Đề bài: Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Viết về truyện tranh, về những con người làm nên chiến thắng, nếu chỉ lấy phạm trù <br />
thẩm mĩ "cái hùng" làm đại lộ thì không tránh được khuynh hướng giản đơn, một chiều, <br />
sơ lược. Ngay một tiếng đàn của nàng Kiều, đơn giản vậy thôi mà cũng "Nghe ra tiếng <br />
sắt tiếng vàng chen nhau". Nói gì đến chiến tranh khi cuộc sống đã tự đào xới lên tận gốc <br />
với bao nhiêu tình huống, cảnh ngộ, tâm trạng của con người. Do tính chất không trực <br />
diện của đề tài, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu đã làm một bổ sung, một <br />
khám phá về một phương diện khác, ở đó không phải không có tiếng ầm ầm "rung cả <br />
đường sá, núi non" của xe xích kéo pháo, âm thanh "ập đến như tiếng sét" của máy bay <br />
địch đánh tọa độ, những chiếc cầu bằng đá "xanh biếc và đẹp như một giấc mộng" chỉ <br />
một nháy mắt đã "bị cắt làm đôi như một nhát rìu phang rất ngọt"... Ở đó còn có cái yên <br />
tĩnh, độ lắng sâu, những nỗi niềm lẩn khuất, hi vọng được nhóm lên bền bỉ, dẻo dai gần <br />
như tương ứng với sự khốc liệt, xô bồ, ngổn ngang của cuộc chiến hiện ra trước mắt. <br />
Chỉ có điều tất cả những cung bậc đa diện của đời sống nội tâm ấy không tách rời, <br />
ngược lại in rất đậm dấu vết của chiến tranh. Cuộc gặp gỡ, sự chờ đợi của một tình yêu <br />
chẳng hạn, trắc trở, mong manh, mơ hồ nhưng hình như là có thật, có thật mà cứ tưởng <br />
như một giấc chiêm bao. Mảnh trăng cuối rừng là hình ảnh khúc xạ từ những giấc chiêm <br />
bao ấy.<br />
<br />
Nhân vật chính của câu chuyện là những nhân vật đời thường, thậm chí rất quen thuộc <br />
của chiến tranh: anh bộ đội lái xe và những cô công nhân làm đường vùng tuyến lửa. <br />
Chiến tranh là cái gạch nối cho họ gặp nhau, những cuộc gặp gỡ để nhớ để quên, không <br />
có gì đặc biệt. Chính vì vậy, mặc dù xe mới đang lăn bánh, nhìn về nơi mà mình sẽ đi <br />
đến. Lãm đã hình dung ngay được cuộc gặp gỡ "giữa đám các cô gái nghịch như quỷ sứ" <br />
ấy nó thế nào. Gặp anh, Nguyệt sẽ nói rất ít, còn "các cô bạn thì sẽ làm loạn lên". Song, <br />
chẳng hề gì bởi "họ đều là những người bạn của anh em lái xe, đều là những người con <br />
dũng cảm, chân thực và mến khách". Vậy cái hấp dẫn người đọc là gì, nếu không phải là <br />
tình huống khá đặc biệt: Cuộc "trốn tìm" chưa một lần tới đích của một tình yêu, một tình <br />
yêu cũng lại khác thường. Nó chỉ có thể xảy ra trong những cuộc chiến tranh. Yêu nhau <br />
mà chưa một lần gặp mặt, cũng không một sự hẹn hò, thế mà vẫn chung thủy, chờ đợi <br />
nhau giữa muôn trùng cách trở. Tình huống đặc biệt ấy tạo được một không khí, một dư <br />
vị rất giàu chất thơ. Chính cái bóng này, chứ không phải cái hình (cốt truyện) khoác lên <br />
được chiếc áo nhiều màu cho các sự kiện đầy chất ngẫu nhiên, đem đến cho người đọc <br />
những liên tưởng nhiều chiều, bất tận.<br />
<br />
Câu chuyện được chính người "trong cuộc" kể lại trong một chiếc lán giữa rừng. Nó bập <br />
bùng nhóm lên như ngọn đèn dầu tâm tình, tâm sự. Nói với đồng đội trong trung đội lái xe <br />
mà cũng là nói với chính mình, nó như một độc thoại nội tâm. Cái riêng đã hòa nhập vào <br />
cái chung, do vậy có sự lan tỏa, đồng vọng ngân nga. Hiện tượng này là phổ biến trong <br />
chiến tranh: Những người sát cánh, sẻ chia cái sống, cái chết từng giờ. Không có gì là sở <br />
hữu riêng. Ngay đến một bức thư, giữa chốn rừng núi heo hút ấy, nó cũng "xem như của <br />
chung của mọi người", nỗi buồn, niềm vui của bất kỳ ai cũng thuộc về tất cả. Vì vậy <br />
giữa người kể chuyện và người nghe chuyện, giữa kênh phát với kênh thu có cùng một <br />
tần số. Cái ăng ten giao cảm này tạo nên sự gắn bó giữa những con người và đẩy cho câu <br />
chuyện cứ thế lăn đi trên cái mạch khi liên tục, lúc ngắt ngừng của nó...<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hoàn toàn không phải là phung phí, dài lời khi tình huống vào truyện là hai nỗi bực nối <br />
tiếp nhau cua người lái xe có tên là Lãm ấy. Còn gì "sốt ruột" hơn khi người chờ xe là <br />
người lái, nhất là người lái đầy tinh thần trách nhiệm, lại trong một hoàn cảnh khác <br />
thường: "Giữa thời chiến, xe mình chỉ cần vượt lên thiên hạ nửa vành bánh, khi qua phà <br />
qua ngầm đã đủ nhàn". Nhưng cái mà anh chờ là tiếng máy chiếc Gát quen thuộc của <br />
mình mãi chưa thấy dù đã "hết sức lắng tai nghe", trong lúc những chiếc xe không đợi <br />
không chờ "cứ lao vun vút trước mặt như ngựa đua". Đó là chưa nói chuyến xe này đã <br />
được hoạch định trong độ sít sao của nó. Chậm một phút là kế hoạch có thể đổ vỡ hoàn <br />
toàn không gì bù đắp nổi. Với dự định chạy sớm, giao hàng sớm kịp quay về giấu xe ở <br />
rừng săng lẻ, một địa điểm an toàn, Lãm sẽ ghé thăm người chị ruột ở khu vực gần cầu <br />
Đá Xanh. Cuộc thăm viếng không chỉ là đáp ứng yêu cầu một phía với lời phàn nàn vừa <br />
trách móc vừa thiết tha: "Đã hơn ba năm chưa được gặp cậu Lãm đấy!". Còn cái riêng của <br />
Lãm là gì, anh chưa nói, dù nó quan trọng không kém. "Nhưng dầu sao nó cũng chỉ là một <br />
việc riêng". Gài vào câu chuyện một cách kín đáo những nỗi niềm như thế, đó là "cái <br />
duyên" của người kể. Bởi nó tạo nên một tầng nghĩa thứ hai, một mạch ngầm, phía dưới <br />
những con sóng đều đều mặt nổi bên trên của những sự kiện. Đây là cái nút, một thứ nút <br />
bấm không phải lúc nào cũng có thể mở ra, vì nếu sớm mở ra, truyện không còn là truyện <br />
nữa. Vừa hết cái bực dọc thứ nhất khi "đồng chí lái phụ đánh xe lên, từ dưới chân dốc, đã <br />
bóp còi inh ỏi như xe chữa cháy" cùng với lô hàng đã nhận và phiếu giao hàng có kí nhận <br />
hẳn hoi, lại nảy sinh một tình huống ngoài dự kiến. Anh chàng lái phụ vui tính không <br />
phải vô cớ mà lúc mới giao xe đã nháy mắt ranh mãnh và phát mạnh vào vai Lãm "một cái <br />
đau điếng. Cái gì vậy?". "Còn một cái nữa, cái này có nhưng mà không ghi trong phiếu". <br />
Xe chở hàng quân sự mà cho người đi nhờ là trái điều lệnh, "dù bất cứ trong hoàn cảnh <br />
nào". Cho nên người lái phụ trình bày dù có "hợp lý" đến đâu, Lãm vẫn giận cái hành vì <br />
"tự động vô nguyên tắc" ấy. Là một lái xe, anh lạ gì những cuộc gặp gỡ. Một "cảnh <br />
tượng quen mắt" hiện ra giữa một bên là "cái ve nũng nịu của một cô nàng ôm chiếc nón <br />
trắng đứng sát cửa xe", còn một bên là "những câu hỏi ỡm ờ" của anh tài phụ "của tôi <br />
đang ngồi vắt vẻo trong buồng lái". Lãm chán nản, xót xa: "Thế là đủ tai họa cho tôi rồi! <br />
Tàn cho được câu chuyện ấy thỉ xe lèn sớm làm sao được?". Với một "việc đã rồi" như <br />
thế, mà chấp nhận thì ấm ức vì anh là một kẻ đồng tình với việc làm trái nguyên tắc nói <br />
trên. "Giận cá" thì chỉ còn biết "chém thớt". Sự "chẳng lấy gì làm ôn tồn" của Lãm khi lên <br />
tiếng hỏi, câu hỏi đầu tiên là "Ai ngồi trong đó", là lẽ thường tình. Và cũng là thường tình <br />
khi người đi nhờ xe im lặng (chắc người ấy đang phấp phỏng sợ tôi không cho đi nhờ <br />
Lãm nghĩ). Nhưng bất ngờ đầu tiên, sau cái im lặng kia, với Lãm là câu trả lời của người <br />
đi nhờ xe: không sợ sệt như Lãm đoán. Trong cái câu nói: "Tôi đây... Tôi nhờ đồng chí lên <br />
cầu Đá Xanh một tẹo", anh "đoán chẳng sai" có một nửa. Cái nửa ấy là giọng nói của phụ <br />
nữ. Nửa còn lại kia, mặc dù là vẫn của cô gái đi nhờ xe đang phải nhờ vả vào anh, nhưng <br />
"tiếng nói trong lắm và rất bình tĩnh, cứng cỏi nữa là khác". Cái sự "cứng cỏi" trong đối <br />
đáp sau đó đã thay đổi hẳn mối tương quan. Người chủ động hỏi, hỏi trong tình thế chủ <br />
động đã chỉ còn ở vào một tình thế bị động "vội nổ máy" cho xe đi vì trong bụng đang <br />
"phát hoảng lên vì cái cách con gái ăn nói đối đáp bạo dạn dường ấy". Mà không "phát <br />
hoảng" làm sao khi biết rõ người ấy là đàn bà, nhưng khi gặng hỏi thì câu trả lời ngay tức <br />
khắc: "Đàn ông". Đặc trưng của phụ nữ là sự kín đáo chẳng hạn, thế mà khi được một <br />
chàng trai tò mò hỏi là đi thăm chồng hay người yêu, lại không hề do dự một giây: "Em đi <br />
thăm người yêu đấy". Có thể nói, trước Lãm lúc này là một chân dung chưa toàn diện (vì <br />
anh còn chưa biết mặt cô gái kia mà) nhưng đã sắc sảo hiện ra một "cái tôi" không dễ coi <br />
thường. Đó là một nhân cách. Cũng vẫn là nhân cách ấy, nhưng một phía khác, phía hoàn <br />
chỉnh hơn, Lãm sẽ nhận ra khi anh đã "thân mật" với cô gái hơn một chút với câu hỏi dịu <br />
dàng: "Cô làm ở ngầm Đá Xanh hay chỉ về đây thăm ai?". Cùng một lượng thông tin ngang <br />
nhau nhưng do mức độ cảm thông và hiểu biết được tăng cường, đã vừa đủ để xuất hiện <br />
trên khuôn mặt sáng sủa của cô gái "một nét e thẹn", không còn đáng sợ mà là đáng yêu. <br />
Như thế là một hoạt cảnh đơn sơ mà sinh động, rất "thời chiến" đã diễn ra và đột ngột <br />
dừng lại ở cái chi tiết có phần bột phát, quá đà để định hình một chân dung chưa hoàn <br />
thiện, chưa hoàn thiện nhưng đã lung linh. Câu trả lời của cô ta, với Lãm vẫn còn là lơ <br />
lửng, cái câu "Em đi thăm người yêu đấy". Thật hay đùa? "Biết đâu đấy, biết dâu cô ta nói <br />
thật?". Sự dừng lại ấy giống như việc hãm phanh nhưng không phải để vượt mọi <br />
chướng ngại nào mà chiếc xe quân sự của anh cần phải vượt qua, nó chỉ nhằm tiếp thêm <br />
nhiên liệu cho cuộc hành trình, ơ đây, về hình thức, nó như rẽ sang một mạch khác, <br />
nhưng thực chất là điều chỉnh lại những đường dây liên hệ tưởng là rời rạc mà kỳ thực <br />
lại gắn bó hữu cơ. Để từ đó, mọi chi tiết từ ngôn ngữ đến cử chỉ của nhân vật trong <br />
tầm quan sát của người đi xe không còn đơn nghĩa. Chẳng hạn, sau này, trước câu hỏi làm <br />
như thuận miệng vô tình của Lãm: "A quên, tôi chưa kịp hỏi tên cô đấy nhé" và câu trả lời <br />
rụt rè của người đi nhờ xe: "Em là... Nguyệt!", người kể chuyện và người nghe chuyện <br />
tự chắp nối những liên tưởng, những giả định của mình. Vì cả hai đối tượng (người kể <br />
và người nghe) đã có được một thông báo tiên đề: một cô Nguyệt trong bức thư của chị <br />
Tính. Cô Nguyệt trong thư dịu dàng và xinh đẹp như được tỏa ra từ vằng vặc, rạng ngời <br />
một sắc trăng đêm, còn cô Nguyệt trong đời thực lúc này, trước mắt Lãm, dù được nhìn <br />
qua "ánh đèn tù mù" khi thì của bóng đèn gầm hắt xuống, khi thì của đoàn xe xích "lao đi <br />
ầm ầm bên cạnh", vẫn là một cái gì khó trộn lẫn. Đó là "một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ <br />
như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ". Không hiểu vì sao, cô <br />
Nguyệt lúc này, vẫn là dáng điệu ấy, chiếc áo màu xanh và chiếc nón khoác tay như mọi <br />
cô gái đi nhờ xe khác mà Lãm nhắm mắt lại cũng hiện ra rõ mồn một, lại không giống bất <br />
cứ một ai. Ngoài thân hình mảnh dẻ "khác hẳn với nhiều cô gái công trường thường cô <br />
nào cũng thấp và đẫy đà", Nguyệt còn có những nét riêng, và nét nào cũng duyên dáng dù <br />
kín đáo chứ không lòe loẹt phô trương. Cũng là cái áo chít hông nhưng "vừa khít", còn cái <br />
làn, cái nón cũng khoác ở cánh tay nhưng không gượng gạo mà "nhẹ nhàng" thanh thoát tự <br />
nhiên.<br />
<br />
Như vậy, sự trùng hợp đến là vô lý đã xảy ra. Cuộc đời sao lại trớ trêu làm vậy! Cô gái <br />
đang đợi chờ anh là Nguyệt. Vậy cô Nguyệt ngồi đây có phải là nỗi chờ đợi đó không? <br />
Với băn khoăn không dê giải đáp mặc dù trong thâm tâm Lãm "phải tìm cho đến ngọn <br />
nguồn lạch sông", cô gái đi nhờ xe mang vẻ đẹp lấp lánh hai chiều (thực và mộng) để làm <br />
cho người chiến sĩ lái xe không thể nào còn dửng dưng được nữa. Phản ứng của Lãm <br />
mặc dù có vẻ hờ hững "như không", nhưng sự mời mọc "vồn vã" thì đã ân cần không chỉ <br />
ở giọng nói. Cùng với cánh tay mở rộng cửa buồng lái, còn là cái nhìn không thể nói là vô <br />
tâm khi anh "vội đưa mắt ngắm cô gái một lần nữa thật kỹ lưỡng". Rồi khi cô gái tên là <br />
Nguyệt ấy đã ngồi vào cái chỗ đặc biệt mà cả một đời lái xe của Lãm, chưa bao giờ anh <br />
"mời một cô gái ngồi trong buồng lái" bao giờ, những câu hỏi của anh đã không dừng <br />
được nữa. Cả một hệ thống câu hỏi về những cô Nguyệt ở đơn vị làm đường... đã làm <br />
cho chính người được hỏi phải ngạc nhiên: "Sao anh hỏi tỉ mỉ vậy?". Nói cho đúng thì đó <br />
là cuộc thăm dò. Mà điều ấy đâu chỉ có riêng anh? Với tư cách là người quan sát, Lãm <br />
không đọc được tâm trạng của Nguyệt, nhưng chắc chắn về phía người đọc chúng ta, <br />
Nguyệt không thể không có thoáng chốc phân vân. Vì người cô yêu cũng là lính lái xe, cậu <br />
em trai mà chị Tính "nói thẳng ý định" của chị ấy nhiều lần, trong những lần ấy Nguyệt <br />
chỉ biết im lặng và "đỏ mặt bừng lên" cũng đi trên tuyến đường này, và hôm nay mình <br />
vừa ra đi từ cái nơi hẹn gặp người ấy... Chỉ có điều khác là dù có băn khoăn đến đâu, <br />
Nguyệt cũng không dễ dò hỏi như Lãm. Nếu có, nó cũng không thể vội vàng, chỉ như một <br />
cái gì ẩn hiện mà thôi. Cho nên ý mới ẩn sau lời, trốn chạy trong trọng âm, ngữ điệu: <br />
"Anh nhỉ? Có phải không nhỉ?". Rõ ràng là một câu hỏi, nhưng hỏi về cái gì thì Lãm lại <br />
không nghe được, người nghe không nghe được nhưng người hỏi lại tha thiết thế kia? <br />
Đến nỗi người lái xe phải hỏi lại người hỏi "Cô hỏi gì?". Câu trả lời của Nguyệt có lẽ <br />
qua được cái giây bối rối khi cất tiếng hỏi đầu tiên, chỉ còn êm đềm như một dòng suối <br />
chảy: "Em hỏi có phải các anh lái xe đi nhiều nơi, chắc hẳn quen biết nhiều người lắm?" <br />
Nguyệt và Lãm là hai nhân vật chơi trò ú tim đồng tâm trạng đang đi với nhau, vì chưa <br />
một lần gặp gỡ nên ngồi bên nhau rồi mà vẫn như hai người xa lạ. Đó là sắc thái ngẫu <br />
nhiên của tình huống truyện. Nó đến với người đọc như một sự tình cờ nhưng thường <br />
thấy của chiến tranh. Trở lại vấn đề ở người kể chuyện, ở cách dẫn chuyện của nhà văn. <br />
Khi biết ở đơn vị thanh niên xung phong ấy có đến ba người cùng có tên là Nguyệt, không <br />
phải Lãm khôn ngoan, khéo léo làm phép loại suy, giảm thiểu. Nhưng khi đã "giảm thiểu" <br />
đến mức cuối cùng rồi, khi biết một trong ba người ấy đã có bốn con thường được gọi <br />
đùa là chị Nguyệt "lão" rồi, cái ẩn số "rối như ta vò" vẫn cứ trơ ra: "Một trong hai người <br />
ai là người tôi sắp tìm đến, ai? Người tôi sắp tìm đến là ai? Bởi vì trong khi khai thác "đối <br />
tượng", Lãm biết được rằng cô Nguyệt đã hi sinh "cách đây ba, bốn tháng" cũng là người <br />
con gái có những điểm lý lịch và phẩm chất giống cô Nguyệt ngồi cạnh mình đây: Chưa <br />
có chồng, mới có người yêu, mà cũng chỉ "hình như" thôi. Trong công việc thì dũng cảm, <br />
đối xử thì hiền lành, chết đi "ai cũng tiếc". Nhớ lại những dòng thư tâm tình của chị Tính <br />
nói về cô Nguyệt "của anh". Cô ta "rất ngoan ngoãn và tích cực... Trên đời khó tìm được <br />
một người con gái như thế..." Vì vậy khi biết một cô Nguyệt như thế đã hi sinh, Lãm đã <br />
bị "sốc" ngay. Mặc dù tự kiềm chế, nhưng cảm giác trong anh như bị một gáo nước lạnh <br />
dội vào. Câu hỏi về cái chết ấy dù vội vàng nhưng "rõ ràng nghe tiếng nói của mình mà <br />
như của người khác". Sự thật không còn tự chủ được bản thân nặng nề hơn, Lãm phải <br />
bám vào một cái gì để khỏi chơi vơi, mất đà. Nhưng mặt đất vẫn cứ ngả nghiêng, chao <br />
đảo. Bình tĩnh hơn một chút khi biet chị Nguyệt "lão" đã có bốn con rồi thì câu nói đùa <br />
chẳng còn sức để đùa của anh trở nên "nhạt thếch" vì đó là âm sắc ngôn từ nhợt nhạt <br />
của một kẻ vô hồn. Mạch truyện đang đi vào những "của" những "ngầm" gấp khúc. Xử <br />
lý tình huống đầy phức tạp đó ra sao? Con người lý trí ở trong anh bật tín hiệu hiểm nguy <br />
khác thường: đèn đỏ. Phải dừng lại vì đây là cái ngưỡng cuối cùng không thể vượt qua, <br />
không thể "đi sâu vào câu chuyện riêng giữa chuyến công tác". Nhưng con người khác từ <br />
trái tim anh lại đòi hỏi, thúc bách một sự trả lời: "Trong hai người con gái, một trẻ và xinh <br />
đẹp ngồi bên cạnh và một người đã chết anh dũng, ai là người đã từng mang canh cánh <br />
trong trái tim tuổi trẻ mối tình đầu đối với tôi suốt mấy năm, mà tôi lại tỏ ra hờ hững?". <br />
Nhất là có một giả định: Nếu cô Nguyệt đã hy sinh là Nguyệt ấy, Lãm "sẽ mang mối hận <br />
mãi mãi".<br />
<br />
Sự dồn nén của tình huống và tâm trạng đến mức thẳng căng, ngột ngạt, cần phải "xả <br />
hơi" về mặt tâm lý cho người đọc, người nghe. Điều này hợp quy luật. Mạch truyện giãn <br />
ra, có phần thư thái hơn, dù đường sá lúc này lại còn gập ghềnh, "ngổn ngang hố bom", <br />
hơn trước. Nhưng vì sao một nhầm lẫn "không chết người" nhưng thật đáng tiếc với <br />
người "già đời trong nghề lái xe, bom đạn nguy hiểm gặp đã nhiều", lại không phải anh <br />
nhút nhát, vậy mà không hiểu sao đêm nay anh lại "nhìn trăng ra pháo sáng"? Có lẽ vầng <br />
trăng thì vẫn bình yên, cái bình yên muôn thuở, nhưng bầu trời của lòng anh, những đám <br />
mây u ám thì vẫn chưa tan, chưa có ngọn gió nào xua đi được. Nó vẫn là một ám ảnh <br />
nặng nề (nếu cô Nguyệt hi sinh là cô gái ấy). Trường liên tưởng này là liên tục, tự nó tỏa <br />
ra một góc nhìn không còn là vô tư, khách quan được nữa. Không phải Lãm chỉ tự trói <br />
mình bởi mặc cảm xót xa, anh cũng muốn giải thoát. Nhưng bằng cách nào đây, thì đó <br />
vẫn là một thách thức, một câu hỏi không có hồi âm. Là người đọc, người nghe có lẽ <br />
cũng đồng cảm với mối "tơ vò" của người kể. Chỉ có một cách mà anh không thể làm là <br />
hỏi cô ta có biết chị Tính hay không, "mọi sự sẽ vỡ ngay. Sở dĩ Lãm "không muốn hoặc <br />
không dám hỏi" vì cái đẹp của con người ở đây cũng như cái đẹp của ánh trăng, nó gần <br />
gũi mà xa xôi biết mấy. Chỉ cần một đụng chạm nhỏ là tan. Vì thế mà bất kỳ ai rơi vào <br />
tình trạng của Lãm đều phải thận trọng nâng niu một cái gì dễ vỡ. Cái đẹp nói chung là <br />
như thế, nhiều khi nó chỉ tồn tại trong cảm giác của con người. Nói gì đến cái đẹp ở đây <br />
đứng trước hai khả năng nghiệt ngã: mất và còn. Lãm sẽ là người giàu có nhất đời còn <br />
ngược lại anh sẽ chỉ còn hai bàn tay trắng với sự nuối tiếc mà thôi. Chính là ở vào cái thế <br />
chênh vênh giữa hư và thực này, tâm hồn người lính lái xe đã trở nên tâm hồn thi sĩ. Cũng <br />
là một vầng trăng đầu tháng đó thôi, mà mỗi lần hiện ra một khác. Có lúc nó tội nghiệp, <br />
đáng thương, run rẩy hiện ra giữa sương lạnh và mây đen tái nhợt. Đó là một thứ ánh sáng <br />
lòe nhòe "mỗi lúc xe nảy lên hay vòng qua chỗ lượn, mảnh trăng lại chập chờn lay động, <br />
có lúc thấy rơi tõm xuống khoảng tối mịt mù của cánh rừng già". Đến khoảng gần khuya, <br />
vẫn vầng trăng ấy nhưng có thương tổn, hao mòn chút ít vì mây gió, sương đêm nhưng lại <br />
trong trẻo rạng ngời. Đó là "mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một <br />
mảnh bạc". Giữa hai cái vùng tối sáng ấy, người lính lái xe vốn chỉ quen chú ý đến <br />
đường, đã thêm một cảm giác bồng bềnh của người "đi giữa đêm trăng mà không biết". <br />
m thanh mà anh lắng nghe không chỉ là cái âm điệu thường ngày, cái "ràn rạt" của gió thổi <br />
vào cành lá ngụy trang trên nóc xe mà cả một tiếng chim mơ hồ trong khoảng sâu thẳm <br />
của trời đêm. Sông, núi trong sương cũng vậy. Cái thì mờ đi như dòng sông bên trái đường <br />
phút chốc bị sương trắng phủ kín, cái thì rõ mồn một không chỉ hình hài mà dường như <br />
còn có linh hồn của nó nữa kia. Đó là ngọn núi đá bên kia sông "đen đủi và cô độc giữa <br />
một màn trắng xóa". Chính là trong bối cảnh ấy, câu trả lời của Lãm với cô gái đi nhờ xe <br />
mới trở nên bóng bẩy không ngờ. "Đời lái xe chúng tôi như con vạc ấy, cô ạ! Nay rừng <br />
này, mai qua suối kia, nhưng tháng này sang tháng khác vẫn làm bạn với đường, với trăng <br />
thôi", ở đây, quy luật của cái đẹp đang vận hành. Nó có khả năng đánh thức mọi giác <br />
quan, nó khơi lên những gì mà cuộc đời thực hàng ngày không thể khơi. Đó là khả năng <br />
chắp cánh để mọi tâm hồn bay bổng. Sự chuyển hóa lạ lùng đến nỗi tự con người không <br />
còn nhận ra chính mình. Băn khoăn rất thành thực của Lãm là: "Chẳng biết lúc ấy, ai mới <br />
móc miệng cho mà tôi bỗng trở nên ăn nói văn vẻ đến thế" bắt nguồn từ cái phần ngủ <br />
yên, quên lãng ấy nay đang cựa quậy, xôn xao. Bản chất của lãng mạn là cái đẹp đến hai <br />
lần. Bởi cái đích của nó xa rộng và luôn hướng đến "cái thiện", "cái chân", còn bởi vì <br />
trong cái cảm quan mới mẻ ấy, cuộc sống chủ thể và khách thể tự nó thay đổi dáng hình <br />
trong mối giao cảm tri tâm đáng yêu, đáng mến. Bắt rễ vào cái thực, vào cuộc đời, cái lấp <br />
lánh của giấc mơ không còn chơi vơi, mặc dù điều này có khi dường như chỉ là vô thức. <br />
Một linh cảm không lý giải đã ập đến lúc này với Lãm là "không hiểu sao, lúc ấy, như có <br />
một niềm tin vô cớ mà chắc chắn từ trong không gian ùa tới tràn ngập cả lòng tôi. Tôi tin <br />
chắc chắn người con gái đang ngồi cạnh mình là Nguyệt, chính người mà chị tôi thường <br />
nhắc đến". Niềm tin của Lãm được tắm gội bằng thứ ánh sáng thiên thần, cả con người <br />
ngồi cạnh anh cũng thế. Nguyệt vốn nghĩa là trăng, "từng sợi tóc" của người ấy cũng <br />
đang chốc chốc lại "sáng lên" mỗi lúc Lãm quay nhìn về phía ấy. Nếu đặc sắc của Mảnh <br />
trăng cuối rừng là cái đẹp kì ảo, thì đoạn văn đang được phân tích ở đây như một thứ tâm <br />
điểm của đường tròn tạo nên những lớp, những tầng thẳm sâu dát bạc cho từng chữ, từng <br />
dòng, vời vợi ánh trăng đêm.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Điều kì lạ nữa là mảnh trăng của thiên nhiên khi xe của họ đến cầu Đá Xanh đã lặn, còn <br />
"mảnh trăng" trong lòng, ít nhất là ở Lãm, thì vẫn vẹn nguyên, và dù là trăng non, trăng <br />
đầu tháng, nó vẫn lộng lẫy khác thường. Hành trang của anh tăng một trọng lượng vô <br />
hình bên cạnh gói xôi lạc và một bi đông nước đường mà người lái phụ đặt trên cabin từ <br />
trước. Nếu câu chuyện dừng lại ở đây thì khúc tình ca có thể đã có sức bay nhưng chưa <br />
đủ độ nặng, độ đằm. Cái đẹp ở cô gái mới dừng lại ở mức tả chân thực thấm đẫm mồ <br />
hôi, nước mắt của đời, nhất là cái thời bom đạn. Quan điểm duy mĩ và chủ nghĩa hiện <br />
thực khác nhau chỉ chừng đó mà thôi. Vàng và thau đều một sắc, dễ nhầm. Nhưng một <br />
khi qua lửa thì "thau" không thể là "vàng" được nữa. vẻ đẹp của Nguyệt phải là vàng <br />
chín, vàng mười trong ấn tượng thẩm mĩ của người đọc, người nghe, và với Lãm mới trở <br />
thành một cái gì như là lí tưởng. Cuộc gặp gỡ vô tình của người lính lái xe có thêm độ <br />
nồng hậu, tiếng đàn mới không tắt dù âm thanh của nó đã ngừng bay. Song, nói thì dễ rơi <br />
vào giả tạo. Để vượt qua cái mà không có tài năng không thể vượt qua, nhà văn đã bố trí <br />
một chi tiết bất ngờ, cả với Lãm, cả với chúng ta: Cô gái đã không xuống cái nơi lẽ ra cô <br />
phải xuống. Mặc dù tới "giang sơn" của mình, quãng trạm gác bên ngầm ở ngã ba, <br />
Nguyệt còn muốn đưa tiếp người lái xe thêm một đoạn: Sang bên kia sông với một câu <br />
nửa thực nửa đùa (những câu Lãm cần, cô gái đều trả lời nước đôi đến là khó hiểu): "Anh <br />
đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư". Giọng nói thì có gì ỡm ờ, bỡn cợt (đến <br />
nỗi Lãm phải điều chỉnh lại bằng một câu nói nghiêm trang), nhưng những cái cô làm sau <br />
đó thì đâu phải là tếu táo, đùa vui. Quyết định có tính chất ngẫu hứng của cô (đưa người <br />
lính qua sông) hoàn toàn không mang nghĩa nhất thời, cạn hẹp. Khi xe vào đoạn đường <br />
xấu, tiếng nói của cô xót xa như số phận con đường: "Chúng nó ném bom luôn, chúng em <br />
đã rải bao nhiêu đá mà đường sá còn ra thế!". Khi vượt ngầm, đoạn ngầm ngắn thôi <br />
nhưng bị ngập tới hơn một mét nước, xe không đi được nữa. Hình như có cả tiếng máy <br />
bay. Đèn tắt. Khi cả cái gian khổ, cái hiểm nghèo cùng ập tới, người lính lái xe từng trải, <br />
xông pha như Lãm không còn biết xoay xở ra sao. Nếu không có Nguyệt không chỉ bám <br />
bên cánh cửa làm hoa tiêu, mà còn "để cả quần áo thể, nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia <br />
bờ" giúp Lãm cột dây tời vào một gốc cây thì làm sao, dù có phép tiên, người lính có thể <br />
"đánh vật một lúc" rồi cuối cùng "cũng đưa chiếc xe lao lên được"? Nhưng căng thẳng <br />
nhất, đó là lúc xe vừa vượt qua ngầm Đá Xanh thì máy bay địch ập đến, Nguyệt rất thông <br />
minh khi không để Lãm "chạy nhào về phía xe" (vì lí do mà khi Lãm đã ở vào một vị trí an <br />
toàn, cô mới nói). Nhưng cùng với sự thông minh còn là một thái độ kiên quyết, cứng rắn <br />
đến lạ lùng. Khi Lãm bị cô túm trở lại, anh thấy hành động ấy "nhanh và khỏe hết sức". <br />
Chưa hết, trước đó vất vả với chiếc xe vượt ngầm, cả Lãm, cả cô "thở không ra hơi" thì <br />
giờ đây, vẫn là cô Nguyệt đó với quần áo ướt sũng nước, lấm láp, nhưng "nghe hơi thở và <br />
tiếng nói của Nguyệt rất bình tĩnh: "Chúng đánh tọa độ đấy!". Rồi trong một tình huống <br />
bất ngờ ngay sau đó mấy giây: xe hàng bị lửa bén vào lốp. Lãm bắt buộc cô phải đổi chỗ <br />
(bế xốc Nguyệt đặt giữa hai cái khe của hai gốc cây) để tự mình chạy tới cứu xe giữa <br />
những luồng đạn "hai mươi li đỏ lừ" từ máy bay bắn xuống. Lãm vừa trèo lên xe thì <br />
Nguyệt cũng vừa kịp đến. Lần này cô không còn "mệnh lệnh" với anh một cách cứng rắn <br />
mà lại giục giã đến bồn chồn: "Cho xe chạy đi anh, nó còn tiếp tục đánh ngầm đấy!". <br />
Một cảnh tượng có một không hai xảy ra như một thách đố là: địch quây tròn trên đầu <br />
như xay lúa, rất thấp, thả pháo sáng và bắn hai mươi li, ta: một chiếc xe hàng không vũ <br />
khí cứ chạy với trái tim của hai con người dũng cảm giữa những ngoặt trái, hố bơm, <br />
những dốc có cua, không đèn đóm...<br />
<br />
Vẫn biết cái "phi thường" nhiều khi là rất thật trong cuộc đời, nhất là trong những giờ <br />
phút hiểm nguy. Nhưng trong nghệ thuật, nó dễ sa chân vào tình trạng "lên gân" vì nó <br />
không gắn vào cái gốc rê bình thường. Nguyệt có thể trở thành một nàng tiên trong truyện <br />
cổ tích, nhưng như thế thì với Lãm chẳng hạn, điều ấy xa lạ biết bao vì đó là những gì <br />
mà con người thường không thể nào với được. Cho nên chi tiết Nguyệt bị thương sau <br />
chiến công thầm lặng và quyết liệt dường này là rất đắt. Vì nó đúng, nó hợp lý (có thắng <br />
lợi nào mà chẳng có hy sinh), nhất là nó gần gũi với con người. Là một con người bằng <br />
xương bằng thịt mà làm nên kỳ tích trên đây mới có thể "dấy lên" trong lòng người lái xe <br />
không kém phần dũng cảm, anh hùng "một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm <br />
phục". Trước lo lắng của người lính lái xe, cái bình thường ấy lại tự nâng cấp lên lần thứ <br />
hai bằng nụ cười tươi tỉnh và xinh đẹp dù khuôn mặt cô gái hơi tái đi vì mất máu: "Anh <br />
cứ yên tâm, vết thương chỉ sướt da thôi. Từ giờ đến sáng, em có thể đi lên đến tận trời <br />
được"...<br />
<br />
Thông báo của chị Nguyệt "lão" đối với Lãm là rất quan trọng. Bởi vì đặt chân đến khu <br />
rừng săng lẻ rất đẹp (lán đội nữ công nhân) mà lòng anh chưa hết băn khoăn: "Hai ngày <br />
qua, tôi đã tin chắc chắn không thể nào sai được rằng người con gái mình đang tìm gặp thì <br />
đã gặp, nhưng đến đây, tôi lại nghĩ Nguyệt có thể là người con gái đã anh dũng hy sinh từ <br />
cách đây ba, bốn tháng". Với tâm trạng không yên ấy, câu trách yêu của chị Tính là một <br />
liều thuốc an thần: "Hôm kia, sao cậu không về? Nguyệt nó chỉ tranh thủ được có một <br />
hôm, đợi cậu suốt ngày không thấy, cô ấy lại phải về dưới ti rồi!". Như thế là Nguyệt <br />
"của anh" vẫn sống. Còn hơn thế:<br />
<br />
Nguyệt mà chính anh đã từng gặp đẹp như một giấc mơ, hơn cả một giấc mơ. Giấc mơ <br />
ấy được xác nhận vô tình qua cách nói đùa vui của chị Nguyệt "lão": "Tôi hỏi thế này nhé, <br />
anh đã biết tội của anh chưa?". Như thế là một người mà anh mong gặp cho cả cuộc đời <br />
mình còn sống. Và tình yêu ấy ở Nguyệt đang sống, đang tha thiết hướng về anh: "Cớ sao <br />
mấy năm trời để cho cái Nguyệt nó đợi đỏ mắt. Có muốn "tìm hiểu" người ta hay không <br />
thì cũng phải bảo một câu chứ!". Chao ôi, với Lãm, những lời "chửi mắng" ấy sao mà <br />
đáng yêu chứ không khi nào đáng giận, bởi nó ngọt ngào và ngân nga như một giai điệu <br />
bất tuyệt của tâm hồn. Từ biệt chị Tính và khu lán nữ công nhân rồi, lần đầu tiên Lãm <br />
thấy bâng khuâng, cái bâng khuâng để ngỡ ngàng vì chưa quen của con người khi đột ngột <br />
bước vào một vùng ánh sáng khác lạ, vùng sáng của tình yêu. Nhu cầu cần được yên tĩnh <br />
ở anh là nhu cầu của việc xác thực hóa giấc mơ vì giấc mơ quá lớn. Trong tâm thế rất <br />
con người này, anh nhận ra cuộc sống này chứa bao điều anh chưa hiểu nổi. Chiếc cầu <br />
với ba nhịp phía bên này đổ sập xuống, những phiến đá xanh lớn rơi ngổn ngang dưới <br />
lòng sông, chỉ còn hai hàng trụ đứng trơ vơ giữa trời kia là có thực. Vậy có thực hay <br />
không cái nghịch lý: "Qua bấy nhiêu năm tháng sống giữa cảnh bom đạn và tàn phá những <br />
cái quý giá do chính bàn tay mình xây dựng nên, vậy mà Nguyệt vẫn không quên tôi sao?". <br />
Sự thật hiện ra dưới dạng khẳng định thì đó là sự thật bình thường. Còn sự thật lung linh <br />
dưới dạng tồn nghi, sự thật ấy là kì diệu. Sự thống nhất giữa cái bình thường và cái kì <br />
diệu phải chăng là một quy luật của muôn đời? Kể cả trong chiến tranh. Và nếu thế thì <br />
"cái mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc" mà Lãm nhìn <br />
thấy một lần phải đâu là ảo ảnh? Câu chuyện kể của người lính lái xe dù đã khép lại rồi, <br />
nhưng ấn tượng của chúng ta, niềm tin của chúng ta đến lượt mình từ từ vỗ cánh trong <br />
một giấc mơ, không chỉ trong mơ.<br />
<br />
Xung quanh giá trị của Mảnh trăng cuối rừng có một ý kiến rất đáng suy ngẫm. Đó là lời <br />
cảnh tỉnh của Nikulin trong Lời bạt truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Ý kiến <br />
rất đáng quan tâm đó như sau: "Nhà văn thời ấy đã khá triệt để trong việc thi vị hóa nhân <br />
vật. Đây vừa là chỗ mạnh của anh 'ta, lại vừa là chỗ yếu: niềm tin vào tính bất khả chiến <br />
thắng của cái đẹp tinh thần, của cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ anh đã "tắm rửa sạch <br />
sẽ" các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô <br />
trùng". Ý kiến đó là một nhắc nhở sáng suốt để ngăn chặn sự lỡ trớn của một chặng <br />
đường văn học, đặng ngừa phòng sự thiếu chân thật của một quan điểm thẩm mĩ, văn <br />
chương. Song, vấn đề là ở chỗ: trong cả một nền văn chương, làm sao có thể khiên <br />
cưỡng đến mức bình quân hóa mọi sáng tạo độc đáo của người cầm bút? Mức độ nặng <br />
nhẹ không đồng đều giữa cái hùng và cái hài, cái bi và cái lạc chẳng hạn là rất tự nhiên <br />
trong cảm hứng, trong ngẫu hứng của cái phút xuất thần khám phá. Văn chương là hình <br />
ảnh của cuộc đời nhưng khoảng cách ấy đâu phải là một cự ly không đổi? Vậy thì nếu có <br />
một nhà văn nào đó, ở vào một phát hiện nào đó, ý tưởng sáng tạo lóe lên hướng vào cái <br />
cao cả khác thường thì có gì là lạ? Ở vào cái phút đặc biệt của sự thăng hoa, nếu "nhà văn <br />
dường như vượt lên khỏi cái hàng ngày và hướng về cái đẹp dường như được giải thoát <br />
khỏi gánh nặng của cái xấu, bay vượt lên khỏi cái thường nhật" (sách đã dẫn) thì có gì <br />
phải băn khoăn? Cái đẹp đích thực luôn ở vào một cái thế không dàn đều, hầu hết đều <br />
cực đoan, và điều này không có gì khó hiểu. Trên ý nghĩa đó, Mảnh trăng cuối rừng không <br />
phải được viết bằng giọng điệu đại ngôn. Ngược lại nó rất chân thành đến trong suốt với <br />
cái ý nghĩ lặng thầm mà xốn xang trước cái đẹp không thể nào lường trước của cuộc đời, <br />
kể cả ở vào cái thời điểm khắc nghiệt nhất: chiến tranh.<br />
<br />
<br />