intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những mối tương đồng giữa chất bảo quản và chất kháng sinh

Chia sẻ: | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:12

63
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chất chống oxy hóa hay chất ổn định thực phẩm, sự hư hỏng của lipit bởi oxy,... là những nội dung chính trong tài liệu "Những mối tương đồng giữa chất bảo quản và chất kháng sinh". Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những mối tương đồng giữa chất bảo quản và chất kháng sinh

  1. NHỮNG MỐI TƯƠNG ĐỒNG GIỮA CHẤT BẢO QUẢN VÀ  CHẤT KHÁNG SINH Những cơ  chế   ức chế  của các chất kháng sinh đã được biết là có liên   quan đến một trong hai lĩnh vực hoạt động sau: (1)  ảnh hưởng đến sự  hình  thành, tính thẩm thấu và tính bền vĩnh của thành tế  bào. (2) Làm mất tính tổ  chức của các vi cấu trúc bên trong tế bào. Có rất ít dữ liệu có thể  so sánh như  chất bảo quản thực phẩm được sử  dụng thông thường. Nhưng dường như  chúng có thể  làm việc thông qua những cơ  chế  tương tự. Nếu chấp nhận dữ  liệu từ  chất kháng sinh như  là những nguyên lý sinh học thông thường được  minh hoạ sau. Đó   là   sự   liên   quan   của   thành   tế   bào   được   rút   ra   từ   thí   nghiệm   của  Stetzenbegr and Bennett vàTruby & Bennett trong nghiên cứu phenol. khả  năng  ức chế của phenol có thể tương quan với hệ số phân bố giữa các pha hữu cơ và   hơi và sự  phân bố  thiên về  pha hữu cơ  là kết quả  của Hydrogen liên kết giũa   phenolic hydroxyl và pha hữu cơ bởi lực hút prôton. Do vậy nó đã cho biết rằng  Lipit vi khuẩn có khả năng chứa các hợp chất phenolic có liên kết hydro là một  chức năng tự nhiên và hàm lượng Lipit. Khái niệm đó đã được làm sáng tỏ trong 1 nghiên cứu về trichloro phenol   & Staphylococus aurcus trong nuôi cấy có trộn lẫn với 1 vài loài VK gram âm  như  protcus mirabilis, Salmonella schottmucllcri và acrobacter acrogenes. Trong  hỗn hợp nuôi cấy cần 1lượng trichlorophenol lớn hơn còn khi các tế  bào gram  âm bị  khử   bởi nhiệt độ  thì cần 1 lượng ít hơn một chút và lượng này cần ít 
  2. hơn khi tế  bào gram âm bị  khử  mỡ. Hàm lượng chất béo của các tế  bào gram   âm có liên quan tới yêu cầu lượng trichlorophenol trong hỗn hợp nuôi cấy. Các  tác giả  này hơn nữa đã chỉ  ra rằng protein và cacbonhydrat  ở  thành tế  bào xác   định tính nhạy cảm của tế bào với phenol, H liên kết giữa các thnàh phần cấu   tạo của thành tế  bào và phenol ảnh hưỏng tới khả năng của các hợp chất. các  nghiên cứu này đã đề  xuất rằng các hợp chất paraben không làm  ức chế   bởi  cùng một cơ  chế  sinh hoá như  là của axit bezoic; hợp chất Paraben như là các  loại phenol. Trong trường hợp của axit sorbic, Melnick và cộng sự của ông đã đề nghị  rằng axit này đưa vào hoạt động tĩnh của nó nhờ sự tham gia của enzym khử H   ở tế bầo mà thông thường là khử H của axit béo như là bước đầu tiên trong quá  trình chuyển hoá. Tonge đã trích dẫn một giả  thuyết của Kodiced rằng axit béo không no  bám trên màng tế  bào chất gây trở  ngại đến cơ  chế  vận chuyển, nhưng ông  thiên về  cơ  chế  mà  ở  đó quá trình hình thành gốc tự  do là do việc loại bỏ  H +  của nhóm methylene không bền,   thành liên kết đôi. Các gốc này kết hợp với  oxy để  tạo thành các peroxit mà các chất này lần lượt phân huỷ  để  tạo thành   các gốc tự do mới, các gốc tự  do đó gắn chắc vào các vị  trí trên màng tế  bào.   Trong khi chưa có 1 thuyết rõ ràng nào được đưa ra thì Bosund đã nghiên cứu   một cách kỹ lưỡng về phương thức hoạt động của axit benzoic và salicylic. ông  đưa ra một giả  thuyết rằng sự hoạt động của chúng có thể  liên quan đến khả  năng hoà tan cao lipit của chúng mà lẽ ra phải làm cho chúng tĩch luỹ trên màng   tế bào hoặc trên các cấu trúc khác nhau và bề mặt của tế bào vi khuẩn.
  3. Sau này thuyết đó được biết đến nhờ  việc quan sát thu nhận lăp đi lập  lại mà các chất bảo quản có tính axit như benzoic, sorbic.. là rất linh động ở pH  thấp. Nó thường được nghĩ rằng các phân tử  không phân ly có  ảnh hưởng   nhiều hơn các phân tử bị ion hoá. Bosund lưu ý rằng các phân tử không phân ly   có khả  năng hoà tan trong chất béo cao và hoà tan trong nước thấp so với các   ion âm. Nghiên cứu có ý định làm sang tỏ phương thức hoạt động hoá sinh của   các chất bảo quản thực phẩm mà đã được thừa nhận dường như khó khăn hơn   so với việc làm rõ phương thưc hoạt động của chất kháng sinh. Các chất bảo quản khá đơn giản về  quan hệ, các hợp chất không đặc  biệt trong sự tương phản đối với các phức hợp, các cấu trúc đăc trưng cao trong   các chất kháng sinh. Vì vậy các chất bảo quản có thể  được mong đợi để  tái   hoạt động kém hơn  ở  các vị  trí kết gắn của tế  bào và thậm trí kém đặc trưng   hơn, nhưng rõ ràng đó là sự  cần thiét để  áp dụng cho các nghành hoá sinh đối   với việc nghiên cứu các hợp chất này để  hiểu rõ hơn chức năng của chúng.   Những nghiên cứu có thể tạo ra các chất bảo quản mới có đặc trưng và giá trị  cao hơn. CHƯƠNG 4
  4. Chất chống ôxi hóa hay chất ổn định thực phẩm Lời giới thiệu     Công nghệ  chống ôxy hóa đóng vai trò quan trọng trong việc sử  dụng/dùng  các chất béo và dầu như  là các nguyên liệu thô trong quá trình chế  biến   thực phẩm và quá trình tiếp thị các thực phẩm chứa các chất béo trong các  điều kiện hiện đại. Hiểu theo nghĩa thông thường, việc sử  dụng các chất  chống ôxi hóa đúng cách và có hiệu quả  phụ  thuộc vào sự  hiểu biết cơ  bản của: (1) hóa học về các chất béo và dầu, (2) cơ chế của sự ôxi hóa, và  (3) chức năng của một chất chống ôxi hóa để chống lại sự hư hỏng do oxi  hóa. Các chất chống ôxi hóa, để  có hiệu quả, thì phải sử  dụng chung với   những nguyên liệu thô tốt, đúng phương pháp, quá trình bao gói và bảo   quản ở điều kiện thích hợp. Chúng sẽ không làm tăng chất lượng của sản  phẩm  có giá trị  thấp. Phương  pháp chống  ôxi hóa tốt  được  phổ  biến,  không gây ra mùi, vị hoặc màu sắc cho thực phẩm hoàn chỉnh khi sử dụng  ở các điều kiện thích hợp.  Các nhân tố gây ảnh hưởng đến quá trình ôxi hóa và độ ổn định mùi vị của thực   phẩm giàu chất béo sẽ được miêu tả, nhưng sẽ  được tập trung nhiều hơn vào   sự thảo luận về công nghệ chống ôxi hóa giúp cho người đọc giải quyết những   vấn đề bắt gặp trong xử lý thương mại các chất béo và thực phẩm giàu béo. Sự  tham khảo đối với những bài báo gốc và những bài tổng hợp đã được tập hợp 
  5. lại trong một tài liệu chi tiết hơn cho những ai quan tâm hoặc cho sự thảo luận   về khía cạnh lý thuyết của ứng dụng các chất chống oxi hóa. Sự ôxy hóa        Thành phần chính của hầu hết thực phẩm gồm có cacbonhydrat, chất béo,  protein và nước. Trong khi mối quan tâm cơ  bản của chúng ta là quá trình oxi  hoá làm giảm giá trị  mùi và vị  của chất béo và các thành phần chất béo trong   các loại thực phẩm, một cuộc thảo luận chung về các kiểu ôxi hoá khác nhau  sẽ cung cấp để người đọc định hướng và có thể chẩn đoán được những vấn đề  đặc trưng. Các kiểu oxi hóa khác nhau sẽ  được thảo luận riêng rẽ; tuy nhiên,  chúng thường xảy ra đồng thời, đặc biệt trong các thực phẩm phức tạp/rắc rối   và trong khá nhiều trường hợp thường kèm theo sự hư hỏng không do quá trình  oxi hóa. Cacbonhydrat        Sự oxi hóa thành phần cacbonhydrat của hầu hết các sản phẩm thực phẩm   được nhận ra bởi sự biến đổi màu sắc và mất mùi. Sự đổi màu này, thường có   màu nâu hoặc nâu vàng nhưng thường xuất hiện sự chuyển dần sang màu xám  hoặc màu vàng, có thể phát hiện ra bởi hai kiểu phản  ứng phổ biến. Kiểu thứ  nhất, được biết như  là phản  ứng Maillard hoặc phản  ứng “nâu hoá”, thường  được coi là sự  phản  ứng giữa cacbonhydrat và các amino axit và/hoặc các cấu  tử  nitơ khác nhau và các axit hữu cơ. Sự đổi màu của các hoa qủa tươi đã bóc 
  6. vỏ và rau củ chứa đựng lượng cacbonhydrat mức cao, thông thường là do phản  ứng kiểu – Maillard. Sự đổi màu tương tự  được thấy trong một vài sản phẩm  cá đóng hộp và cho rằng nguyên nhân là do phản  ứng của riboza tự  do với   protein amino axit. Sự  kiểm soát kỹ  lưỡng nhiệt độ  chế  biến thường được  dùng để giảm việc chuyển thành màu nâu trong các sản phẩm cá đóng hộp. Các   sản phẩm hải sản đã tiệt trùng bằng chiếu xạ  bị  đổi màu rất xấu là do phản   ứng nâu hóa không xúc tác bởi enzyme. Chất chống oxy hóa và hợp chất sulfur  đioxyt được tìm thấy để làm giảm sự đổi màu này trong các miếng chả cá tuyết   đã chiếu xạ. Nói chung, phản ứng nâu hóa kiểu Maillard có thể bị ức chế bằng   cách sử dụng axit ascorbic, citric và các axit hữu cơ khác (………..)        Kiểu oxy hóa cacbonhydrat thứ hai là thường kết hợp với các enzyme khác   nhau, như là peroxidaza và catalaza. Phản ứng nâu hóa này thường hay kèm theo  sự  mất hương – vị  được mô tả  như  “ hay­like” (giống như cỏ  khô). Chất phụ  gia thường không có hiệu quả trong việc ngăn chặn enzyme gây ra sự đổi màu   hoặc mất mùi. Những phản  ứng loại này thường bị ức chế bởi quá trình xử  lý   nhiệt để khử hoạt tính những enzyme đó (…………)               Kiểu   đổi   màu   thứ   ba   thường   tìm   thấy   trong   các   thực   phẩm   chứa   cacbonhydrat là sự  mất màu do quá trình oxy hóa của các sắc tố  tự  nhiên. Các   sắc tố  này (carotenoit,...) trải qua quá trình oxy hóa bởi các phản  ứng dạng –  gốc tự  do. Nhiều bằng chứng đã được tập hợp lại cho biết rằng sự  mất màu   trong các thực phẩm có hàm lượng carotene cao có thể bị   ức chế  bằng cách sử  dụng các chất chống oxy hóa ứng với loại ­ thực phẩm. Tuy nhiên, vấn đề chủ  yếu, là tìm ra phương pháp để đạt được sự tiếp xúc thích hợp giữa chất chống 
  7. oxy hóa hòa tan trong dầu và carotene mà được phân tán ở khắp nơi trong th ực  phẩm chứa hàm lượng nước khá cao. Các chất béo        Trong khi sự hư hỏng do vi sinh vật là một nhân tố quan trọng nhất để đánh  giá được việc bảo quản phần cacbonhydrat và protein của các sản phẩm thực   phẩm, thì sự oxy hóa (đặc biệt sự oxy hóa không khí) là nhân tố chính trong quá   trình giảm chất lượng của chất béo và các phần béo của thực phẩm. Các chất   béo và các hợp chất giống chất béo bị  hư  hỏng do oxy hóa mà kết quả  là mất  hương vị và mất mùi thơm đặc trưng. Trong những trường hợp cá biệt các độc  tố tạo ra từ sản phẩm phụ do phản  ứng oxy hóa. Nói chung, quá trình oxy hóa   chất béo không tiến tới điểm mà các sản phẩm phụ có độc tố là nhân tố. Phần  béo đó tác động trở lại ở bất kỳ thời gian đã định là khá nhỏ. Nó được đánh giá  rằng không nhiều hơn 10% phân tử  không no có thể  bị  đứt gãy do sự  oxy hóa  không khí. Tuy nhiên, các sản phẩm do sự  oxy hóa chất béo có hiệu lực nhận  cảm và ảnh hưởng bất lợi đến tính tiêu thụ của thực phẩm.        Sự oxy hóa chất béo có thể chia thành bốn loại: 1. Sự thủy phân: Sự tạo thành của glycerol và các axit béo tự do thường   đặc trưng bởi mùi “xà phòng”. Phản  ứng thuận nghịch này được xúc  tác bởi axit, nhiệt độ cao và enzyme lipolytic. Các triglyxerit cũng như  axit béo có các đoạn chuỗi ngắn hơn (6­12 nguyên tử cacbon) thường  mất mùi vị sản phẩm do sự thủy phân. 2. Sự  ôi hóa: một thuật ngữ   được sử  dụng rộng rãi trong công nghiệp  thực phẩm. Thông thường nó bao trùm bởi rất nhiều mùi ôi khó chịu, 
  8. thường được tạo thành do quá trình tự oxi hóa của các axit béo không  no dẫn đến một hỗn hợp các cấu tử dễ bay hơi. 3.  Sự  hồi biến: một kiểu của sự giảm chất lượng hương và vị  thường   liên quan với rau, cá và dầu không no cao khác. Sự  giảm chất lượng  hương vị này xảy ra là do sự oxy hóa của axit loại – linolenic. 4.  Sự trùng hợp: một thuật ngữ thường được dùng để mô tả sự liên kết  ngang giữa hai nguyên tử  các bon của các chất béo không no. Chất   trùng hợp cũng được tạo thành bởi một liên kết oxy giữa hai chuỗi   axit béo tại vị  trí không no. Cả  hai loại chất trùng hợp có thể  chứa   cấu trúc vòng.        Chất chống oxy hóa có hiệu quả trong việc giảm sự ôi hóa và sự trùng hợp,   nhưng không có tác dụng trong sự thủy phân hay sự hồi biến. Proteins ­ chất đạm         Sự ôxy hóa của protein thực chất là một nhân tố thường không được nghĩ  đến trong sự mất mùi và vị trong các sản phẩm thực phẩm. Protein bị hỏng bởi   các enzyme thủy phân protein và bị biến tính (sự phân cắt các liên kết tĩnh điện)   bởi nhiệt và các phản ứng thủy phân. Chúng không có cấu trúc liên kết đôi mà  là oxy không bền. Các sắc tố  thường kết hợp với protein, như  là sắc tố  hem  (C34H33O4N4Fe), bị oxy hóa và nhanh chóng thay đổi màu sắc. Fox mô tả sự lấy  oxy   và   sự   chuyển   hóa   tương   hỗ   bởi   sắc   tố   hem   để   oxymyoglobin   và   metmyoglobin được chuyển hoán liên tục. Sự  giảm sắc tố  màu trong trường  hợp này không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ loại chất phụ gia nào. Do vậy, nh ư  sẽ  trình bày sau, hemoglobin là một chất xúc tác có hiệu lực cho quá trình oxi hóa 
  9. trong điều kiện tự bản thân chúng, các chất kìm hãm xúc tác khác nhau được sử  dụng để ngăn chặn sự đổi màu trong thịt không thành công. Thông thường, các   vật liệu bao gói có tính trao đổi khí chọn lọc sử dụng để điều chỉnh màu trong  các sản phẩm chứa hemoglobin khác nhau. Sự hư hỏng của lipit bởi Oxy  Sự  oxy hóa không khí (sự  tự  oxy hóa) của chất béo và các thực phẩm  kiểu – chất béo thường có liên quan hoàn toàn đến các liên kết béo không no.  Các chất béo no bị oxi hóa dần dần, và trong một vài trường hợp, sự nhiễm mùi  và vị ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm cuối. Tuy nhiên, thông thường   quá trình oxy hóa chất béo mà tạo ra các hương mùi được mô tả  bởi các nhà   công nghệ thực phẩm như “ôi khét” hoặc “reverted”, liên quan gần như toàn bộ  với phần không no của chuỗi béo. Dưới đây là các nhóm chủ yếu của chất béo  bị ảnh hưởng bởi sự oxy hóa: Glyxêrit: Swern mô tả   từ “chất béo” như  chất rắn hay chính xác hơn là chất bán  rắn, triglyxêrit ở nhiệt độ thường, nhưng trái lại từ “dầu” được sử dụng để mô   tả  triglyxêrit là chất lỏng dưới những điều kiện tương tự. Không có sự  khác  biệt rõ ràng được tạo ra giữa các khái niệm này bởi tính chất hóa học của chất  béo và dầu. Triglyxêrit tạo thành nhóm quan trọng nhất của chất béo được sử  dụng trong công nghiệp thực phẩm.           Về  cấu trúc, triglyxêrit là sản phẩm ngưng tụ  của một phân tử  glycerol   với ba phân tử axit béo để tạo ra một phân tử triglyxêrit với nước (hình 1).
  10. Phản ứng dạng cấu trúc được chú giải ở hình 1 mà ở đó trọng lượng trội  hơn trong phân tử glyxêrit là phần axit béo. Các axit béo đóng góp từ 94 – 96%   tổng trọng lượng phân tử  và bao gồm phần phản  ứng, đặc biệt từ  quan điểm   về sự ổn định. Tính chất hóa học của chất béo và dầu là một phạm vi rất rộng  thuộc hóa học các axit béo của chúng. Chú thích đặc biệt phần béo không no  của các chuỗi axit béo được chỉ ra ở hình 1; là những vị trí hoạt hóa nhất mà bị  ảnh hưởng bởi oxy và hyđro.  Các chất béo tự nhiên chủ  yếu gồm các triglyxêrit hỗn hợp, đó là những   phân tử chứa nhiều hơn một axit béo, như là oleic và palmitic. Tỷ lệ giữa phần   tử axit béo và thành phần cấu tạo nên phần tử glyxerit ảnh hưởng lớn đến các  tính chất lý học bao gồm sự  ổn định cho đến sự  tự  oxy hóa. Nhiều tài liệu đã   mô tả thành phần cấu tạo của các chất béo khác nhau trong thực phẩm. Swern   đã liệt kê thành phần cấu tạo của một vài chất béo chính trong thực phẩm. Mono­ và diglyxerit không tìm thấy nhiều trong chất béo, trừ khi chúng đã  bị thủy phân, một lượng nhỏ được tìm thấy ở hỗn hợp với triglyxerit trong hầu   như tất cả các chất béo. Hỗn hợp của mono­ và diglyxerit được tạo ra dễ dàng   từ các axit béo hoặc chất béo và glyxerol, và được sử dụng rộng rãi trong công  nghiệp chế  biến thực phẩm như  tác nhân làm thay đổi kết cấu. Hiện nay sản   phẩm thương mại chứa trên 90% monoglyxerit có giá trị. Mono­ và diglyxerit   chứa một nửa axit béo không no và, do đó dễ bị oxy hóa theo một cách tương tự  thành triglyxerit. Photphatit:
  11. Photphatit có liên quan đến chất béo và dầu trong cả mô thực vật và mô  động vật. Chúng bao gồm một rượu polyhydric mà bị este hóa với một axit béo   và với axit photphoric. Axit photphoric kết hợp lần lượt với một hợp ch ất ch ứa   gốc nitơ, như  là choline, betaine hoặc ethanol – amin. Hai photphatit phổ biến   nhất là lecithin và cephalin ( hình 2). Chú  ý rằng cấu trúc của photphatit khá giống với  triglyxerit (hình 1).  Phần không no của axit béo là tiêu điểm cho oxy tấn công. Photphatit tạo nên  khoảng 1­2% của nhiều dầu rau thô và phần trăm chất béo động vật cao hơn.  Ví dụ  như  lòng đỏ  trứng chứa xấp xỉ  20% photphatit và dễ  dàng bị  oxy hóa  trong những điều kiện nào đó.  Các sắc tố: Lượng kiến thức đáng kể  đã được phát triển trên các loại sắc tố  khác  nhau trong thực phẩm. Một vài loại tốt nhất được biết là carotenoit, như  là   caroten và lycopen. Cấu trúc của   caroten được chỉ ra ở hình 1.  Lưu ý là phần không no của phân tử này dễ  dàng bị ảnh hưởng bởi oxy.  Beta caroten thay đổi màu sắc từ  màu đỏ  cam khá sẫm (cường độ  màu phụ  thuộc vào cấu tạo của caroten) tới sản phẩm bị oxy hóa mà có màu nhạt, xám  hơi vàng. Vì caroten là một trong những sắc tố có lợi, oxi hoá trỏ nên rất quan   trọng trong việc duy trì chất lượng.
  12. Tocopherol Tocopherol là một  trong những chất chống oxi hoá tự  nhiên rất quan   trọng và có phổ biến trong cả mô động vật và thực vật. Dầu thực vật chứa một  nồng độ  cao các chất oxi hoá tự  nhiên, bao gồm tocopherol cao hơn nhiều so   với động vật do đó thường ổn định hơn trong việc giảm sự oxi hoá.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0