứu
của tôi cho thấy rằng , những công ty có lượng tiền mặt trong bảng cân đối ở kỳ trước
lớn thì thường có khả năng thực hiện chính sách tiếp tục chi trả cổ tức hoặc tiếp tục
mua lại cổ phần và giảm cổ tức. Thêm nữa, mức độ mua lại cổ phần của công ty sẽ phụ
thuộc vào quy mô, tỷ suất sinh lợi, đòn bẩy tài chính bên cạnh yếu tố phần bù mua lại
cổ phần cũng như phần bù cổ tức.
1
CHƢƠNG 1 GIỚI THIỆU
Rất nhiều bài nghiên cứu đã đưa ra những cách giải thích khác nhau về việc tại
sao công ty lại chi ra một khoảng tiền lớn đến các cổ đông dưới hình thức chi trả cổ tức
hoặc mua lại cổ phần. Trong đó, nổi bật có các bài nghiên cứu của Bhattacharya
(1979), John và Williams (1985), và Miller và Rock (1985) khi cho rằng những công ty
này hành động như vậy để phát ra một tín hiệu đáng lưu ý đến thị trường vốn. Mặt
khác, Easterbrook (1984) trong bài nghiên cứu của mình cho rằng việc chi trả cổ tức sẽ
làm giảm vấn đề đại diện giữa nhà quản lý và cổ đông thông qua việc giảm bớt nguồn
vốn cần quản lý, tuy nhiên kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Lang và Litzenberger
(1989), Denis, Denis, và Sarin (1994), Yoon và Starks (1995), và Lie (2000) lại cho
thấy rằng mối quan hệ này không thực sự rõ ràng.
Bài nghiên cứu của Baker và Wurgler (2004a) đưa ra một lý thuyết mới lý giải vì
sao các công ty lại chi trả cổ tức. Các tác giả này cho rằng nhu cầu của nhà đầu tư đối
với các cổ phiếu chi trả cổ tức thay đổi theo thời gian, điều này sẽ dẫ đến sự khác biệt
tương đối giữa giá thị trường của các cổ phiếu chi trả và không chi trả cổ tức. Do đó,
nhà quản trị sẽ nuông chiều nhu cầu cổ tức của nhà đầu tư bằng cách thực hiện việc chi
trả cổ tức khi các nhà đầu tư trên thị trường đưa ra một phần bù cho các cổ phiếu chi
trả cổ tức. Nhất quán với lý thuyết của mình, các tác giả đưa ra kết quả nghiên cứu thực
nghiệm cho thấy rằng những đợt chi trả cổ tức lần đầu có mối quan hệ đồng biến với
phần bù cổ tức được tính toán theo phương pháp của chính họ. Hơn nữa, Baker và
Wurgler (2004b) cũng đưa ra kết quả cho thấy rằng phần bù cổ tức có ảnh hưởng đến
xu hướng chi trả cổ tức được đề cập trong bài nghiên cứu của Fama và French (2001).
Mặc dù lý thuyết gốc nuông chiều nhà đầu tư ban đầu trong nghiên cứu của
Baker và Wurgler’s (2004a) liên quan đến cổ tức, nhưng lý thuyết này cũng đã mở
rộng ra đối với các quyết định khác của doanh nghiệp. Baker, Greenwood, và Wurgler
(2009) đưa ra một lý thuyết nuông chiều mới về giá cổ phần danh nghĩa trong đó nhà
2
quản trị sẽ cố thiết lập giá cổ phiếu để đáp ứng lại nhu cầu của nhà đầu tư đối với cổ
phiếu đó ở các khung giá khác nhau. Lý thuyết này có thể giải thích cho việc định giá
trong các thương vụ IPO hoặc xác định thời điểm để chia tách cổ phiếu. Polk và
Sapienza (2009) cho rằng thị trường có thể đánh giá sai lệch giá trị của công ty khi dựa
vào mức độ đầu tư do đó nhà quản trị sẽ tìm cách thổi phồng giá trị doanh nghiệp
thông qua quyết định đầu tư của họ. Bài nghiên cứu của Aghion và Stein (2008) cho
rằng, nhà quản lý lựa chọn giữa việc tối đa hóa doanh thu hoặc cải thiện lợi nhuận biên
sẽ phụ thuộc vào các động thái trên thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào trước đây đề cập đến việc nhà quản trị nuông
chiều nhu cầu mua lại cổ phần biến đổi theo thời gian. Điều này thực sự bất ngờ bởi vì
việc mua lại cổ phần cũng tương tự như mua lại cổ tức và hoạt động này ngày càng phổ
biến trong hai thập niên gần đây. Bài nghiên cứu này thực hiện nghiên cứu thực
nghiệm các yếu tố tác động đến hoạt động mua lại cổ phần của doanh nghiệp. Theo
hướng này, tôi sẽ mở rộng những hướng nghiên cứu khác về việc các công ty nuông
chiều các nhu cầu thay đổi theo thời gian của nhà đầu tư.
Hơn nữa, tôi sẽ sử dụng hành vi nuông chiều nhà đầu tư của công ty để kiểm định
giả thuyết rằng các nhà quản trị xem xét việc chi trả cổ tức và mua lại cổ phần như là
những quyết định thay thế lẫn nhau. Các nghiên cứu trước đây đã chưa đưa ra được các
bằng chứng thực nghiệm một cách rõ ràng. Nghiên cứu của DeAngelo, DeAngelo, và
Skinner (2000) cho thấy rằng, mặc dù số lượng chi trả cổ tức đặc biệt có giảm theo thời
gian nhưng chúng không được thay thế bởi việc mua lại cổ phần. Hơn nữa,
Jagannathan, Stephens, và Weisbach (2000) đưa ra bằng chứng cho thấy rằng các công
ty sử dụng dòng tiền ổn định, dài hạn cho việc chi trả cổ tức trong khi sử dụng các
dòng tiền tạm thời để mua lại cổ phần. Họ kết luận rằng “chính sách mua lại cổ phần
không phải là một chính sách xuất hiện để thay thế chính sách chi trả cổ tức, có vẻ việc
mua lại cổ phần giống như một chính sách bổ sung phục vụ cho việc chi trả ngắn hạn
3
của công ty” và “chính sách cổ tức và mua lại cổ phần xuất hiện tại các thời điểm khác
nhau trong chu kỳ kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp khác nhau”. Ở khía cạnh
khác, Grullon và Michaely (2002) cho thấy rằng những công ty chi trả cổ tức ít hơn dự
kiến có xu hướng mua lại cổ phần nhiều hơn, điều này nhất quán với hiệu ứng thay thế
của hai chính sách chi trả này. Bài nghiên cứu của Zhan Jiang (2012), xem xét chính
sách này ở khía cạnh khác. Tác giả không những nghiên cứu tác động của yếu tố phần
bù lên các quyết định chi trả tương ứng của doanh nghiệp (tác động của phần bù mua
lại cổ phần đến quyết định mua lại cổ phần, phần bù cổ tức đến quyết định chi trả cổ
tức) mà còn nghiên cứu tác động của phần bù đến quyết định thay thế (tác động của
phần bù cổ tức đến quyết định mua lại cổ phần, phần bù mua lại cổ phần đến quyết
định chi trả cổ tức). Điều này sẽ cho phép chúng ta thấy được liệu rằng các nhà quản trị
có xem xét cả hai cơ chế chi trả trước khi đưa ra quyết định hay không.
Phần đầu tiên của phân tích nghiên cứu thực nghiệm, dựa vào bài nghiên cứu gốc
của Zhan Jiang (2012), tôi sẽ cố gắng xây dựng biến phần bù mua lại cổ phần (biến này
mang yếu tố thị trường và thay đổi theo thời gian quan sát) dựa trên giá trị của các
công ty mua lại cổ phần liên tục trong 3 năm so với các công ty khác. Lý do khiến cho
tôi tập trung vào các công ty mua lại cổ phần trong 3 năm liên tiếp thay vì chỉ cần mua
lại cổ phần trong một năm gần nhất là vì tôi lo ngại rằng một số công ty thực hiện việc
mua lại cổ phần của mình khi bị định giá thấp, điều này có thể dẫn đến những sai lệch
đáng kể trong kết quả nghiên cứu của tôi. Tôi tin rằng những công ty đưa ra cam kết
dài hạn và thường xuyên trong việc mua lại cổ phần sẽ không bị ảnh hưởng bởi việc bị
định giá thấp trên thị trường, do đó việc tập trung vào các công ty này sẽ khiến cho kết
quả không bị chệch đi. Ngược lại, việc đo lường phần bù cổ tức một cách đơn giản
bằng cách so sánh nhóm chi trả cổ tức và không chi trả cổ tức trong năm gần nhất
không khiến cho kết quả nghiên cứu bị chệch theo hướng trên, bởi vì thị trường vốn giả
định rằng các công ty chi trả cổ tức cam kết sẽ chi trả cổ tức mỗi năm.
4
Kết quả nghiên cứu của tôi cho thấy rằng tồn tại mối quan hệ giữa phần bù mua
lại cổ phần, phần bù cổ tức đối với các chính sách chi trả tương ứng, kết quả này hỗ trợ
cho lý thuyết nuông chiều nhà đầu tư. Phần bù mua lại cổ phần có tác động làm tăng
khả năng công ty thực hiện quyết định mua lại cổ phần lần đầu. Trong khi đó, phần bù
cổ tức làm tăng khả năng công ty thực hiện các chính sách chi trả hỗn hợp (vừa tiếp tục
mua lại cổ phần và tiếp tục chi trả cổ tức).
Tiếp đến, tôi xem xét tác động thay thế của chính sách mua lại cổ phần và chính
sách chi trả cổ tức. Kết quả nghiên cứu của tôi cho thấy rằng, phần bù cổ tức có tác
động làm tăng khả năng công ty thực hiện chính sách mua lại cổ phần lần đầu. Trong
khi đó, phần bù mua lại cổ phần chỉ có tác động ngược chiều đến khả năng công ty
thực hiện chính sách giảm cổ tức mà không tác động đến việc công ty có chia cổ tức
lần đầu hay không. Kết quả ước lượng này cũng phần nào cho thấy được tính chất thay
thế của hai chính sách mua lại cổ phần và chi trả cổ tức. Mặc dù vậy, so với kết quả
nghiên cứu của Zhan Jiang (2012) thì kết quả nghiên cứu của tôi không thể hiện một
cách rõ ràng các tính chất trên. Lý do lý giải cho điều này về cảm tính có thể thời gian
nghiên cứu là quá ngắn, thời gian nghiên cứu của tôi chỉ bao gồm 6 năm trong giai
đoạn từ 2008 đến 2014. Điều kiện thị trường chứng khoán mới được hình thành khiến
cho tôi không thể xây dựng biến nghiên cứu dựa trên các tiêu chí khắc khe hơn, đây có
thể là một lý do dẫn đến kết quả nghiên cứu bị chệch đi đáng kể.
Phần tiếp theo của bài nghiên cứu sẽ được trình bày như sau. Phần II, trình bày về
tổng quan các nghiên cứu trước. Phần III, tôi sẽ xây dựng mẫu nghiên cứu, tính toán
các biến cũng như phương pháp nghiên cứu cho mô hình. Phần IV, trình bày kết quả
nghiên cứu và thảo luận.
5
CHƢƠNG 2 TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC
Lý thuyết nuông chiều nhà đầu tư được khởi xướng từ các nghiên cứu của
Bhattacharya (1979), John và Williams (1985), và Miller và Rock (1985) lý giải lý do
vì sao các công ty lại thực hiện chia cổ tức hoặc mua lại cổ phần. Các nghiên cứu này
cho rằng, các công ty thực hiện điều này nhằm đưa ra một tín hiệu đáng quan tâm đến
nhà đầu tư trên thị trường vốn.
Bhattacharya (1979), một khối lượng lớn các nghiên cứu tài chính được xây
dựng dựa trên quan điểm cho rằng các thông tin đặc trưng về một công ty thì không tốn
phí và sẵn có như nhau đối với tất cả nhà đầu tư trên thị trường, cả bên ngoài lẫn bên
trong công ty. Nhưng điều này trong thực tế rất hiếm gặp thấy bởi các nhà đầu tư bên
ngoài thường thiếu thông tin về tình trạng hiện tại và tương lai của công ty.
Bài nghiên cứu này là một trong những bài nghiên cứu tiên phong trong việc sử dụng
lý thuyết phát tín hiệu (signaling theory) trong việc lý giải cách thức mà nhà quản trị
truyền tải thông tin đến nhà đầu tư thông qua một kênh đáng tin cậy. Cụ thể,
Bhattacharya làm rõ các điều kiện mà theo đó chính sách chia cổ tức được sử dụng
nhằm phát tín hiệu đến thị trường về khả năng sinh lời trong tương lai của công ty và
tại sao nhà đầu tư la ưa thích nhận các khoản chi trả cổ tức này.
Trước bài nghiên cứu này của Bhattacharya (1979), có rất nhiều bài nghiên cứu lý giải
vì sao doanh nghiệp lại tiến hành chia cổ tức. Trong đó tiêu biểu là các nghiên cứu của
Miller và Modigliani khi cho rằng cổ tức không tác động đến giá trị doanh nghiệp và
nhà đầu tư có thể tạo ra dòng tiền của riêng họ bằng cách bán đi một phần lượng cổ
phiếu đang nắm giữ.
Mặc khác, một số quan điểm được gọi là “bird-in-hand” cho rằng nhà đầu tư thích cổ
tức hơn là lãi vốn vì các lý do về tiêu dùng và phòng ngừa rủi ro. Bhattacharya xây
dựng một mô hình nghiên cứu trong đó cổ tức đóng vai trò như một tín hiệu thông tin
6
nội gián về thành quả hoạt động của công ty trong tương lai, do đó nó cung cấp một lý
do mới cho sự phân tán dòng tiền ở hiện tại. Trong bài nghiên cứu của mình, tác giả sử
dụng một số giải định quan trọng. Đầu tiên và quan trọng nhất, tác giả cho rằng nhà
đầu tư được thông tin không hoàn hảo và có quá trình đưa ra và thực hiện kế hoạch
ngắn hơn thời gian hoạt động của công ty. Trong bài nghiên cứu của mình,
Bhattacharya cho phép các nhà đầu tư có thể thực hiện kế hoạch của một thời kỳ hoặc
nhiều thời kỳ. Thứ hai, tác giả giả định rằng nhà đầu tư chịu mức thuế suất trên cổ tức
là cao hơn so với thuế trên lãi vốn. Cuối cùng, tác giả đưa ra một khung quy định mà
dựa trên đó thì tín hiệu thông tin phát ra phải tốn phí mới trở nên hiệu quả. Dựa trên
những nền tảng giả định này, tác giả xây dụng một mô hình để tính toán giá trị kỳ vọng
chiết khấu từ các cổ đông với một mức chỉ trả cổ tức cụ thể. Mô hình này dựa vào bốn
nhân tố riêng biệt : tỷ lệ cổ tức nhận được sau thuế của cổ đông, giá trị của dòng cổ tức
chi trả trong tương lai được lập ở hiện tại, lợi ích từ việc tái đầu bất kỳ dòng tiền vượt
trội nào vào công ty, chi phí của việc duy trì mức cổ tức chi trả trong các trường hợp
phải đối mặt với thâm hụt dòng tiền hoạt động tạm thời. Yếu tố cuối cùng kết hợp với
tính chất thuế lũy tiến bắt buộc tạo ra một chi phí cần thiết để cho các khoản cổ tức chi
trả có thể trở thành các tín hiệu về kỳ vọng điều kiện kinh tế trong tương lại của nhà
quản trị.
Khi mô hình giá trị kỳ vọng được giải thích như là một hàm mục tiêu của cổ đông, kết
quả chính của nghiên cứu đạt được thông qua việc tìm kiếm mức độ chi trả cổ tức mà
tại đó tối đa hóa mục tiêu của cổ đông. Bằng cách thực hiện phân tích này đầu tiên cho
quy trình đầu tư một giai đoạn, tác giả thu được nhiều kết luận từ “chiến thuật so
sánh”. Một cách ngắn gọn, ông cho rằng giá trị thị trường của việc phát tín hiệu này chỉ
cân bằng khi kỳ vọng về dòng tiền trong tương lai mà đã được phát tín hiệu phải được
lắp đầy một cách hoàn toàn. Điều này nghĩa là, giá trị thanh toán của cổ phiếu được
hàm ý bởi các khoản chi trả cổ tức phải bằng giá trị đúng của dòng tiền tương lai của
7
công ty. Hơn nữa, ông còn cho rằng mức chi trả cổ tức tối ưu giảm khi mức thuế suất
tăng lên và chịu tác động của lãi suất trên thị trường. Trong nỗ lực nhằm đưa phân tích
của mình đi vào thực tế, Bhattacharya cho phép rằng cổ đông có thể thực hiện đầu tư
nhiều giai đoạn. Kết quả chính được rút ra từ việc mở rộng này của tác giả là, khi chu
trình đầu tư càng ngắn thì mức độ gấp rút của việc nhận tài sản ở dạng khả dụng càng
tăng do đó sẽ khiến cho tỷ lệ chi trả cổ tức trở nên cân bằng hơn. Tác giả quan sát thấy
rằng kết quả này có cùng tác động giống như các tranh luận về “bird-in-hand”, nhưng
nó là kết luận thu được từ rất nhiều lý do khác nhau.
Bài nghiên cứu này tồn tại một vài hạn chế như sau: thứ nhất, việc cho phép cổ đông
có thể thực hiện kế hoạch đầu tư theo nhiều thời kỳ dẫn đến thất bại trong việc đạt
được sự nhất trí trong các quy định của công ty. Thứ hai, hàm mục tiêu của tác giả chịu
tác động mạnh từ sự hiện diện của thị trường cho vay- tiêu dùng trong kỳ và thái độ
bàng quan rủi ro của nhà đầu tư. Cuối cùng, các giới hạn được đặt ra cho việc sử dụng
nợ của doanh nghiệp và mức giá mà tại đó việc mua bán tài sản được diễn ra trên trị
trường thứ cấp.
John và Williams (1985), cho rằng mô hình cân bằng phát tín hiệu đối với cổ tức
sau thuế đã được xác định. Trong sự cân bằng này, những người bên trong doanh
nghiệp với nhiều thông tin có giá trị hơn sẽ được phân phối cổ tức một cách tối ưu và
giá nhận được cho cổ phần của họ cũng cao hơn ngay cả khi nhu cầu tiền mặt của công
ty và các cổ đông hiện hữu cao vượt mức so với khả năng cung ứng tiền mặt nội bộ
công ty. Trong sự cân bằng này, nhiều công ty tiến hành chia cổ tức và đồng thời phát
hành thêm cổ phần mới trong khi những công ty khác thì không chia cổ tức.
Miller và Rock (1985), bài nghiên cứu này của các tác giả mở rộng mô hình tài
chính chuẩn về các quyết định cổ tức/ đầu tư/ tài trợ của công ty khi cho rằng các nhà
quản trị sẽ nắm nhiều thông tin về tình trạng dòng tiền hiện tại hơn so với nhà đầu tư
bên ngoài. Bài nghiên cứu này đề cập đến hiệu ứng thông báo cổ tức đã được nghiên
8
cứu một cách đầy đủ trước đó. Nhưng một khi việc giao dịch cổ phiếu được đưa vào
mô hình với thông tin bất cân xứng thì các chỉ tiêu đo lường mức tối ưu trong đầu tư
của Fisher trở nên không nhất quán theo thời gian. Niềm tin của thị trường rằng một
công ty sẽ hành xử dựa theo các quy tắc của Fisher sẽ tạo ra động lực để vi phạm
nguyên tắc.
Bài nghiên cứu cho thấy rằng có một sự cân bằng phát tín hiệu nhất quán về mặt thông
tin tồn tại dựa trên sự bất cân xứng thông tin và giao dịch cổ phiếu khiến cho chính
sách đầu tư nhất quán theo thời gian nhưng điều này nhìn chung dẫn đến một mức độ
đầu tư thấp hơn so với mức đầu tư tối ưu trong trường hợp thông tin đầy đủ và không
có giao dịch. Các điều khoản hợp đồng làm thay đổi thông tin bất cân xứng hoặc khả
năng kiếm lời từ những thông tin bất cân xứng này có thể loại bỏ được cả sự không
nhất quán theo thời gian và các chính sách đầu tư thiếu hiệu quả, nhưng có thể các điều
khoản này sẽ kèm theo một mức chi phí rất lớn.
Bên cạnh các bài nghiên cứu về hiệu ứng phát tín hiệu của chính sách cổ tức đến
thị trường vốn thì một khối lượng lớn các nghiên cứu khác chỉ ra rằng việc doanh
nghiệp thực hiện chia cổ tức nhằm giảm bớt vấn đề đại diện giữa nhà quản trị và cổ
đông thông qua việc giảm bớt nguồn vốn cần quản lý.
Easterbrook (1984) cho rằng, các nghiên tài chính về cổ tức được chia làm hai
hướng. Hướng thứ nhất, giả định các nhà quản trị là người đại diện hoàn toàn cho
quyền lợi của nhà đầu tư và điều này giải thích tại sao họ đưa ra quyết định chia cổ tức.
Hướng thứ hai, cho rằng nhà quản trị là người đại diện không hoàn toàn và các tác giả
này nghiên cứu làm thế nào để quyền lợi của nhà đầu tư và quyền lợi của nhà quản trị
có thể hòa hợp với nhau. Hai hướng nghiên cứu này hiếm khi nào có thể thống nhất với
nhau. Một cách hợp lý thì chính sách cồ tức (hay bất kỳ chính sách nào khác của công
ty) nên được thiết kế để tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn, chi phí đại diện và các chi
phí về thuế. Bài nghiên cứu này của tác giả Easterbrook nhằm mục đích trả lời khi nào
9
thì chính sách cổ tức được sử dụng để dung hòa lợi ích của nhà quản trị và các nhà đầu
tư khác. Nó đưa ra các giải thích về chi phí đại diện của cổ tức.
Lang và Litzenberger (1989), bài nghiên cứu này kiểm định các giả thuyết tác
động của báo cáo cổ tức đến giá cổ phiếu thông qua hiệu ứng phát tín hiệu dòng tiền và
dòng tiền tự do/ đầu tư quá mức.
Bài nghiên cứu sử dụng chỉ số Tobin Q có giá trị nhỏ hơn 1 để chỉ định cho những nhà
đầu tư quá mức. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, giá trị tỷ suất sinh lợi bình quân
liên quan tới những thông báo thay đổi cổ tức mức độ lớn của những công ty có giá trị
Q nhỏ hơn 1 thường lớn hơn đáng kể so với những công ty khác. Bằng chứng này cùng
với các kết quả phân tích thêm khi sử dụng mẫu dữ liệu tốt hơn và phân tích thay đổi
trong thu nhập dự báo của các chuyên gia ủng hộ cho giả thuyết đầu tư quá mức hơn là
giả thuyết phát tín hiệu dòng tiền. Điểm nổi bật trong bài nghiên cứu của các tác giả là
sử dụng hệ số Tobin Q để đo lường cho mức độ đầu tư quá mức. Sử dụng mô hình đo
lường giá trị công ty với tốc độ tăng trưởng hữu hạn của Miller và Modigliani (1966)
để xác định giá trị Tobin Q:
Tác giả thu thập dữ liệu các công ty có thông báo chia cổ tức trên thị trường
chứng khoán Mỹ rồi so sánh giá trị tỷ suất sinh lợi trung bình của nhóm có chỉ số Q > 1
với nhóm có chỉ số Q <1. Bởi vì nhóm có chỉ số Q<1 đại diện cho những công ty đầu
tư quá mức, thiếu hiệu quả (tiến hành đầu tư những dự án có NPV âm) nên khi tiến
hành chia cổ tức sẽ giảm bớt mức độ kém hiệu quả của các dự án đầu tư khiến cho giá
trị của công ty tăng. Như vậy nhóm những công ty có hệ số Q<1 sẽ có tỷ suất sinh lợi
10
trung bình lớn hơn nhóm các công ty có hệ số Q>1. Dữ liệu tỷ suất sinh lợi của các
công ty có thông báo chia cổ tức được các tác giả thu thập theo ngày. Bên cạnh đó, để
tránh sự nhiễu loạn từ các thông tin khác, các tác giả còn tiến hành thu thập dữ liệu
theo phút (intraday) để cho thấy được mức độ chính sách của giả thuyết dòng tiền tự do
hay giả thuyết đầu tư quá mức. Phương pháp kiểm định được các tác giả sử dụng trong
bài là kiểm định giá trị trung bình của hai nhóm sử dụng hệ số t-test truyền thống. Kết
quả nghiên cứu của tác giả cho thấy rằng có sự chêch lệch trong tỷ suất sinh lợi bình
quân của nhóm công ty có chỉ số Q < 1 so với nhóm có Q > 1 là 0.008 và sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Mức chêch lệch này khi sử dụng dữ liệu nghiên
cứu intraday là 0.0179 và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.
Denis, Denis, và Sarin (1994), bài nghiên cứu này của các tác giả sử dụng mô
hình thực nghiệm để kiểm định giả thuyết phát tín hiệu dòng tiền, đầu tư quá mức và
nhóm khách hàng cổ tức đối với thông tin chứa đựng trong thông báo thay đổi cổ tức.
Sau khi kiểm soát các biến mức thay đổi cổ tức chuẩn tắc, tỷ lệ chi trả cổ tức, hệ số
Tobin Q, kết quả nghiên cứu của các tác giả cho thấy rằng tỷ suất sinh lợi vượt trội
trong kỳ thông báo cổ tức có quan hệ cùng chiều với mức thay đổi cổ tức chuẩn tắc, tỷ
lệ chi trả cổ tức nhưng không có quan hệ với hệ số Tobin Q. Bài nghiên cứu còn đưa ra
thêm nhiều bằng chứng kiểm định giả thuyết phát tín hiệu dòng tiền và đầu tư quá mức
dựa vào việc kiểm tra những sự điều chỉnh trong dự báo thu nhập của các phân tích
viên và sự thay đổi trong chi tiêu vốn theo các thông báo thay đổi cổ tức.
Kết quả cho thấy rằng các phân tích viên điều chỉnh đáng kể dự báo thu nhập của họ
theo sau thông báo thay đổi cổ tức và những công ty có Q < 1 thực sự gia tăng chi tiêu
vốn của mình nếu cổ tức tăng và giảm chi tiêu vốn nếu cổ tức giảm. Nhìn chung, kết
quả nghiên cứu của các tác giả ủng hộ cho giả thuyết phát tín hiệu dòng tiền và nhóm
khách hàng cổ tức cho thấy rằng giá chứng khoán thực sự phản ứng lại với các thông
11
báo thay đổi cổ tức nhưng bài nghiên cứu này lại đưa ra ít sự ủng hộ hơn cho giả thuyết
đầu tư quá mức.
Mẫu nghiên cứu bao gồm 6,777 thông báo thay đổi cổ tức trong giai đoạn 1962-1988
trong đó có 5,992 thông báo tăng cổ tức và 785 thông báo giảm cổ tức. Kết quả nghiên
cứu chính của tác giả được rút ra thông 2 mô hình. Mô hình 1, tác giả thực hiện hồi quy
tỷ suất sinh lợi vượt trội (exceed return) giai đoạn 2 ngày kể từ ngày thông báo cổ tức
với các biến độc lập thay đổi cổ tức chuẩn tắc (standardized dividend change-CHNG),
tỷ lệ cổ tức (dividen yeild-YLD) và biến giả đại diện cho hệ số Q (QDUM) với hai
trường hợp Q > 1 và Q< 1. Mô hình 2, tác giả giữ lại các biến độc lập trên và thêm vào
biến dòng tiền tự do (CFLOW) và biến tương tác của hệ số Q với nó QxCFLOW.
Tác giả thực hiện hồi quy sử dụng các mẫu nghiên cứu khác nhau. Lần thứ nhất thực
hiện hồi quy với 2 phương trình trên sử dụng mẫu nghiên cứu của toàn bộ các thông
báo thay đổi cổ tức (6,777 quan sát), lần thứ hai tác giả thực hiện tương tự với mẫu các
thông báo tăng cổ tức (5,992 quan sát) và cuối cùng là với mẫu nghiên cứu các thông
báo giảm cổ tức (785 quan sát).
Kết quả hồi quy cho mô hình 1 với toàn bộ mẫu nghiên cứu cho thấy rằng tỷ suất sinh
lợi vượt trội khi có thông báo cổ tức chịu tác động đáng kể của các biến thay đổi cổ tức
chuẩn tắc (t = 26.38) và tỷ lệ cổ tức (t=7.13). Kết quả này cũng cho thấy rằng trái với
giả thuyết đầu tư quá mức, sau khi kiểm soát biến thay đổi cổ tức chuẩn tắc và tỷ lệ cổ
tức thì biến Tobin Q không có ý nghĩa thống kê. Kết quả hồi quy của mô hình 1 trong
trường hợp mẫu chỉ gồm các thông báo giảm cổ tức cũng cho thấy điều tương tự. Mặc
dù hệ số hồi quy của biến Q có ý nghĩa thống kê khi thực hiện hồi quy mô hình 1 với
mẫu nghiên cứu gồm các thông báo tăng cổ tức nhưng dấu lại ngược với những dự
đoán của giả thuyết đầu tư quá mức (kết quả mô hình có dấu dương ngược kỳ vọng giả
thuyết đầu tư quá mức). Kết quả nghiên cứu này của tác giả ủng hộ rất thấp giả thuyết
về đầu tư quá mức. Kết quả hồi quy trong bài nghiên cứu của tác giả
12
Bài nghiên cứu này của tác giả thực hiện kiểm định lại rất nhiều giả thuyết nhau
nhằm tìm kiếm một mối liên hệ giữa tỷ suất sinh lợi và thông báo thay đổi cổ tức.
Nghiên cứu này của các tác giả xuất phát từ sự liên kết giữa hệ số Tobin Q và tỷ lệ cổ
tức. Mối tương quan âm giữa hệ số Q và tỷ lệ cổ tức có thể dẫn đến hiện tượng tương
quan giả mạo giữa hệ số Q và tỷ suất sinh lợi vượt trội. Điều này có thể dẫn đến những
kết luận sai lệch về tầm quan trọng của các giả thuyết phát tín hiệu dòng tiền, giả
thuyết đầu tư quá mức và nhóm khách hàng cổ tức. Bởi vì các giả thuyết này không
loại trừ lẫn nhau nên bài nghiên cứu này đưa đồng thời ba giả thuyết quan trọng này
vào một khung kiểm định duy nhất. kết quả nghiên cứu này của tác giả một lần nữa
ủng hộ giả thuyết phát tín hiệu dòng tiền và giả thuyết nhóm khách hàng cổ tức nhưng
lại ít ủng hộ giả thuyết đầu tư quá mức. Cụ thể, các tác giả cho thấy rằng tỷ suất sinh
lợi vượt trội kỳ hai ngày xung quanh thời điểm thông báo thay đổi cổ tức chịu tác động
cùng chiều của biến thay đổi cổ tức chuẩn tắc và tỷ lệ cổ tức nhưng không chịu tác
động của hệ số Tobin Q. Thêm nữa, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng các nhà
phân tích thực hiện điều chỉnh dựa báo thu nhập của mình dựa vào sự thay đổi cổ tức.
Yoon và Starks (1995), bài nghiên cứu kiểm định việc giải thích sự tác động của
tài sản xung quanh các thông báo thay đổi cổ tức. Các tác giả tìm thấy rằng các thông
tin mới liên quan đến chính sách đầu tư của nhà quản trọng không được công bố trong
thời gian thông báo thay đổi cổ tức. Bài nghiên cứu cũng cho thấy rằng, cổ tức gia tăng
(giảm) sẽ làm tăng (giảm) chia tiêu vốn trong ba năm sau đó kể từ thời điểm có thông
báo thay đổi cổ tức và thông báo thay đổi cổ tức cũng dẫn đến sự điều chỉnh dự báo thu
nhập của các chuyên viên phân tích. Kết quả nghiên cứu này ủng hộ cho giả thuyết
phát tín hiệu dòng tiên hơn là giả thuyết dòng tiền tự do khi giải thích phản ứng của tỷ
suất sinh lợi đối với thông báo thay đổi cổ tức. Xuất phát từ các tranh luận về sự thay
đổi trong cổ tức tại sao lại tác động đến giá trị của công ty và trọng tâm của các tranh
luận này là những thông tin gì được truyền tải đến thị trường từ những thay đổi trong
13
cổ tức. Bài nghiên cứu dựa trên phân tích của hai giả thuyết lớn về cổ tức là giả thuyết
phát tín hiệu dòng tiền và giả thuyết dòng tiền tự do. Sự khác biệt cơ bản của hai giả
thuyết này có thể tóm gọn là: theo giả thuyết phát tín hiệu dòng tiền, sự thay đổi trong
cổ tức cung cấp thông tin về dòng tiền hiện tại hoặc/ và dòng tiền tương lai trong khi
theo giả thuyết dòng tiền tự do thì sự thay đổi trong cổ tức cung cấp thông tin về sự
thay đổi trong việc lạm dụng dòng tiền của nhà quản lý. Bài nghiên cứu này nhằm mục
đích tìm ra xem giả thuyết nào là hợp lý hơn trong việc giải thích thông tin được truyền
tải từ các thông báo thay đổi cổ tức. Theo đó, các tác giả phân tích xem ở mức độ nào
thì sự thay đổi cổ tức bản thân nó chịu tác động từ các cơ hội đầu tư của công ty và
mức độ nào những tác động đến tài sản trong giai đoạn thông báo thay đổi cổ tức liên
quan tới các cơ hội đầu tư hay việc phát tín hiệu dòng tiền. Dữ liệu nghiên cứu của các
tác giả được thu thập trong giai đoạn 1968- 1988 bao gồm 3,478 thông báo tăng cổ tức
và 431 thông báo giảm cổ tức của các công ty được niêm yết trên sàn chứng khoán
New York (NYSE). Bài nghiên cứu này sử dụng hai biến khác nhau đại diện cho cơ
hội đầu tư. Biến thứ nhất là hệ số Tobin Q được định nghĩa bằng hệ số giá trị thị trường
của tài sản công ty chia cho chi phí thay thế toàn bộ tài sản này. Mặc dù hệ số Q được
dùng rất phổ biến trong các nghiên cứu thực nghiệm trước đó nhưng nó gặp phải một
số vấn đề như sau. Thứ nhất, sự khác biệt trong cơ hội đầu tư theo Lang và
Litzenberger (1989) không nên sử dụng hệ số Q trung bình để tính toán mà phải dùng
hệ số Q biên (marginal Q). Thứ hai, sai số đo lường sẽ gây ra nhiễu hệ số Q ước lượng.
Hệ số Q được ước lượng dựa trên các thông tin đã lỗi thời. ví dụ nếu một công ty ra
báo cáo đều mỗi năm thì hệ số Q sẽ được ước lượng dựa vào số liệu của 6 tháng trước
đó và điều này khiến cho hệ số Q không thể chỉ chứa đựng những thông tin đại diện
cho thông báo thay đổi cổ tức. Biến thứ hai, theo john và lang (1991) đề xuất đó là xu
hướng của hoạt động giao dịch nội bộ kết hợp với các thông báo cổ tức có thể sẽ là một
biến đại diện cho cơ hội đầu tư tốt hơn hệ số Tobin Q. Theo John và Lang (1991)
chúng ta sẽ xây dựng một chỉ số giao dịch nội bộ dựa trên doanh số thị trường mở giao
14
dịch nội bộ và các giao dịch mua bán trong thời gian hai quý trước thông báo thay đổi
cổ tức.
Bài nghiên cứu này thực hiện các phân tích so sánh các yếu tố đặc trưng công ty
cho hai nhóm công ty có hệ số Q cao và hệ số Q thấp. Các yếu tố được đưa vào để so
sánh của hai nhóm này dựa vào các nghiên cứu trước đó bao gồm : tỷ lệ cổ tức, quy mô
công ty và mức độ cổ tức thay đổi. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy sự khác
biệt đáng kể của 3 biến nghiên cứu này giữa hai nhóm công ty. Sự khác biệt của biến
mức độ cổ tức thay đổi trong trường hợp thông báo tăng cổ tức giữa nhóm công ty có
Q < 1 và nhóm công ty có Q > 1 là 0.0009 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (t=25.96).
Sự khác biệt này đối với biến quy mô công ty là -839 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%
(t=-16.32), biến tỷ lệ cổ tức là 0.02 và có ý nghĩa ở mức 1% (t=41.68). Tuy nhiên, sự
khác biệt giữa hai nhóm công ty này không quá lớn trường hợp thông báo giảm cổ tức.
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm này chỉ ra rằng có sự khác biệt giữa các công ty tại
thời điểm thông báo thay đổi cổ tức và sự khác biệt này liên quan tới cơ hội đầu tư của
công ty. Cụ thể, những công ty có hệ số Q thấp sẽ có tỷ lệ cổ tức cao hơn, mức thay đổi
cổ tức lớn hơn và quy mô nhỏ hơn.
Một phân tích quan trọng khác của bài nghiên cứu là sử dụng mô hình hồi quy để
kiểm định tác động của hệ số Q đến tỷ suất sinh lợi vượt trội của các công ty trong thời
gian thông báo thay đổi cổ tức. Mô hình sử dụng 3 biến kiểm soát là tỷ lệ cổ tức, mức
độ cổ tức thay đổi và quy mô công ty. Cùng với đó tác giả cũng sử dụng biến giả để đại
diện cho những công ty có hệ số Tobin Q cao. Kết quả hồi quy của tác giả cho thấy tồn
tại mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi vượt trội và 3 biến soát trên nhưng biến Tobin Q
không hề có ý nghĩa thống kê khi đưa ba biến kiểm soát này vào mô hình. Kết quả
nghiên cứu này chỉ ra rằng, sự khác biệt trong phản ứng giá của các công ty có hệ số q
cao và q thấp có thể là bởi vì sự khác biệt trong các yếu tố đặc trưng cho công ty chứ
không phải là do sự khác biệt trong cơ hội đầu tư.
15
Hình 2.5 : Kết quả nghiên cứu của Yoon và Starks (1995) bằng phƣơng pháp
hồi quy
CAR = 0.50 + 481CHAGE + 19.08YIELD
(t = 1.51) (t = 8.73) (t = 4.50)
-0.14LOG(SIZE) + 0.09Dhigh q
(t = -3.28) (t = 0.57)
F-statistic = 4.75, R2 = 0.05
Lie (2000), bài nghiên cứu này của tác giả nghiên cứu về giả thuyết nguồn quỹ
vượt mức sử dụng mẫu nghiên cứu bao gồm cổ tức đặc biệt (special dividend), tăng cổ
tức thông thường (regular dividend increase) và đề nghị mua lại cổ phần (self-tender
offers). Ba loại hình này của công ty thường có nguồn quỹ vượt mức so với mức chuẩn
của ngành trước khi xảy ra sự kiện. Các công ty thực hiện chia cổ phần đặc biệt và đưa
ra đề nghị mua lại cổ phần không thường có nguồn quỹ vượt mức trong khi những
công ty tăng cổ tức thông thường thì lại có nguồn quỹ vượt mức thường xuyên. Phân
tích phản ứng của giá cổ phiếu chỉ ra rằng sự giải ngân tăng lên lớn sẽ làm giảm bớt
vấn đề đại diện liên quan tới nguồn quỹ vượt mức. Cụ thể, giá cổ phiếu phản ứng tích
cực đối với nguồn quỹ vượt mức mà thực hiện đề nghị mua lại cổ phần hoặc chia cổ
tức đặc biệt mức độ lớn nhưng lại không có quan hệ đối với việc tăng cổ tức thông
thường và chia cổ tức đặc biệt ở mức thấp. Điểm nổi bật trong nghiên cứu này của tác
giả là việc kiểm định các giả thuyết phát tín hiệu và nguồn quỹ vượt mức trong đó sử
dụng thông tin về chi trả cổ tức đặc biệt và đề nghị mua lại cổ phần. Chia cổ tức đặc
biệt và đề nghị mua lại cổ phần là những hoạt động chi tiền mặt ở mức độ lớn trong
một lần, trong khi tăng cổ tức thông thường sẽ dẫn đến một mức chi cổ tức thường
xuyên cao hơn. Những công ty trải qua tinh trạng tiền mặt vượt mức không thường
16
xuyên, ví dụ nhưng chỉ có tiền mặt nhiều từ các hoạt động bán tài sản nên thực hiện chi
trả thông qua lượng tiền mặt vượt mức này dưới dạng cổ tức đặc biệt hoặc đề nghị mua
lại cổ phần. Bởi vì nếu công ty thực hiện tăng cổ tức thông thường sẽ dẫn đến một cam
kết chi cổ tức với tỷ lệ cao hơn trong tương lai. Ngược lại, những công ty có thể tạo ra
dòng tiền vượt mức từ các hoạt động thông thường có thể giới hạn một cách hiệu quả
việc đầu tư quá mức hiện tại hoặc trong tương lai thông qua tăng mức cổ tức chi trả
thông thường.
Trong bài nghiên cứu này, mẫu nghiên cứu bao gồm 570 đợt chia cổ tức đặc biệt,
7417 tăng cổ tức thông thường và 207 đề nghị mua lại cổ phần. Nhất quán với những
nghiên cứu trước đó, kết quả nghiên cứu của tác giả chi ra rằng có sự phản ứng tích cực
đáng kể của thị trường xung quanh những thông báo chi trả tiền mặt tăng thêm ở trên.
Một kiểm định khác trong bài nghiên cứu này là xem xét dòng tiền và tỷ lệ tiền mặt
trong các năm mà công ty đưa ra các thông báo trên nhằm tìm ra nhu cầu lý giải cho
việc chi quỹ của các công ty. Kết quả kiểm định cho thấy rằng, những công ty thông
báo chi cổ tức đặc biệt, tăng cổ tức thông thường và đề nghị mua lại cổ phần trước khi
xảy ra sự kiện thường có mức dòng tiền chưa phân phối cao hơn so với trung bình
ngành. Cuối cùng, tác giả xem xét mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi trong kỳ thông báo
với tỷ lệ tiền mặt và các đo lường về dòng tiền của công ty. Kết quả nghiên cứu cho
thấy rằng, tỷ suất sinh lợi xung quanh thông báo chi cổ tức đặc biệt không có quan hệ
với dòng tiền nhưng lại chịu tác động cùng chiều bởi tỷ lệ tiền mặt, đặc biệt tác động
này trở nên mạnh hơn đối với các công ty có cơ hội đầu tư tồi được thể hiện bởi hệ số
Tobin Q nhỏ hơn 1. Tỷ suất sinh lợi xung quanh thông báo tăng cổ tức thông thường
(có mức chi tiêu quỹ thấp hơn so với chia cổ tức đặc biệt) không có mối quan hệ với cả
dòng tiền và tỷ lệ tiền mặt. Cuối cùng, tỷ suất sinh lợi xung quanh thông báo đề nghị
mua lại cổ phần không chịu ảnh hưởng bởi dòng tiền nhưng chịu tác động từ tỷ lệ tiền
mặt và mối quan hệ đồng biến này trở nên mạnh hơn đối với các công ty có hệ số
17
Tobin Q thấp so với những công ty có hệ số Tobin Q cao. Những sự chi tiêu quỹ tăng
thêm lớn như chia cổ tức đặc biệt hay đề nghị mua lại cổ phần hạn chế một cách hiệu
quả sự đầu tư quá mức trong khi những sự chi tiêu quỹ tăng thêm ở mức nhỏ lại không
đưa ra được kết luận này.
Phần cuối trong bài nghiên cứu của tác giả là kiểm định xem các công ty có vấn
đề đại diện lớn do nguồn quỹ vượt mức trước khi có thông báo cổ tức có thực sự thu
được một tỷ suất sinh lợi trong kỳ thông báo cổ tức lớn hơn các công ty có chi phí đại
diện nhỏ hay không.
Đối với thông báo chia cổ tức đặc biệt, tác giả sử dụng mô hình hồi quy tỷ suất
sinh lợi trong giai đoạn thông báo với các ba biến kiểm soát bao gồm : cổ tức đặc biệt
chi cho giá thị trường của cổ phiếu, giá thị trường của cổ phiếu điều chỉnh và tỷ lệ chia
cổ tức. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, những công ty có cơ hội đầu tư thấp và nguồn
quỹ dư thừa đáng kể sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ việc chia cổ tức đặc biệt. Mô hình
hồi quy của tác giả còn sử dụng biến tương tác giữa dòng tiền và biến giả đại diện cho
hệ số Tobin Q nhỏ hơn 1 (Tobin Q thấp). Tác giả sử dụng biến Tobin Q đặc trưng cho
cơ hội đầu tư của công ty và nhưng công ty có Q nhỏ hơn một là những công ty có cơ
hội đầu tư tồi. Kết quả ướ lượng cho thấy rằng chỉ có hệ số của biến tỷ lệ cổ tức đặc
biệt trên giá thị trường là có ý nghĩa thống kê. Hệ số ước lượng của biến này là 0.176
và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, trong khi các biến còn lại đều không có ý nghĩa
thống kê.
Đối với thông báo tăng cổ tức thông thường, hệ số ước lượng của biến mức thay
đổi cổ tức chia cho giá thị trường có ý nghĩa thống kê ở mức 1% và có độ lớn gấp 15
lần so với hệ số ước lượng tương tự trong trường hợp chia cổ tức đặc biệt, điều này có
thể bởi vì bản chất thường xuyên của việc tăng cổ tức so với chia cổ tức đặc biệt.
Ngoài ra, hệ số hồi quy của biến tỷ lệ cổ tức cũng có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, nhất
quán với các nghiên cứu của Bajaj và Vijh (1990) và Denis, Denis và Sarin (1994).
18
Đối với thông báo đề nghị mua lại cổ phần, các biến kiểm soát được tác giả sử
dụng bao gồm tỷ lệ cổ phiếu được yêu cầu , phần bù đấu thầu, giá thị trường của cổ
phiếu được điều chỉnh và một biến giả có giá trị bằng 1 nếu đề nghị mua lại cổ phần có
dạng đấu thầu kiểu Hà Lan (Dutch aution). Nhất quán với bài nghiên cứu của
Comment và Jarrell (1991), biến kiểm soát có ý nghĩa thống kê nhất là phần bù đấ
thầu. Hệ số ước lượng của biến này là 0.54 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Tương
tự như kết quả trong trường hợp tăng cổ tức và chia cổ tức đặc biệt, hệ số ước lượng
của biến dòng tiền và biến tương tác với hệ số Tobin Q không có ý nghĩa thống kê.
Nhưng kết quả quan trọng nhất trong trường hợp này là hệ số ước lượng của biến
tương tác giữa tỷ lệ tiền mặt và hệ số Q thấp có ý nghĩa thống kê. Hệ số ước lượng của
biến này có giá trị 0.19 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Có thể kết luận rằng, tỷ suất
sinh lợi vượt trội ở kỳ thông báo đề nghị mua lại cổ phần và tỷ lệ tiền mặt có mối quan
hệ cùng chiều và mối quan hệ này mạnh hơn đối với các công ty có cơ hội đầu tư tồi.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu này cho thấy rằng quyết định chia cổ tức đặc biệt và
đề nghị mua lại cổ phần sẽ phản ứng vào giá cổ phiếu bởi vì nó làm giảm vấn đề chi
phí đại diện do tỷ lệ tiền mặt dư thừa quá mức. Cụ thể, phản ứng của thị trường chứng
khoán là rất thuận lợi nếu các công ty đang thông báo chia cổ tức đặc biệt và đề nghị
mua lại cổ phần có tỷ lệ tiền mặt lớn cùng với các cơ hội đầu tư tồi.
So với các nghiên cứu trước thì các nghiên cứu của Baker và Wurgler đã đưa ra
một cách tiếp cận tương đối mới trong việc giải thích vì sao công ty lại tiến hành chia
cổ tức. Theo các tác giả thì yếu tố tác động đến quyết định chi cổ tức của nhà quản trị
là nằm ở tâm lý nhà đầu tư trên thị trường. Nhà quản trị sẽ cố nắm bắt và nuông chiều
cảm xúc của nhà đầu tư về chi trả cổ tức để thực hiện các quyết định của mình.
Baker và Wurgler (2004a), bài nghiên cứu của các tác giả cho rằng quyết định
chi trả cổ tức của nhà quản trị được dẫn dắt bởi nhu cầu hiện tại của nhà đầu tư đối với
các công ty chi trả cổ tức. Các nhà quản trị nuông chiều nhà đầu tư bằng cách thực hiện
19
việc chi trả cổ tức khi các nhà đầu tư đặc một phần bù giá cổ phiếu lên các công ty chi
trả cổ tức và sẽ không thực hiện chi cổ tức nếu nhà đầu tư ưa thích việc không chi trả
cổ tức hơn. Để kiểm định giả thuyết này, các tác giả xây dựng bốn hệ số đo lường có
liên quan đến giá cổ phiếu để đại diện cho nhu cầu của nhà đầu tư đối với các công ty
chi trả cổ tức. Với từng hệ số đo lường, kết quả cho thấy các công ty không chi trả cổ
tức có xu hướng chi trả lần đầu khi nhu cầu của nhà đầu tư là cao. Một số đo lường cho
thấy rằng, các công ty chi trả cổ tức hướng tới việc bỏ chi trả cổ tức khi nhu cầu của
nhà đầu từ thấp. Thêm nhiều phân tích khác xác nhận rằng những kết quả nghiên cứu
này được giải thích phù hợp với lý thuyết nuông chiều nhà đầu hơn tư hơn là lý thuyết
cổ tức. Bài nghiên cứu này của các tác giả dựa trên 3 nội dung cơ bản sau. Thứ nhất, vì
các lý do tâm hoặc và định chế, một vài nhà đầu tư có một nhu cầu đồng nhất và có thể
thay đổi theo thời gian đối với cổ phiếu của những công ty chi trả cổ tức. Thứ hai, kinh
doanh chênh lệch giá thất bại trong việc giữ cho nhu cầu này dẫn dắt sự chiều hướng
của giá các công ty chi trả và không chi trả cổ phiếu. Thứ ba, nhà quản trị nuông chiều
một cách hợp lý nhu cầu của nhà đầu tư, họ chi trả cổ tức khi nhà đầu tư đặc mức giá
cao hơn cho các cổ phiếu chi trả cổ tức và không chi cổ tức khi nhà đầu tư ưa thích các
công ty không chia cổ tức hơn. Tác giả thực hiện nghiên cứu thực nghiệm của mình để
xem xét liệu rằng xu hướng chi trả cổ tức có phụ thuộc phần bù cổ tức (đôi khi là chiết
khấu) cho giá cổ phiếu hay không. Để kiểm định giả thuyết này, bài nghiên cứu đã sử
dụng 4 biến nghiên cứu thay đổi theo thời gian để đại diện cho yếu tố phần bù cổ tức.
Các tác giả trong bài nghiên cứu sử dụng mô hình lý thuyết (mô hình tĩnh) để lý
giải quyết định chi trả cổ tức của nhà quản lý. Mô hình lý thuyết này chỉ ra rằng nhà
quản trị sẽ chi trả cổ tức nếu phần bù cổ tức là dương và lớn hơn hiện giá của chi phí
dài hạn.
20
Dựa vào mô hình lý thuyết này, tác giả sẽ thực hiện nghiên cứu thực nghiệm
thông qua xây dựng biến đo lường mức chi trả cổ tức và các biến đại diện cho phần bù
cổ tức. Trong đó biến đại diện cho phần bù cổ tức phải có đặc tính thay đổi theo thời
gian dựa vào sự thay đổi trong nhu cầu của nhà đầu tư danh mục. Tác giả quan sát các
công ty theo năm, những công ty có mức cổ tức mỗi cổ phần dương trong ngày chia cổ
tức là những công ty chia cổ tức, trường hợp còn lại là những công ty không chia cổ
tức. Dựa vào dữ liệu này, tác giả tổng hợp những số liệu theo công ty trở thành số liệu
theo thời gian dựa vào 2 đo lường:
Payerst = New Payerst + Old Payerst + List Payerst,
Old Payerst = Payerst-1 – New Nonpayerst – Delist Payerst
Trong đó Payers là tổng số các công ty chi trả cổ tức, New Payers là số công ty
chia cổ tức lần đầu trong tổng số các công ty năm trước không chia cổ tức, Old Payers
là những công ty chi trả cổ tức mà năm trước cũng chi trả cổ tức. List Payer là những
công ty chi trả cổ tức năm nay nhưng không có trong mẫu nghiên cứu của năm trước.
New Nonpayers là những công ty không chi trả cổ tức năm nay trong số các công ty
chi trả cổ tức năm trước. Delist Payers là những công ty chi trả cổ tức năm trước nhưng
không có trong mẫu nghiên cứu của năm nay. Từ đó, tác giả xác định 3 biến nghiên
cứu đại diện cho mức chi trả cổ tức như sau:
21
Về mặt câu chữ, tỷ lệ chi trả cổ tức lần đầu initiate là tỷ lệ những công ty không
chi trả cổ tức trong năm trước còn lại trở thành những công ty chi trả cổ tức năm nay.
Tỷ lệ chi trả cổ tức tiếp tục continue là tỷ lệ những công ty những công ty chi trả cổ tức
cổ tức trong năm trước còn lại và tiếp tục chi trả cổ tức trong năm nay. Các biến nghiên
cứu này được sử dụng để nghiên cứu rằng liệu công ty có thực hiện quyết định cổ tức
hay không chứ không nằm để xác định mức độ chi trả cổ tức của công ty là bao nhiêu.
Tác giả sử dụng phương pháp này bởi một số lý do. Thứ nhất, có những biến phụ thuộc
tự nhiên trong lý thuyết mà dựa vào đó nhà đầu tư sẽ phân loại các cổ phiếu dựa vào
việc công ty đó có chi trả cổ tức hay không. Thứ hai, bởi vì vấn đề thực nghiệm, tỷ lệ
chi trả thì rất nhạy cảm với những thay đổi trong khả năng sinh lời và tỷ lệ cổ tức thì
rất nhạy cảm với những thay đổi của giá. Trong khi ngược lại điều này, quyết định chi
trả cổ tức lần đầu hay hủy bỏ chia cổ tức lúc nào cũng luôn là một quyết định mang
tính chính sách. Thứ ba, nghiên cứu của Fama và French (2001) cho thấy một sự suy
giảm trong số lượng những công ty chi trả cổ tức và không một mô hình có thể so sánh
nào dựa vào tỷ lệ chi trả.
22
Hình 2.9 : Thống kê 3 biến đo lƣờng mức chi trả cổ tức trong nghiên cứu của Baker và Wurgler (2004)
Một yếu tố quan trọng nữa trong bài nghiên cứu của Baker và Wurgler (2004) là
xây dựng biến phần bù cổ tức. Tác giả xây dựng mối quan hệ giữa các lựa cho chi trả
cổ tức với các đo lường về nhu cầu đồng nhất đối với cổ phiếu của các công ty chi trả
cổ tức dựa vào giá cổ phiếu trên thị trường. Về mặt khái niệm, các tác giả muốn đo
lường sự khác biệt trong giá thị trường của các công ty có cùng chính sách đầu tư
nhưng khác nhau về chính sách cổ tức. Dĩ nhiên, trong điều kiện lý tưởng và thị trường
hiệu quả của Miller và Modigliani (1961) thì sự khác biệt giá này bằng 0. Nhưng với
hạn chế về kinh doanh chênh lệch giá thì nhu cầu đồng nhất này của nhà đầu tư có thể
tác động đến sự khác biệt giá và sự khác biệt này có thể thay đổi theo thời gian. Đo
23
lường thứ nhất là sự khác biệt trong logarit bình quân hệ số giá thị trường trên giá sổ
sách (M/B) của nhóm chi trả và không chi trả cổ tức. Chỉ số giá thị trường trên giá sổ
sách được xây dựng dựa vào nghiên cứu của Fama và French (2001). Giá trị trung bình
của hai nhóm này có thể tính toán có trọng số hoặc không có trọng số. Đo lường thứ
hai là sự khác biệt trong giá của các cổ phiếu chi trả cổ tức bằng tiền mặt và chi trả cổ
tức bằng cổ phiếu được phân loại bởi Citizens Utilities. Đo lường thứ ba là tác động
thông báo bình quân trong lần chi trả cổ tức đầu tiên gần nhất. Đo lường cuối cùng là
sự khác biệt trong tỷ suất sinh lợi bình quân có trọng số giữa nhóm chi trả cổ tức và
không chi trả cổ tức.
Hình 2.10 : Đồ thị giá trị trung bình tỷ số giá thị trƣờng trên giá sổ sách của
nhóm chi trả và không chi trả cổ tức trong nghiên cứu của Baker và Wurgler
(2004)
24
Hình 2.11 : Đồ thị phần bù cổ tức (%) trong nghiên cứu của Baker và
Wurgler (2004)
Phần tiếp theo của bài nghiên cứu, tôi sẽ trình bày phần xây dựng dữ liệu nghiên
cứu và phương pháp nghiên cứu để dựa vào đây xây dựng mô hình nghiên cứu thực
nghiệm áp dụng cho dữ liệu các công ty chứng khoán trong nước niêm yết trên Sàn
Chứng Khoán Thành Phố Hồ Chí Minh (HOSE).
25
CHƢƠNG 3 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu
3.2.1. Mô hình Logistic Multinomial
Như đã trình bày ở phần trước, bài nghiên cứu này của tôi sẽ cố gắng lượng
hóa tác động của các biến phụ thuộc trong đó hai biến chính là phần bù mua lại cổ
phần (repurchase premium) và phần bù chi trả cổ tức (dividend premium) đến khả
năng thực hiện các quyết định chi trả (payout decision) của một công ty (bao gồm
quyết định mua lại cổ phần lần đầu, quyết định chia cổ tức lần đầu, quyết định mua
lại cổ phần tiếp tục, quyết định chi trả cổ tức tiếp tục, quyết định tăng chi trả cổ tức,
quyết định giảm chi trả cổ tức và các quyết định hỗn hợp khác). Với đặc điểm là
biến phụ thuộc có nhiều đặc tính, cụ thể trong bài nghiên cứu này tôi sử dụng biến
phụ thuộc có 11 thuộc tính đại diện cho 11 nhóm chính sách chi trả khác nhau. Mỗi
công ty có thể lựa chọn thực hiện 1 trong số 11 loại quyết định chi trả được liệt kê ở
phần trước) nên tôi sẽ sử dụng phương pháp ước lượng dành riêng cho biến phụ
thuộc có nhiều thuộc tính trong đó mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến độc
lập được mô tả dưới dạng hàm logistic.
Về mặt lý luận, mô hình với biến phụ thuộc có nhiều thuộc tính có thể được quy về
trường hợp biến nhị phân để tiến hành ước lượng. Giả sử biến phụ thuộc của mô
hình có K thuộc tính, thông qua việc sử dụng một thuộc tính làm giá trị tham chiếu,
chúng ta có thể xem xét các thuộc tính còn lại thông qua ước lượng K-1 phương
trình với biến phụ thuộc có dạng nhị phân (có giá trị bằng 1 nếu biến phụ thuộc có
thuộc tính i, bằng 0 nếu biến phụ thuộc có thuộc tính tham chiếu). Như vậy, bằng
phương pháp này chúng ta sẽ xử lý mô hình với biến phụ thuộc gồm K thuộc tính
trở thành mô hình với K-1 phương trình ước lượng trong đó biến phụ thuộc là nhị
phân.
26
Trong K-1 phương trình nhị phân này, chúng ta để sử dụng dạng hàm logistic để
mô tả mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập:
Với Zi= α+β.Xi
Khi đó: và tỷ số được gọi là tỷ số cơ hội
(odds ratio)
Ưu điểm lớn nhất của việc sử dụng mô hình này trong bài nghiên cứu của tôi là hạn
chế được các nhược điểm lớn từ trước đến giờ khi áp dụng phương pháp OLS để
hồi quy mô hình có biến phụ thuộc là định tính. Tương tự với mô hình logistic
trong trường hợp biến nhị phân, mô hình logistic cho biến phụ thuộc có nhiều thuộc
tính (11 thuộc tính) trong bài nghiên cứu của tôi cũng khắc phục được các hiện
tượng: phương sai thay đổi, phần dư không tuân theo phân phối chuẩn, giá trị xuất
suất ước lượng ở thể không nằm trong khoảng (0,1).
3.2.2. Mô hình Tobit
Một điểm quan trọng khác trong nghiên cứu này của tôi bên cạnh việc xác
định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đưa ra các quyết định chi trả của nhà quản
trị đó là đo lường mức độ tác động của các yếu tố đặc trưng công ty lên mức độ
mua lại cổ phần tương ứng. Mô hình nghiên cứu của tôi sử dụng biến tỷ lệ mua lại
cổ phần (repurchase fraction) đại diện cho mức độ mua lại cổ phần của công ty.
Cách đo lường biến tỷ lệ mua lại cổ phần được trình bày trong phần đo lường biến
ở phần dưới. Một điểm quan trọng trong việc đo lường biến tỷ lệ mua lại cổ phần
đó là việc bỏ qua những công ty trong đó có tỷ lệ mua lại cổ phần bằng 0 hay nói
27
cách khác, mô hình nghiên cứu này của tôi mẫu quan sát đã bị che khuất hay bị cắt
đi (censored or truncated). Và để ước lượng mô hình trong trường hợp này, tôi sử
dụng mô hình Tobit được phát triển bởi James Tobin. Khi đó, mẫu quan sát sẽ được
chia làm hai nhóm. Một nhóm bao (gồm n1 quan sát) trong đó cả biến phụ thuộc và
biến độc lập đều quan sát được, nhóm còn lại (gồm n2 quan sát) chỉ có biến độc lập
quan sát được còn biến phụ thuộc thì không.
Mô hình Tobit được diễn đạt như sau:
Nếu sử dụng phương pháp OLS để ước lượng cho n1 quan sát thì kết quả ước lượng
sẽ bị chệch và không nhất quán (biased and inconsistent). Các phương pháp được
sử dụng để ước lượng mô hình Tobit (bao gồm n1+n2 quan sát) bao gồm maximum
likelihood (ML) và phương pháp Heckman 2 bước. Bước 1, mô hình sẽ tiến hành
ước lượng xác suất xảy ra sự kiện (Yi=1) dựa vào mô hình Probit. Bước 2, phương
pháp này sẽ tiến hành ước lượng mô hình ở trên và thêm vào vế bên phải một biến
độc lập thu được từ phương trình ước lượng ở bước 1.
3.2. Dữ liệ u nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu của tôi bao gồm 1382 quan sát với 278 công ty niêm yết trên Sàn
Giao Dịch Chứng Khoán Thành Phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2008-2014 (dữ liệu
dạng bảng không đối xứng). Dựa vào bài nghiên cứu của Baker và Wurgler (2004) và
Fama và French (2004), tôi thu thập các dữ liệu cần thiết để tính toán các biến trong
mô hình nghiên cứu của mình bao gồm tổng tài sản (total asset), giá cổ phiếu (stock
price), số lượng cổ phiếu đang lưu hành (shares outstanding) tại thời điểm cuối năm tài
khóa, doanh thu trước khi trừ đi các khoản giảm trừ, chi phí lãi vay, cổ tức mỗi cổ phần
tại ngày chia cổ tức, cổ tức ưu đãi. Ngoài ra còn có các dữ liệu khác như vốn chủ sở
hữu, tổng nợ. Số liệu về kế toán được thu thập và tổng hợp trên báo cáo tài chính năm
28
của công ty trong khi số liệu về giá chứng khoán sử dụng giá đóng cửa của cổ phiếu
được giao dịch trên Sàn Giao Dịch Chứng Khoán Thành Phố Hồ Chí Minh.
3.2.1. Đo lường biế n tỷ lệ mua lạ i cổ phầ n
Để đo lường số lượng cổ phần được mua lại trong bài nghiên cứu này tôi thực
hiên tương tự như các nghiên cứu của Stephens và Weisbach (1998), Jaganathan,
Stephens, và Weisbach (2000). Cụ thể, tôi ước lượng tỷ lệ mua lại cổ phần (repurchase
fraction) theo công thức
trong đó Δshroutm đo lường sự thay đổi trong số lượng cổ phần đang lưu hành từ
thời điểm cuối tháng m-1 đến tháng m trong năm t sau khi điều chỉnh các hoạt động
chia tách hoặc phát hành cổ phần mới và shrout0 là số lượng cổ phần đang lưu hành tại
thời điểm cuối năm t-1. Do đó, khi số lượng cổ phiếu đang lưu hành từ tháng m-1 tới
tháng m giảm xuống thì công ty có sự mua lại cổ phần. Một số bài nghiên cứu khác của
các tác giả Stephens và Weisbach (1998), Dittmar (2000), Grullon và Michaely (2002),
Jaganathan, Stephens và Weisbach (2000), Baker và Wurgler (2004a), Lie (2005c), và
Li và Lie (2006) về các công ty trên thị trường chứng khoán Mỹ sử dụng dữ liệu trong
mục 115 của cơ sở dữ liệu Compustat (“purchases of common and preferred stock”) để
đo lường cho biến mua lại cổ phiếu. Tuy nhiên, đối với mẫu nghiên cứu là các công ty
trong nước thì tôi sử dụng phương pháp đo lường đầu tiên để tính toán cho biến tỷ lệ
mua lại cổ phần. Tôi điều chỉnh công thức trên cho phù hợp với dữ liệu nghiên cứu
trong nước, sử dụng sự thay đổi số lượng cổ phần đang lưu hành hàng quý để xác định
tỷ lệ mua lại cổ phần (bởi vì các số liệu dùng để tính toàn hầu hết chỉ có thể thu thập
theo quý).
29
3.2.2. Mua lạ i cổ phầ n lầ n đầ u và mua lạ i cổ phầ n tiế p tục
Bảng 3.2.1 và bảng 3.2.2 thống kê tỷ lệ mua lại cổ phần lần đầu và mua lại cổ
phần tiếp tục hàng năm từ 2008 đến 2014. Trong đó, tỷ lệ mua lại cổ phần lần đầu
(repurchase initiations) được định nghĩa là số công ty mới mua lại cổ phần (new
repurchasers-NR) chia cho số công ty trong quá khứ không mua lại cổ phần (past
nonrepurchasers-PNR). Tỷ lệ mua lại cổ phần tiếp tục (repurchase continuations) được
tính bằng số công ty tiếp tục mua lại cổ phần chia cho số công ty đã mua cổ phần trong
quá khứ. Công ty mới mua lại cổ phần và công ty trong quá khứ không mua lại cổ phần
được định nghĩa theo 3 cách khác nhau (k=1, k=2, k=3). Đối với trường hợp k=1, các
công ty mới (tiếp tục) mua lại cổ phần là những công ty mua lại cổ phần trong năm t
mà không mua (mua) lại cổ phần trong năm t-1. Trường hợp k=2, công ty mới (tiếp
tục) mua lại cổ phần là công ty mua lại cổ phần trong năm t mà không mua (mua) lại
cổ phần trong năm t-1, t-2 và t-3. Trường hợp k=3, công ty mới (tiếp tục) mua lại cổ
phần là công ty mua lại cổ phần trong năm t, t+1, t+2 nhưng không mua (mua) lại cổ
phần trong các năm t-1, t-2, t-3. Mặc dù có nhiều phương pháp để xác định đâu là công
ty lần đầu mua lại cổ phần và đâu là công ty tiếp tục mua lại cổ phần nhưng trong bài
nghiên cứu này tôi chỉ áp dụng trường hợp k=1và k=2, điều này được lý giải bởi giai
đoạn nghiên cứu quá ngắn, khi sử dụng phương pháp xác định hình thức mua lại cổ
phần theo k=3 thì dữ liệu công ty phải lùi về sau 3 năm, do đó làm thời gian nghiên
cứu bị thu hẹp lại đáng kể. Đây là cũng một trong những hạn chế lớn của bài nghiên
cứu khi số liệu không thể đáp ứng cả 3 phương pháp như bài nghiên cứu gốc của các
tác giả.
Bảng 3.2.1, đối với trường hợp k=1, ta thấy tỷ lệ mua lại cổ phần lần đầu giảm
qua các năm. Năm 2008, tỷ lệ mua lại cổ phần lần đầu là 45.45% giảm dần qua các
năm và còn 4.62% vào năm 2014. Tương tự đối với trường hợp k=2, tỷ lệ mua lại cổ
phần lần đầu năm 2008 là 42.86% giảm dần qua các năm và còn 4.52% trong năm
30
2014. Điều đó được lý giải bởi xu hướng của số lượng các công ty quá khứ không mua
lại cổ phần và số lượng công ty mới mua lại cổ phần. Từ năm 2008 đến 2014, khi số
lượng các công ty trong mẫu nghiên cứu tăng lên đáng kể thì số lượng các công ty mới
mua lại cổ phần là không tăng lên nhiều mặc dù số lượng công ty quá khứ không mua
lại cổ phần tăng lên khá đáng kể. Điều này khiến cho tỷ lệ mua lại cổ phần lần đầu
giảm đi rất nhanh từ năm 2008 đến 2014. Dựa vào bảng 3.2.2, ta thấy một xu hướng
ngược lại của tỷ lệ tiếp tục mua lại cổ phần so với tỷ lệ mua lại cổ phần lần đầu. Khi
k=1, ta thấy qua các năm tỷ lệ tiếp tục mua lại cổ phần vẫn ổn định ở mức xấp xỉ 30%,
trong đó tỷ lệ đạt giá trị cao nhất vào năm 2011 (46.88%) và thấp nhất vào năm 2014
(26.32%), mặc dù có sự thay đổi qua các năm nhưng mức biến động là rất thấp (xấp xỉ
7%). Điều này được lý giải bởi sự ổn định trong số lượng công ty tiếp tục mua lại cổ
phần và công ty trong quá khứ mua lại cổ phần bất chấp sự thay đổi trong số lượng
công ty trên thị trường. Từ đó có thể thấy rằng, chính sách mua lại cổ phần là một
chính sách chi trả được thực hiện ổn định bởi các công ty.
31
Bảng 3.2.1: Tỷ lệ mua lại cổ phần lần đầu giai đoạn 2008-2014
Bảng 3.2.1
Công ty mới mua lại Công ty quá khứ Tỷ lệ mua lại cổ phần
cổ phần không mua lại cổ phần lần đầu (%) Năm
K=1 K=2 K=1 K=2 K=1 K=2
2008 10 9 21 45.45 42.86 22
2009 7 6 46 13.73 13.04 51
2010 16 7 58 17.58 11.86 91
2011 31 16 83 24.21 19.28 128
2012 11 7 138 6.74 5.07 170
2013 9 6 165 3.98 3.64 226
2014 11 8 177 4.62 4.52 238
Bảng 3.2.2: Tỷ lệ tiếp tục mua lại cổ phần giai đoạn 2008-2014
Bảng 3.2.2
Công ty tiếp tục mua Công ty quá khứ mua Tỷ lệ tiếp tục mua lại
lại cổ phần lại cổ phần cổ phần (%) Năm
K=1 K=2 K=1 K=2 K=1 K=2
2008 0 0 0 0
32
11 0 2009 1 36.67 0 31
8 1 2010 1 30.77 1 26
15 5 2011 10 46.88 0.5 32
20 5 2012 7 33.33 71.43 60
11 3 2013 7 33.33 42.86 33
5 2 2014 4 26.32 0.5 19
3.2.3. Phầ n bù mua lạ i cổ phầ n (repurchase premium)
Bảng 3.2.3 trình bày giá trị phần bù mua lại cổ phần từ năm 2008 đến 2014.
Trong bài nghiên cứu này, tôi sử dụng định nghĩa phần bù mua lại cổ phần theo bài
nghiên cứu của Zhan Jiang (2012), theo đó phần bù mua lại cổ phần (ký hiệu
Rep_premt) được định nghĩa là sự chêch lệch giữa chỉ số M/B bình quân theo trọng số
giá trị sổ sách của nhóm mua lại cổ phần thường xuyên (frequent repurchasers) với chỉ
số M/B bình quân theo trọng số giá trị sổ sách của nhóm mua lại cổ phần không EW được định nghĩa là thường xuyên (nonfrequent repurchasers). Tương tự, Rep_premt
sự chêch lệch giữa chỉ số M/B bình quân không trọng số của nhóm mua lại cổ phần
thường xuyên (frequent repurchasers) với chỉ số M/B bình quân không trọng số của
nhóm mua lại cổ phần không thường xuyên (nonfrequent repurchasers).
Trong đó tỷ số M/B được xác định bằng giá trị thị trường (tính bằng số lượng cổ
phiếu đang lưu hành nhân với giá cổ phiếu) chia cho giá trị sổ sách (chính bằng giá trị
vốn cổ phần trên báo cáo tài chính).
33
Bảng 3.2.3: Thống kê giá trị phần bù mua lại cổ phần từ năm 2008 đến 2014
Không thường Thường xuyên Phần bù mua lại cổ phần xuyên
Năm Phần bù mua BVW BVW Phần bù mua lại cổ phần N N M/B M/B lại cổ phần chuẩn tắc
109.73 79 473.91 -1.463 -2.104 2008 1
2988.4 116 631.06 1.555 0.579 2009 1
2010 10 1320.93 146 744.39 0.574 -0.294
2874.4 214 734.58 1.364 0.409 2011 7
3128.65 244 701.19 1.496 0.526 2012 7
4932.25 255 776.53 1.849 0.841 2013 3
2383.38 252 9920.22 0.955 0.043 2014 3
Trong bảng 3.2.3, cột thứ hai và thứ ba trình bày lần lượt số lượng công ty mua
lại cổ phần thường xuyên và giá trị M/B bình quân theo trọng số giá trị sổ sách của
nhóm này trong khi cột bốn và cột 5 trình bày số lượng công ty mua lại cổ phần không
thường xuyên và giá trị M/B bình quân theo trọng số giá trị sổ sách tương ứng. Có thể
dễ dàng nhận thấy rằng số lượng công ty thực hiện quyết định mua lại cổ phần không
quá nhiều trong giai đoạn 2008-2014 (tối đa là 10 công ty vào năm 2010), điều này cho
thấy đây không phải là một quyết định cổ tức quá đặc trưng của các công ty niêm yết
trên Sàn Chứng Khoán Thành Phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, điều này không ảnh
hưởng kết quả của bài nghiên cứu. Nếu so sánh với bài nghiên cứu gốc của tác giả khi
34
thực hiện thu thập dữ liệu trên sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE) thì số
liệu thống kê ở bảng trên hoàn toàn hợp lý. Tỷ lệ số công ty mua lại cổ phần thường
xuyên ở thị trường chứng khoàn Mỹ chỉ chiếm khoản 1.1% trong 15 năm từ 1963 đến
1978 (giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán Mỹ) trong khi tỷ lệ này ở thị trường
trong nước giai đoạn 2008-1014 là 2.6%. Điều này thể hiện sự hợp lý trong số liệu về
số lượng công ty mua lại cổ phần thường xuyên đang niêm yết trên Sàn Giai Dịch
Chứng Khoàn Thành Phố Hồ Chí Minh. Hai cột cuối cùng của bảng 3.2.3 trình bày giá
trị phần bù mua lại cổ phần được tính toán dựa vào sự chênh lệch giá trị M/B bình
quân theo trọng số giá trị sổ sách của hai nhóm mua lại cổ phần thường xuyên và mua
lại cổ phần không thường xuyên. Giá trị này có dấu dương ở hầu hết các năm (chỉ trừ
năm 2008 có giá trị âm) cho thấy rằng giá trị M/B bình quân của nhóm mua lại cổ phần
thường xuyên đa phần lớn hơn so với giá trị M/B bình quân của nhóm mua lại cổ phần
không thường xuyên. Điều này có thể cho chúng ta những suy đoán ban đầu về sự tác
động của giá trị M/B bình quân lên quyết định cổ tức của các công ty và nếu chung ta
đặt quyết định mua lại cổ tức của một nhóm nào đó làm cơ sở thì giá trị phần bù mua
lại cổ phần có thể sẽ tác động đến quyết định mua lại cổ phần của các công ty.
35
Bảng 3.2.4: Thống kê giá trị phần bù mua lại cổ phần theo phƣơng pháp
không trọng số giai đoạn 2008 – 2014
Không thường Phần bù mua lại cổ phần Thường xuyên xuyên không trọng số
Phần bù mua Phần bù mua Năm
lại cổ phần lại cổ phần N EW M/B N EW M/B không trọng không trọng
số số chuẩn tắc
181.72 79 595.38 -1.187 -2.17 2008 1
788.21 116 482.05 0.492 0.062 2009 1
2010 10 1205.39 146 706.33 0.534 0.119
0.591 3447.47 214 1417.22 0.889 2011 7
0.524 2948.91 244 1274.31 0.839 2012 7
0.803 3235.09 255 1133.63 1.049 2013 3
1699.31 252 1033.51 0.497 0.07 2014 3
Trong bảng 3.2.4, cột hai và cột ba trình bày số lượng các công ty mua lại cổ
phần thường xuyên và giá trị M/B bình quân theo trọng số giá trị sổ sách của nhóm
này. Cột bốn và cột năm trình bày các giá trị tương tự của nhóm mua lại cổ phần không
thường xuyên. Hai cột còn lại trong bảng trình bày giá trị phần bù mua lại cổ phần
được tính theo phương pháp bình quân không trọng số và giá trị chuẩn tác của nó. So
36
sánh giá trị phần bù mua lại cổ phần của cả hai phương pháp ta có thể nhận thấy dấu
của phần bù mua lại cổ phần ở các năm đều giống nhau. Phần bù mua lại cổ phần có
giá trị dương ở hầu hết các năm ngoại trừ năm 2008. Phần bù mua lại cổ phần tính theo
phương pháp bình quân không trọng số ở các năm đều nhỏ hơn so với phần bù mua lại
cổ phần tính theo phương pháp bình quân theo trọng số giá trị sổ sách, ngoại trừ năm
2008. Điều này có thể giải thích được bởi tỷ trọng giá trị sổ sách của các công ty có
M/B lớn là lớn hơn rất nhiều so với tỷ trọng giá trị sổ sách của các công ty có M/B nhỏ.
Mức độ giảm của phần bù mua lại cổ phần ở các năm giao động xung quanh mức 40%.
Đều này cho thấy rằng, việc sử dụng số liệu phần bù mua lại cổ phần được tính theo
phương pháp nào cũng ảnh hưởng quá lớn đến kết quả nghiên cứu của mô hình.
3.2.4. Phầ n bù chi trả cổ tức
Đối với việc tính toán biến phù chi trả cổ tức, tôi áp dụng phương pháp tính
tương tự đối với phần bù mua lại cổ phần như trong nghiên cứu của Baker và Wurgler
(2004). Tôi phân loại các công ty trong mỗi năm thành nhóm các công ty chi trả cổ tức
(Dividend payer – những công ty có mức chi trả cổ tức tại ngày chi trả năm t-1 dương)
và các công ty không chi trả cổ tức (Nondividend payer – những công ty có mức chi trả
cổ tức tại ngày chi trả năm t-1 âm hoặc bằng 0). Khi đó, giá trị phần bù cổ tức sẽ được
đo bằng mức độ chênh lệch trong tỷ số M/B trung bình của hai nhóm này. Giá trị M/B
trung bình của mỗi nhóm có thể được tính theo phương pháp có trọng số hoặc không
trọng số. Giá trị phần bù cổ tức này trong bài nghiên cứu của tôi sẽ được chuẩn hóa có
trung bình bằng 0 và phương sai bằng 1. Bảng 3.2.5 thống kê giá trị phần bù cổ tức và
phần bủ cổ tức chuẩn hóa qua các năm.
37
Bảng 3.2.5: Thống kê giá trị phần bù cổ tức và phần bù cổ tức chuẩn hóa
giai đoạn 2008-2014
Phần bù cổ tức (theo Phần bù cổ tức chuẩn tắc Năm phương pháp có trọng số)
-0.372 -0.306 2008
0.626 0.04 2009
0.855 0.119 2010
0.489 -0.008 2011
-1.052 -0.542 2012
-1.358 -0.649 2013
-1.213 -0.598 2014
38
3.2.5. Thống kê mô tả dữ liệ u nghiên cứu
Bảng 3.2.6 : Thống kê các nhóm quyết định cổ tức
Nhóm Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Mua lại cổ phần lần đầu 13 1.02
2 Chia cổ tức lần đầu 82 6.43
3 Mua lại cổ phần và chia cổ tức lần đầu 11 0.86
4 Tiếp tục mua lại cổ phần 2 0.16
5 Tăng cổ tức 401 31.45
6 Tiếp tục chia cổ tức 9 0.71
7 Giảm cổ tức 448 35.14
8 Tiếp tục mua lại cổ phần và tăng cổ tức 35 2.75
9 Tiếp tục mua lại cổ phần và chia cổ tức 0 0
10 Tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức 31 2.43
11 Nhóm còn lại 243 19.06
Tổng cộng 1275 100
Tương tự như bài nghiên cứu gốc của Zang Jiang (2010), tôi chia dữ liệu về chính
sách chi trả thành 11 nhóm dựa vào quyết định mua lại cổ phần và quyết định chia cổ
tức khác nhau. Bài nghiên cứu sẽ phân loại dựa trên sự kết hợp hai quyết định trên của
mỗi công ty. Cụ thể dữ liệu được chia thành 11 nhóm như sau: (1) mua lại cổ phần lần
đầu (mua lại cổ phần ở năm t nhưng không mua lại cổ phần ở năm t-1), (2) chia cổ tức
39
lần đầu (chia cổ tức ở năm t nhưng không chia vào năm t-1), (3) mua lại cổ phần và
chia cổ tức lần đầu, (4) tiếp tục mua lại cổ phần, (5) tăng cổ tức (cổ tức trong năm t
được chia nhiều hơn so với năm t-1), (6) tiếp tục chia cổ tức (cổ tức trong năm t được
chia bằng với cổ tức năm t-1), (7) giảm cổ tức (cổ tức trong năm t được chia thấp hơn
cổ tức năm t-1), (8) tiếp tục mua lại cổ phần và tăng cổ tức, (9) tiếp tục mua lại cổ phần
và tiếp tục chia cổ tức, (10) tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức, (11) nhóm còn lại
. Bảng 4.1 trình bày cụ thể về 11 nhóm cũng như số lượng và tỷ lệ của từng nhóm.
Chúng ta có thể thấy rằng, số lượng các công ty thuộc nhóm chính sách giảm cổ tức
chiếm số lượng lớn nhất với 448 công ty (chiếm 35.14%), nhóm tăng cổ tức cũng
chiếm tỷ lệ lớn với 401 công ty (chiếm 31.45%) trong khi không có công ty nào thuộc
nhóm tiếp tục mua lại cổ phần và chia cổ tức.
40
Bảng 3.2.7: Thống kê mô tả các biến nghiên cứu
Mua lại cổ phần lần đầu Chia cổ tức lần đầu Mua lại cổ phần và chia cổ tức lần đầu
Mean Std Mean Std Mean Std
0.00 0.00 0.0101 0.0099 Repurchase fraction 0.0496 0.1127
Cash 0.0803 0.0320 0.0474 0.0254 0.0314 0.0611
Cashflow 0.0516 0.0543 0.0936 0.0417 0.0334 0.0448
Mkbk 0.2344 0.5028 0.4857 0.3156 0.1700 0.4192
Payout 0.00 0.0012 0.0035 0.0117 0.0355 0.00
Lnasst 7.3508 1.4005 6.9601 1.1989 7.4474 1.1940
Return -0.1361 0.6535 0.017 0.5526 -0.2357 0.2695
Lever 0.1923 0.5011 0.2029 0.5227 0.2306 0.5582
0.1312 Systematic 0.1768 0.0644 0.1209 0.0666 0.1393
Idiosyncratic 0.1396 0.1595 0.0745 0.9471 -0.3255 1.1987
41
Tăng cổ tức Giảm cố tức Tiếp tục mua lại cổ phần Tiếp tục chia cổ tức
Mean 0.0234 Std Mean 0.00 0.0326 Std 0.00 Mean 0.00 Std 0.00 Mean 0.00 Std 0.00 Repurchase fraction
Cash 0.0105 0.0057 0.0481 0.0519 0.0608 0.0452 0.0409 0.0466
Cashflow -0.0472 0.0778 0.1007 0.0929 0.0569 0.0241 0.0599 0.0896
Mkbk 0.2909 0.0646 0.6264 0.5206 0.4174 0.2359 0.5324 0.4986
Payout 0.00 0.00 0.0031 0.0286 0.0006 0.0003 0.001 0.0109
Lnasst 8.2872 1.1666 6.8412 1.0807 6.8895 0.8199 6.9067 1.1302
Return -0.0455 0.4076 -0.0123 0.4504 -0.0529 0.5206 -0.0485 0.5549
Lever 0.3989 0.0656 0.464 0.2079 0.57 0.1246 0.4944 0.211
Systematic 0.0062 0.0013 0.0888 0.3524 0.7934 2.179 0.0517 0.1121
Idiosyncratic 0.6249 0.3049 0.1429 0.7123 0.8039 2.1734 0.0623 0.1045
42
Nhóm còn lại
Tiếp tục mua lại cổ phần và tăng cổ tức Mean Std Tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức Mean Std Repurchase fraction 0.0128 0.0195 0.0136 0.0169 Mean 0.0114 Std 0.0274
Cash 0.0586 0.0593 0.0395 0.0396 0.0372 0.0519
Cashflow 0.1143 0.0829 0.1173 0.1157 0.0466 0.0824
Mkbk 0.67 0.4691 0.6670 0.5012 0.4437 0.3869
Payout 0.0008 0.0011 0.001 0.0035 0.0003 0.0016
Lnasst 7.3467 1.4192 7.2199 1.2688 6.6966 1.0996
Return -0.0484 0.477 -0.0802 0.3417 -0.0598 0.4441
Lever 0.4562 0.1796 0.4182 0.2186 0.4704 0.2201
Systematic 0.0411 0.0861 0.0556 0.1368 0.0492 0.1084
Idiosyncratic 0.0524 0.0781 0.0638 0.1291 0.0629 0.0982
43
Bảng 3.2.7 báo cáo giá trị trung bình và độ lệch chuẩn các biến nghiên cứu của 10
nhóm chính sách chi trả (bỏ qua nhóm tiếp tục mua lại cổ phần và chia cổ tức như
trong bài nghiên cứu gốc của tác giả vì không có công ty nào ở mẫu nghiên cứu này
thuộc nhóm trên) bao gồm: mua lại cổ phần lần đầu, chia cổ tức lần đầu, mua lại cổ
phần và chia cổ tức lần đầu, tiếp tục mua lại cổ phần, tăng chia cổ tức, tiếp tục chia cổ
tức, giảm chia cổ tức, tiếp tục mua lại cổ phần và tăng chia cổ tức, tiếp tục mua lại cổ
phần và giảm chia cổ tức, nhóm còn lại. Trong đó, các biến được tính toán như sau:
biến tiền mặt (cash) đo bằng tiền mặt chia tổng tài sản cuối kỳ. Biến dòng tiền
(cashflow) đo bằng doanh thu thuần chia tổng tài sản. Biến Mkbk đo bằng giá thị
trường chia cho tổng tài sản. Biến chi trả cổ tức (payout) đo bằng cổ tức mỗi cổ phần
chia cho thu nhập mỗi cổ phần. Biến tổng tài sản (Lnasst) đo bằng logarit tổng tài sản.
Biến tỷ suất sinh lợi (return) đo bằng tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu trong kỳ sau khi điều
chỉnh tỷ suất sinh lợi thị trường. Biến đòn bẩy (lever) đo bằng tổng nợ chia tổng tài
sản, trong đó tổng nợ được xác định bằng tổng nợ dài hạn và nợ ngắn hạn.
Tôi sử dụng mô hình hồi quy tỷ suất sinh lợi hàng ngày của mỗi cổ phiếu lên tỷ
suất sinh lợi thị trường để xác định hai biến rủi ro hệ thống (systematic) và rủi ro riêng
lẽ (idiosyncratic). Trong đó, tỷ suất sinh lợi thị trường đo lường bằng sự thay đổi trong
giá của chỉ số Vn-Index. Biến rủi ro hệ thống (systematic) được đo bằng độ lệch chuẩn
của giá trị biến phụ thuộc được ước lượng (fitted value) còn biến rủi ro riêng lẽ
(idiosyncratic) được đo bằng độ lệch chuẩn của giá trị phần dư (residual).
Dựa vào bảng 3.2.7, nhìn chung ta có thể so sánh các biến trong nhóm mua lại cổ
phần lần đầu và tiếp tục mua lại cổ phần (cả hai đều thuộc nhóm mua lại cổ phần) như
sau: các công ty mua lại cổ phần lần đầu có giá trị trung bình của tiền mặt (cash), dòng
tiền (cashflow), tỷ lệ M/B, tỷ lệ đòn bẩy (lever), rủi ro hệ thống (systematic) lớn hơn so
với các công ty tiếp tục mua lại cổ phần trong khi giá trị trung bình của tổng tài sản
(lnasst), rủi ro riêng rẽ (idiosyncratic) thì nhỏ hơn.
44
0.8
2.5
0.6
2
0.4
1.5
0.2
1
0
0.5
-0.2
-0.4
0
cash
cashflow
return
mkbk
lever
0.05
0.12
0.045
0.1
0.04
0.035
0.08
0.03
0.025
0.06
0.02
0.04
0.015
0.01
0.02
0.005
0
0
systematic
idiosyncratic
repurchase fraction
Hình 3.4.2: Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2008
Nguồn: Theo tính toán của tác giả
45
0.7
4
0.6
3.5
0.5
3
0.4
2.5
0.3
2
0.2
1.5
0.1
1
0
0.5
-0.1
-0.2
0
cash
cashflow
mkbk
lever
0.06
0.06
0.05
0.05
0.04
0.04
0.03
0.03
0.02
0.02
0.01
0.01
0
0
systematic
idiosyncratic
repurchase fraction
Hình 3.4.3: Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2009
Nguồn: Theo tính toán của tác giả
46
1.5
3
2.5
1
2
0.5
1.5
0
1
-0.5
0.5
-1
0
cash
cashflow
return
mkbk
lever
0.45
1.4
0.4
1.2
0.35
1
0.3
0.8
0.25
0.2
0.6
0.15
0.4
0.1
0.2
0.05
0
0
repurchase fraction
systematic
idiosyncratic
Hình 3.4.4 : Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2010
Nguồn: Theo tính toán của tác giả
47
0.06
0.8
0.6
0.05
0.4
0.04
0.2
0.03
0
-0.2
0.02
-0.4
0.01
-0.6
0
-0.8
systematic
idiosyncratic
cash
cashflow
return
0.25
2
1.8
0.2
1.6
1.4
0.15
1.2
1
0.1
0.8
0.6
0.05
0.4
0.2
0
0
repurchase fraction
mkbk
lever
Hình 3.4.5 : Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2011
Nguồn: Theo tính toán của tác giả
48
0.09
2
0.08
1.5
0.07
1
0.06
0.5
0.05
0.04
0
0.03
-0.5
0.02
-1
0.01
0
-1.5
repurchase fraction
cash
cashflow
return
0.05
4
0.045
3.5
0.04
3
0.035
2.5
0.03
0.025
2
0.02
1.5
0.015
1
0.01
0.5
0.005
0
0
systematic
idiosyncratic
mkbk
lever
Hình 3.4.6 : Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2012
Nguồn: Theo tính toán của tác giả
49
0.05
3
0.045
2.5
0.04
2
0.035
1.5
0.03
1
0.025
0.5
0.02
0
0.015
-0.5
0.01
-1
0.005
0
-1.5
repurchase fraction
cash
cashflow
return
0.05
3.5
0.045
3
0.04
2.5
0.035
0.03
2
0.025
1.5
0.02
0.015
1
0.01
0.5
0.005
0
0
systematic
idiosyncratic
mkbk
lever
Hình 3.4.7 : Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2013
Nguồn: Theo tính toán của tác giả
50
0.12
4
3.5
0.1
3
2.5
0.08
2
1.5
0.06
1
0.5
0.04
0
-0.5
0.02
-1
0
-1.5
repurchase fraction
cash
cashflow
return
0.16
3.5
0.14
3
0.12
2.5
0.1
2
0.08
1.5
0.06
1
0.04
0.5
0.02
0
0
systematic
idiosyncratic
mkbk
lever
Hình 3.4.8 : Đồ thị các biến nghiên cứu năm 2014
Nguồn: Theo tính toán của tác giả
51
CHƢƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
4.1. Các yế u tố tác động đế n chính sách chi trả cổ tức, mua lạ i cổ
phầ n
Bài nghiên cứu này sẽ xây dựng mô hình để kiểm định liệu rằng xác suất của
quyết định mua lại cổ phần và chi trả cổ tức có chịu ảnh hưởng bởi phần bù mua lại cổ
phần và phần bù cổ tức hay không. Để thực hiện được điều này, mô hình hồi quy
logistic với biến phụ thuộc có nhiều thuộc tính (multinomial logistic regression) sẽ
được sử dụng. Trong mô hình này, hai biến phụ thuộc chủ chốt là phần bù mua lại cổ
phần (ký hiệu rep_pre) và phần bù cổ tức (div_pre). Theo nghiên cứu của Baker và
Wurgler (2004), biến phần bù cổ tức được định nghĩa là sự chêch lệch giữa giá trị M/B
bình quân theo trọng số giá trị sổ sách của nhóm công ty chi trả cổ tức (dividend
payers, là những công ty có giá trị cổ tức trên mỗi cổ phần dương vào ngày chia cổ tức
trong năm) và giá trị M/B bình quân theo trọng số giá trị sổ sách của nhóm công ty
không chi trả cổ tức (nondividend payers, là những công ty có giá trị cổ tức trên mỗi cổ
phần không dương vào ngày chia cổ tức trong năm). Cả hai giá trị bình quân này sẽ
được lấy logarit trước khi xác định chêch lệch. Giá trị chêch lệch sẽ được chuẩn tắc
thành biến có giá trị trung bình bằng 0 và phương sai bằng 1. Các biến kiểm soát còn
lại trong mô hình được mô tả trong bảng 3.4.2.
52
Tăng cổ tức (5)
Giảm cổ tức (6)
Mua lại cổ phần lần đầu (1)
Chia cổ tức lần đầu (2)
Tiếp tục mua lại cổ phần (3)
Tiếp tục chia cổ tức (4)
Bảng 4.1.1: Kết quả hồi quy mô hình Logit
Tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức (8) 8.474 (2.41)** 5.606 (1.62) -0.521 (0.82)
Tiếp tục mua lại cổ phần và tăng cổ tức (9) 4.046 (1.08) 13.864 (4.49)*** -0.896 (1.45)
-1.161 (0.29) 2.797 (1.10) -0.229 (0.45) -334.218 (1.85)* 0.213 (1.41) 0.147 (0.38) 0.242 (0.27) 9.329 (0.66) -11.266 (0.73) -0.150 (0.62) -0.031 (0.15)
13.442 (0.40) 13.794 (0.52) -6.928 (0.94) -1,631.11 (0.63) 4.199 (1.30) -21.125 (1.28) -19.309 (1.17) -0.804 (0.01) 5.913 (0.06) -0.104 (0.04) -1.133 (0.71)
Mua lại cổ phần lần đầu và chia cổ tức (7) -14.454 (0.71) 9.252 (1.11) -0.770 (0.48) -475.413 (1.05) 0.358 (0.88) -4.093 (2.23)** -1.106 (0.40) 70.487 (1.25) -73.110 (1.25) 1.616 (0.52) 0.820 (0.99)
2.981 (1.30) 7.789 (4.58)*** -0.226 (0.76) 112.466 (0.63) 0.208 (2.06)** 0.508 (2.09)** 0.389 (0.66) -2.708 (0.36) 2.905 (0.37) 0.033 (0.21) 0.170 (1.32)
2.530 (1.10) 6.358 (3.78)*** -0.456 (1.47) 931.669 (5.30)*** 0.183 (1.82)* 0.277 (1.13) 0.648 (1.12) -0.506 (0.06) -2.643 (0.29) -0.282 (1.96)* -0.003 (0.02)
12.781 (2.92)*** 5.746 (0.83) -0.735 (0.49) 883.008 (3.78)*** 0.219 (0.56) 0.073 (0.08) 2.636 (1.05) -16.796 (0.77) 17.118 (0.78) -0.171 (0.39) -0.023 (0.05)
-26.157 (1.15) -2.452 (0.37) -0.324 (0.26) -337.668 (0.80) 0.730 (2.06)** 0.337 (0.40) -1.299 (0.60) -3.389 (0.07) 4.544 (0.09) 9.624 (2.05)** 2.271 (2.50)**
934.230 236.496 (5.31)*** 0.612 (3.04)*** -0.198 (0.29) -1.873 (1.49) 21.988 (0.87) -29.540 (1.05) -0.821 (3.06)*** 0.603 (1.89)*
(0.51) 0.867 (4.25)*** -0.452 (0.71) -0.365 (0.27) -29.991 (1.90)* 29.701 (1.77)* -0.834 (3.20)*** 0.881 (2.20)**
Casht-1 Cashflowt-1 mkbkt-1 Payout-1 Lnasstt-1 Returnt-1 Levert-1 Systematict-1 Idiosyncratict-1 Reppret-1 Divpret-1
-40.430 (1.30)
-1.190 (1.61)
53
-11.814 (2.74)***
-2.305 (2.04)**
-7.167 (2.53)**
-1.621 (2.25)**
-6.245 (1.94)*
-5.300 (3.33)***
-9.209 (5.43)***
c
*: p-value < 0.1, **: p-value <0.05, ***: p-value <0.01. Giá trị thống kê t (t-statistic) được báo cáo trong ngoặc đơn
54
Bảng 4.1.1 trình bày kết quả hồi quy mô hình logit đối với các công ty thuộc
nhóm các quyết định thực hiện lần đầu (bao gồm mua lại cổ phần lần đầu, chia cổ tức
lần đầu- cột 1, cột 2), nhóm các quyết định thực hiện tiếp tục (bao gồm tiếp tục mua lại
cổ phần, tiếp tục chia cổ tức, tăng cổ tức, giảm cổ tức- cột 3, cột 4, cột 5, cột 6) và
nhóm quyết định kết hợp của hai nhóm trên (bao gồm mua lại cổ phần lần đầu và chia
cổ tức, tiếp tục mua lại cổ phần và tăng cổ tức, tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức-
cột 7, cột 8, cột 9).
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, những công ty có lượng tiền mặt trong bảng
cân đối ở kỳ trước lớn thì thường có khả năng thực hiện chính sách tiếp tục chia cổ tức
hoặc tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức. Hệ số ước lượng của biến tiền mặt (cash)
trong cột 4 là 12.781 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% trong khi hệ số ước lượng của
chính biến này trong cột 8 là 8.474 và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Những công ty
có dòng tiền ở kỳ trước lớn (cashflow) thì nhiều khả năng sẽ thực hiện chính sách tăng
cổ tức, giảm cổ tức hoặc tiếp tục mua lại cổ phần và tăng cổ tức. Hệ số ước lượng của
biến dòng tiền trong 3 trường hợp này lần lượt là 7.789 (cột 5), 6.358 (cột 6) và 13.864
(cột 10) và đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Những công ty có mức chi trả cổ tức
(đai diện bằng biến payout) trong kỳ trước nhỏ sẽ có nhiều khả năng thực hiện chia cổ
tức lần đầu. Hệ số ước lượng của biến mức cổ tức chi trả là -334.218 (cột 2) và có ý
nghĩa thống kê ở mức 10%. Trong khi những công ty có mức chi trả kỳ trước cao thì sẽ
có nhiều khả năng thực hiện chính sách tiếp tục chia cổ tức, giảm cổ tức hoặc tiếp tục
mua lại cổ phần và giảm cổ tức. Hệ số ước lượng của biến mức cổ tức chi trả trong 3
trường hợp này lần lượt là 883.008 (cột 4), 931.669 (cột 6) và 934.23 (cột 8), cả 3 đều
có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.
Bảng 4.1.1 kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng, những công ty có quy mô lớn
(đại diện bởi biến lnasst) sẽ có nhiều khả năng thực hiện các chính sách mua lại cổ
phần lần đầu, tăng cổ tức, giảm cổ tức, tiếp tục mua lại cổ phần và tăng cổ tức hoặc
55
tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức. Hệ số ước lượng của biến tổng tài sản (lnasst)
ở các phương trình mua lại cổ phần lần đầu là 0.73 (cột 1) và có ý nghĩa thống kê ở
mức 5%. Tuy nhiên mức độ tác động của biến tổng tài sản đến khả năng công ty thực
hiện mua lại cổ phần lần đầu là không đáng kể. Khi tổng tài sản tăng lên một đơn vị thì xác suất công ty thực hiện chính sách mua lại cổ phần lần đầu tăng 9.8x10-6 % (xấp xỉ
bằng 0). Trong khi đó, hệ số ước lượng của biến tổng tài sản trong phương trình chính
sách chi trả tăng cổ tức là 0.208 (cột 5) và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Mỗi đơn vị
tổng tài sản của công ty tăng lên sẽ làm tăng khả năng thực hiện chính sách giảm cổ tức
thêm 5.137 % và ngược lại. Kết quả ước lượng của biến tổng tài sản trong phương
trình chính sách chi trả tăng cổ tức là 0.183 (cột 6) và có ý nghĩa thống kê ở mức 10%.
Mỗi đơn vị tổng tài sản của công ty tăng lên sẽ làm tăng khả năng thực hiện chính sách
tăng cổ tức thêm 0.0115%. Hệ số ước lượng của biến tổng tài sản trong phương trình
chính sách tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức là 0.612 (cột 8) và có ý nghĩa thống
kê ở mức 1%. Mỗi đơn vị tổng tài sản của công ty tăng lên sẽ làm tăng khả năng thực
hiện chính sách tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức thêm 0.3738%. Trong phương
trình chính sách tiếp tục mua lại cổ phần và tăng cổ tức (cột 9), hệ số ước lượng của
biến tổng tài sản là 0.867 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Cứ mỗi đơn vị tổng tài sản
của công ty tăng lên sẽ làm tăng khả năng thực hiện chính sách này thêm 0.0395%.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng, những công ty có tỷ suất sinh lợi (đại
diện bằng biến return) cao sẽ có nhiều khả năng thực hiện các quyết định tăng cổ tức
trong khi những công ty có tỷ suất sinh lợi thấp sẽ có nhiều khả năng thực hiện chính
sách mua lại cổ phần lần đầu và chia cổ tức. Hệ số ước lượng của biến này trong hai
phương trình lần lượt là 0.508 và -4.093, cả hai đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Tỷ
suất sinh lợi tăng lên 1% sẽ làm tăng khả năng thực hiện quyết định tăng cổ tức thêm
8.226% và làm giảm khả năng mua lại cổ phần lần đầu và chia cổ tức đi 0.23%. Bảng
kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy rằng một trong những yếu tố phổ biến đại diện
56
cho yếu tố thị trường là rủi ro hệ thống (systematic) lại không tác động nhiều đến các
quyết định chi trả của nhà đầu tư. Biến này chỉ tác động đến khả năng thực hiện quyết
định mua lại cổ phần lần đầu và tăng cổ tức. Hệ số ước lượng của biến rủi ro hệ thống
trong phương trình quyết định này là -29.991 và có ý nghĩa ở mức 10%. Khi giá trị của
biến rủi ro hệ thống tăng lên 1 đơn vị sẽ làm giảm khả năng thực hiện chính sách mua
lại cổ phần lần đầu và tăng cổ tức đi 44.255%.
Một trong những nội dung quan trọng nhất của mô hình nghiên cứu này là kiểm
định tác động của các biến phần bù mua lại cổ phần và phần bù cổ tức lần lượt đến
quyết định mua lại cổ phần và quyết định cổ tức. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng,
quyết định mua lại cổ phần lần đầu bị tác động bởi phần bù mua lại cổ phần (đại diện
bởi biến reppre). Hệ số ước lượng của biến phần bù mua lại cổ phần là 9.642 (cột 1) và
có ý nghĩa ở mức 5%. Điều này cho thấy rằng, khi phần bù mua lại cổ phần trên thị
trường là lớn thì công ty nhiều khả năng sẽ thực hiện mua lại cổ phần lần đầu hay công
ty đang nuông chiều cảm xúc của nhà đầu tư trên thị trường. Khi phần bù mua lại cổ
phần tăng 1 đơn vị độ lệch chuẩn (one-standard deviation) thì khả năng công ty thực
hiện mua lại cổ phần tăng lên đến 65.039%. Điều này cho thấy có sự tồn tại sự nuông
chiều nhà đầu tư của ban quản trị, ít nhất là đối với quyết định mua lại cổ phần lần đầu.
Tuy nhiên, không giống như bài nghiên cứu gốc của tác giả. Sự nuông chiều nhà đầu tư
không thể hiện qua quyết định tiếp tục mua lại cổ phần. Hệ số phần bù mua lại cổ phần
trong phương trình quyết định tiếp tục mua lại cổ phần (cột 3) là không có ý nghĩa
thống kê. Lý thuyết nuông chiều nhà đầu tư lại càng tiếp tục không được thể hiện rõ
ràng khi xem xét biến nghiên cứu phần bù cổ tức. Hệ số ước lượng của biến này trong
các phương trình chia cổ tức lần đầu (cột 2) cũng như các phương trình tiếp tục tăng,
giảm, chia cổ tức (cột 4, cột 5, cột 6) là không có ý nghĩa thống kê. Dựa vào phân tích
kết quả nghiên cứu, ta có thể kết luận rằng có tồn tại sự nuông chiều nhà đầu tư của
ban quan trị khi đưa ra các chính sách chi trả nhưng điều này là không rõ ràng. Chỉ
57
quyết định mua lại cổ phần lần đầu mới bị tác động bởi yếu tố phần bù mua lại cổ phần
trên thị trường.
4.2. Tác động thay thế của chính sách chi trả cổ tức và mua lạ i cổ
phầ n
Trong bài này, tôi sử dụng lý thuyết nuông chiều nhà đầu tư (catering theory) làm
nền tảng quan trọng để thực hiện kiểm định xem liệu các nhà quản trị có thực sự xem
xét đồng thời chính sách cổ tức và chính sách mua lại cổ phần trước khi đưa ra quyết
định chi trả thế nào hay không. Nếu điều này là đúng thì hai chính sách sẽ thay thế lẫn
nhau trong việc đưa ra quyết định. Cụ thể hơn, nếu nhà quản trị nuông chiều nhu cầu
của nhà đầu tư trong việc đưa ra các quyết định tài chính bao gồm quyết định cổ tức và
mua lại cổ phần thì những công ty có phần bù mua lại cổ phần thấp sẽ có nhiều khả
năng thực hiện quyết định chia cổ tức lần đầu, tiếp tục chi trả cổ tức hoặc tăng cổ tức
và ngược lại, những công ty có phần bù cổ tức thấp sẽ có nhiều khả năng thực hiện
chính sách mua lại cổ phần lần đầu hoặc tiếp tục mua lại cổ phần. Do đó, các chính
sách mua lại cổ phần và chi trả cổ tức là những chính sách thay thế cho nhau.
Tuy nhiên kết quả nghiên cứu không cho thấy được tính chất thay thế này một
cách rõ ràng. Hầu hết các hệ số ước lượng của biến phần bù mua lại cổ phần ở các
phương trình chính sách chi trả cổ tức bao gồm cả chia cổ tức lần đầu và tiếp tục chia
cổ tức (cột 2, cột 4, cột 5, cột 6) đều không có ý nghĩa thống kê ngoại trừ chính sách
giảm cổ tức. Hệ số ước lượng của biến phần bù mua lại cổ phần trong phương trình
chính sách giảm cổ tức là -0.282 và có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Khi phần bù mua
lại cổ phần tăng 1 đơn vị độ lệch chuẩn (on-standard deviation) thì khả năng công ty
thực hiện chính sách giảm cổ tức giảm đi 4.554%. Điều này cho thấy rằng, các công ty
trong nước thường không xem xét tất cả các phương án chi trả cổ tức như là một chính
sách thay thế đối với chính sách mua lại cổ phần mà đa phần các nhà quản trị chỉ xem
58
xét đến chính sách giảm cổ tức như là một phương án dự phòng cho chính sách mua lại
cổ phần. Ngoài ra, khi phần bù mua lại cổ phần trên thị trường giảm thì các chính sách
tổng hợp (bao gồm cả chính sách mua lại cổ phần và chi trả cổ tức) mới là các lựa chọn
quen thuộc mà các nhà quản trị doanh nghiệp tìm đến. Cụ thể, khi phần bù mua lại cổ
phần của thị trường giảm thì các công ty nhiều khả năng sẽ thực hiện các chính sách
mua lại cổ phần và giảm cổ tức hoặc mua lại cổ phần và tăng cổ tức. Hệ số ước lượng
của biến phần bù mua lại cổ phần trong các phương trình chính sách này (cột 8 và cột
9) lần lượt là -0.821 và -0.834, cả hai đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Khi phần bù
mua lại cổ phần tăng lên 1 đơn vị độ lệch chuẩn (one-standard deviation) thì khả năng
công ty thực hiện chính sách tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức giảm đi 14.965%,
đồng thời khi tăng 1 đơn vị độ lệch chuẩn của biến phần bù mua lại cổ phần cũng sẽ
làm giảm khả năng công ty thực hiện chính sách mua lại cổ phần và tăng cổ tức đi
10.078%.
Khi dựa vào biến phần bù cổ tức để xem xét thì ta lại càng thấy được tính chất
thay thế của chính sách mua lại cổ phần và chính sách cổ tức. Hệ số ước lượng của
biến phần bù cổ tức trong các phương trình chính sách mua lại cổ phần (bao gồm cả
mua lại cổ phần lần đầu và mua lại cổ phần tiếp tục) thường không có ý nghĩa thống kê
hoặc có ý nghĩa thống kê nhưng lại mang dấu dương. Trong phương trình chính sách
mua lại cổ phần lần đầu (cột 1), hệ số ước lượng của biền phần bù cổ tức là 2.271 và có
ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Khi phần bù cổ tức tăng lên một đơn vị độ lệch chuẩn
(one standard deviation) thì khả năng công ty thực hiện chính sách mua lại cổ phần
tăng lên 0.018%. Hệ số ước lượng của biến này đối với các phương trình chính sách
tổng hợp cũng có dấu dương. Đối với phương trình chính sách tiếp tục mua lại cổ phần
và giảm cổ tức, hệ số ước lượng của biến phần bù cổ tức là 0.603 và có ý nghĩa thống
kê ở mức 10%. Khi phần bù mua lại cổ phần tăng một đơn vị độ lệch chuẩn thì khả
năng công ty thực hiện chính sách tiếp tục mua lại cổ phần và giảm cổ tức tăng lên
59
13.82%. Trong khi hệ số ước lượng của biến này ở phương trình tiếp tục mua lại cổ
phần và tăng cổ tức là 0.881 và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Khi phần bù mua lại cổ
phần tăng một đơn vị độ lệch chuẩn thì khả năng công ty thực hiện chính sách tiếp tục
mua lại cổ phần và tăng cổ tức tăng lên 15.07%. Như vậy trái ngược với bài nghiên cứu
gốc của Zhan Jiang (2012), bài nghiên cứu của tôi dựa vào dữ liệu nghiên cứu trong
nước không cho thấy được tác động thay thế của chính sách cổ tức và chính sách mua
lại cổ phần. Nhà quản trị dường như không xem xét một cách hoàn toàn và kĩ càng các
phương án thay thế giữa hai chính sách này mà chỉ tập trung vào một số chính sách
thay thế nhất định.
4.3. Các yế u tố tác động đế n mức độ mua lạ i cổ phầ n
Ở phần trước của bài nghiên cứu, tôi thực hiện ước lượng mô hình Tobit để xem
xét các yếu tố tác động đến quyết định mua lại cổ phần và chi trả cổ tức. Trong phần
này, tôi sử dụng mô hình Tobit để xác định các yếu tố tác động đến mức độ mua lại cổ
phần của các công ty, kết quả ước lượng mô hình nghiên cứu này sẽ trả lời câu hỏi rằng
khi một biến phụ thuộc bất kỳ thay đổi một đơn vị thì tỷ lệ mua lại cổ phần sẽ tăng hay
giảm với mức độ bao nhiêu. Biến phụ thuộc trong mô hình này là tỷ lệ mua lại cổ phần
(repurchase fraction) được xác định trong phần đo lường biến, biến này sẽ đại diện cho
mức độ mua lại cổ phần của một công ty. Các biến độc lập còn lại trong mô hình này
sẽ tương tự như trong mô hình nghiên cứu ở trên. Bảng 4.2.1 trình bày kết quả ước
lượng của mô hình.
60
Bảng 4.2.1 :Kết quả ƣớc lƣợng mô hình Tobit
Biến Casht-1
Cashflowt-1
Mkbkt-1
Payoutt-1
Returnt-1
Lnasstt-1
Levert-1
Systematict-1
Idiosyncratict-1
Reppret-1
Divpret-1
Giá trị p- value được thể hiện trong ngoặc đơn ()
C Hệ số ước lượng 0.092 (0.0597) 0.080 (0.0501) -0.008 (0.0096) -0.052 (0.2329) -0.019 (0.0088)** 0.006 (0.0032)* -0.049 (0.0206)** 0.323 (0.2867) -0.335 (0.3023) -0.012 (0.0042)*** 0.020 (0.0047)*** -0.095 (0.0248)***
Kết quả ước lượng cho thấy rằng, công ty mua lại cổ phần nhiều khi có quy mô
lớn và tỷ suất sinh lợi, đòn bẩy tài chính nhỏ. Hệ số ước lượng của biến quy mô công
ty (đai diện bằng biến Lnasst) là 0.006 và có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Hệ số ước
lượng của biến tỷ suất sinh lợi (return) là -0.019 và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
trong khi hệ số ước lượng của biến đòn bẩy tài chính (lever) là -0.049 và có ý nghĩa
thống kê ở mức 5%. Cả hai biến phần bù mua lại cổ phần và phần bù cổ tức đều có ý
nghĩa thống kê ở mức 1%. Kết quả ước lượng cho thấy dấu của 2 biến này trong mô
hình là trái ngược nhau, hệ số ước lượng của biến phần bù mua lại cổ phần (Reppre) là
-0.012 trong khi hệ số ước lượng của biến phần bù mua lại cổ phần (Divpre) là 0.02.
61
Kết quả ước lượng cho thấy một sự ngược chiều trong dấu kỳ vọng. Biến phần bù mua
lại cổ phần có tác động ngược chiều với mức độ mua lại cổ phần trong khi biến phần
bù cổ tức lại có tác động cùng chiều với mức độ mua lại cổ phần. Điều này một lần nữa
lại cho thấy sự hạn chế trong mẫu nghiên cứu của tôi. Một thuộc tính cơ bản của biến
phần bù mua lại cổ phần cũng như phần bù cổ tức được nêu ở các nghiên cứu trước của
Baker và Wurgler (2004) và Zhan Jiang (2012) là sự thay đổi theo thời gian. Do đó,
mẫu nghiên cứu của các tác giả có thời gian nghiên cứu tương đối dài (trên 30 năm
quan sát) trong khi thời gian quan sát trong mẫu của tôi lại tương đối ngắn (7 năm từ
2008 đến 2014). Điều này có thể khiến cho kết quả ước lượng có thể không nhất quán.
CHƢƠNG 5 KẾT LUẬN
Dựa vào lý thuyết nuông chiều nhà đầu tư trong nghiên cứu của Baker và
Wurgler (2004) và nghiên cứu mở rộng của Zhan Jiang (2012), tôi thu thập dữ liệu các
công ty niêm yết trên Sàn Giao Dịch Chứng Khoán Thành Phố Hồ Chí Minh để kiểm
định thực nghiệm các yếu tố tác động đến quyết định mua lại cổ phần của các công ty.
Ngoài ra, bài nghiên cứu này còn cố gắng xem xét tác động thay thế giữa quyết định
mua lại cổ phần và quyết định chi trả cổ tức. Xây dựng nghiên cứu thực nghiệm nhằm
trả lời câu hỏi rằng, liệu các nhà quản trị trong nước có thực sự xem xét cả quyết định
mua lại cổ phần và quyết định cổ tức đồng thời trước khi đưa ra quyết định hay không.
Kết quả nghiên cứu với mẫu dữ liệu này của tôi không thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ lý
thuyết nuông chiều nhà đầu tư của các công ty trong nước. Mặc dù phần bù mua lại cổ
phần có giải thích cho quyết định mua lại cổ phần lần đầu và dấu tác động của biến này
đúng với kỳ vọng dấu của tôi nhưng lại không giải thích được cho quyết định tiếp tục
mua lại cổ phần. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ cho thấy tác động thay thế giữa chính
sách mua lại cổ phần và chi trả cổ tức ở mức độ thấp khi biến phần bù cổ tức chỉ tác
động đến việc mua lại cổ phần lần đầu. Một điểm khá thú vị từ kết quả nghiên cứu của
tôi là những công ty trong nước có xu hướng sử dụng các quyết định hỗn hợp bao gồm
62
vừa mua lại cổ phần và vừa tăng hoặc giảm chi trả cổ tức trước nhu cầu của nhà đầu tư
trên thị trường. Một hạn chế lớn của bài nghiên cứu là thời gian quan sát ngắn, điều
này sẽ không nắm bắt hết sự biến động theo thời gian của biến phần bù mua lại cổ phần
cũng như phần bù cổ tức, khiến cho kết quả nghiên cứu có thể không nhất quán.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bhattacharya, Sudipto. "Imperfect information, dividend policy, and “the bird in the
hand” fallacy." Bell journal of economics 10.1 (1979): 259-270.
Baker, M., and J. Wurgler, 2004a, A catering theory of dividends, Journal of Finance
59, 1125-1165
Baker, M., and J. Wurgler, 2004b, Appearing and disappearing dividends: The link to
catering incentives, Journal of Financial Economics 73, 271-288
Denis, D. J., D. K. Denis, and A. Sarin, 1994, The information content of dividend
changes: Cash flow signaling, overinvestment, and dividend clienteles, Journal of
Financial and Quantitative Analysis 29, 567-587
Easterbrook, F. H., 1984, Two agency-cost explanations of dividends, American
Economic Review 74, 650-659
Fama, E. F., and K. R. French, 2001, Disappearing dividends: Changing firm
characteristics or lower propensity to pay?, Journal of Financial Economics 60, 3-44
John, K., and J. Williams, 1985, Dividends, dilution, and taxes: A signalling
equilibrium, Journal of Finance 40, 1053-1070
Lang, L., and R. Litzenberger, 1989, Dividend announcements: Cash flow signalling
vs. free cash flow hypothesis?, Journal of Financial Economics 24, 181-191
Lie, E., 2000, Excess funds and agency problems: An empirical study of incremental
cash disbursements, Review of Financial Studies 13, 219-248
Miller, M. H., and K. Rock, 1985, Dividend policy under asymmetric information,
Journal of Finance 40, 1031-1051
Yoon, P. S., and L. T. Starks, 1995, Signaling, investment opportunities, and dividend
announcements, Review of Financial Studies 8, 995-1018
Baltagi, Badi. Econometric analysis of panel data. Vol. 1. John Wiley & Sons, 2008.
Hausman, Jerry, and Daniel McFadden. "Specification tests for the multinomial logit
model." Econometrica: Journal of the Econometric Society (1984): 1219-1240.