
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
259
MÔ HÌNH PHẦN TỬ HỮU HẠN TRONG DỰ ĐOÁN LÚN
CỦA KÈ BIỂN TRÊN NỀN ĐẤT YẾU CÓ XÉT TỚI TỪ BIẾN
Tạ Minh Hiếu, Dương Bảo Phúc, Nguyễn Quang Huy, Hoàng Thị Lụa, Đỗ Tuấn Nghĩa
Trường Đại học Thủy lợi, email: hieutaming@gmail.com
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Tính từ biến là một trong những đặc điểm
quan trọng nhất của đất sét yếu do tính nhớt
của chúng (Bjerrum, L., 1967; v.v...). Ứng xử
này sẽ ảnh hưởng đến quá trình nén thứ cấp
dưới tải trọng, ví dụ như xây dựng đê biển,
đắp nền, v.v., điều này dẫn đến sự gia tăng độ
lún dự đoán và thời gian kết thúc của nó.
Tính từ biến của đất yếu có thể được biểu
diễn bằng chỉ số nén thứ cấp, Cα, được định
nghĩa là tỷ lệ giữa sự thay đổi của hệ số rỗng
(Δe) và thời gian tương ứng (Δlogt) trên
thang logarit. Giá trị của chỉ số này thay đổi
tùy thuộc vào các loại đất khác nhau, phụ
thuộc vào tính dẻo, phân bố kích thước hạt,
v.v. Cho đến nay, đất sét yếu Hải Phòng đã
được nghiên cứu bởi nhiều nhà nghiên cứu
(Phuc và Giao, 2020, v.v.). Tuy nhiên, rất ít
trong số họ tập trung vào tính từ biến của đất
sét yếu Hải Phòng.
Trong nghiên cứu này, tính từ biến của đất
sét yếu Hải Phòng sẽ được khảo sát, đặc biệt
là chỉ số nén thứ cấp. Ảnh hưởng của ứng xử
này đến sự lún dự đoán của một đê biển đặt
trên loại đất sét này cũng sẽ được nghiên cứu.
2. KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Đê biển được áp dụng trong nghiên cứu
này được xây dựng để bảo vệ một khu công
nghiệp lớn có diện tích 220 ha tại quận Hải
An, thành phố Hải Phòng. Như thể hiện trong
Hình 1, đê biển dài 13,2 km từ K2+253 đến
K15+033. Mặt cắt ngang được nghiên cứu là
tại K13+433. Trong số nhiều lỗ khoan được
thực hiện trong dự án này, một số trong số
chúng đã được lựa chọn cẩn thận để có thể
đại diện cho các điều kiện địa chất khác nhau
của dự án. Mặt cắt K13+433 nằm gần vị trí lỗ
khoan BS43.
Vị trí nghiên cứu
K13+433
Hình 1. Mặt bằng dự án
và khu vực nghiên cứu
Hình 2 là mặt cắt ngang của đê biển tại
K13+433. Như thể hiện trong hình, đê biển
rộng 47 m và cao 5,5 m. Để giảm chiều cao
của đê, tường chắn trên cùng cao 1,2 m được
áp dụng. Thân đê chủ yếu bao gồm cát lấp
bên trong và đá bên ngoài. Mực nước cực đại
cao với xác suất 3,33%, mực nước cao và
mực nước thấp với xác suất 95% được ước
tính lần lượt là +3,3 m, +1,85 m và -1,10 m
theo cao độ quốc gia. Chiều cao sóng được
tính toán ở cao độ +5,5 m. Trước khi xây
dựng đê chính, đê ống địa kỹ thuật tạm thời
đã được xây dựng trước và sau đó cát được
lấp đầy đến cao độ +2,0 m để áp dụng tải
trọng trước vào nền đất. Đê ống địa kỹ thuật
tạm thời được xây dựng bằng cách sử dụng 3
lớp ống địa kỹ thuật có chiều cao 1 m và 2 m.
Ngoài ra, vị trí 3 mốc quan trắc A, B, C cũng
được đánh dấu trong Hình 2.