Nuôi cá rô phi xuất khẩu

- hướng đa dạng hóa sản

phẩm mới

Trong vụ tranh chấp cá tra, cá ba sa Việt nam vào Mỹ, cuối

tháng 7/2003 sẽ có phán quyết cuối cùng từ phía Mỹ. Dù các

cơ quan chức năng Hoa Kỳ có kết luận như thế nào đi nữa thì

một điều rất xác thực là: Việt Nam không bán phá giá, việc

nhập khẩu cá tra, basa…của Việt Nam vào Mỹ không gây

thiệt hại cho ngành sản xuất cá nheo của Mỹ ai cũng có thể

nhận biết được.

Thế nhưng, hậu quả của vụ kiện này đã gây thiệt hại rất lớn

cho ngành Thủy sản nói chung và nghề nuôi cá bè đang phát

triển mạnh ở Vĩnh Long nói riêng.Để tránh và hạn chế tối đa

rủi ro do chỉ có ít sản phẩm từ một đối tượng truyền thống

như cá tra, cá ba sa như hiện nay thì việc mở rộng thị trường

và đa dạng hóa sản phẩm từ nhiều đối tượng để tạo ra những

loại sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường thế

giới là một chiến lược tối cần thiết mà nhà chế biến và nhà

sản xuất nguyên liệu phải hoạch định. Và một trong những

loại nguyên liệu có khả năng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu là cá

rô phi.

Tại Hội nghị Quốc tế về Kỹ thuật và Thương mại cá rô phi đã

được tổ chức vào ngày 28-30/5/2001 (Kuala Lumpur,

Malaysia) đã nhận định cá rô phi là một đối tượng đã được

thừa nhận có khả năng phát triển rất lớn và là sản phẩm có

nhu cầu rất cao trong những năm tới trên nhiều thị trường thế

giới như Mỹ, Nhật Bản và một phần ở Châu Âu.

Đứng đầu là Mỹ- thị trường nhập khẩu các sản phẩm cá rô

phi lớn nhất thế giới: năm 1999, nhập khẩu 37.575 tấn; năm

2000 là 40.500 tấn; năm 2001 nhập 70.000 tấn.. Nhật Bản-

chuyên tiêu thụ các mặt hàng cá rô phi cao cấp, nhất là cá rô

phi đỏ: năm 1999, nhập 507 tấn.. Thị trường tiêu thụ lớn nhất

của Châu Âu là Anh, kế đến Đức, Pháp, Bỉ, Italia…đã nhập

270 tấn năm 1999.Sản lượng nuôi cá rô phi trên thế giới năm

1990 đạt trên 400 ngàn tấn, năm 1995 đạt trên 800 ngàn tấn,

năm 1999 đạt 1,1 triệu tấn, trong đó Châu Á chiếm trên 70%,

riêng Trung Quốc là nước dẫn đầu với gần 50% sản lượng

thế giới với năng suất đạt 6 tấn/ha và Đài Loan là nước xuất

khẩu cá rô phi lớn nhất thế giới với năng suất nuôi trong ao

đạt 12 tấn/ha.

Trên cơ sở dự báo về khả năng sản xuất và nhu cầu thị trường

thế giới trong những năm tới, Bộ Thủy sản đã xác định đây là

đối tượng nuôi cần được chú ý phát triển mạnh để đưa mặt

hàng cá rô phi nhanh chóng có sản lượng hàng hóa lớn và trở

thành một trong những sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao..

Trước mắt, trong năm 2002-2003, đưa khoảng 13.000 –

15.000 ha (khoảng 3% diện tích nuôi nước ngọt) mặt nước

của khu vực ĐBSCL vào nuôi cá rô phi hàng hóa để đạt sản

lượng 120.000-150.000 tấn, chế biến xuất khẩu khoảng

70.000 – 100.000 tấn nhằm đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu

100 –120 triệu USD từ con cá này.

Vĩnh Long có tiềm năng rất lớn về nuôi thủy sản nước ngọt,

ngoài tôm càng xanh, cá tra, những giống loài có giá trị kinh

tế cao ngày càng được người nuôi chú ý để thích ứng với

nhịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp đang ngày

càng sôi động của tỉnh nhà, trong đó có cá rô phi đỏ (cá điêu

hồng) và cá rô phi được cải thiện di truyền (GIFT,

Genetically Improved Farmed Tilapia) đã mở ra tiềm năng

nuôi xuất khẩu đầy triển vọng do cá tăng trưởng nhanh, kích

thước thương phẩm lớn (sau 6 tháng nuôi có thể đạt kích cỡ

thương phẩm từ 0,5-0,6kg/con), có ngoại hình đẹp, tỉ lệ thịt

cao, chất lượng thịt ngon.

Tuy là loài thủy sản nước ngọt, nhưng chúng có thể sống và

phát triển cả trong môi trường nước lợ, mặn có nồng độ muối

tới 32%o (thích hợp nhất là 0- 25%o), khả năng chịu nhiệt từ

14- 40ºC (thích hợp cho cá phát triển từ 25- 35ºC).

Riêng cá rô phi dòng GIFT có khả năng chịu được ở vùng

nước có hàm lượng Oxy thấp hơn 1mg/l, ngưỡng gây chết cá

từ 0,3- 0,1mg/l.,phát triển tốt trong khoảng 2-5 mg/l..

Giới hạn pH từ 5-11, nhưng thích nghi nhất là 6,5-7,5.Tất cả

các loài rô phi đều có tính ăn tạp, tuy nhiên thức ăn ưa thích

của rô phi là những sinh vật thuỷ sinh lơ lửng trong nước.

Ngoài ra rô phi còn có khả năng sử dụng rất hiệu quả những

loại thức ăn do con người cung cấp như cám, tấm, các loại

rong bèo (bèo tấm, bèo hoa dâu), bột cá tạp và các phụ phẩm

nông nghiệp khác. Đây là đặc điểm rất thuận lợi cho nghề

nuôi cá.

Lượng thức ăn hàng ngày khoảng 3-7% trọng lượng thân (tùy

theo cỡ cá) chia ra làm 3-4 lần trong ngày.Khi nuôi thâm

canh và bán thâm canh, phải cho cá ăn thức ăn có hàm lượng

đạm cao (20-35% Protein), đây là yêu cầu kỹ thuật rất quan

trọng quyết định đến năng suất và hiệu quả kinh tế của người

nuôi.

Tốc độ sinh trưởng của cá rô phi đỏ và rô phi dòng GIFT tùy

thuộc vào nhiệt độ môi trường nước, thức ăn, mật độ thả và

kỹ thuật quản lý chăm sóc. Khi nuôi thâm canh cá sẽ lớn

nhanh hơn nuôi bán thâm canh hay nuôi ghép. Sau 5-6 tháng

nuôi đạt cỡ 400-600gr/ con trở lên.Tuy là đối tượng dễ nuôi

do có nhiều ưu điểm nêu trên, song áp dụng một số biện pháp

kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính sau đây là rất cần thiết, nhằm

giúp người nuôi biến tiềm năng thành hiện thực, góp phần đa

dạng hóa sản phẩm thủy sản xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của thị trường thế giới.

* Nuôi trong lồng bè:

Nuôi cá trong lồng, bè là hình thức nuôi tiên tiến. Mật độ cá

nuôi trong lồng bè rất cao và sự sinh trưởng của cá hoàn toàn

phụ thuộc vào lượng thức ăn do con người cung cấp. Để nuôi

cá rô phi trong lồng bè đạt kết quả tốt cần lưu ý một số vấn

đề sau:

Vị trí đặt lồng, bè:

Lồng hoặc bè phải đặt ở nơi có nguồn nước tốt (có thể đặt ở

các dòng sông có dòng nước chảy nhẹ hoặc đặt ở các hồ chứa

nước) không nên đặt lồng bè gần nguồn nước thải công

nghiệp, nước thải dân dụng và đặc biệt tránh xa nguồn nước

thải của nhà máy hoá chất, thuốc trừ sâu. Đáy của lồng bè

nên đặt cách đáy của sông hồ khoảng 0.5m

Kích thước và vật liệu làm lồng, bè:

Tuỳ điều kiện cụ thể mà chọn nguyên vật liệu làm lồng bè và

kích thước lồng khác nhau (có thể từ 10-100m3). Nếu đóng

lồng bè quá nhỏ sẽ không có hiệu quả kinh tế. Có thể đóng bè

bằng tre, hoặc dùng lưới mắt nhỏ (1cmx1cm) bao quanh một

khung bằng gỗ.v.v..Mực nước tối thiểu trong lồng từ 1,2- 1,5

m..

Chăm sóc và quản lý bè:

Cá rô phi thả vào lồng, bè nuôi phải có kích cỡ đồng đều,

không bị xây sát, bệnh tật. Mật độ thả tuỳ theo điều kiện cụ

thể ở nơi đặt lồng, bè.- Nếu đặt ở nơi sông lớn, nguồn nước

tốt, đủ dưỡng khí có thể thả 150-200 con/.m3.- Lồng đặt ở

sông hồ nhỏ, mực nước nông có thể thả mật độ 80-100

con/m3.- Lồng đặt ở những ao lớn, mực nước thấp, nước có

thể trao đổi được với hệ thống kênh rạch xung quanh thì thả

60-80 con/m3.Lượng thức ăn thay đổi theo cỡ cá. Khi còn

nhỏ lượng thức ăn chiếm 10-15% trọng lượng cá, khi cá lớn

cho ăn khoảng 2-3%. Nên sử dụng thức ăn viên hoặc thức ăn

tự chế dạng viên (hàm lượng đạm từ 20-30%) để giảm bớt

hao hụt do thức ăn tan trong nước mỗi khi cho cá ăn. Thường

xuyên kiểm tra lượng thức ăn để điểu chỉnh kịp thời.Những

khi nước đứng hoặc nhiệt độ tầng mặt quá cao phải tiến hành

sục khí hoặc quạt nước để tạo sự lưu thông dòng nước và

cung cấp thêm dưỡng khí cũng như thải bớt khí độc trong

lồng bè nuôi.Thường xuyên kiểm tra lồng bè để phát hiện và

xử lý kịp thời những sự cố.

* Nuôi thâm canh trong ao:

Đây là hình thức nuôi công nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế

cao, người nuôi nên chọn ao có diện tích từ 1000- 3.000m2,

mức nước sâu từ 1,2- 2,0m; nguồn nước phải chủ động cung

cấp và ao phải được cải tạo kỹ theo qui trình, duy trì pH từ

6,5-7,5.- Tùy theo khả năng tài chính và kỹ thuật chăm sóc có

thể thả 10-15 con/m2, cỡ giống từ 6-8 cm..Thích hợp nhất là

thả nuôi vào tháng 3 đến tháng 4.- Nên dùng các loại thức ăn

viên công nghiệp hoặc tự phối chế có hàm lượng đạm từ 18-

35%, thức ăn phải nổi trên mặt nước ít nhất 2 giờ. Ngày cho

ăn 2 lần: sáng sớm và chiều mát. Lượng cho ăn thay đổi tùy

theo cỡ cá:+ Cỡ 20- 50 gr: cho ăn 7- 10% trọng lượng cá

trong ao/ngày;+ Cỡ 50-200 gr: cho ăn 5% trọng lượng cá

trong ao/ngày;+ cỡ 200 gr trở lên: cho ăn 2% trọng lượng cá

trong ao/ngày- Đối ao nuôi thâm canh thì vấn đề quản lý môi

trường nước phải đặt lên hàng đầu. Thường xuyên thay nước

mới cho cá và cần bố trí quạt nước để quạt nước trong ao vào

thời điểm Oxy trong ao bị thiếu (thường vào khoảng 1-5 giờ

sáng).+ Thường tháng thứ nhất không sục khí và không thay

nước. Tháng thứ 2 thay 1 lần, tháng thứ 3 thay 2 lần, từ tháng

thứ 4 mỗi tuần thay 1 lần, mỗi lần thay từ 1/3- 2/3 lượng

nước trong ao.- Sau 5-6 tháng nuôi, cá đạt kích cỡ thương

phẩm (400-600 gr/con) thì thu hoạch trước, cá nhỏ hơn nên

giữ lại nuôi tiếp khoảng 1 tháng sẽ đạt cỡ theo ý muốn..

Cá rô phi là một đối tượng thủy sản nuôi có nhiều ưu điểm

như: sức sống cao, hệ số thức ăn và chi phí nuôi không lớn,

thịt cá trắng, không có xương dăm, mùi cá nhẹ và việc nuôi

không làm ảnh hưởng xấu tới môi trường, có khả năng phát

triển mạnh ở nhiều loại hình thủy vực, kể cả nước ngọt và

nước lợ, thích hợp cho các loại hình nuôi thâm canh, bán

thâm canh, quảng canh, luân canh hoặc xen canh với các đối

tượng khác do yêu cầu kỹ thuật không cao và chi phí đầu tư

không cần lớn.

Tuy nhiên, để cá rô phi đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, người nuôi

nên:

Sử dụng con giống tốt (cá rô phi vằn dòng GIFT hoặc cá rô

phi đỏ đơn tính).Nuôi cá trong ao thay nước thường xuyên

hay nuôi trong lồng bè (giúp loại bỏ mùi bùn).Sử dụng thức

ăn viên hay thức ăn tự chế có 20-30% đạm.Không sử dụng

kháng sinh trong thức ăn cho cá (đặc biệt các loại nằm trong

danh mục cấm- Bộ Thủy sản đã ban hành).Thực hiện những

biện pháp kỹ thuật tích cực trên, nuôi cá rô phi đơn tính nói

chung và cá điêu hồng nói riêng sẽ mang lại lợi nhuận từ 30-

40% trên tổng chi phí đầu tư.Với giá cá thương phẩm từ 18

đến 20 ngàn/kg tại thời điểm này, nuôi cá rô phi đơn tính sẽ

đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi trong tình hình

nuôi cá tra có nhiều rủi ro như hiện nay. Đây là một đối

tượng nuôi có nhiều triển vọng phát triển mạnh ở tỉnh ta để

đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa lón của người nuôi, và

đây cũng là hướng đa dạng hóa sản phẩm mới- tránh sự lệ

thuộc chỉ vào một vài loại nguyên liệu truyền thống- trong

chiến lược xuất khẩu thủy sản của tỉnh nhà rất cần được sự

quan tâm và đầu tư đúng mức.

KS. Phạm Thị Thu Hồng- CC.BVNL Thủy sản

Nuôi cá rô phi xuất khẩu chất lượng cao

Cá rô phi là loài dễ nuôi, có nhu cầu dinh dưỡng tương đối

đơn giản, tuy nhiên sau một thời gian thử nghiệm tại một số

vùng nuôi thương phẩm, sản lượng cá rô phi đạt chất lượng

xuất khẩu từ 500g/con trở lên chỉ chiếm từ 20-30%. Để nuôi

đạt hiệu quả cao nhất bà con nên áp dụng hình thức nuôi bán

thâm canh với năng suất nuôi 10 tấn/ha.

Chuẩn bị ao nuôi

Ao nuôi có diện tích 4.000-6.000m2, mực nước sâu từ 1,5-

2,5m, có bờ bao chắc chắn không bị thẩm lậu, ngập tràn khi

mưa lũ. Ao nuôi phải dễ quản lý, chăm sóc, có nguồn nước

sạch và chủ động thoát nước dễ dàng.

Trước khi thả cá vào ao phải vệ sinh ao nuôi sạch sẽ, vét bùn,

rắc vôi bột xuống khắp đáy ao với lượng vôi 7-10kg/100m2

ao. Sau 2-3 ngày phơi ao sẽ tháo nước vào ao và thả cá

giống.

Thả giống

Để đạt năng suất 10 tấn/ha và đạt kích cỡ 500g/con phải thả

với mật độ từ 2,5-3 con/m2, chọn cá giống có kích cỡ lớn

trên 5g/con để đảm bảo tỉ lệ sống của cá nuôi. Cá giống nên

chọn cá có nguồn gốc tốt (đặc biệt là cá rô phi dòng gitf).

Cho cá ăn

Cho cá ăn lượng thức ăn phù hợp với từng giai đoạn phát

triển của cá. Với năng suất 10 tấn/ha có thể cho ăn với thức

ăn công nghiệp và thức ăn tự chế. Thức ăn công nghiệp cho

cá rô phi cần hàm lượng đạm từ 18-20%, với lượng cho ăn

bằng từ 5-6% tổng khối lượng đàn cá trong ao. Khi cá đạt cỡ

100g/con cho ăn với lượng từ 3-4%; khi đạt trên 200g/con

cho ăn khoảng 2%.

- Hàng ngày cho cá ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.

Người nuôi cần chú ý cho cá ăn đủ lượng, đảm bảo chất

lượng thức ăn cho cá và cho ăn đúng giờ để tạo phản xạ kiếm

ăn cho cá.

- Có thể bón thêm phân đạm và lân vào ao đối với cá từ 100-

300g, không bón thêm phân vô cơ, các loại phân bón chưa

qua xử lý, không bón phân chuồng trực tiếp xuống ao, vì

chúng có thể chứa các loại vi sinh vật có hại, ảnh hưởng đến

chất lượng cá nuôi.

- Tiến hành thay nước 1 tháng/lần, lượng nước thay từ 1/2-

2/3 lượng nước trong ao.

- Có thể tận dụng các sản phẩm, phụ phẩm nông nghiệp làm

thức ăn thêm cho cá như bột ngô, cám gạo, khô đậu..., và

phải chế biến, vì thức ăn này không cho ăn ở dạng bột, khi rải

đều xuống mặt ao, cá sẽ không ăn được hết, tỉ lệ sử dụng rất

thấp. Vì vậy cần nấu chín và đặc, nắm lại thành nắm cho cá

ăn.

- Không được phép sử dụng một số hoá chất kháng sinh nằm

trong danh mục cấm trộn vào thức ăn hay chữa bệnh cho cá.

- Trong thời gian nuôi nên tiến hành phân cỡ cá 1 tháng/lần

để khi thu hoạch cá có kích cỡ đồng đều.

Thu hoạch

Sau từ 5-6 tháng nuôi, nếu đáp ứng đúng quy trình kỹ thuật

cá sẽ đạt trọng lượng từ 500g/con trở lên. Có thể thu hoạch

toàn bộ nếu cá có cỡ đồng đều hoặc đánh tỉa, thả bù để đáp

ứng nhu cầu của thị trường.

Chú ý, thả đủ số cá đã đánh mỗi đợt để đảm bảo mật độ. Khi

thả bù cần phải thả cá có kích cỡ lớn để hạn chế sự chênh

lệch về đàn cá trong ao.

Lưu ý: Với các tỉnh phía Bắc, nuôi cá rô phi thương phẩm vụ

xuân thích hợp nhất (tháng 3-5). Bà con cần tuân thủ đúng vì

thời gian sinh trưởng của cá rô phi từ 5-6 tháng, nếu thả nuôi

muộn gặp thời tiết bất lợi cá sẽ khó đạt trọng lượng theo yêu

cầu.

NTNN, 2/4/2004

Công nghệ phục vụ nuôi cá rô phi xuất khẩu: Thuận lợi

và khó khăn

Cá rô phi hiện đang được nuôi rộng rãi trên thế giới. Ngoài

mục đích cải thiện dinh dưỡng cho người dân nghèo, nuôi cá

rô phi còn tạo ra sản phẩm hàng hóa ngày càng có sức cạnh

tranh cao trên thị trường thế giới. Thị trường cá rô phi trên

thế giới tăng nhanh trong 2 thập kỉ qua, đặc biệt ở thị trường

Mỹ. Thị trường nhập khẩu cá rô phi trên thế giới năm 1992

mới đạt 2.500 tấn, đến năm 1999 đã là 100.000 tấn. Trong

vòng 5 năm qua, nhu cầu nhập khẩu cá rô phi tăng 38%/năm.

Ðứng đầu các nước nhập khẩu cá rô phi là Mỹ, tiếp sau là

Nhật, một số nước châu Âu. Năm 1992, Mỹ nhập 3.400 tấn,

năm 2000 nhập 40.000 tấn. Năm 2001, ước tính nhập 70.000

75.000 tấn, trị giá 106 108 triệu USD.

Trong khi giá một số hàng thủy sản luôn có nhiều biến động

thì hầu hết các sản phẩm từ cá rô phi có giá khá ổn định trong

vòng 5 năm qua. Giá bán thay đổi ít tạo môi trường kinh

doanh tương đối ổn định cho người nuôi cá và hệ thống phân

phối tiêu thụ. Cá rô phi với ưu thế: ít dịch bệnh, thức ăn

không đòi hỏi chất lượng cao, cá có màu thịt trắng có khả

năng thay thế cho một số loại cá biển, cá dễ chế biến theo

nhiều loại sản phẩm khác nhau nên được đa số người tiêu

dùng chấp nhận. Thị trường cá rô phi trên thế giới hiện tại

chưa thật lớn, nhưng theo nhiều dự báo, sẽ có nhu cầu cao và

mở rộng với tốc độ nhanh.

Chủ trương phát triển nuôi cá rô phi ở nước ta là hoàn toàn

đúng đắn, góp phần tăng nhanh sản lượng cá nuôi, tăng tỷ

trọng sản phẩm thủy sản xuất khẩu được nuôi từ nước ngọt.

Nuôi cá rô phi góp phần đa dạng hóa sản phẩm, tận dụng tốt

hơn các vùng nước ngọt hiện có. Nuôi cá rô phi trong nước lợ

giúp giảm rủi ro trong nuôi trồng thủy sản, là biện pháp cải

tạo môi trường ao nuôi, đặc biệt những vùng nuôi đang bị suy

thoái môi trường.

Nước ta có lợi thế về diện tích mặt nước ngọt và lợ

(120.000ha ao hồ nhỏ, 340.000ha hồ chứa nước, 580.000ha

ruộng trũng, nhiều hệ thống sông ngòi, nhiều vùng nước ven

biển với độ mặn thấp) là những vùng nước có thể nuôi cá rô

phi, có khả năng mở rộng diện tích, sản xuất với sản lượng

lớn. Tuy nhiên, các ao hồ rất phân tán, xa các cơ sở chế biến,

gây khó khăn cho tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Phần lớn các ruộng trũng đang cấy lúa cần phải qui hoạch,

cải tạo lại mới đáp ứng yêu cầu kĩ thuật nuôi cá.

Cá rô phi xuất khẩu cần kích cỡ lớn khi thu hoạch (600

1.000g/con), do đó giống nuôi phải là cá đơn tính có chất

lượng, đó là giống cá có tỉ lệ đực > 95% được sản xuất từ

phẩm giống có chất lượng cao. Thông qua nhập nội và tiến

hành chọn giống nâng cao chất lượng di truyền hiện chúng ta

đã có một số giống cá rô phi có chất lượng, như cá rô phi

dòng GIFT, cá rô phi vằn dòng Thái Lan, và cá rô phi hồng

Ðài Loan. Cá rô phi GIFT chọn giống có tốc độ sinh trưởng

cao hơn cá GIFT nhập nội 17%, đã được cung cấp cho 25

tỉnh/thành trên cả nước để nuôi thành cá bố mẹ thay thế các

đàn cá rô phi bố mẹ có chất lượng thấp. Chúng ta đã làm chủ

công nghệ chuyển giới tính cá rô phi, có thể chủ động sản

xuất hàng loạt cá đơn tính với tỉ lệ cá đực 95 100%. Công

nghệ chuyển giới tính sản xuất cá rô phi toàn đực cũng đã

được chuyển giao tới một số cơ sở sản xuất cá giống ở một

vài tỉnh. Tuy nhiên người nuôi cá hiện đang phải dùng cá

giống có chất lượng khác nhau, đa phần giống chất lượng

thấp (cá gọi là đơn tính nhưng tỉ lệ đực thấp, < 95%, được

sản xuất từ các phẩm giống lai tạp). Mạng lưới sản xuất cá rô

phi giống có chất lượng còn ở giai đoạn sơ khai, hầu hết các

địa phương chưa có đàn cá rô phi bố mẹ có chất lượng, đạt về

kích cỡ, đủ về số lượng. Công suất sản xuất cá đơn tính ở các

cơ sở hiện có là rất nhỏ (từ vài vạn đến 3 triệu con/năm) và

thiếu ổn định về chất lượng. Do vậy năng lực sản xuất giống

hiện có chưa thể đáp ứng nhu cầu giống có chất lượng khi

phát triển nhanh việc nuôi cá rô phi xuất khẩu.

Sản phẩm cá rô phi nuôi từ cá giống chuyển giới tính sử dụng

hoocmôn hiện đang được chấp nhận trên thị trường thế giới,

tuy nhiên lo ngại của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm,

đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh thương mại ngày càng gay

gắt là điều cần phải tính tới. Ðể phát triển bền vững việc nuôi

cá rô phi xuất khẩu, trên phương diện giống, chúng ta không

thể chỉ dựa vào công nghệ chuyển giới tính để tạo cá đơn

tính. Xây dựng công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính bằng

công nghệ di truyền, nghiên cứu công nghệ tạo cá siêu đực đã

được tiến hành ở nước ta, đã tạo được cá rô phi siêu đực,

những chưa thể đưa rộng ở phạm vi sản xuất vì tỉ lệ cá đực ở

thế hệ con của cá siêu đực còn thấp và thiếu ổn định.

Nuôi cá rô phi trong vùng nước lợ mặn là một lợi thế, nhất là

chất lượng cá sản phẩm. Nước ta có điều kiện về diện tích

nước lợ, mặn nhưng các phẩm giống rô phi hiện có phù hợp

với nuôi ở vùng nước ngọt hơn là nuôi ở vùng nước lợ, mặn.

Cá thường đạt tốc độ sinh trưởng nhanh hơn khi nuôi trong

nước ngọt. Ðể mở rộng và nuôi cá rô phi có hiệu quả ở vùng

nước lợ mặn, rất cần phát triển các phẩm giống có tính thích

ứng cao với độ mặn.

Công nghệ nuôi thâm canh và bán thâm canh cá rô phi

thương phẩm đã được xây dựng, bước đầu có kết quả tốt,

nuôi thương phẩm đạt năng suất 20-25 tấn/ha, cỡ cá thu

hoạch 500 800g/con, hệ số thức ăn 1,7, hach toán có lãi khi

sản phẩm tiêu thụ nội địa. Tuy nhiên trước nhu cầu nuôi sạch,

nhất là với cá nuôi từ vùng nước ngọt có mùi bùn, cần có

công nghệ quản lí môi trường và xử lí trước khi thu hoạch.

Cá rô phi là đối tượng nuôi rất triển vọng, thị trường có nhu

cầu tăng nhanh, cần nhanh chóng đầu tư phát triển. Ðể sản

phẩm cá rô phi nuôi có tính cạnh tranh cao, cần tiếp tục nâng

cao chất lượng con giống, tạo phẩm giống có khả năng lớn

nhanh hơn và thích ứng với các vùng nước khác nhau, nhanh

chóng xây dựng các công nghệ sản xuất giống và nuôi cho

sản phẩm sạch. Nhiều nước đã và đang chú ý phát triển nuôi

cá rô phi, do vậy nếu có bước đi thích hợp, xác định đầu tư

đúng mức để phát triển nhanh, chúng ta sẽ có ưu thế hơn

trong cạnh tranh.