Đề bài: Phân tích hình ảnh mùa thu trong 3 bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến<br />
Bài Mẫu Số 1: <br />
Trước nay, ba bài Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh(1) của Nguyễn Khuyến đã được bình <br />
phẩm rất nhiều. Những bài thơ này được coi là tiêu biểu cho hồn thơ Nôm Nguyễn <br />
Khuyến, xác lập vị thế Nguyễn Khuyến là "nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt <br />
Nam"(2). Phần lớn các tác giả có xu hướng khẳng định ba bài thơ là những bức tranh nên <br />
thơ, vẽ đúng được điệu hồn của mùa thu làng quê đồng bằng Bắc Bộ; ẩn trong cảnh thu <br />
thanh bình là nỗi u hoài thầm kín về nỗi đau thời thế nước mất nhà tan mà bản thân bất <br />
lực, bế tắc(3). Phải nói rằng, những nhận định này không sai. Mỗi bài thơ thu của <br />
Nguyễn Khuyến thực là một bức tranh thuỷ mặc bằng ngôn từ, diễn tả được đúng thần <br />
thái cảnh thu đồng bằng Bắc Bộ với những hình ảnh đặc trưng: trời xanh, nước trong, lá <br />
vàng, khói trắng, ao, nhà, ngõ... Đọc ba bài thơ dễ nhận thấy không khí yên ả, dịu êm của <br />
làng quê tự bao đời. Tuy nhiên, tiếp cận từ góc độ khác là có thể thấy một sắc thái đối <br />
lập với sự nên thơ, thanh bình từ ba bài thơ thu. Một số tác giả đã bàn về phương diện <br />
này, song vẫn hướng đến khẳng định cái hay của bài thơ là cảnh đẹp của làng cảnh đồng <br />
bằng Bắc Bộ mùa thu và nỗi đau thời thế kín đáo của tác giả(4). Bài viết này xin bổ sung, <br />
nhấn mạnh theo lối cảm nhận mới: ba bài thơ thu của là kết tụ của những ngột ngạt, tàn <br />
tạ, thụ động, bế tắc cả cảnh lẫn tình. Với ba bài thơ thu, Nguyễn Khuyến là nhà thơ của <br />
những tang thương, tái tê đến giày vò, khắc khoải nỗi đau đời, đau thời.<br />
Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến cùng khắc họa cảnh vật ngột ngạt, vắng lặng, hư ảo, <br />
tàn tạ, thụ động.<br />
Trạng thái ngột ngạt được diễn tả qua nhiều hình ảnh eo hẹp, tăm tối và cô lẻ. Đó là ao, <br />
nhà, ngõ... Đây là những không gian có điểm dị biệt với đặc điểm của văn chương trung <br />
đại truyền thống. Văn học trung đại thường coi trọng những không gian trời biển, núi <br />
sông rộng lớn, đặt con người trong tầm kích vũ trụ để thể hiện chí khí anh hùng "dọc <br />
ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi" (Truyện Kiều Nguyễn Du). Nguyễn Khuyến đi theo <br />
một hướng khác. Ông mở đầu bài Thu điếu bằng hình ảnh cái ao bé nhỏ:<br />
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo<br />
Cái ao làng, ao vườn thường là ao tù nước đọng, nhỏ hẹp rất nhiều so với hồ, đầm, phá... <br />
Cái ao có bờ quây vòng quanh, con con trong tầm mắt còn bị vo lại bởi cái lạnh của mùa <br />
thu và độ trong veo của nước. Theo tính chất vật lí, sự vật có sự giãn nở khi gặp độ nóng <br />
và co lại khi gặp độ lạnh. Khí lạnh lẽo của mùa thu làm người đọc có cảm giác chiếc ao <br />
bị thu hẹp hơn. Thêm nữa, tính từ "trong veo" vừa tuyệt đối hoá độ trong của nước vừa <br />
gợi ra cảm giác có thể nhìn rõ cả giới hạn chiều sâu của cái ao nhỏ. Thế là với từ "trong <br />
veo", cái ao đã tỏ rõ giới hạn nhỏ nhoi của mình cả về chiều rộng lẫn chiều sâu! Chưa <br />
hết, độ nhỏ của cái ao còn bị thu thêm vào một lần nữa bởi vần "eo" tiếng nào có vần <br />
này khi phát âm, miệng đều co tròn lại! Ngay trong câu thơ mở đầu, vần eo đã xuất hiện <br />
ở hai từ: lạnh lẽo, trong veo. "Eo" còn là bộ vần của bài thơ: veo, teo, vèo, teo, bèo tạo <br />
nên một cảm giác ngột ngạt, vây hãm! Như vậy, trạng thái nhỏ hẹp đã được thể hiện tới <br />
ba lần ở câu thơ đầu, sau mỗi từ ngữ, độ hẹp càng về sau càng thu thêm lại. Cái ao đã <br />
nhỏ còn như cố gắng co đến mức không thể nhỏ hơn được nữa. Tính chất nhỏ bé còn <br />
choán lấy toàn bài do tác giả lựa chọn vần "eo" cho cả bài thơ!<br />
Đến câu thứ hai của bài Thu điếu, tính chất bé nhỏ tiếp tục được gia tăng hơn:<br />
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.<br />
Trên ao nhỏ xuất hiện một con thuyền bé. Từ chỉ số ít "một" kết hợp với từ láy "tẻo teo" <br />
khiến con thuyền càng nhỏ bé hơn tưởng chỉ như một chấm nhỏ chút xíu, cỏn con và <br />
cũng không thể nhỏ hơn nữa! Trạng thái nhỏ hẹp này cũng xuất hiện ngay từ đầu bài Thu <br />
ẩm:<br />
Năm gian nhà cỏ thấp le te,<br />
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.<br />
Cái nhà năm gian truyền thống của đồng bằng Bắc Bộ cuối thế kỉ XIX vốn bé nhỏ được <br />
cụ thể thêm về sự nhỏ bé bằng từ thấp. Thấp đến mức le te nghĩa là thấp đến mức cực <br />
độ, chừng như không thể thấp hơn được nữa, chỉ đủ cho người cúi đầu ra vào. Trạng thái <br />
nhỏ hẹp này tiếp tục được thể hiện qua không gian ngõ. Ngõ mở rộng không gian về <br />
chiều dài hơn một cái ao, một cái nhà, song nó chật hẹp. Trong bài Thu điếu, ngõ quanh co <br />
không thẳng đặc điểm này càng làm tăng lên độ nhỏ hẹp của kiểu đường làng ngõ <br />
xóm. Trong Thu ẩm, ngõ bị chìm trong đêm tối ngõ tối. Độ tối một lần nữa thu thêm độ <br />
hẹp của con ngõ! Không gian nào cũng tù túng, nhỏ bé! Xét từng hình ảnh cũng thấy hình <br />
ảnh nào cũng nhỏ nhoi: cái ao, cái ngõ, cái lá, chút sóng, bèo, con thuyền... Có thể nói, <br />
trạng thái eo hẹp, tăm tối khiến cho cảnh thơ thu Nguyễn Khuyến có sắc thái ảm đạm, tù <br />
túng của cảnh nông thôn nghèo Bắc Bộ!<br />
Cùng với sự ngột ngạt, tối tăm là trạng thái hư ảo, tàn tạ, thụ động. Ấn tượng này được <br />
biểu hiện trong rất nhiều hình ảnh dưới trời xanh. Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, <br />
bài nào cũng có bầu trời xanh ngắt:<br />
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,<br />
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.<br />
(Thu điếu)<br />
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,<br />
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.<br />
(Thu ẩm)<br />
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,<br />
Cần trúc lơ phơ, gió hắt hiu.<br />
(Thu vịnh)<br />
Trời xanh là hình ảnh đặc trưng của mùa thu Bắc Bộ. Đó vốn là hình ảnh nên thơ, hiền <br />
dịu, trong sáng ở tâm cảm của nhiều người. Với người hiện đại, màu xanh là biểu tượng <br />
của hoà bình. Nhưng với văn chương trung đại, hình ảnh trời xanh còn gắn với ý niệm về <br />
một lực lượng siêu nhiên có sức mạnh ghê gớm, chi phối mọi biến cố của trần gian. Thế <br />
lực trời xanh khiến người ta khắc khoải, đau đớn trước những nỗi đau buồn không thể lý <br />
giải. Con người cất lên những tiếng hỏi không lời đáp, bế tắc, cay đắng với trời:<br />
Xanh kia thăm thẳm từng trên,<br />
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?<br />
(Chinh phụ ngâm khúc Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)<br />
Màu xanh trong văn chương cũng vậy, nó cũng nhiều khi có ý nghĩa chỉ cái vô cùng, vô tận <br />
khắc nghiệt của thiên nhiên. Khi xuất hiện màu xanh, nhiều nỗi tang thương đau buồn <br />
trải ra:<br />
Trăm năm còn có gì đâu,<br />
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì.<br />
(Cung oán ngâm khúc Nguyễn Gia Thiều)<br />
Sau này, thơ Vũ Hoàng Chương (19161976) cũng có hai câu thơ mang màu xanh đậm <br />
chất suy tư, triết luận như thế:<br />
Từ phen Trái Đất ra đi,<br />
Lệ chia phôi đã xanh rì trùng dương.<br />
(Nhịp trúc mùa thơ)<br />
Những xanh trời, xanh biển, xanh cây, xanh mồ... khiến người ta rờn rợn! Nó chứng tỏ <br />
trời đất vẫn cứ mãi cao rộng, thời gian cứ trôi, cỏ cây cứ sống... Nó sống với bản thân nó, <br />
đối lập với cái hữu hạn, tàn lụi của con người. Trước cái màu xanh nghiệt ngã ấy, con <br />
người trở nên đau thương vời vợi bởi như bị tự nhiên vô cảm với những nỗi đau quặn xót <br />
của bản thân mình!<br />
Trở lại với ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến. Trời xanh đã trở thành nền và làm nổi bật <br />
cái hữu hạn, nhỏ bé của mọi vật nói chung, con người nói riêng. Thêm nữa, dưới khoảng <br />
trời xanh ngắt, các sự vật, hiện tượng nối tiếp nhau biểu hiện sự thụ động, tàn tạ, hư ảo.<br />
Cái hư ảo, tàn tạ trước hết được thể hiện ở thời gian của ba bài thơ thu. Cả ba bài thơ <br />
đều có bối cảnh là chiều và tối mùa thu. Người trung đại có tư duy âm dương rõ rệt. Mùa <br />
thu, chiều tối thuộc thời gian âm (dương là mùa xuân, mùa hạ; buổi sáng, buổi trưa...). <br />
Nguyễn Khuyến đặt thời gian âm của ngày vào thời gian âm của mùa. Chiều thu trong <br />
Thu vịnh. Rồi lại chiều và đêm lần lượt tiếp tục xuất hiện trong Thu ẩm, Thu điếu. Chỉ <br />
khác là lúc có trăng (Song thưa để mặc ánh trăng vào; Làn ao lóng lánh bóng trăng loe), lúc <br />
ngặt chỉ màu tối đen dày đặc trùm lấp, vây bủa đường thôn (Ngõ tối đêm sâu đóm lập <br />
lòe). Thời gian buổi sáng là khởi dương, buổi trưa là chính dương; đến chiều tối, thời <br />
gian đã trở về với khí âm. Bản thân thời gian chiều tối này gợi ý niệm về sự tàn lụi. Đi <br />
cùng với sự tàn lụi là hư ảo (luôn vận động, biến đổi, thoắt chốc đã chuyển từ dạng thức <br />
này sang dạng thức khác). Trong thời khắc tàn lụi, hư ảo của chiều tối mùa thu ấy, các <br />
hình ảnh khác lần lượt xuất hiện trong hệ thống với nó. Đó là cần trúc trong bài Thu vịnh:<br />
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu<br />
Từ láy lơ phơ gợi lên hình ảnh cần trúc gầy guộc, lá lưa thưa. Trước làn gió hắt hiu, cành <br />
trúc càng già yếu, xác xơ, bơ phờ. Nó gần như đã cạn kiệt sức sống. Hình ảnh lá vàng <br />
biểu thị sự tàn tạ rõ hơn:<br />
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo<br />
Lá vàng là chiếc lá đã bị chuyển từ màu xanh tràn đầy sinh khí sang màu vàng của sự già <br />
nua, cuối đời! Với hình ảnh chiếc cần trúc lơ phơ và lá vàng trước gió, cái tàn lụi trong <br />
thơ thu Nguyễn Khuyến đã được thể hiện cả ở hai góc độ: thời gian và sự vật. Những <br />
hình ảnh đó gợi sự hư ảo sự kết thúc của kiếp cây lá!<br />
Trạng thái hư ảo còn được khắc hoạ bổ sung ở tập hợp các hình ảnh khác. Đó là sóng <br />
nước, tầng mây, ánh sáng lập lòe của đom đóm, cái phất phơ khói nhạt, cái lóng lánh ánh <br />
trăng loe. Cả hình ảnh khóm bèo trên ao cũng khiến ta liên tưởng đến từ "bèo bọt"! Tất cả <br />
những hình ảnh đó làm cho mọi tầng không gian cao xa (tầng mây), thấp gần (sóng nước, <br />
khói, trăng) đều không tĩnh tại mà được khắc hoạ trong xu thế động với các từ ngữ: gợn, <br />
lập loè, phất phơ, lóng lánh... Nó thay đổi (dù nhỏ) trong từng tích tắc. Thay đổi rõ nhất <br />
khiến nhân vật trữ tình thảng thốt là hình ảnh hoa năm ngoái, ngỗng nước nào:<br />
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,<br />
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.<br />
Ở những câu trên, sắc thái thực ảo còn nghiêng về cái thực. Đến những câu này, hình <br />
ảnh thơ chuyển sang hẳn góc độ ảo. Hoa năm ngoái có còn là bông hoa thực, hay chỉ là <br />
bông hoa còn sót lại trong tâm tưởng nhân vật trữ tình? Ngỗng nước nào diễn tả một <br />
trạng thái bất tri, vô tri không biết, không hiểu. Năm ngoái là thời gian, nước nào là <br />
không gian. Cả thời gian và không gian đều chìm trong tâm thái chơi vơi, chới với.<br />
Cùng với sự tàn lụi, hư ảo, sự vật hiện tượng trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến <br />
còn thụ động. Tính chất thụ động cũng được biểu thị ở mọi chiều kích không gian và ở <br />
các sự vật, hiện tượng:<br />
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,<br />
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.<br />
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,<br />
... Cá đâu đớp động dưới chân bèo.<br />
(Thu điếu)<br />
Vì sao lại nói thụ động? Bởi lẽ, sóng, lá, mây, bèo đều không tự chủ. Chúng không thể tự <br />
chuyển động hoặc tự đứng yên mà luôn bị chi phối, phụ thuộc vào yếu tố khác. Sóng, lá, <br />
mây đều bị tác động bởi gió. Sóng theo làn hơi! Còn lá cũng không được cố định trên cây <br />
nữa mà đã lìa cành, bị gió cuốn vèo đi. Chiếc lá không thể tự định đoạt sẽ rơi về đâu mà <br />
gió đưa đến đâu thì ở tại đó! Chữ vèo vừa diễn tả độ bay nhanh vừa cho thấy sự không <br />
thể nào cưỡng lại gió của chiếc lá. Tầng mây cũng không tự định hướng được đường bay <br />
của mình giữa không trung. Nó còn có số phận trôi nổi hơn cả sóng và lá. Vì lẽ sóng trên <br />
ao có bờ, lá vàng chắc hẳn sẽ về với đất. Còn mây đi đâu, về đâu giữa bầu trời xanh <br />
mênh mông, vô tận? Tiếp nối với ý của các câu thơ trên, hình ảnh tầng mây thêm một lần <br />
nữa gia tăng yếu tố thụ động ở mức độ cao hơn, toàn diện hơn. Vì trên cao có mây, dưới <br />
thấp có bèo: mây trôi, bèo nổi ở đâu cũng lênh đênh, phiêu dạt! Hình ảnh tầng mây lơ <br />
lửng giữa nền trời bổ sung thêm một ý nữa vào tính chất của các sự vật trong bài thơ: sự <br />
trôi nổi vô định, vô phương! Một mặt nữa, tầng mây lơ lửng giữa trời xanh còn thêm ý về <br />
sự đối lập giữa cái nhỏ bé hữu hạn (tầng mây) với cái mênh mông vô hạn (trời xanh).<br />
Có thể nói, bằng tài năng bậc thầy, Nguyễn Khuyến đã khiến cho ba bài thơ thu như <br />
những bức tranh 3D, 5D bằng ngôn ngữ, cho phép người đọc có cái nhìn "khúc xạ" nhiều <br />
chiều. Mỗi chiều thấy một sắc thái khác nhau. Người đọc dễ nhận thấy những bức tranh <br />
thu thơ mộng. Tuy nhiên, sang một hướng tiếp cận khác, ba bài thơ thu của Nguyễn <br />
Khuyến không còn vẻ đẹp nên thơ, thanh bình nữa! Người đọc có thể thấy sởn gai ốc, sợ <br />
hãi vì sự ngột ngạt, vắng lặng, hư ảo, tàn tạ, thụ động của cảnh vật.<br />
Sự buồn thảm tê tái với tình đời đơn độc, chí khí cùng kiệt<br />
Văn chương thời trung đại thường lấy cảnh ngụ tình. Đặc điểm nhỏ nhoi, hư ảo, thụ <br />
động của cảnh vật biểu thị cái nhỏ nhoi, hư ảo, thụ động của một kiếp người. Từ ý <br />
nghĩa biểu tượng của hình ảnh thơ, hình ảnh con người trong ba bài thơ thu của Nguyễn <br />
Khuyến được thể hiện trong sự già nua, rệu rã, cô độc giữa cảnh tàn, thời tàn, đời tàn. Để <br />
thấy được phương diện này cần đặt những bài thơ thu của Nguyễn Khuyến vào hoàn <br />
cảnh sáng tác và cảm những bài thơ đó từ đặc trưng của văn chương trung đại với những <br />
đặc điểm ước lệ, sử dụng điển tích, điển cố...<br />
Nguyễn Khuyến sáng tác ba bài thơ thu vào cuối thế kỉ XIX. Khi ấy, nước mất nhà tan, <br />
Nguyễn Khuyến cáo quan về quê Bình Lục Hà Nam. Ông mang nỗi đau lớn của một con <br />
người hiển danh khoa bảng vào bậc nhất (Tam nguyên ba lần đỗ đầu cả thi Hương, thi <br />
Hội và thi Đình) nhưng trở thành kẻ bất lực, vô nghĩa trước thời cuộc. Ba bài thơ thu <br />
khắc hoạ thấm thía nỗi đau của Tam nguyên Yên Đổ giữa thời mạt.<br />
Trước hết là nỗi đau cô độc. Nỗi đau này hiện diện ở nhiều hình ảnh. Dễ thấy nhất là ở <br />
hình ảnh chiếc thuyền, căn nhà, cái ngõ...<br />
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo<br />
Năm gian nhà cỏ thấp le te<br />
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo<br />
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe<br />
Chỉ có một con thuyền, năm gian nhà. "Một" đây là số từ chỉ sự duy nhất con thuyền đã <br />
nhỏ bé còn nổi đơn độc! "Năm" tưởng có số lượng nhiều, nhưng lại vẫn chỉ là của một <br />
ngôi nhà nhỏ! Một con thuyền, một cái nhà là không gian của cá nhân. Thế giới đồng loại <br />
của con người được Nguyễn Khuyến mở rộng tới ngõ. Nhưng "ngõ" lúc thì chỉ đặc một <br />
màu tối, lúc thì vắng teo! Tức là vắng tanh, vắng ngắt, không có lấy một bóng người. <br />
Hình ảnh thơ có sự thay đổi việc diễn tả thế giới con người. Từ "một chiếc thuyền câu", <br />
"năm gian nhà cỏ" đồng nghĩa với việc có một người ngồi câu trên ao, có một người <br />
sống trong căn nhà, không gian mở rộng hơn với "ngõ" lối của nhiều người lại qua, <br />
nhưng số "một", số "năm" đến đây đã chuyển sang "vắng teo". Thế là sự trống vắng đã ở <br />
mức tuyệt đối! Nó đẩy con người trên một cái ao, một cái nhà vào sự đơn độc với hiện <br />
tại.<br />
Điều đáng nói thêm, trúc trong văn chương trung đại là hình ảnh ước lệ tượng trưng cho <br />
bậc quân tử. Ngõ trúc vắng khách nghĩa là thế giới quân tử anh hùng cũng không còn một <br />
ai. Có thể khẳng định như vậy. Vì lẽ, những hình ảnh ước lệ tùng, cúc, trúc, mai vốn rất <br />
xanh tươi, khỏe khoắn, đẹp đẽ trong thơ Nguyễn Trãi lại đều trở thành ảm đạm, mơ hồ <br />
trong thơ Nguyễn Khuyến. Trúc trong thơ Nguyễn Khuyến nào vắng teo (Ngõ trúc quanh <br />
co khách vắng teo), nào lơ phơ (Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu). Nó khiến người ta liên <br />
tưởng đến những bậc quân tử lay lắt không còn nhuệ khí, không còn khí chất "quân tử cố <br />
cùng"! Cô đơn với hiện tại, nhân vật trữ tình tìm đến việc kết nối với quá khứ ở bài Thu <br />
vịnh. Song:<br />
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,<br />
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.<br />
Vậy là chẳng thể tri kỉ với người xưa! Nghĩa là chẳng thể tìm kiếm sự tương giao giữa <br />
cả hiện tại lẫn quá khứ. Hình ảnh con người đã bị đẩy lên đến mức cô đơn tuyệt đối. Chỉ <br />
còn cách mượn rượu giải sầu, nhưng trớ trêu thay:<br />
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,<br />
Độ năm ba chén đã say nhè.<br />
Cô đơn, thảm thương nhất là hình ảnh con người thu mình trên cái thuyền bé ở cái ao <br />
nhỏ:<br />
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,<br />
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.<br />
Hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến điển tích Lã Vọng câu cá. Nhưng tương phản, trái <br />
ngược hoàn toàn về chất. Thời thế đảo điên, Khương Tử Nha Lã Vọng về sống ẩn dật <br />
nơi thác sâu rừng thẳm. Tuy nhiên, ông đoán định, nắm chắc thời thế, biết rõ thời vận. Vì <br />
thế, ông ngày ngày ra câu cá ở bờ sông Vị chờ thời cơ để lập nghiệp lớn. Lưỡi câu của <br />
ông thẳng, không có mồi vì ông không câu cá mà đi "câu" minh chủ, công hầu, khanh <br />
tướng. Quả nhiên, ông đã "câu" được Cơ Xương. Về sau với tài an bang trị quốc bình <br />
thiên hạ, Khương Tử Nha đã lập nhiều công lao hiển hách trong công cuộc phạt Trụ, lập <br />
ra triều đại nhà Chu, và ông được phong hầu ở đất Tề, tức là Tề Thái Công sau này. Đó là <br />
một điển tích hết sức hào hùng, to lớn về một Khương Tử Nha kiên nhẫn để đợi thời cơ, <br />
làm nên sự nghiệp lớn khiến cho hậu thế ai cũng phải tôn kính.<br />
Bậc Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến cũng ở ẩn và ngồi câu. Nhưng là câu trong mùa <br />
thu lá vàng tức là lúc thời tàn, đời tàn mà cuộc đời thì hạn hẹp như ao tù nước đọng; câu <br />
trong sự vô vọng bởi đơn độc; câu trong sự bi quan vì không biết thời thế sẽ đi đâu về đâu <br />
(như mây trôi trên trời xanh; bèo nổi dưới mặt nước); câu trong sự khoanh tay bó gối như <br />
ý thức rõ về sự bất tài của bản thân (tựa gối ôm cần)... Có thể nói đó là hình ảnh sự kết <br />
lại những nỗi đau đớn khôn nguôi của một bậc trí thức bất lực trước thực tế và không <br />
đoán định được tương lai của thời cuộc. Còn đâu khí phách của nhân vật chính nhân quân <br />
tử trong văn học trung đại? Không còn nữa tư thế: Hoành sóc giang san cáp kỉ thu (Cầm <br />
ngang ngọn giáo trấn giữ non sông đã mấy thu Phạm Ngũ Lão). Không còn nữa khí thế:<br />
Đã mang tiếng ở trong trời đất,<br />
Phải có danh gì với núi sông.<br />
(Nguyễn Công Trứ)<br />
Chí cùng lực kiệt, Tam nguyên Yên Đổ tìm đến cảnh: cảnh buồn bã ảm đạm; tìm đến <br />
rượu: rượu chẳng thể giải sầu, tìm đến người: vắng teo, hiu hắt, tìm cố nhân lại thẹn với <br />
người xưa. Thế là không có ai làm bạn. Nhìn lại về mình thì thấy mình đã như chiếc lá <br />
vàng rơi giữa đời, giữa thời cuộc... Tất cả khiến Tam nguyên Yên Đổ đau đớn đến tê dại. <br />
Ông nhìn hoa mà tưởng hoa năm ngoái, nghe tiếng chim kêu trên trời mà tự hỏi:<br />
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,<br />
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?<br />
là bởi thời đẹp đẽ của cả bản thân và đất nước đã thuộc về quá khứ. Nay là cảnh đen tối <br />
của một đất nước nô lệ, lầm than. Ngỗng nước nào? Vì mọi vật trên đất nước này không <br />
còn là của mình nữa. Trời đất đã là của giặc, cỏ cây, chim muông cũng là của giặc. Câu <br />
thơ là tiếng kêu thương thất thần của một trí thức mất nước!<br />
Ở ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến còn có một điều đáng lưu ý nữa. Đó là sự tổng hợp <br />
nhiều điển tích, điển cố: thi đề mùa thu, Đào Tiềm ở ẩn, Lã Vọng câu cá, lều cỏ Khổng <br />
Minh (thảo lư), rồi mộc, diệp, hoa, điểu, tửu... từ những câu:<br />
Ngô đồng nhất diệp lạc,<br />
Thiên hạ tận tri thu.<br />
(Một chiếc lá ngô đồng rụng,<br />
Thiên hạ đều biết mùa thu đã đến)<br />
(Sách Quảng quần phương phả, Mộc phả)<br />
Cảm thời hoa tiễn lệ,<br />
Hận biệt điểu kinh tâm.<br />
(Cảm thời hoa rơi lệ,<br />
Hận biệt ly, chim đau đớn lòng)<br />
(Xuân vọng Đỗ Phủ)<br />
Nguyễn Khuyến đã "chế biến" thi liệu Hán học tài đến mức gần như làm mất hẳn đi dấu <br />
vết của điển. Đồng thời, ông "xoay ngược" một số điểm, làm chúng khác biệt hoàn toàn <br />
về tính chất so với ý nghĩa ban đầu. Lã Vọng câu cá an nhiên đợi vận thành một người <br />
ngồi câu trong tàn tạ, tuyệt vọng. Thảo lư lều cỏ giữa rừng đầy tràn gió mát, trăng trong <br />
của Khổng Minh thành cái nhà cỏ thấp "le te" giữa xóm ngõ tối tăm, ngột ngạt. Trúc vốn <br />
là biểu tượng khỏe khoắn, thẳng tắp đến thơ Nguyễn Khuyến thành "lơ phơ" hiu hắt... <br />
Điều này khiến cho ba bài thơ thu đọng ý vị mỉa mai, chua chát của nụ cười trào lộng kín <br />
đáo mà cay đắng của Nguyễn Khuyến. Nhận ra những điển tích, điển cố ấy trong ba bài <br />
thơ thu, người đọc càng thấm thía những nỗi tái tê của Tam nguyên Yên Đổ sau khi cáo <br />
quan về ở ẩn.<br />
Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến cũng tổng hợp nhiều nỗi đau ông từng thổ lộ. Đó là <br />
nỗi đau cô đơn trong buổi xế chiều của cuộc đời:<br />
Đời loạn đi về như hạc độc,<br />
Tuổi già hình bóng tựa mây côi.<br />
(Cảm hứng)<br />
Nỗi đau mất nước:<br />
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,<br />
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.<br />
(Quốc kêu cảm hứng)<br />
Nỗi xấu hổ với danh vị, bằng cấp ở đỉnh cao mà lại bất lực, vô dụng:<br />
Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ,<br />
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng.<br />
(Tự trào)<br />
Sách vở ích gì cho buổi ấy,<br />
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già...<br />
(Ngày xuân dặn các con)<br />
Có thể nói, Nguyễn Khuyến đã diễn đạt sự thảm bại đến cùng của con người cá nhân <br />
mình. Ông kéo những thứ vốn là ước lệ: thi đề mùa thu, hình ảnh trời xanh, lá vàng, hoa, <br />
điểu..., những hình ảnh đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ: ao, nhà, ngõ... và cả tài thơ văn <br />
gieo tử vận "eo" thành công để bọc nỗi đau xót khôn tả của mình về vận kiếp! Tài năng <br />
của Nguyễn Khuyến không chỉ là ở sự vận dụng sáng tạo thi liệu truyền thống kết hợp <br />
với việc sử dụng nhuần nhuỵ ngôn ngữ tiếng Việt, mà còn là ở chỗ Nguyễn Khuyến <br />
không dùng trực tiếp đến những từ ngột ngạt, bế tắc, đau đớn... mà người đọc vẫn thấy <br />
nỗi tê tái đến ứa máu qua từng con chữ, từng hình ảnh thơ! Đau buồn dồn tụ lại trong cả <br />
ba bài thơ cho thấy sừng sững chân dung một Tam nguyên Yên Đổ đau khổ, cay đắng về <br />
bản thân, về thời thế!<br />
Tác phẩm nghệ thuật thường có tính đa nghĩa. Tác phẩm hay của những tác giả lớn càng <br />
chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa đưa độc giả đi từ những khám phá này đến khám phá khác. <br />
Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến là những tác phẩm như thế. Đây là những thi phẩm <br />
cho phép người đọc cảm nhận từ nhiều góc độ, chiều kích khác nhau. Đặt các hình ảnh <br />
của ba bài thơ thu vào cùng hệ thống, xem xét chúng dưới góc độ ước lệ của văn chương <br />
trung đại và hoàn cảnh sáng tác có thể nhận thấy cảnh sắc trong ba bài thơ thu không nên <br />
thơ, tâm sự trong ba bài thơ thu không dừng lại ở u hoài thầm kín. Ngược lại, đó là trạng <br />
thái tù túng ngột ngạt vây hãm, là sự nổi trôi, hư ảo, vô định của thế giới hiện tượng và <br />
sự nhỏ nhoi đơn độc, bất lực của con người trước cảnh tàn, đời tàn, thời tàn. Chính điều <br />
này khiến cho ba bài thơ thu Nguyễn Khuyến kết tụ sắc thái đau buồn, chán nản, tuyệt <br />
vọng của thơ Nôm Nguyễn Khuyến và thống nhất với đặc điểm con người trong sáng tác <br />
của ông: "Nhà nho xưa thường tự lí tưởng hoá mình, tự vận với các bậc danh sĩ quá khứ. <br />
Nguyễn Khuyến bước sang giai đoạn tự trào, tự phủ nhận"(5); "Ông là nhà thơ cổ điển <br />
đầu tiên thấy cái rỗng không của con người lí tưởng truyền thống, là nhà thơ mở đầu sự <br />
đổi thay các ý nghĩa tượng trưng của hệ thống thi pháp cổ xưa"(6). Chỉ riêng với ba bài <br />
thơ thu này, Nguyễn Khuyến đã vừa chứng tỏ một tài năng thi ca bậc thầy vừa thể hiện <br />
thấm thía nỗi lòng nhức nhối của một trí thức tự thấy mình bất lực, vô nghĩa trước thời <br />
cuộc!<br />
Bài Mẫu Số 2: <br />
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ cổ điển lớn của dân tộc ta. Sáng tác của Nguyễn Khuyến <br />
diễn ra trên nhiều đề tài với những nội dung cảm xúc phong phú. Trong đó có một đề tài <br />
nổi bật là miêu tả cảnh sắc thiên nhiên làng quê, sinh hoạt của con người thôn quê. Từ <br />
nhiều bài thơ của Nguyễn Khuyến hiện lên hình ảnh những làng quê đồng bằng Bắc Bộ <br />
yên ả, thơ mộng mà ông từng thiết tha gắn bó. Xuân Diệu đã nhận xét rằng "Nguyễn <br />
Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam". Chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến đã <br />
chứng tỏ sinh động cho nhận xét này. Đây cũng là những sáng tác vào loại đặc sắc nhất <br />
về mùa thu trong thơ ca Việt Nam ta từ xưa đến nay.<br />
Nhìn bao quát chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến Viết chùm ba bài thơ về mùa thu, <br />
Nguyễn Khuyến đã chứng tỏ nguồn cảm hứng dồi dào với mùa thu, với quê hương. <br />
Chính cảm hứng ấy với tài năng của thi nhân đã tạo nên giá trị đặc sắc của những bài thơ <br />
này. Lịch sử thi ca nhân loại từng để lại không ít vần thơ về mùa thu nhưng hiếm có <br />
những trường hợp nổi tiếng như chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. Đọc thơ Nguyễn <br />
Khuyến, Xuân Diệu đã nhận xét: "Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt <br />
Nam là thơ Nôm. Mà thơ Nôm của Nguyễn Khuyến nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu <br />
Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh". Mỗi bài thơ thu của Nguyễn Khuyến miêu tả, cảm nhận <br />
mùa thu ở một không gian, thời gian không giống nhau nhưng tất cả đó đều là những cảnh <br />
vật rất thật của nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ở đây, không hề có những ước lệ <br />
vốn đã thành quen thuộc trong thơ cổ. Một bầu trời xanh ngắt, ao thu trong veo, m ột c ần <br />
trúc hắt hiu trong gió, một ngõ xóm quanh co, mấy gian nhà tranh mái rạ, một hàng giậu <br />
phất phơ bóng khói ban chiều... đó đều là những cảnh rất thân thuộc của làng quê Việt <br />
Nam. Nó yên ả thanh bình như vốn có tự ngàn đời chứ chưa hề động gót giày của quân <br />
xâm lược Pháp. Nó gợi trong ta cái tình quê, hồn quê sâu thẳm. Thi nhân đã cảm nhận <br />
những vẻ đẹp ấy của làng quê bằng tâm hồn bình dị mà thanh cao, hồn hậu và vô cùng <br />
tinh tế.<br />
Thu vịnh (vịnh mùa thu) Bài thơ không tả mùa thu từ một nơi, trong một lúc mà là bức <br />
tranh tổng hợp, khá hoàn chỉnh về mùa thu. Ở đây hầu như có đủ những hình ảnh đặc <br />
trưng cho mùa thu ở thôn quê Việt Nam( bầu trời cao xanh, cần trúc mảnh mai, gió thu <br />
nhẹ, mặt nước biếc phu sương khói, ánh trăng trong, chùm hoa trước giậu...). Chỉ bằng <br />
mấy nét chấm phá, Nguyễn Khuyến đã gợi được cái hồn thu nơi từng cảnh vật Cảm <br />
nhận tinh tế của thi nhân được thể hiện rõ qua cách dùng từ: Trời thu xanh ngắt mấy từng <br />
cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu Nước biếc trông như tầng khói phủ Song thưa để mặc <br />
bóng trăng vào... Cảnh mùa thu trong Thu vịnh thật thanh khiết, tĩnh lặng. Từ đường nét <br />
đến màu sắc, từ âm thanh đến vận động... cái gì ở đây cũng dịu, cũng nhẹ. Ấy cũng là đặc <br />
điểm tâm hồn Nguyễn Khuyến. Ông không hợp với những gì ồn ào, xô bồ, rực rỡ. Tâm <br />
hồn ông dễ xúc động với những vẻ đẹp thanh tao, uyển chuyển, những sắc màu sáng <br />
trong, dịu mát. Tâm hồn ấy cùng thường phả vào cảnh vật một chút hắt hiu, buồn rầu. <br />
Không khí làng quê mùa thu ở Thu vịnh im ắng và phảng phất nỗi u hoài. Không gian và <br />
thời gian trở nên mông lung, không xác định trong tâm trạng bâng khuâng buồn của thi <br />
nhân: Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái Một tiếng trên không ngỗng nước nào... Thế <br />
giới thiên nhiên này gợi lên cảm giác yên tĩnh trong trẻo và ngưng vọng ngàn đời. Trước <br />
những biến động ngang trái của cuộc đời, Nguyễn Khuyến muốn được mãi mãi ở trong <br />
vẻ đẹp thanh tĩnh của làng quê.<br />
Thu điếu (câu cá mùa thu) Bài thơ cảm nhận mùa thu từ một không gian xinh xắn, thơ <br />
mộng, từ điểm nhìn của một người câu cá. Mở đầu bằng một cảnh thu bình dị rất riêng <br />
của làng, quê đồng bằng Bắc Bộ: ao thu. Một thế giới tĩnh lặng, trong suốt mà trong đó <br />
mọi vật hài hòa nhẹ nhõm: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo <br />
teo. Những chuyển động, âm thanh trong thế giới thu này thật nhẹ nhàng và chỉ càng gây <br />
ấn tượng về sự đọng kết, sự tĩnh lặng. Làn sóng biếc chỉ "gợn tí". Lá vàng cũng "khẽ đưa <br />
vèo trong gió thu... Hai câu thực tả cảnh gần, hai câu luận tả canh cao, cảnh xa để hợp <br />
tạo thành bức tranh thu yên ả, đượm buồn. Chỉ ở mùa thu mới có "Tầng mây lơ lửng trời <br />
xanh ngắt" ấy (ba lần trong ba bài thơ thu đều xuất hiện bầu trời xanh ngắt). Cũng chỉ ở <br />
làng quê xứ Bắc đang độ thu mới có "Ngõ trúc quanh co khách vắng teo" ấy! Trong bức <br />
tranh thu ở Thu điếu hiện lên hình ảnh con người đang ngồi câu cá nơi ao thu lạnh lẽo". <br />
Song con người này cũng chẳng hề đánh động thêm gì cho bức tranh. Trái lại, tư thế và <br />
tâm tưởng của con người chỉ tạo thêm ấn tượng về sự ngưng đọng mà thôi. 4)Thu ẩm <br />
(uống rượu mùa thu) Đây là mùa thu được cảm nhận bằng tâm trạng của một người ngồi <br />
uống rượu. Lúc này, cảnh thu sẽ mang các ấn tượng nỗi niềm riêng dường như cũng <br />
chập chờn, mờ tỏa. Có lẽ vì thế mà bài thơ có nhiều từ lấp láy và dùng vần "oe". Thu ẩm <br />
không miêu tả riêng một cảnh thu ở một thời điểm nào mà là sự "tổng hợp nhiều cảnh thu <br />
ở nhiều thời điểm" (Xuân Diệu). Bài thơ cũng không hề có một chữ "thu" (khác với "trời <br />
thu" ở Thu vịnh và "ao thu" ở Thu điếu). Vậy mà đọc lên ta nhận ra chính xác cảnh sắc <br />
thu quen thuộc của làng quê Việt Nam. Đây là một mái nhà tranh bình dị trong ngõ tối vào <br />
đêm sâu lập lòe những con đom đóm: Năm gian nhà cỏ thấp le te. Ngõ tối đêm sâu đóm <br />
lập lòe. Phải là "ngõ tối", "đêm sâu" thì mới có thể thấy "đóm lập lòe"; ngược lại, cái lập <br />
lòe của con đom đóm ấy lại càng khiến cho ngõ tối bỗng tối hơn, đêm sâu thành sâu hơn... <br />
Đây là cảnh của buổi sáng sớm (hay buổi chiều) với khói nhạt phất phơ nơi lưng giậu. <br />
Rồi lại cảnh đêm trăng với mặt ao lóng lánh: Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt Làn áo <br />
lóng lánh, bóng trăng loe. Lại một một bầu trời trong suốt ở buổi ban trưa hay ban chiều <br />
với màu xanh thăm thẳm: Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt. Bài thơ tạo trong ta ấn tượng <br />
"phi thời gian" nhưng cũng gợi rất sâu vào không khí tĩnh mịch, trong lành vô cùng thân <br />
thuộc của thôn quê Việt Nam.<br />
Đến với chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, ta bắt gặp những cảnh sắc không thể <br />
lẫn của mùa thu vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Những bức tranh thu ấy được vẽ nên <br />
bằng tấm lòng yêu mến quê hương mình, bằng tình yêu cuộc sống thanh cao, tĩnh lặng <br />
chốn thôn quê của cụ Tam nguyên Yên Đổ. Thành công của những bài thơ thu này cũng <br />
chứng tỏ tâm hồn tinh tế, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến. Chúng đưa ông lên địa vị <br />
danh dự trong các thi nhân viết về mùa thu, trong những nhà thơ của làng cảnh Việt Nam.<br />
Bài Mẫu Số 3: <br />
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX của nước ta. Thơ ông <br />
đậm đà tính dân tộc và mang một phong cách riêng khó lẫn. Có ý kiến cho rằng: Nguyễn <br />
Khuyến là một trong những nhà thơ đặc sắc của làng cảnh Việt Nam. Điều đó thể hiện <br />
rất rõ qua những sáng tác về thiên nhiên, nhất là qua chùm thơ: Thu vịnh, Thu điếu và Thu <br />
ẩm.<br />
Đáng lưu ý là các chi tiết trong ba bài thơ này cũng như nhiều bài thơ khác đều rút ra từ <br />
cảnh vật ở quê hương tác giả, một vùng đồng chiêm trũng quanh năm ngập nước, trong <br />
làng vô số ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái rạ nghèo.<br />
Tình yêu quê hương, sự hiểu biết tường tận về làng quê kết hợp với hồn thơ đằm thắm, <br />
tinh tế của tác giả đã sáng tạo nên những vần thơ bất hủ về mùa thu nơi thôn dã của <br />
đồng bằng Bắc Bộ. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến không phải là những hình ảnh <br />
trừu tượng, ước lệ thường thấy trong thơ cổ điển mà là những cảnh vật bình dị, thân <br />
quen ở nông thôn. Cái hồn của cảnh vật thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ, đồng điệu với tâm <br />
trạng u buồn, trăn trở của ông.<br />
Ba bài thơ, ba cảnh thu khác nhau nhưng hợp lại thành một bức tranh hoàn chỉnh về mùa <br />
thu với những nét đặc trưng nhất.<br />
Thu vịnh vẽ nên toàn cảnh thu với bầu trời xanh ngát, cao vời vợi, mấy cần trúc cong <br />
cong, nhè nhẹ đung đưa trước làn gió hắt hiu. Tiết thu se lạnh, sương khói bảng lảng phủ <br />
trên mặt ao hồ lúc sáng sớm và chiều tối khiến cho khung cảnh thực trở nên huyền ảo:<br />
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,<br />
Cần trúc lơ phơ, gió hắt hiu.<br />
Nước biếc trông như tầng khói phủ,<br />
Song thưa để mặc bóng trăng vào.<br />
Nét đẹp của mùa thu tụ lại ở bầu trời xanh ngắt, ở làn nước biếc thấp thoáng khói sương, <br />
ở ánh trăng thu bàng bạc tràn qua song cửa, gợi nên khung cảnh quen thuộc của một miền <br />
quê yên ả, thanh bình.<br />
Nhà thơ quan sát rất kĩ chuyển biến tinh tế của cảnh vật trong những thời điểm khác <br />
nhau của một ngày. Tất cả đều gần gũi, gắn bó và đồng điệu với tâm hồn nhạy cảm của <br />
thi nhân.<br />
Ở Thu điếu, khung cảnh không mở ra mà thu nhỏ lại. Ao đã nhỏ, chiếc thuyền câu cũng <br />
nhỏ: Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Mọi hoạt động cũng hết sức nhẹ nhàng: Sóng biếc <br />
theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Gió heo may chỉ đủ sức bứt lìa những <br />
lá tre, lá trúc vàng úa và lá rơi không thành tiếng. Trên cao, trời xanh ngắt một màu, tầng <br />
mây lơ lửng như đứng im một chỗ và ông câu với cái dáng ngồi tựa gối ôm cần cũng như <br />
cố thu mình cho nhỏ lại. Yên lặng bao trùm lên hết thảy, đến nỗi nghe được cả tiếng cá <br />
đâu đớp động dưới chân bèo. Âm thanh ấy càng làm tăng thêm phần yên lặng, ông câu thu <br />
mình bất động phải chăng cũng là để tan hòa vào trời đất xung quanh.<br />
Mùa thu trong Thu ẩm lại hiện ra với một vẻ đẹp khác. Nhà thơ uống rượu một mình <br />
dưới trăng. Hình ảnh làng quê biến hiện theo cái nhìn, cái cảm dần dần thấm độ say của <br />
rượu, vẫn là ba gian nhà cỏ, ngõ tối, làn ao, bóng trăng, da trời... thường ngày quen thuộc <br />
đến mức chẳng có gì đáng chú ý, nhưng đó là những cảnh, những vật từ đất này mà ra, <br />
thiếu nó thì hình như không còn gì là làng xóm tự nghìn xưa. Vậy mà với tâm trạng u <br />
buồn sẵn có, lại được men rượu ngấm vào khơi lên, nhà thơ thấy cảnh vật nhòe dần theo <br />
con mắt ngà ngà: nhà thì thấp le te, đóm thêm lập loè, bóng trăng thì loe, mắt cũng đỏ hoe <br />
và người cũng say nhè.<br />
Ba gian nhà cỏ thấp le te,<br />
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.<br />
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,<br />
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.<br />
Nghĩa là cảnh vật cũng như lảo đảo, chếnh choáng men say. Người say bởi rượu thì ít mà <br />
bởi buồn đau, day dứt và giận mình bất lực trước thời thế thì nhiều. Gác bút lại không <br />
làm thơ nữa, quên mình trong mộng, đắm chìm trong yên lặng hay uống rượu đến say nhè <br />
để quên bớt nỗi chua chát đắng cay... đều cùng xuất phát từ tâm tư ấy, tuy nhiên nó vẫn <br />
được ẩn giấu ở bên trong.<br />
Nét chung nhất của ba bài thơ Thu đều quy tụ vào việc tả cảnh vật thân thuộc, đơn sơ mà <br />
dung dị, đáng yêu của làng cảnh Việt Nam. Cái nhìn trên bề mặt cùng cái hồn đồng quê <br />
hiện lên rất rõ trong từng câu, từng chữ. Cái tình của nhà thơ cũng thật đằm thắm và tinh <br />
tế. Trong những năm tháng cáo quan về ở ẩn tại quê nhà, chỉ có thiên nhiên gần gũi, trong <br />
sạch, nên thơ mới giúp Nguyễn Khuyến khuây khỏa đôi lúc trong khi nỗi buồn thời cuộc <br />
thường xuyên đè nặng trái tim ông.<br />
Ba bài thơ Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm tạo thành một chùm thơ thu tuyệt đẹp, thể hiện <br />
nét tài hoa của ngòi bút cụ Tam Nguyên, tiêu biểu cho hồn thơ dung dị, thẳm sâu, đầy <br />
chất trữ tình. Bạn đọc Việt Nam yêu thơ Nguyễn Khuyến, yêu quê hương một phần là từ <br />
những bài thơ đó.<br />