MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT CỦA NGƯỜI TÀY VÀ LỄ HỘI VỀ<br />
NGƯỜI ANH HÙNG LỊCH SỬ Ở VÙNG ĐÔNG BẮC<br />
Hà Xuân Hương<br />
Người Tày có số dân đông nhất trong số các dân tộc thiểu số ở nước ta, cư trú ở<br />
hầu khắp các địa phương trong cả nước nhưng chủ yếu ở các tỉnh vùng Đông Bắc Việt<br />
Nam. Trải qua sự phát triển thăng trầm của lịch sử xã hội, dân tộc Tày đã tự tạo sự đề<br />
kháng để bảo tồn bản sắc văn hóa của riêng mình. Dân tộc Tày có đời sống văn hóa vô<br />
cùng đặc sắc, trong đó phải kể đến các truyền thuyết dân gian về người anh hùng. Người<br />
anh hùng không chỉ là đối tượng tôn vinh, ngợi ca của truyền thuyết mà còn là đối tượng<br />
được thờ phụng tại các đình, đền và trong lễ hội. Vậy, có mối quan hệ nào giữa truyền<br />
thuyết của người Tày và các lễ hội về người anh hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc không?<br />
Nếu có, thì hiện nay nó như thế nào?<br />
1. Quan hệ hai chiều giữa truyền thuyết của người Tày và lễ hội về người anh hùng<br />
lịch sử ở vùng Đông Bắc<br />
Từ việc tìm hiểu mối quan hệ giữa truyền thuyết về các anh hùng lịch sử và lễ hội<br />
dân gian của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc ở vai trò qua lại giữa truyền thuyết và lễ hội ở<br />
các thời kì khác nhau, ở sự phản ánh người anh hùng và các sự kiện lịch sử, chúng tôi<br />
nhận thấy rằng có tồn tại mối quan hệ gắn bó giữa hai vi hệ văn hóa này. Thứ nhất, đó là<br />
quan hệ mang tính vĩnh viễn, thể hiện rõ ở sự liên hệ về mặt nội dung của truyền thuyết<br />
và các nghi thức, vật phẩm dâng cúng, sự kiêng kị, các màn diễn xướng trong lễ hội trong<br />
toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của lễ hội. Đó là một quá trình xuyên suốt từ<br />
quá khứ, hiện tại cho đến tương lai. Thứ hai, đó là quan hệ hai chiều, mang tính tương<br />
tác, bổ sung cho nhau. Điều này được thể hiện rõ ở vai trò qua lại giữa truyền thuyết và lễ<br />
hội: truyền thuyết đóng vai trò nội dung, cơ sở niềm tin cho lễ hội, có ảnh hưởng lớn tới<br />
sự nảy sinh và phát triển của lễ hội. Đến lượt mình, lễ hội giúp lưu giữ truyền thuyết, hiện<br />
thực hóa niềm tin trong truyền thuyết thông qua các nghi thức thờ cúng và các màn diễn<br />
xướng. Lễ hội làm cho việc diễn xướng truyền thuyết được sinh động, cụ thể hơn.<br />
Về cơ bản, những biểu hiện của mối quan hệ này cũng giống như quan hệ giữa<br />
truyền thuyết và lễ hội về người anh hùng của người Việt mà tác giả Lê Văn Kì từng<br />
nghiên cứu trong công trình Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các<br />
anh hùng(1). Tuy nhiên, mức độ biểu hiện của mối quan hệ lại có sự đậm nhạt khác nhau<br />
<br />
1<br />
<br />
ở từng truyền thuyết, từng lễ hội; mỗi biểu hiện của mối quan hệ lại mang tính vùng miền<br />
và đậm bản sắc dân tộc.<br />
Chẳng hạn, ở nội dung truyền thuyết đóng vai trò là cơ sở quan trọng để nảy nở<br />
và ổn định hóa lễ hội về người anh hùng, truyền thuyết dân tộc Tày có vai trò khác nhau<br />
đối với từng lễ hội. Ở lễ hội Ná Nhèm (xã Trấn Yên, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn),<br />
truyền thuyết về việc bà Mẵn và dân làng giết giặc Tài Ngàn là nguồn gốc của lễ hội và<br />
liên quan tới toàn bộ tiến trình tổ chức lễ hội: địa điểm (đình làng Mỏ, miếu Xa Vùn),<br />
thời gian tổ chức (ngày rằm tháng giêng, định kì ba năm một lần), nội dung tế lễ Thành<br />
Hoàng, nội dung tục hèm bôi mặt nhọ, đánh trận và cung tiến lễ vật nhằm diễn tả sự thất<br />
bại của lũ giặc trước sức mạnh của dân làng, sự phục tùng người thắng trận. Ở đây, vai<br />
trò của truyền thuyết đối với lễ hội được thể hiện đậm nét. Ở lễ hội đền Kì Sầm (bản<br />
Ngần, xã Vĩnh Quang, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng), lễ hội đền Đuổm (xã Động Đạt,<br />
huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên)… vai trò của truyền thuyết Nùng Trí Cao, Dương<br />
Tự Minh đối với lễ hội lại biểu hiện mờ nhạt hơn. Truyền thuyết là nguyên nhân của lễ<br />
hội, quy định địa điểm, thời gian diễn ra lễ hội, đối tượng thờ cúng song hầu như không<br />
có liên quan gì tới tiến trình lễ hội. Có thể thấy, rất ít các lễ hội ở vùng Đông Bắc biểu<br />
hiện rõ nét vai trò dẫn dắt tiến trình lễ hội của truyền thuyết. Điều đó cho thấy sự phản<br />
ánh người anh hùng và các sự kiện lịch sử trong lễ hội ở vùng Đông Bắc so với lễ hội ở<br />
một số vùng miền khác có phần đơn giản hơn nhiều.<br />
Điều đó xuất phát từ hai lí do. Thứ nhất, sự phong phú của lễ hội phụ thuộc vào<br />
quá trình ảo hóa nhân vật người anh hùng lịch sử đạt đến mức độ nào. Ở một số truyền<br />
thuyết xuất hiện sớm, việc xây dựng hình tượng người anh hùng mang đậm tính hư ảo,<br />
thần kì như truyền thuyết Nùng Trí Cao, Vũ Thành… Do đó, lễ hội suy tôn những vị anh<br />
hùng này phong phú hơn về các nghi thức, vật phẩm thờ cúng, các màn diễn xướng…<br />
Việc diễn xướng truyền thuyết ở các lễ hội này đã làm tái sinh sức mạnh thiêng liêng của<br />
người anh hùng. Ở những truyền thuyết xuất hiện muộn như truyền thuyết về Bế Khắc<br />
Thiệu và Nông Đắc Thái, Lưu Nhân Chú, cô Thắm…, quá trình huyền thoại hóa, ảo hóa<br />
người anh hùng còn chưa trọn vẹn. Do đó, niềm tin tâm linh của người dân về người anh<br />
hùng dân tộc Tày mới chỉ ở dạng ý niệm về người anh hùng. Họ đã giản hóa đi các nghi<br />
thức trong lễ hội. Thứ hai, điều dễ nhận thấy là các lễ hội về người anh hùng lịch sử ở<br />
Đông Bắc bên cạnh mục đích suy tôn người anh hùng thì người dân đến với lễ hội thuần<br />
<br />
2<br />
<br />
túy là giao lưu tình cảm, vui chơi giải trí và cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt<br />
tươi. Do đó, các yếu tố liên quan đến lễ hội thường không cầu kỳ hay được quy định chặt<br />
chẽ. Sự quy định nội dung của truyền thuyết đối với lễ hội vì thế mà cũng không thực sự<br />
rõ nét.<br />
Ở vai trò giúp lưu giữ truyền thuyết và hiện thực hóa niềm tin trong truyền thuyết<br />
thuyết của lễ hội, có thể khẳng định rằng lễ hội về người anh hùng lịch sử ở vùng Đông<br />
Bắc đã thực hiện rất tốt vai trò của mình trong quan hệ đối với truyền thuyết. So với<br />
truyền thuyết của người Việt, truyền thuyết người Tày được sưu tầm, biên soạn muộn<br />
hơn khá nhiều. Tuy thế, hệ thống truyền thuyết Tày vẫn tồn tại đến ngày nay khá phong<br />
phú, đa dạng. Chính vị trí của nhân vật anh hùng được phụng thờ trong lễ hội là một<br />
trong những điều kiện thuận lợi để truyền thuyết dân gian Tày tồn tại qua nhiều thế hệ.<br />
Cùng với thời gian, việc thờ cúng người anh hùng lịch sử dân tộc Tày như những vị thánh<br />
– vị phúc thần tại các đình, đền, miếu ở vùng Đông Bắc đã khắc sâu và bồi đắp niềm<br />
ngưỡng vọng thiêng liêng của nhân dân đối với những người con ưu tú của mảnh đất này.<br />
Nhờ thế, truyền thuyết về các anh hùng người Tày từ những đời Lý, đời Minh… như<br />
Nùng Trí Cao, Dương Tự Minh, Thân Cảnh Phúc, Lưu Nhân Chú, Nông Đắc Thái… vẫn<br />
luôn tồn tại trong lòng người dân nơi đây.<br />
Trên thực tế, người dân đến dự hội đều biết tới đối tượng suy tôn của lễ hội.<br />
Những cảnh diễn xướng truyền thuyết trong lễ hội như diễn tích đánh trận, khao quân…<br />
sẽ khắc sâu hơn trong tâm thức nhân dân về sức mạnh và chiến tích của người anh hùng.<br />
Đặc biệt, trong lễ hội được tổ chức hiện nay, phải kể đến các hoạt động kể truyền thuyết<br />
trên loa hoặc kể theo từng nhóm nhỏ, bán các loại văn hóa phẩm liên quan đến truyền<br />
thuyết về người anh hùng như sách, băng đĩa của ban tổ chức và các cụ già ở địa phương.<br />
Nhờ có các hoạt động này mà truyền thuyết được phổ biến hơn tới những người đi dự<br />
hội. Ở các lễ hội suy tôn Dương Tự Minh ở Thái Nguyên và lễ hội suy tôn Nùng Trí Cao<br />
ở Cao Bằng, hoạt động phổ biến truyền thuyết này tỏ ra khá hiệu quả.<br />
Niềm tin là một yếu tố không thể thiếu trong truyền thuyết. Trong lễ hội, niềm tin<br />
về người anh hùng lịch sử trong truyền thuyết được hiện thực hóa. Sự hiện thực hóa đó<br />
được thể hiện ra ở các phương diện quy định nghi thức thờ cúng, lễ vật, sự kiêng kị, lễ<br />
rước... Chẳng hạn, trong lễ hội đền Đuổm (huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên), niềm<br />
tin ấy được hiện thực hóa trước hết ở ngày mở hội chính. Người dân bao đời nay vẫn luôn<br />
<br />
3<br />
<br />
tin tưởng rằng ngày mùng 6 tháng giêng là lệ ngày sinh của Dương Tự Minh. Sức mạnh<br />
và sự linh thiêng của đức thánh Đuổm được thể hiện ở việc người dân bắt buộc phải tuân<br />
thủ quy trình làm lễ: sau khi dâng cỗ chay và cỗ mặn lên thánh mới được đi thắp hương ở<br />
các nơi trong đền, từ chân đền lên đền Trung, phủ bà Diên Bình, phủ bà Thiều Dung, sau<br />
đó mới lên đền Mẫu và hang Gió. Ở lễ hội núi Văn núi Võ ngày mùng 4 tháng giêng hằng<br />
năm, (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên), sức mạnh và sự linh thiêng của tướng quân Lưu<br />
Nhân Chú được thể hiện thông qua nghi thức rước kiệu. Nghi thức này tượng trưng cho<br />
việc tướng quân Lưu Nhân Chú tuần du địa hạt. Kiệu phải do con cháu dòng họ Lưu<br />
rước. Kiệu được rước từ ngôi nhà cổ của dòng họ vào nhà thờ của khu di tích. Trên<br />
đường đi, tất cả những ai đứng cao hơn kiệu sẽ bị kiệu húc đổ. Trước khi vào đền, kiệu<br />
còn quay mấy vòng trên không. Chịu sự chi phối của niềm tin vào sự linh thiêng của<br />
người anh hùng nên hầu hết người dân đều háo hức xem rước kiệu, lại vừa sợ đứng cao<br />
hơn kiệu sẽ bị vong linh người anh hùng nổi giận, trị tội, cho kiệu húc vào đến ngã mới<br />
thôi. Trong lễ hội Ná Nhèm (huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn), các thành viên tham gia tục<br />
hèm đánh trận và cung tiến lễ vật đều phải bôi mặt nhọ bởi họ tin tưởng rằng, nếu họ bôi<br />
mặt nhọ thì lũ giặc Tài Ngàn xưa kia sẽ không thể nhận ra những người đang diễn lại<br />
cảnh thất bại của chúng để về bắt tội, gây tai họa, dịch bệnh cho họ và gia đình. Rõ ràng,<br />
lễ hội ở vùng Đông Bắc với các nghi thức sinh động, phong phú nhưng mang tính cố<br />
định, tính tổ chức của nó đã thể hiện niềm tin trong truyền thuyết về người anh hùng lịch<br />
sử. Niềm tin ấy khá nguyên sơ, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển tín ngưỡng thờ<br />
cúng các vị anh hùng của dân tộc, làng bản.<br />
Điều đặc biệt trong vai trò của lễ hội đối với truyền thuyết ở vùng Đông Bắc là, lễ<br />
hội về người anh hùng lịch sử ở Đông Bắc có sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các dân<br />
tộc cùng sinh sống trong vùng, giữa miền xuôi và miền ngược. Điều đó được thể hiện<br />
thông qua sự đan xen giữa tín ngưỡng vạn vật hữu linh, lễ rước nước, tục thờ đá của miền<br />
núi và tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của miền đồng bằng. Sự giao lưu văn hóa này<br />
khiến cho niềm tin trong truyền thuyết được hiện thực hóa đến mức cao độ trong lễ hội.<br />
Sự thờ cúng anh hùng đã trở thành một tín ngưỡng có sức ảnh hưởng phổ biến đối với<br />
con người vùng Đông Bắc.<br />
2. Sự biến đổi của mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội về các anh<br />
hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc trong cuộc sống hiện nay<br />
<br />
4<br />
<br />
Các lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc đã tạo cho<br />
vùng miền một không gian văn hóa giàu tính truyền thống. Đến với lễ hội về các anh<br />
hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc, người ta vẫn có thể bắt gặp những yếu tố mang tính chất<br />
truyền thống như trang phục, cách tế lễ thần linh, các vật tế lễ, các trò chơi dân gian…<br />
Chẳng hạn, trong lễ hội Pháo hoa ở huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng, tục tranh cướp<br />
đầu pháo là một phần quan trọng không thể thiếu của lễ hội, thể hiện rõ tinh thần thượng<br />
võ của người dân miền núi. Trong lễ hội đền Đuổm ở Phú Lương (Thái Nguyên), lệ ngày<br />
sáu tháng giêng cả làng dậy sớm, làm các loại cỗ chay và cỗ mặn truyền thống của dân<br />
tộc rồi cử quan viên mặc áo chàm – trang phục truyền thống của dân tộc Tày – rước cỗ<br />
vào đền để tế. Tế xong, nam giới làng Đuổm đủ 18 tuổi trở lên cùng khách các chạ ăn cỗ<br />
đại hạ tại đền. Hết phần lễ sẽ tiếp đến phần kể truyền thuyết và các trò vui như hát trò,<br />
tung còn, đấu vật, ví hát lượn… Hay ở lễ hội đền Từ Hả (Bắc Giang), cảnh diễn lại tích<br />
đức thánh Vũ Thành đánh giặc, khao quân rồi thua trận, phải lui về phía sau vẫn luôn<br />
được duy trì qua các kì lễ hội và được đông đảo nhân dân tham gia. Năm 2012, sau nửa<br />
thế kỉ bị gián đoạn, lễ hội Ná Nhèm ở Lạng Sơn đã được phục dựng theo chương trình<br />
mục tiêu quốc gia về bảo tồn văn hóa(2). Những yếu tố cổ của lễ hội như các nghi thức<br />
rước nước, thờ Đá, tục hèm bôi mặt nhọ, đánh giặc giữ làng và cung tiến lễ vật được bảo<br />
lưu và phục dựng. Cùng với thời gian, những truyền thống tốt đẹp ấy vẫn được giữ gìn,<br />
thể hiện sức đề kháng của các vi hệ văn hóa của vùng miền trước những đổi thay của lịch<br />
sử xã hội.<br />
Nhưng, trong cuộc sống hiện nay, khi những yếu tố lịch sử đã có sự thay đổi<br />
nhiều so với thời kì trước, kéo theo đó là sự đổi thay của tâm lí tập thể, mối quan hệ giữa<br />
truyền thuyết dân gian Tày và lễ hội về người anh hùng lịch sử ở vùng Đông Bắc có còn<br />
rõ nét?<br />
Trong quá trình nghiên cứu vấn đề, chúng tôi đã điền dã và điều tra xã hội học về<br />
mối quan hệ giữa các truyền thuyết dân gian Tày với lễ hội về người anh hùng lịch sử ở<br />
vùng Đông Bắc trong đời sống ngày nay (3). Chúng tôi đã gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn và<br />
phát phiếu điều tra đến người dân ở các độ tuổi khác nhau, thuộc các địa phương: xã Văn<br />
Yên (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên), xã Động Đạt (huyện Phú Lương, tỉnh Thái<br />
Nguyên), thị trấn Quảng Uyên (huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng), trong các lễ hội khác<br />
nhau như lễ hội núi Văn núi Võ, lễ hội đền Đuổm, lễ hội pháo hoa Quảng Uyên. Từ kết<br />
<br />
5<br />
<br />