vietnam medical journal n01&2 - MARCH - 2019
120
NGHIÊN CỨU MỘT TRƯỜNG HỢP LY GIẢI CƠ VÂN VÀ
HỘI CHỨNG NGUY KỊCH HÔ HẤP CẤP (ARDS) DO ONG ĐỐT
Nguyễn Ngọc Tú*, Mai Anh Tuấn*, Nguyễn Hữu Quân**,
Võ Thị Đoan Thục**, Trương Dương Tiển**, Phạm Thị Ngọc Thảo*
TÓM TẮT33
Đặt vấn đề
: ong đốt thường xảy ra tại c quốc gia
đang phát triển, trong đó Việt Nam. Ly giải n
hội chứng nguy kịch hấp cấp là những biến
chứng hiếm gặp nhưng có thể đe doạnh mạng và cần
được xử trí kịp thời.
Đối tượng phương pháp
:
nghiên cứu một trường hợp.
Kết quả:
một trường hợp
bệnh nhân nam, 32 tuổi bị ong vẽ đốt được nghiên
cứu. Khởi đầu các triệu chứng sưng đau vùng bị đốt
kèm sốt, khó thở và tiểu huyết sắc tố. Bệnh nhân nhập
bệnh viện địa phương điều trị, sau đó chuyển bệnh viện
Chợ Rẫy o ngày th2 của bệnh trong nh trạng n
huyết nặng, suy đa quan bao gồm hội chứng nguy
kịch hô hấp cấp, tổn thương thận cấp do ly giải cơ vân
tổn thương gan. Bệnh nhân được điều trthông khí
cơ học, thay huyết tương, lọc máu liên tục, kháng sinh
dinh dưỡng. Nồng độ CPK máu về bình thường vào
ngày thứ 15 của bệnh. Chức năng thận cải thiện
bệnh nn có nước tiểu sau 30 ny điều trị.
Kết luận
:
ong đốt có thể gây ra ly giải cơ vân và hội chứng nguy
kịch hấp cấp. Phát hiện sớm điều trkịp thời
thể giúp cứu sống bệnh nhân.
Từ khóa
: ly giải vân, hội chứng nguy kịch
hấp cấp (ARDS), ong đốt.
SUMMARY
RHABDOMYOLYSIS AND ACUTE
RESPIRATORY DISTRESS SYNDROME
AFTER WASP-STING: A CASE REPORT
Background
: Wasp-sting is not uncommon in
developing countries, particularly Viet Nam. Symptoms
can range from mild such as itching, urticaria,
angioedema to severe such as multi organ dysfunction
which increasesincreases mortality. Rhabdomyolysis
and acute respiratory distress syndrome are rare
complications yet yield a high risk of deathdeath, thus
need emergent intervention.
Methods
: This is a case
report.
Results
: a 32 year-old male patient suffering
from wasp-sting was studied. The patients manifested
with swelling and pain in regions of stings, then
developed high fever, dyspnea and bloody urine. He
was admitted to local hospital, then transferred to Cho
Ray hospital. The patient was diagnosed with severe
hemolytic, multimulti-organ dysfuntion (acute kidney
injury, acute respiratory distress syndrome and liver
damage). He was then placed on mechanical
ventilator, therapeutic plasma exchange, continuous
i hc Y Dược TP.H Chí Minh.
**Bnh vin Ch Ry
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Ngọc Tú
Email: drnguyenngoctu1604@gmail.com
Ngày nhận bài: 11.01.2019
Ngày phản biện khoa học: 5.3.2019
Ngày duyệt bài: 12.3.2019
renal replacement therapy and was given intravenous
antibiotics and nutrients. CPK levels and renal function
(as well as urin output) returned to normal on day 15
and day 30 respectively.
Conclusion
: wasp-sting can
cause rhabdomyosis and acute respiratory distress
syndrome. Finding and treating wasp-sting at an early
stage can save lives.
Keywords
: rhabdomyosis, acute respiratory
distress syndrome,wasp-sting
I. TỔNG QUAN
Ong đốt một tai nạn gây ra các biểu hiện
lâm sàng thể đe dọa tính mạng nếu không
được chẩn đoán điều trị kịp thời. Biểu hiện
lâm sàng đa dạng từ những triệu chứng nhẹ n
đau, ban đỏ phù vị trí của vùng da bị đốt,
nổi mề đay toàn thân, phù mạch, kthở, cho
đến những biểu hiện nặng nhưsốc phản vệ. Một
báo cáo tại Trung Quốc trên 1091 trường hợp
ong đốt ghi nhận tổn thương thận 21%, tổn
thương gan 30%, ly giải 24%, n huyết
19,2%; thiểu niệu/vô niệu 7,7%; tiểu huyết sắc
tố 10,2%; tụt huyết áp 4,5%; rối loạn đông máu
22,5%; phù phổi 7,7% [6]. Tlệ tử vong chung
5,1% cao hơn trên nhóm bệnh nhân
nhiều hơn 10 vết đốt. Triệu chứng lâm sàng
mức đ nặng phụ thuộc vào số mũi đốt, loại
ong, vị t đốt, tình trạng sức khỏe của bệnh
nhân, cơ địa (dị ứng).
ARDS phản ứng viêm tại phổi, gây ra tăng
tính thấm của hàng rào phế nang-mao mạch,
được chẩn đoán dựa vào tiêu chuẩn Berlin 2012.
Ly giải ARDS do ong đốt được báo cáo
trong y văn với tỷ lệ rất hiếm (khoảng 7%)
nhưng là một biến chứng nguy hiểm, thường liên
quan với tăng tử vong và xảy ra sau 24-48 giờ bị
ong đốt.
Tương tự các quốc gia đang phát triển trong
khu vực, ong đốt tại Việt Nam xảy ra ngày càng
thường xuyên hơn trở thành một vấn đề sức
khỏe cộng đồng nghiêm trọng. Tuy nhiên những
báo cáo liên quan đến ong đốt, đặc biệt
những trường hợp nặng còn rất ít. vậy cần
nhiều nghiên cứu về vấn đnày nhằm giúp các
bác lâm sàng xây dựng được kế hoạch chẩn
đoán và điều trị kịp thời.
II. GIỚI THIỆU BỆNH ÁN
Bệnh nhân nam, sinh m 1987 (32 tuổi),
nghề nghiệp nông dân, địa chỉ: tỉnh nh Phước.
TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 476 - THÁNG 3 - S 1&2 - 2019
121
Trước nhập bệnh viện Chợ Rẫy 02 ngày, bệnh
nhân đi câu bị ong vẽ đốt 2 lần, hơn 50
vết đốt mặt trong sau 2 cánh tay dọc
theo hông lưng 2 n, sưng đau tẩy đỏ tại
vùng bị đốt. Bệnh nhân được đưa đến bệnh viên
địa phương sau khoảng 6 giờ bị ong đốt. Tại đây
bệnh nhân diễn tiến khó thở tăng dần, sốt cao,
tiểu máu nên được chuyển bệnh viện Chợ Rẫy.
Bệnh nhân nhập cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy
tháng 01/2019 trong tình trạng lơ mơ, tần số tim
70 lần/phút, huyết áp 100/60 mmHg, thở nhanh
nông, co kéo 35 lần/phút, SpO2 60%, nhiệt độ
36,6 độ C. Khám lâm sàng ghi nhận đồng tử còn
phản xạ ánh sáng, kích thích đau đáp ứng chính
xác, phổi ran nổ cả 2 phế trường, nhiều vết đốt
tấy đỏ kèm bóng nước li ti dọc theo mặt trong và
sau 2 cánh tay 2 bên hông lưng. Nước tiểu
màu đỏ sậm khoảng 150 ml/10 giờ. Xét nghiệm
sinh hoá cho thấy tình trạng thiếu u tán
huyết: hồng cầu 5,31 T/L, hemoglobin 137 g/L,
tăng bilirubin (bilirubin tp 4,41 mg/dl) ưu thế
gián tiếp (bilirubin gián tiếp 2,65 mg/dl), LDH
15428,45 U/L; D-dimer 2910 ng/ml; ly giải
vân nặng nề: CPK 68760 U/L, nước tiểu u
bạch cầu, myoglobin niệu >1000 ng/ml. Bệnh
nhân được truyền 1000ml natriclorua 0,9%, sau
đó chuyển lên khoa hồi sức tích cực trong tình
trạng suy đa quan với điểm APACHE II
SOFA lần lượt 18 điểm 10 điểm. X-quang
ngực thẳng cho thấy thâm nhiễm lan toả toàn bộ
2 phổi, khí máu động mạch ghi nhận pH 7,22;
pO2 90 mmmHg; pCO2 58,5 mmHg với FiO2
75% (P/F = 1,2). Men gan AST 6090 U/L, ALT
1848. Định lượng kháng thể ghi nhận tang IgE
(234 mg/dL). Siêu âm tại giường cho thấy chức
năng tâm thu thất trái bảo tồn. Chẩn đoán ARDS
do phản ứng phản vệ từ độc tố ong được đặt ra
dựa theo tiêu chuẩn Berlin 2012 sau khi loại trừ
khả năng phù phổi huyết động dựa vào siêu âm
tim thể tích dịch hồi sức trước đó. Bệnh nhân
được thông khọc m lấn, chế đthở kiểm
soát hoàn toàn, áp dụng chiến lược thông khí
bảo vệ phổi với Vt thấp PEEP cao. Thủ thuật
huy động phế nang được tiến hành 2 lần (CPAP:
PEEP 40 cmH2O trong 40 giây) nhằm đạt mục
tiêu oxy hoá u tối thiểu. BUN creatinine
máu lần lượt 46 3,41 (mg/dl). Bệnh nhân
được tiến hành thay huyết tương ngay sau đó
kết hợp với điều trị thay thế thận liên tục mode
CVVHDF (PE+CVVHDF) tình trạng ly giải
vân nặng suy thận cấp vô niệu. Thể tích
huyết tương tương đông lạnh dùng thay thế
3600ml (1,3 lần thể tích huyết tương người
bệnh) với lưu lượng máu 180ml/phút. Lọc máu
liên tục CVVHDF với Qb 150-200 ml/giờ, PBP 400
ml/giờ, Qd 600 ml/giờ, Qs 600 ml/giờ, UF 50
ml/giờ, kháng đông bằng Heparin.Các điều trị
khác cũng được thực hiện gồm corticosteroid
80mg/ngày giảm liều dần sau 7 ngày, kháng
sinh, dinh dưỡng, cân bằng điện giải. Chức ng
hấp nồng độ CPK, LDH, IgE cải thiện sau
10 ngày điều trị bệnh nhân được cai y thở
rút nội khí quản. Tuy nhiên chức năng thận
không cải thiện. Bệnh nhân phụ thuộc chạy thận
ngắt quãng xen kẽ lọc máu liên tục liều xấp xỉ
30ml/kg/giờtrong 20 ngày tiếp theo. Bệnh nhân
xuất hiện một đợt viêm phổi bệnh viện do
Acinetobacter Baumanni
cần phải thở máy
xâm lấn. Chiến lược thông khí bảo vệ phổi kết
hợp thông khí nằm sấp kháng sinh theo
kháng sinh đ được áp dụng kéo dài 15 ngày.
Sau 30 ngày điều trị, chức năng thận cải thiện,
mọi xét nghiệm sinh hoá trở về bình thường.
Bệnh nhân được rút nội khí quản, chuyển khoa
nội thận tiếp tục theo dõi xuất viện 5 ngày
sau đó.
Hình 1: Vết đốt ong vẽ tại vùng cánh
tay và nước tiểu màu xá xị
III. BÀN LUẬN
Các độc tố của loài ong bao gồmhistamines,
serotonin, phospholipase, hyaluronidase các
kháng nguyên, tất cả đều gây ra các biểu hiện
lâm sàng khác nhau. Khi bị đốt, các biểu hiện
lâm sàng đa dạng ttổn thương da không đặc
hiệu đến sốc phản vệ, thường xảy ra một
người nhạy cảm trước đó. Độc tố do ong đốt
thể dẫn đến sốc phản vệ, một biến chứng
nặng nề xảy ra trong vòng vài giờ đầu sau khi bị
đốt. Tiếp sau đó một loạt các biểu hiện khác
như ly giải cơ vân, tán huyết, đông máu nội
mạch lan tỏa (DIC), hoại tống thận cấp (ATN),
tổn thương thận cấp tính (AKI), hoại tử gan…
tất cả đều đạt đỉnh trong một đến ba ngày [1].
Bệnh nhân trên không xuất hiện sốc phản vệ
nhưng biểu hiện một loạt biến chứng nặng gồm
vietnam medical journal n01&2 - MARCH - 2019
122
tán huyết, ly giải cơ vân nặng gây ra hoại tử ống
thận cấp, tổn thương gan ARDS trong 48 giờ
đầu sau khi bị ong đốt. Ly giải cơ vân và ARDS là
những biến chứng hiếm gặp, chiếm khoảng 7%
được cho hậu quả của độc tố từ ong. Mejia
lez đã báo o về 43 trường hợp suy thận cấp
(ARF) do nhiều vết chích của ong đốt tại châu
Phi, cho thấy các trường hợp suy thận cấp
này xảy ra do hậu quả của ly giải [3]. Vikran
S. Parashar A. đã báo cáo về 35 trường hợp
AKI xảy ra sau nhiều vết ong đốt Ấn Độ
chứng minh AKI hậu quả sau tình trạng ly giải
(62,3%) [5]. Trong số các nghiên cứu đều
cho thấy các đặc điểm m sàng chính của nh
trạng này thiểu niệu (83%) tiểu máu
(57%). Đây cũng những triệu chứng xuất hiện
trên bệnh nhân trong trường hợp này. Bệnh
nhân tăng nồng độ CPK vào ngày th2 của
bệnh 68.760 U/L, và trở về mức bình thường vào
ngày thứ 15 của bệnh.
0
20000
40000
60000
80000
Ny
bệnh thứ
2
Ny
bệnh thứ
4
Ny
bệnh thứ
6
Ny
bệnh thứ
8
Ny
bệnh thứ
12
Ny
bệnh thứ
15
Thời gian của bệnh
Nồng độ CPK trong máu
(U/L)
Biểu đồ 1: Động học CPK trong máu bệnh nhân theo thời gian bị bệnh
Bệnh nhân được thay huyết tương, lọc máu
liên tục, sau 20 ngày điều trị bệnh nhân bắt đầu
tăng dần thể tích nước tiểu. Tuy nhiên chức
năng thận chỉ bắt đầu cải thiện sau 30 ngày điều
trị. Bệnh nhân được chuyển sang khoa Nội thận
tiếp tục theo dõi. chế chính gây nên tình
trạng ly giải hiện nay vẫn chưa được biết rõ,
thể do tác động của độc chất n tế bào
gây ra hậu quả này [2]. chế y tổn thương
đa quan do ong đốt thể liên quan đến ảnh
hưởng trực tiếp của độc tố lên quan hoặc
phản ng viêm quá mức của thể đối với mỗi
thành phần trong chất độc. Lọc u liên tục t
lâu được sử dụng với mục đích loại bỏ nội độc tố
vi khuẩn hỗ trợ chức năng thận trong nhiễm
khuẩn huyết. Hai cộng sự [7] tiến nh
nghiên cứu trên 23 bệnh nhân ong đốt được
điều trị kết hợp giữa hấp phụ (HF) lọc máu
liên tục (CVVHDF) hoặc thay huyết tương (PE) và
lọc u liên tục (CVVHDF). Tác giả kết luận cả
hai kiểu phối hợp trên đều hiệu quả cải thiện
chức năng quan thông qua cải thiện điểm
SOFA, c xét nghiệm chức năng từng quan
giảm nồng độ hoá chất trung gian y viêm
như IL-1, IL-6, IL-8, IL-10, TNF-. Phối hợp
PE CVVHDF giúp loại bỏ nội độc tố các
chất trung gian gây viêm tốt hơn.
Hội chứng nguy kịch hấp cấp trên bệnh
nhân này được chẩn đoán ngay khi nhập viện
Chợ Rẫy (ngày 2 của bệnh). Chẩn đoán ARDS
nặng dựa theo tiêu chuẩn của Berlin 2012 với tỉ
số P/F = 120. Bệnh nhân được thở máy xâm lấn
thông khí bảo vệ phổi. Sau điều trị, khí máu
động mạch X-quang phổi bắt đầu được cải
thiện vào ngày thứ 11 của bệnh, tình trạng
hấp cải thiện dần bệnh nhân được rút nội khí
quản. ARDS do ong đốt tình trạng hiếm gặp
nhưng liên quan với tử vong rất cao. Ting
cộng s [6] báo cáo trên 145 bệnh nhân ong
đốt, trong đó 11 trường hợp ARDS tất cả
đều diễn tiến tvong. Cuihong báo cáo tổng kết
1091 trường hợp ong đốt, trong đó chỉ 17
trường hợp xuất hiện ARDS. Các tác giả ghi nhận
các trường hợp sốc không do phản vệ thường
kèm suy đa cơ quan (gồm cả ARDS), khó điều trị
hơn tử vong cao hơn so với sốc phản vệ
(44% so với 25%). Sharmila R. cộng sự cũng
đã báo cáo về một trường hợp tử vong của bệnh
nhân người n Độ 12 tuổi xuất hiện suy đa
quan bao gồm ARDS, ARF, rối loạn chức năng
gan tán huyết sau một lần ong đốt [4]. Theo
tác giả, cơ chế chính xác của tổn thương phổi do
ong đốt không ng, nhưng nhiều giả
thuyết cho rằng sự giải phóng lượng lớn các hóa
chất trung gian gây viêm dẫn đến các phản ứng
toàn thân do tổn thương tế bào qua trung gian
độc tố đóng vai trò quan trọng.
IV. KẾT LUẬN
Ong đốt một trong những tai nạn ngày
càng gia tăng tại các nước đang phát triển, trong
đó Việt Nam. Bên cạnh các triệu chứng
TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 476 - THÁNG 3 - S 1&2 - 2019
123
thường gặp, ong đốt cũng khả năng gây ra
tình trạng ly giải ARDS. Trên một bệnh
nhân bị ong đốt, cần theo dõi các dấu hiệu thiểu
niệu tiểu máu, định lượng nồng độ CPK để
phát hiện ly giải cơ. K thở triệu chứng
đầu tiên cảnh báo cần theo dõi làm đầy đ
các xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán
điều trị ARDS. Các biến chứng này đều thể
gây tử vong cho bệnh nhân nếu không được biết
đến và điều trị kịp thời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dhakal AK, Basnet NB, Shrestha D. Acute
kidney injury due to multiple wasp stings in an
eight year-old child. J Kathmandu Med College
2013;2:1457.
2. Dhanapriya J, Dineshkumar T, Sakthirajan R,
Shankar P, Gopalakrishnan N, Balasubramaniyan T.
Wasp sting-induced acute kidney injury. Clin
Kidney J 2016;9:2014
3. Mejıa Ve´lez G. Acute renal failure due to
multiple stings by Africanized bees. Report on 43
cases. Nefrologia 2010;30:531 8.
4. Sharmila RR, Chetan G, Narayanan P,
Srinivasan S. Multiple organ dysfunction
syndrome following single wasp sting. India J
Pediatric 2007;74:11112
5. Vikrant S, Parashar A. Acute kidney injury due to
multiple hymenoptera stingsa clinicopathological
study. Clin Kidney J 2017;10: 5328
6. Xie C, Xu S, Ding F, Xie M, Lv J, Yao J, et al.
(2013), "Clinical features of severe wasp sting
patients with dominantly toxic reaction: analysis of
1091 cases".
PLoS One,
8(12), e83164.
7. Yuan H, Chen S, Hu F, Zhang Q (2016),
"Efficacy of Two Combinations of Blood Purification
Techniques for the Treatment of Multiple Organ
Failure Induced by Wasp Stings".
Blood Purif,
42(1), 49-55.
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG RI LON MT S LĨNH VỰC
NHẬN THỨC TRÊN BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH VÔ CĂN Ở NGƯỜI LỚN
Nguyễn Văn Hướng*, Lê Quang Cường*, Nguyễn Kim Việt*
TÓM TẮT34
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm tả đặc điểm lâm
sàng rối loạn một số lĩnh vực của nhận thức trên bệnh
nhân động kinh căn người trưởng thành. Đối
ợng phương pháp: 200 bệnh nhân được chẩn
đoán động kinh vô căn dựa vào lâm sàng và chụp cộng
hưởng từ sọ não. Các bệnh nhân được làm trắc nghiệm
đánh giá các lĩnh vực nhận thức của hội Tâm thần học
Hoa kỳ. Kết qu: rối loạn trí nhớ (27%). Hay gặp nhất
là rối loạn trí nhớ tức thời (94,4%), tiếp đến trí nhớ
ngắn hạn (74,1%), ít gặp nhất rối loạn trí nhớ dài
hạn (50%). Rối loạn định hướng 29%. Trong đó rối
loạn định hướng thời gian hay gặp nhất chiếm 81%, rối
loạn định hướng không gian chiếm 62,1%. Rối loạn
ngôn ngữ 11%. Trong đó rối loạn ngôn ngbiểu hiện
chiếm tỷ lcao nhất 95,45%. Số bệnh nhân không sử
dụng được điện thoại không tự sử dụng được các
phương tiện giao thông một mình chiếm tỷ lệ cao nhất
tới trên 80%. Kết luận: Rối loạn trí nhớ chiếm 27%
trong nhóm nghiên cứu, trong đó hay gặp nhất rối loạn
trí nhngắn hạn. Rối loạn định hướng 29%, trong
đó hay gặp nhất rối loạn định hướng thời gian. Rối loạn
ngôn ngữ 11% và chủ yếu rối loạn ngôn ngữ biểu hiện.
Không sử dụng được các phương tiện trong sinh hoạt
ng ngày chiếm 21,5%.
* Trường Đại học Y Hà nội
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Văn Hướng
Email: vanhuong73@hotmail.com
Ngày nhận bài: 7.01.2019
Ngày phản biện khoa học: 6.3.2019
Ngày duyệt bài: 14.3.2019
Từ khóa:
động kinh, lĩnh vực nhận thức
SUMMARY
THE STUDY CLINICAL CHARACTERISTICS
OF DISORDERS SOME AREAS OF COGNITION
WITH IDIOPATHIC EPILEPSY IN ADULTS
Objective: The study aims to describe clinical
characteristics of disorders of some areas of cognition
with idiopathic epilepsy in adults. Subjects and
methods: 200 patients were diagnosed with
idiopathic seizures based on clinical and cranial
magnetic resonance imaging. Patients were tested to
assess the cognitive areas of the American Psychiatric
Association. Results: memory disorders (27%). The
most common are immediate memory disorders
(94.4%), followed by short-term memory (74.1%),
the least common is long-term memory disorder
(50%). Orientation disorder 29%. In which the most
common orientation - times disorder accounted for
81%, spatial orientation disorder accounted for
62.1%. Language disorder 11%. In which, expression
disorder language accounted for the highest rate of
95.45%. The number of patients who are unable to
use the phone and cannot use the vehicles themselves
alone account for the highest percentage of over 80%.
Conclusions: Memory disorders account for 27% of
the research group, the most common of which are
short-term memory disorders. Orientation disorder has
29%, of which the most common time-oriented
disorder. 11% of language disorders and mainly
speech dysfunction. Unable to use vehicles in daily
activities accounted for 21.5%.
Keywords:
Epilepsy, areas of cognition
I. ĐẶT VẤN ĐỀ